Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn long biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 77 trang )

NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
CHƯƠNG I : CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI
QUỐC DOANH
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH:
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng: là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới
hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng, sau
một thời gian nhất định quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng
giá trị ban đầu. Theo quan điểm này phạm trù tín dụng bao gồm ba nội
dung chủ yếu sau, nếu thiếu một trong ba đặc điểm sau thì không còn
là phạm trù tín dụng nữa:
- Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người
này sang người khác.
- Tính thời hạn: sự chuyển giao chỉ mang tính tạm thời.
- Tính hoàn trả: khi hoàn trả lại lượng giá trị ban đầu cho người
sở hữu, còn phải kèm theo một lượng giá trị dôi ra gọi là lợi tức.
Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa người một bên là
ngân hàng – một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ là người
cho vay với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, theo đó ngân
hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục
đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả
cả gốc và lãi.
Trong xã hội, luôn tồn tại những người thừa vốn và có nhu cầu
đầu tư và những người thiếu vốn, có nhu cầu về vốn để sản xuất, kinh
doanh. Nhưng họ rất khó có thể tiếp cận được với nhau bởi mỗi bên lại
- 1 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
có những đắc thù riêng, khác nhau như: không phù hợp được với nhau
về quy mô, thời gian nhàn rỗi, địa điểm… hoặc nếu có thể phù hợp thì


để có thể gặp nhau thì phải tốn kém rất nhiều chi phí. Vì vậy để thoả
mãn nhu cầu của cả hai bên ngân hàng đã được ra đời. Ngân hàng trên
cơ sở tập trung vốn rồi phân phối cho những người cần vỗn thông qua
hoạt động tín dụng ngân hàng. Và tín dụng ngân hàng đã trở thành hình
thức phổ biến có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng thời,
nó cũng giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động của mỗi ngân hàng.
1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng:
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng
nhóm dựa vào một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại tín dụng theo
những tiêu thức và dựa trên cơ sở khoa học đã tạo tiền đề giúp cho
ngân hàng có thể thiết lập được các quy trình tín dụng phù hợp và từ
đó nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Tín dụng ngân hàng có
thể phân loại theo một số tiêu thức sau đây:
1.1.2.1. Phân loại theo thời hạn tín dụng:
Việc phân chia các khoản vay theo thời hạn có ý nghĩa quan
trọng đối với ngân hàng vì thời hạn của các khoản vay có liên quan
trực tiếp đến tính an toàn và khả năng sinh lời của tín dụng ngân hàng,
cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo căn cứ này, tín dụng
được chia làm ba loại:
Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn từ 12 tháng
trở xuống và được dùng để tài trợ cho tài sản lưu động và các nhu cầu
sử dụng vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân.
Tín dụng trung hạn: Loại tín dụng này có thời hạn từ 1 năm đến
5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài
- 2 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
sản cố định, các phương tiện vận tải, và các thiết bị khác chóng hao
mòn có yêu cầu tài trợ từ 1 năm đến 5 năm.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm và

được dùng để tài trợ ?cho các công trình xây dựng như nhà, sân bay,
cầu đường, máy móc, thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử
dụng lâu, có yêu cầu tài trợ trên 5 năm.
Nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng là cho vay ngắn hạn,
nhưng từ những năm 1970 trở lại đây các ngân hàng đã chuyển sang
kinh doanh tổng hợp, đổi mới tín dụng nhằm nâng cao tỷ trọng tín
dụng trung và dài hạn trong tổng dư nợ của ngân hàng.
1.1.2.2. Phân loại theo tài sản đảm bảo:
Tài sản đảm bảo có vai trò rất lớn trong nghiệp vụ tín dụng của
ngân hàng, nó giúp ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro, cho phép
ngân hàng có thể có ? cđượ một nguồn thu nợ thứ hai khi khách hàng
gặp phải những sự cố ngoài y muốn từ quá trình sản xuất kinh doanh.
Theo căn cứ này, tín dụng được chia làm 2 loại:
Tín dụng có bảo đảm: là hình thức tín dụng dựa trên cơ sở các
bảo đảm như thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ
ba. Hình thức này thường được áp dụng đối với những khách hàng
chưa có uy tín cao đối với ngân hàng, vì vậy khi vay vốn cần tài sản
bảo đảm.
Tín dụng không cần tài sản bảo đảm: là hình thức tín dụng
không cần tài sản thế chấp, cầm cố hay có sự bảo lãnh của người thứ
ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng. Vì vậy, hình
thức này thường được áp dụng đối với khách hàng có uy tín, làm ăn
thường xuyên có lãi, có tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình
trạng nợ nần dây dưa,… Ngoài ra, hình thức này còn được áp dụng đối
với các khoản vay theo chỉ thị của chính phủ mà chính phủ yêu cầu
- 3 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
không cần tài sản bảo đảm. Hoặc các khoản vay đối với tổ chức tài
chính lớn, những khoản cho vay ngắn hạn mà ngân hàng có khả năng
giám sát … cũng không cần tài sản đảm bảo.

Việc phân loại tín dụng theo tiêu thức nay cho phép ngân hàng
có thể xác định được giá trị các khoản vay dựa trên giá trị tài sản bảo
đảm của khách hàng, và cho phép ngân hàng xác định được những
chính sách tín dụng phù hợp với từng khách hàng cụ thể của ngân
hàng.
1.1.2.3. Phân loại theo phương thức cấp tín dụng:
Theo căn cứ này, tín dụng được chia làm một số loại sau:
- Cho vay thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ tín dụng mà ngân hàng
cho phép người vay được chi vượt (trội) số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời
gian xác định. Và giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Khách
hàng chỉ cần làm đơn xin ngân hàng về hạn mức thấu chi và thời gian
thấu chi. Số lãi ngân hàng thu được từ hình thức tín dụng này được tính
dựa trên lãi suất thấu chi, thời gian thấu chi và số tiền thấu chi. Khi có
các khoản chi vượt quá hạn mức thì khách hàng sẽ phải chịu lãi suất
phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Tình hình thị trường luôn
biến động, do đó hình thức tín dụng này tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh chóng, kịp
thời. Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn
giản, các khách hàng phần lớn là không cần tài sản đảm bảo, và hình
thức tín dụng này có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân sử dụng
để chi trả tiền lương, mua hàng, các chi phí khác… Nhìn chung, hình
thức này chỉ sử dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy cao, có
thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
- Cho vay từng lần: là hình thức tín dụng mà mỗi lần vay vốn
khách hàng và ngân hàng đều làm thủ tục vay vốn cần thiết và k?ý kết
- 4 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
hợp đồng tín dụng. Đây là hình thức tín dụng tương đối phổ biến được
áp dụng với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên,

không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Khách hàng sử
dụng hình thức này chủ yếu là những khách hàng có nhu cầu vay vốn
mang tính thời vụ hay nhằm mở rộng sản xuất. Vì thế mà vốn của ngân
hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất
kinh doanh.
Theo hình thức này, khách hàng vay phải làm đơn và trình ngân
hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng
và kí hợp đồng cho vay. Giá trị món tiền cho vay phụ thuộc vào giá trị
của tài sản đảm bảo. Mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ (khế
ước nhận nợ) khác nhau. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân
hàng sẽ thu gốc và lãi. Và ngân hàng sẽ tiến hành giám sát quá trình sử
dụng vốn vay của khách hàng, kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng
tiền vay, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ
trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả
nổi theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ tín dụng này tương đối đơn giản.
Tuy nhiên, phương thức tín dụng này đòi hỏi khách hàng mỗi lần vay
phải làm đủ thủ tục vay vốn và hợp đồng cho vay do đó còn phiền hà
đối với khách hàng.
- Cho vay theo hạn mức: là phương thức tín dụng mà ngân hàng
va khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì
trong một khoảng thời gian nhất định (có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối
kỳ). Và hạn mức tín dụng này chính là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh
doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Phương thức
cho vay theo hạn mức có thể được thực hiện theo hai cách. Cách thứ
nhất, ngân hàng sẽ cho khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần
trong kỳ, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Cách thứ
hai, ngân hàng chỉ quy định một hạn mức tín dụng cuối kỳ, vì thế dư
nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kỳ khách
- 5 -

NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
hàng phải trả nợ để đảm bảo rằng dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn
mức.
Với phương thức này, mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày
phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua
hàng hoá hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Chính vì vậy hình thức tín
dụng này rất thuận tiện cho những khách hàng có nhu cầu vay thường
xuyên, và vì vậy có thể thấy rằng vốn ngân hàng tham gia trực tiếp vào
toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng
chỉ thu nợ khi khách hàng có thu nhập chứ không ấn định trước kỳ hạn
trả nợ. Do đó giúp khách hàng chủ động hơn trong việc quản lí ngân
quỹ. Tuy nhiên, cũng chính do không ấn định kỳ hạn trả nợ cụ thể nên
ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Và ngân hàng
chỉ có thể phát hiện vấn đề khi xem báo cáo tài chính của khách hàng
hoặc nhận thấy dư nợ lâu không giảm sút.
- Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ tín dụng dựa trên sự luân
chuyển của hàng hoá. Khi doanh nghiệp mua hàng có thể thiếu vốn và
ngân hàng lúc này có thể cho khách hàng vay để mua hàng và sẽ thu nợ
khi doanh nghiệp bán hàng. Theo hình thức này, khách hàng phải làm
đơn trình lên ngân hàng tại thời điểm đầu năm hoặc qu?ý. Sau khi xem
xét, n?gân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau về phương thức
vay, hạn mức tín dụng và các yếu tố khác như nguồn cung cấp hàng
hoá, khả năng tiêu thụ Ngân hàng sẽ thoả thuận với khách hàng về
hạn mức tín dụng trong một năm hoặc vài năm. Khoảng thời gian này
không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét
lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có duy trì quan hệ tín
dụng giữa ngân hàng và khách hàng nữa hay không.
Theo phương thức tín dụng này, mọi khoản thu bán hàng của
người vay đều phải dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được
trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi vay,

khách hàng phải trình cho ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng
và số tiền cần vay. Ngân hàng duyệt cho vay và trả tiền cho người bán
- 6 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
theo cam kết giữa người vay và người bán. Số tiền vay sẽ phụ thuộc
vào khối lượng và chất lượng quan hệ nợ của người vay. Các khoản
phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản
vay. Hình thức này thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn, có quan hệ
vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển tạo điều
kiện thuận lợi cho khách hàng bởi thủ tục vay đơn giản chỉ thực hiện
một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng vốn kịp thời, vì
vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Nhưng có thể
thấy, nếu việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp gặp khó khăn thì
việc thu hồi vốn của ngân hàng cũng sẽ gặp phải khó khăn.
- Cho vay theo các dự án đầu tư: là hình thức tín dụng cung cấp
vốn cho khách hàng để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và phục vụ đời sống. Ngân hàng sau khi phân tích
(và thẩm định) dự án sẽ cùng với khách hàng ký hợp đồng tín dụng và
các điều khoản thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu
tư trong dự án, phân định rõ các kỳ hạn trả nợ. Ngân hàng sẽ thực hiện
giải ngân cho khách hàng theo tiến độ thực hiện dự án. Mỗi lần rút vốn
vay doanh nghiệp ký giấy nhận nợ, số tiền vay phải nằm trong phạm vi
mức tín dụng đã thoả thuận và phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn
trong hợp đồng tín dụng. Lãi suất cho vay được căn cứ vào lãi suất của
giám đốc ngân hàng hoặc thoả thuận giữa ngân hàng với chủ dự án.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối
với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong
đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ
chức tín dụng khác. Cho vay hợp vốn thường xảy ra khi: nhu cầu xin

vay của khách hàng vượt quá giới hạn cho vay của ngân hàng; khả
năng của một ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu vay của một dự
án; nhu cầu phân tán rủi ro của các ngân hàng… Theo hình thức tín
dụng này, các tổ chức tín dụng sẽ thống nhất với nhau về phương thức
- 7 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
thẩm định. Và việc thẩm định phải tiến hành chặt chẽ vì việc này có
liên quan đến sự an toàn của rất nhiều tổ chức tín dụng.
- Cho vay gián tiếp: là hình thức tín dụng thông qua các tổ chức
trung gian, các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân,
Hội cựu chiến binh, Hội Phụ nữ… Các tổ chức này thường liên kết các
thành viên với mục đích nhằm hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho
mỗi thành viên. Và đặt mục tiêu phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo
lên hàng đầu. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động tín
dụng sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay,… Theo
phương thức này, những người vay có cơ hội tiếp xúc với nguồn vốn
ngân hàng khi không có hoặc có không đủ tài sản thế chấp dựa vào sự
bảo đảm của các tổ chức trung gian về thành viên vay, hoặc các thành
viên trong nhóm có uy tín cũng có thể bảo lãnh cho một thành viên
khác vay. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua những
người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho
vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích.
Hình thức tín dụng này thường được áp dụng đối với các thị
trường có món vay nhỏ, lẻ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Và
vì thế việc cho vay qua các tổ chức trung gian có thể giúp ngân hàng
tiết kiệm chi phí cho vay, có thể làm giảm bớt rủi ro của ngân hàng.
Tuy nhiên, nhiều trung gian thông qua hoạt động tín dụng này đã lợi
dụng vị thế của mình, để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền
của các thành viên khác cho riêng mình, khiến cho món tiền vay không
phát huy hết hiệu quả như mong muốn.

- Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà ngân hàng và khách
hàng xác định và thoả thuận số tiền lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc
được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Hợp
đồng tín dụng phải ghi rõ: các kỳ hạn trả nợ ở mỗi kỳ hạn gồm cả gốc
và lãi. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay
trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền
trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ
- 8 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
(thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu
nhập hàng kỳ của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng
thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán
số hàng hoá mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận
ngay số tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền
cho ngân hàng, hoặc khách hàng trực tiếp trả cho ngân hàng. Đây
chính là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người
bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá. Tuy nhiên, hình thức tín
dụng này có độ rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng
hoá mua trả góp.Vì vậy khách hàng vay theo phương thức này phải là
những khách hàng có phương án trả nợ gốc và lãi vay khả thi bằng các
khoản thu nhập chắc chắn, ổn định. Chỉ cần người vay gặp bất cứ
chuyện gì khiến cho thu nhập giảm sút (như người vay mất việc, ốm
đau…) thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì
vậy, lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung lãi suất của
ngân hàng.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh :
1.1.3.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế:
a, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh:

Như đã biết, xét về hình thức sở hữu thì doanh nghiệp có thể
chia thành hai loại đó là doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Theo Luật của Quốc hội nước công hoà xã hội chủ
nghĩa Việt nam số 14/2003/QH11 ngày 26/11/ 2003 về doanh nghiệp
nhà nước: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ
chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn”. Và hình thức sở hữu doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- 9 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
chính là những doanh nghiệp thuộc dạng hình thức sở hữu phi nhà
nước. Luật doanh nghiệp năm 1999 đã đánh dấu một mốc quan trọng
trong những nỗ lực của nhà nước nhằm tạo điều kiện khuyến khích
khối kinh tế tư nhân nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
nói riêng có điều kiện mở rộng, phát triển. Và các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và hợp tác xã.
b, Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
- Huy động nguồn lực tiềm ẩn trong dân cư vào phát triển sản
xuất kinh doanh.
- Tạo ra công ăn việc làm cho một lượng lớn người lao động bảo
đảm đời sống và do đó góp phần đáng kể cho việc ổn định xã hội và
tăng trưởng của GDP. Vai trò này càng có y nghĩa quan trọng hơn
trong điều kiện nước ta khi mà khả năng thu hút lao động của khu vực
kinh tế Nhà nước còn hạn chế.
- Góp phần duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, kinh
nghiệm sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm quản lí đã tích luỹ qua nhiều
thế hệ; tạo lập sự cân đối và phát triển kinh tế giữa các vùng, góp phần
tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn.

- Góp phần mạnh mẽ vào thúc đẩy sức cạnh tranh của nền kinh
tế.
- Tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước .
c, Những đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Trong những năm gần đây các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
đang từng bước phát triển và lớn mạnh theo xu hướng của thời đại. Sự
phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ thực sự bắt đầu
vào ngày 01- 01- 2000 khi Luật doanh nghiệp chính thức được ban
- 10 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
hành. Từ đó đến nay, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang có
nhưng biến chuyển tốt mặc dù vậy ta có thể thấy một số đặc điểm như
sau:
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng nhanh về
số lượng, phân bố không đều cả về địa bàn cũng như ngành nghề
kinh doanh: Từ khi Luật Doanh nghiệp được ban hành đã tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển. Ngoài ra,
Đảng và Nhà nước cũng có những chính sách như chính sách về tiền
tệ, pháp luật đã giúp cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng
phát triển về mọi mặt. Chỉ tính riêng trong gần ba năm, từ tháng 1-
2000 đến tháng 10- 2002, gần 50.000 doanh nghiệp mới đăng kí trong
đó hầu hết là thuộc sở hữu tư nhân. Số lượng doanh nghiệp mới đăng
kí đã nhiều hơn tổng số doanh nghiệp đăng kí trong chín năm, từ 1991
đến 1999 (45.005 doanh nghiệp). Tính đến 31- 12- 2004, tổng số
doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang hoạt động là 74.200 doanh
nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp đang hoạt động 82.000 doanh
nghiệp. Sự phát triển về số lượng các doanh nghiệp nói chung và
doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng đã cho thấy một tín hiệu
đang mừng nhưng nó cũng đặt ra một vấn đề cho các nhà quản lí. Đó là
việc thành lập các doanh nghiệp còn mang tính tự phát chưa có quy

hoạch định hướng rõ ràng. Theo số liệu của Tổng cục thống kê đã cho
thấy số lượng doanh nghiệp đang hoạt động thấp hơn số liệu doanh
nghiệp đăng kí của trung tâm thông tin doanh nghiệp khoảng 40%. Và
tính đến nay số doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta đã vào
khoảng 200.000 doanh nghiệp với tổn số vốn lên đến hàng trăm tỉ
đồng.
- 11 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
Bảng 1: Số doanh nghiệp hoạt động tính đến cuối năm, thời kì 5 năm
2000-2004
2000 2001 2002 2003 2004
DNNN 5.759 5.355 5.364 4.825 4.580
DNNQD 35.004 44.314 55.236 64.523 74.230
DN khác 1.525 2.011 2.308 2.664 3.290
Tổng số 42.288 51.680 62.908 72.012 82.100
(Số liệu chính thức của Tổng Cục Thống kê)
Biểu đồ 1: Số lượng doanh nghiệp trên cả nước.
Các doanh nghiệp được thành lập phân bổ trên tất cả các tỉnh
thành trên cả nước nhưng tập trung đông nhất vẫn ở các thành phố lớn
Thành phố Hồ chí Minh, chiếm khoảng 23%, Hà nội khoảng 15%
còn ở các tỉnh như Bắc cạn số doanh nghiệp chỉ chiếm 0,2%, Lai châu
0,3%, đây là tỷ lệ rất thấp. Về ngành kinh doanh, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tập trung hầu hết trong lĩnh vực thương mại và dịch
vụ, chưa chú ý đến lĩnh vực sản xuất tạo sản phẩm mới. Hiệu quả kinh
doanh chưa tương sứng với tiềm năng. Các mặt hàng xuất khẩu mới
chỉ dừng lại ở hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ, may mặc, chế biến…
chi phí xuất khẩu cao nhưng giá trị gia tăng nhỏ.
- 12 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
Như vậy, qua những con số trên nó đã cho thấy sự phát triển

không ngừng về số lượng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chính sự phát triển đó đã góp phần đắc lực vào sự phát triển nền kinh
tế, đem lại cho nền kinh tế sự cân bằng hoạt động ổn định và bền vững.
Đây là xu hướng phát triển phù hợp với hơi thở của thời đại.
- Quy mô vốn và lao động còn nhỏ kèm với công nghệ lạc
hậu: qua số liệu đã nêu trên thì có thể thấy số lượng doanh nghiệp thì
nhiều nhưng quy mô về vốn và lao động lại nhỏ, đi kèm với đó là thiết
bị ở hầu hết các doanh nghiệp đều lạc hậu và ngoài ra các doanh
nghiệp này còn thiếu kinh nghiệm quản lí, kinh doanh.
Về quy mô vốn và khả năng tài chính còn thấp. Bình quân một
doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khoảng 4 tỷ đồng tiền vốn. Các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch
vụ thương mại, buôn bán nhỏ, nếu là doanh nghiệp sản xuất thì chỉ là
sản xuất những mặt hàng thông dụng kĩ thuật không cao. Hiệu quả
kinh doanh chưa tương xứng với tiềm năng, sức cạnh tranh thấp.
Về số lượng lao động: sẽ tuỳ theo quy mô doanh nghiệp, hiện
nay, doanh nghiệp khác nhau thì số lao động cũng khác nhau có doanh
nghiệp lên tới 1000 người. Nhưng theo số liệu thống kê năm 2003 thì
bình quân một doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khoảng 31 lao động,
chỉ bằng 7.4% về lao động ở doanh nghiệp nhà nước và bằng 10.3% về
lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra,
mặc dù hiện nay nhà nước có chính sách giáo dục để đào tạo những
cán bộ có trình độ chuyên môn cao, nhưng nhìn chung những lao động
trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đều có kĩ năng và tay nghề
thấp, chưa được đào tạo. Số lượng lao động không nhiều, trình độ lao
động chưa cao cũng là một điều khó khăn đối với các doanh nghiệp
này. Theo thống kê năm 2004, ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
thì tỉ lệ lao động không được đào tạo chiếm khoảng 40%.
- 13 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp

Về trình độ công nghệ: phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn
kinh doanh lại thấp, vốn cố định lại còn thấp hơn, nên khả năng trang
bị kĩ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế, mức trang bị tài sản cố
định cho một lao động ở mức rất thấp, bình quân khoảng 45 triệu đồng/
1 lao động. Các thiết bị, công nghệ sử dụng ở các doanh nghiệp này
chủ yếu là các thiết bị mua lại thanh lý của các doanh nghiệp lớn đã sử
dụng lâu năm dẫn đến hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Nguyên
nhân của việc sự dụng các thiết bị cũ đơn giản là vốn ít nên khiến cho
các doanh nghiệp không thể đổi mới trang thiết bị, những công nghệ
mới không được áp dụng vào sản xuất kinh doanh. Tốc độ đổi mới
thiết bị công nghệ chỉ mới đạt 10-11%. Và mức độ đầu tư đổi mới
công nghệ ở các doanh nghiệp hiện nay chỉ đạt khoảng 0,3%/năm, chủ
yếu là mua thiết bị, cải tiến máy móc phần cứng. Việc thay đổi mua
sắm máy móc mới không đồng bộ dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh không cao. Và vì vậy, những sản phẩm làm ra có khả năng cạnh
tranh thấp dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp này nhỏ nên không thể
tiến hành đầu tư mở rộng, nâng cao chất lượng hàng hoá. Đây là một
thiệt thòi lớn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Như vậy với những đăc điểm về vốn, về lao động còn thấp, bên
cạnh đó thiết bị, công nghệ thì lạc hậu, từ đó đã chi phối đến các mặt
khác của doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Sức cạnh tranh, hiệu quả
kinh doanh không cao và tính ổn định của lao động không bền vững và
lâu dài.
- Trình độ quản lí kinh doanh còn yếu kém: Trong giai đoạn
kinh tế đang phát triển rất mãnh liệt như hiện nay, các doanh nghiệp
đang phải đối đầu với sự canh tranh vô cùng quyết liệt để có thể tồn tại
và tiếp tục hoạt động trên thị trường. Do đó, vai trò của nhà quản lí
kinh doanh ngày càng trở nên vô cùng quan trọng, không những phải
có trình độ chuyên môn, mà còn phải có trách nhiệm cao trong công

việc mới có thể đưa doanh nghiệp của mình đi lên khẳng định được vị
- 14 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
thế trong nền kinh tế. Nhưng hầu hết ở các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, cán bộ quản lý lại có trình độ chuyên môn không cao, chưa
được qua đào tạo cơ bản nên đã bộc lộ nhiều lúng túng trong điều hành
hoạt động kinh doanh. Do vậy, dù khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
được coi là những doanh nghiệp linh hoạt, năng động sáng tạo và khả
năng thích nghi cao thì với năng lực hiện tại của các nhà quản lí, các
doanh nghiệp này cũng rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác trên thị trường. Ngoài ra, các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh này thành lập hầu hết là tự phát và không đủ cơ sở khoa
học cho quyết định kinh doanh làm cho hoạt động kinh doanh không
ổn định gặp nhiều vướng mắc, hạn chế trong công tác tổ chức nhân sự,
tổ chức kinh doanh, nắm bắt được thời cơ trong đầu tư. Việc thực hiện
công tác kế toán, kiểm toán, thống kê theo quy định của nhà nước
trong các doanh nghiệp này chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, chưa hiểu
biết nhiều về phương pháp hạch toán kế toán mới và áp dụng không
chính xác các phương pháp ở doanh nghiệp mình. Chí vì vậy, các
doanh nghiệp này đã và đang gặp phải rất nhiều khó khăn khi tiếp cận
với nguồn vốn từ phía các ngân hàng do không chứng thực được khả
năng kinh doanh của mình cũng như tình hình tài chính của bản thân
một cách rõ ràng.
- Nhu cầu vốn rất lớn nhưng khả năng tiếp cận được còn hạn
chế: Trong thời gian qua, chính sách hỗ trợ huy động vốn đã góp phần
không nhỏ đến sự phát triển thành công của doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư cho việc phát triển: ban
hành, sửa đổi các chính sách về thuế, chính sách tài chính- tín dụng,
nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đồng
thời, để hỗ trợ cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận nguồn vốn

tín dụng ngân hàng Nhà nước đã thành lập và phát triển các định chế
tài chính thuộc sở hữu Nhà nước để thực hiện chính sách bảo lãnh tín
dụng cho doanh nghiệp.
- 15 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
Tuy nhiên, dù đã có chuyển biến tích cực nhưng trên thực tế việc
vay vốn huy động vốn tài chính vẫn đang là vấn đề khó khăn nhất đối
với doanh nghiệp, và đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều cho thấy rằng, vay
vốn ngân hàng rất khó khăn với nhiều thủ tục như thế chấp, bảo lãnh…
Trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vốn chủ sở
hữu rất thấp chỉ có thể đáp ứng 20%- 30% nhu cầu, ít có tài sản thế
chấp, lại thường không có người bảo lãnh, trình độ chuyên môn chưa
cao vì vậy việc lập dự án, phương án sản xuất kinh doanh thường thiếu
sức thuyết phục, trình độ quản lý hạn chế, còn các báo cáo tài chính thì
không đủ độ tin cậy… vì vậy mà việc tiếp cận vốn ngân hàng là rất khó
khăn. Thêm vào đó, các ngân hàng lại không muốn gặp phải rủi ro, do
đó rất chặt chẽ trong việc xác định tài sản thế chấp và cá thủ tục. Chính
vì lí do này đã có rất nhiều dự án đã không thể vay được vốn của ngân
hàng. Và vì vậy mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để có thể hoạt
động được họ thường phải tìm đến các tổ chức tài chính phi chính
thức, tư nhân, bạn bè, họ hàng và bản thân người lao động trong doanh
nghiệp với lãi suất cao gấp 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức. Và
nguồn vốn từ rất nhiều nguồn này thường không ổn định do đó đã ảnh
hưởng không ít đến kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho
doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm
tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính bên ngoài một các
rộng rãi và ổn định hơn. Và vì vậy doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần
sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tạo thuận lợi cho các kênh huy động

vốn đặc biệt từ nguồn vốn còn khá dồi dào trong dân cư như: phát hành
cổ phiếu, trái phiếu… đây là những nguồn tài trợ mang tính dài hạn
của doanh nghiệp. Từ những kênh huy động vốn này, doanh nghiệp có
thể ổn định, tự chủ hơn và doanh nghiệp có thể có chiến lược phát triển
lâu dài và bền vững.
- 16 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
Vậy, doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn tồn tại rất nhiều vần
đề: cơ sở sản xuất, trang thiết bị còn yếu kém, đầu tư chủ yếu vào các
ngành thương mại, du lịch; sử dụng máy móc trang thiết bị lạc hậu để
tiếp tục sản xuất, chất lượng lao động còn thấp, tay nghề chưa cao,
trình độ cán bộ quản lí còn yếu chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của
nền kinh tế nên không thể mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao chất
lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thấp và hiệu quả
sản xuất kinh doanh không cao. Mặt khác còn tồn tại nhiều doanh
nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trái pháp luật, làm ăn không đúng
đắn: buôn lậu, làm hàng giả, trốn thuế, lừa đảo… và các doanh nghiệp
này thường không thực hiện đầy đủ các quy định về an toàn lao động,
đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Đây cũng là lý do khiến
việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trở nên khó khăn. Mặc dù các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
còn chịu nhiều hạn chế trong việc tiếp cận nguồn vốn cho hoạt động
kinh doanh nhưng doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay đang giữ
vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế Việt
nam hiện nay và cả trong tương lại. Đây chính là thành phần kinh tế
năng động nhất nên khi Việt nam tham gia vào thị trường thế giới,
thành phần này sẽ là thành phần chủ chốt trong việc khặng định vị thế
của nền kinh tế Việt nam trên trường quốc tế.

1.1.3.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp

ngoài quốc doanh:
Bất kỳ một tổ chức, một thành phần kinh tế nào đó muốn tiến
hành sản xuất kinh doanh, hoạt động trên thị trường thì điều chắc chắn
mà tất cả đều phải cần đến đó là vốn. Và ai cũng muốn mình có thể tìm
được nguồn vốn ổn định với chi phí thấp, chỉ có như vậy mới có khả
năng tồn tại và phát triển lâu dài trên thị trường. Và để thực hiện được
mục tiêu đó thì họ phải tìm đến nguồn vốn của ngân hàng. Do đó, có
thể nhận thấy rằng vốn vay ngân hàng là một nguồn vốn quan trọng
- 17 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
vào bậc nhất không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang phát
triển rất mạnh như hiện nay thì nhu cầu về vốn là rất lớn và đang mong
mỏi có thể tiếp cận được nguồn vốn vay từ phía ngân hàng. Sự phát
triển của các doanh nghiệp này gắn liền với các dịch vụ tài chính do
Ngân hàng thương mại cung cấp trong đó có việc cung ứng vốn thông
qua nghiệp vụ tín dụng.
a, Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Với xu hướng phát triển ngày càng mạnh của nền nền kinh tế nói
chung và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng với rất nhiều
doanh nghiệp mới được thành lập. Do đó, những doanh nghiệp này cần
vốn đầu tư mua sắm máy móc, trang thiêt bị, cơ sở vật chất,…. phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là nhu cầu rất lớn đối với bất
kỳ một doanh nghiệp nào khi mới đi vào hoạt động. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay chủ yếu là các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và các
doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ vì vậy mà chu kỳ sản xuất thường
ngắn, đòi hỏi thường xuyên phải bổ xung vốn lưu động và điều đó
thường vượt qua khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhiều

doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần vốn để đầu tư vào tài sản cố định
như máy móc, trang thiết bị áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại. Để
giải quyết vấn đề này, ngân hàng qua quan hệ tín dụng, thu hút những
nguồn vốn rất lớn đang còn nhàn rỗi trong dân cư, từ đó cho các doanh
nghiệp cần vay. Chính nhờ hoạt động này của ngân hàng đã giúp cho
các doanh nghiệp mới thành lập bươc đầu hoạt động được suôn sẻ,
giúp cho các doanh nghiệp đang hoạt động mở rộng được hoạt động
sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận.
b, Tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
- 18 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
Khi một doanh nghiệp quyết định xin vay vốn ngân hàng thì
doanh nghiệp đó đã phải cân nhắc về việc làm sao có thể hoàn trả gốc
và lãi cho ngân hàng theo đúng hợp đồng tín dụng đã ký kết với ngân
hàng. Và tất nhiên khi hoạt động sản xuất kinh doanh mọi doanh
nghiệp đều muốn có lợi nhuận cho riêng mình. Chính vì vậy, để có thể
vừa có lợi nhuận lại có thể thanh toán được khoản tín dụng với ngân
hàng thì các doanh nghiệp cần phải tính toàn một cách chính xác về kế
hoạch sản xuất kinh doanh, về những biến động kinh tế xã hội… để
đưa đồng vốn vào đầu tư có hiệu quả mang lại lợi ích cho bản thân
doanh nghiệp mình.
Bên cạnh đó, khi cho doanh nghiệp vay vốn, ngân hàng luôn
phải kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách
hàng, xem mục việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích không, có như
đã thoả thuận trong hợp đồng không… chỉ có như vậy ngân hàng mới
có thể hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất. Và chính điều này đã buộc các
doanh nghiệp phải tích cực hơn trong việc sử dụng vốn nhằm sinh lời
cho bản thân, cho ngân hàng và mang lợi ích cho toàn xã hội.
c, Tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh

của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế như hiện nay, sự cạnh
tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt và gay gắt. Muốn tồn tại và
phát triển được thì các doanh nghiệp phải không hoàn thiện bản thân,
nâng cao chất lượng sản phẩm với giá thành cạnh tranh. Và để thực
hiện điều này thì doanh nghiệp cần tiến hành mở rộng sản xuất kinh
doanh, mua sắm may móc trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản
phẩm, đào tạo tay nghề lao động, cho công nhân viên đi học tập…
Doanh nghiệp chỉ có thể làm được tất cả những điều trên khi doanh
nghiệp có trong tay một lượng vốn lớn. Vì vậy, tín dụng ngân hàng là
không thể thiếu được trong thời kỳ kinh tế đang phát triển rất mạnh
như hiện nay đặc biệt đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- 19 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH:
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng:
Chất lượng tín dụng được hiểu là lợi ích kinh tế mà khoản vay
đó mang lại cả cho người vay và người đi vay. Một khoản tín dụng
ngân hàng được coi là có chất lượng tốt khi nó mang lại lợi ích kinh tế
cho cả ngân hàng và khách hàng, tức là vốn vay đưa vào quá trình sản
xuất kinh doanh tạo ra một lượng giá trị lớn hơn để có thể vừa hoàn trả
gốc và lãi, ngoài ra vừa đảm bảo các chi phí khác và đảm bảo có lợi
nhuận, qua đó góp phấn vào sự tăng trưởng chung của toàn bộ nền
kinh tế. Chất lượng tín dụng được thể hiện:
- Đối với ngân hàng: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải
phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính
cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
- Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục
đích sử dụng vốn của khách hàng, với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục

đơn giản, thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm
bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất
lưu thông hàng hoá; góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác
khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và
tăng trưởng kinh tế.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng:
1.2.2.1. Nhóm các chỉ tiêu định lượng:
- 20 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
a, Doanh số cho vay: là tổng các khoản vay trong một niên độ
kế toán, chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân
cho DNNQD (thường tính theo năm), nó là số tuyệt đối phản ánh xu
hướng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp này là mở rộng hay thu
hẹp.
b, Doanh số thu nợ: là tổng các khoản thu nợ trong một niên độ
kế toán, phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã thu hồi được trong một
thời kỳ.
c, Dư nợ: phản ánh lượng vốn ngân hàng còn cho khách hàng
vay tại một thời điểm xác định, và đây cũng là khoản mà ngân hàng sẽ
phải thu về.
d, Hệ số sử dụng vốn vay: phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn
huy động của ngân hàng để cho vay. Nếu hệ số này quá cao thì ngân
hàng cần chú ý đến khả năng thanh toán vì lúc này ngân hàng cho vay
nhiều nên khi khách hàng đến rút tiền, ngân hàng sẽ gặp khó khăn về
khả năng thanh toán. Nếu hệ số sử dụng vốn thấp thì ngân hàng cần
tăng cường cho vay hoặc giảm lượng vốn huy động. Như vậy ngân
hàng mới có khả năng bù đắp chi phí và có được lợi nhuận.
Tổng dư nợ

Hệ số sử dụng vốn vay = x 100%
Tổng nguồn vốn huy động
e, Tỷ lệ nợ xấu: là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của
ngân hàng ở một thời điểm nhất định thường là cuối tháng, cuối năm.
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = x 100%
Tổng dư nợ
Nợ xấu là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ. Chỉ tiêu
này cho biết mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Và
tỷ lệ này càng thấp thì càng tốt cho ngân hàng.Khi khách hàng không
- 21 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
trả được nợ có ảnh hưởng đến tính thanh khoản và rủi ro thanh toán.
Và khi đó chi phí của ngân hàng sẽ gia tăng khi phải tìm nguồn mới để
chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng tín dụng. Vì vậy tỷ lệ nợ xấu
là một chỉ tiêu cảnh báo cho ngân hàng: phải có biện pháp cải thiện
chất lượng tín dụng và phải có những biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
f, Tốc độ luân chuyển vốn: là chỉ tiêu đánh giá tần suất sử dụng
vốn của ngân hàng trong một thời kỳ.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn =
Dư nợ bình quân
Nếu vòng quay vốn cho vay càng lớn chứng tỏ vốn của ngân
hàng đã luân chuyển nhanh tham gia vào chu trình sản xuất kinh
doanh, vì vậy nó sẽ tạo ra được số tiền lớn cho ngân hàng từ việc thu
lãi, tức là đồng vốn được sử dụng có hiệu quả. Vòng quay vốn nhanh
thì không những ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu của một
doanh nghiệp mà còn đáp ứng được nhu cầu của rất nhiều doanh
nghiệp khác.
g, Kết quả kinh doanh:

Thể hiện ở lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động tín
dụng. Nguồn thu chủ yếu của ngân hàng hiện nay là từ hoạt động tín
dụng, đây là nguồn thu giúp ngân hàng tồn tại và phát triển. Do vậy
đây cũng là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Lợi nhuận tín
dụng thu được cho thấy các khoản vay không những thu hồi được mag
còn thu được lãi, đảm bảo được an toàn đồng vốn cho vay. Bằng việc
so sánh chỉ tiêu này giữa các ngân hàng cùng cấp ta có thể đánh giá,
xếp loại chất lượng tín dụng của các ngân hàng.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định tính:
- 22 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
Chỉ tiêu định tính thể hiện ở việc đánh giá tình hình quy chế, chế
độ thể lệ tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng phải đảm bảo tuân thu
theo các nguyên tắc:
- Người vay vốn phải sử dụng đúng mục đích.
- Vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vât tư hàng hoá tương
đương hoặc trên uy tín của khách hàng hay sự đảm bảo của người thứ
ba.
- Vốn vay đảm bảo trả đủ cả gốc và lãi đùng kỳ hạn cam kết.
Trên thực tế nếu một trong ba nguyên tắc này không thực hiện
được thì khách hàng mất khả năng trả nợ, ngân hàng khó có thể thu hồi
vốn dẫn đến mất khả năng thanh toán. Vì vậy khi nói đến chất lượng
tín dụng ngân hàng phải xem xét việc tuân thủ ba nguyên tắc trên.
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤGN
NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC
DOANH.
1.3.1. Các yếu tố chủ quan:
1.3.1.1. Nhóm yếu tố từ phía ngân hàng:
a, Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng là hệ thống chủ trương, định hướng quy

định chi phối hoạt động tín dụng do hội đồng quản trị của ngân hàng
đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh
nghiệp, các hộ gia đình và cá nhân trong phạm vi cho phép của những
quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Chính sách tín dụng đã
trở thành hướng dẫn cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng,
tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất
chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả
năng sinh lời. Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói
chung đều được xem xét và đưa ra trong chính sách tín dụng như: quy
mô, lãi suất cho vay, kỳ hạn của khoản vay, sự đảm bảo và khả năng
- 23 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
thanh toán của khách hàng, phạm vi, cá khoản tín dụng có vấn đề… Do
đó việc hoạch định chính sách tín dụng có ?ý nghĩa quyết định đến kết
quả hoạt động tín dụng nói riêng và sự thành bại của mỗi ngân hàng
nói chung. Chính sách tín dụng phù hợp sẽ giúp cho ngân hàng phát
huy được tốt nhất nội lực của bản thân, từ đó đạt được chất lượng tín
dụng cao nhất.
b, Chất lượng thẩm định:
Thẩm định là một quy trình thu thập, phân tích, và nghiên cứu
mọi mặt tình hình của khách hàng trên cơ sở đó sẽ đưa ra quyết định về
việc cho vay của ngân hàng.
Thẩm định dự án giúp cho ngân hàng rút ra các kết luận chính
xác có nên cho khách hàng đó vay không, dựa vào hiệu quả kinh tế và
khả năng trả nợ ngân hàng. Và từ quá trình thẩm định, ngân hàng cũng
có thể tham gia tư vấn cho chủ đầu tư, đồng thời xác định số tiền, thời
hạn, hình thức trả lãi và gốc hợp l?ý tạo điều kiện cho khách hàng hoạt
động một cách có hiệu quả. Và nếu việc thẩm định được tiến hành
đúng trình tự, nội dung đầy đủ và chính xác thì sẽ giảm thiểu được rủi
ro đối với ngân hàng, từ đó chất lượng tín dụng của ngân hàng được

nâng cao và ngược lại.
c, Khả năng huy động vốn của ngân hàng:
Ngân hàng huy động vốn của khách hàng rồi dùng số tiền để đó
mang đi đầu tư sinh lời. Tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng
vì vậy nếu ngân hàng huy động được những nguồn vốn với chi phí
thấp thì sẽ tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển. Bởi chi phí
nguồn sẽ ảnh hưởng đến lãi suất cho vay để bù đắp chi phí đầu vào và
mang lại thu nhập cho ngân hàng. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào
chất lượng huy động động vốn và ngược lại. Trong trường hợp ngân
hàng huy động được nhiều vốn mà không cho vay được hoặc nhiều
doanh nghiệp có nhu cầu vốn nhưng ngân hàng không thể đáp ứng
được thì không thể nói rằng chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt vì
- 24 -
NguyÔn Ých Quèc Trung Chuyªn ®Ò thùc tËp
khi đó không đem lại nhiều thu nhập, có khi còn gây thiệt hại cho ngân
hàng.
d, Công tác tổ chức bộ máy ngân hàng:
Công tác tổ chức bộ máy tác động một phần không nhỏ đến chất
lượng tín dụng cuả ngân hàng. Nếu ngân hàng sắp xếp cán bộ, phòng
ban một cách có khoa học có tính linh hoạt sẽ tạo ra sự phối hợp nhịp
nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong ngân hàng, có sự đoàn kết
nhất trí từ ban lãnh đạo đến từng cán bộ nhân viên ngân hàng đảm bảo
đúng người đúng việc nhằm phát huy hết khả năng, sở trường của từng
cán bộ.
e, Công tác kiểm tra, kiểm soát:
Ngân hàng cần tiến hành kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau
khi cho vay. Chỉ có như thế mới có thể biết được khách hàng sử dụng
vốn có đúng mục đích và có mang lại hiệu quả không. Thông qua việc
kiểm tra, kiểm soát, ngân hàng có thể dự đoán mọi tình hình xung
quanh khoản vay và từ đó có những chính sách và biện pháp thích hợp

đối với khoản vay, nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng.
f, Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng là thông tin tài chính, quan hệ tín dụng, bảo
đảm tiền vay, tình hình hoạt động và thông tin pháp l?ý của khách hàng
có quan hệ với ngân hàng.
Và hoạt động thông tin tín dụng là việc thu thập, tổng hợp, cung
cấp, lưu trữ, phân tích xếp, dự báo, trao đổi, khai thác và sử dụng thông
tin tín dụng nhằm góp phần bảo đảm an toàn hoạt động tín dụng của
ngân hàng thông qua ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Thông tin
tín dụng đầy đủ, chính xác và có hệ thống về khách hàng sẽ góp phần
ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, rủi ro lựa chọn nghịch do thiều
thông tin hay thông tin không đối xứng về khách hàng và đối tượng
đầu tư. Mục đích quan trọng nhất của hệ thống thông tin tín dụng là
- 25 -

×