Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.98 KB, 86 trang )

Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. CBTD: Cán bộ tín dụng
2. DSCV: Doanh số cho vay
3. DSTN: Doanh số thu nợ.
4. NHTM: Ngân hàng thương mại.
5. NHNo & PTNT: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn.
6. NHNN: Ngân hàng Nhà nước.
7. NHNo: Ngân hàng Nông nghiệp.
8. QTDND: Quỹ tín dụng nhân dân.
9. TCTD: Tổ chức tín dụng
Nguyễn Thị Huyền 1 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta là một nước nông nghiệp, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước Đảng và Nhà nước luôn xác định phát triển
làng nghề là chiến lược kinh tế quan trọng để phát triển khu vực kinh tế nông
thôn. Hà Tây là một trong những tỉnh có ngành hàng tiểu thủ công nghiệp và
làng nghề phát triển nhất trong cả nước. Hiện tại các làng nghề đang trong xu
hướng phát triển, xuất hiện nhu cầu về vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh
doanh, bên cạnh đó cũng xuất hiện nhu cầu vốn để duy trì và khôi phục lại
những làng nghề đang có xu hướng bị mai một. Từ đó các làng nghề đã tạo ra
thị trường tín dụng giàu tiềm năng đối với các NHTM trên địa bàn.
Chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây trong thời gian qua đã đầu tư
tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đạt nhiều thành
tích, đóng góp tích cực trong quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của tỉnh. Tuy nhiên việc ngân hàng đầu tư vốn vào các làng nghề còn ở thế
cầm chừng, phân tán làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển làng nghề
cả về quy mô cũng như về chất lượng. Do vậy cần phải tìm các giải pháp
nghiên cứu nhằm mở rộng cho vay có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn để khôi


phục và phát triển các làng nghề, đồng thời tạo lợi thế cho ngân hàng chiếm
lĩnh thị trường nông thôn rộng lớn, mở rộng đầu tư. Nhận thấy điều đó tôi đã
mạnh dạn đưa ra vấn đề: “Mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp.
Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
- Chương I. Lý luận cơ bản về cho vay đối với làng nghề của Ngân hàng
Thương mại.
- Chương II. Thực trạng về hoạt động cho vay đối với làng nghề tại chi
nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây trong thời gian qua.
- Chương III. Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi
nhánh NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
Nguyễn Thị Huyền 2 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
Với những điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn chắc chắn
không tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được sự đóng góp, góp ý của
các thầy cô và bạn bè để luận văn được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn.
Em muốn gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến các thầy cô giáo
trong khoa Ngân hàng – Tài chính đặc biệt là cô giáo Th.S Lê Thanh Tâm và
thầy giáo PGS. TS Lê Đức Lữ cùng các cô chú phòng Tín Dụng chi nhánh
NHNo&PTNT Hà Tây đã giúp em hoàn thành luận văn này.
Nguyễn Thị Huyền 3 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHO VAY ĐỐI VỚI
LÀNG NGHỀ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm cho vay trong NHTM
Cho vay ra đời từ rất sớm, khi mà xã hội có sự phân công lao động, sự
xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Xét về mặt xã hội sự xuất hiện

chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành sự phân hoá xã hội: của
cải, tiền tệ có xu hướng tập trung vào một nhóm người, trong lúc đó một
nhóm người khác có thu nhập thấp hoặc thu nhập không đáp ứng đủ cho nhu
cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt khi họ gặp những biến cố rủi ro bất
thường xảy ra. Từ đó nảy sinh nhu cầu đi vay để giải quyết mâu thuẫn nội tại
của xã hội thực hiện việc điều hoà nhu cầu tạm thời của cuộc sống.
Vào thời kỳ cổ đại, người đi vay chủ yếu là người nông dân và thợ thủ
công, họ phải đi vay với lãi suất rất cao. Bởi trong điều kiện sản xuất thấp
kém, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, lại thêm gánh nặng sưu thuế và
các tệ nạn xã hội khác, những người sản xuất nhỏ thường xuyên phải đối phó
với những rủi ro xảy ra trong cuộc sống. Điều đó buộc họ phải đi vay để giải
quyết những khó khăn cấp bách trong đời sống như: mua lương thực, thuốc
men, đóng tô, đóng thuế… còn các tầng lớp khác đi vay là để giải quyết
những thiếu hụt tạm thời với các nhu cầu cao. Như vậy hình thức đầu tiên của
cho vay là cho vay nặng lãi.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động cho vay ngày càng phát triển. Bởi ở
đó luôn tồn tại hai nhóm chủ thể: một nhóm chủ thể có vốn tạm thời chưa sử
dụng đến và một nhóm khác thiếu vốn lại có nhu cầu bổ sung vốn tạm thời.
Từ đó những chủ thể thừa vốn sẽ cho vay đối với những chủ thể thiếu vốn.
Hoạt động cho vay ngày càng mở rộng và phát triển đặc biệt từ khi có sự ra
đời của hệ thống ngân hàng. Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền
hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại, các
Nguyễn Thị Huyền 4 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền vừa cho vay
nặng lãi. Họ là những người kinh doanh tiền tệ hay còn gọi là những nhà buôn
tiền. Đầu tiên những nhà buôn tiền đã dùng vốn tự có để cho vay nhưng điều
đó không kéo dài. Từ hoạt động thực tiễn, họ nhận thấy thường xuyên có
người gửi tiền vào và có những người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền
không rút cùng một lúc, đã tạo số dư thường xuyên ở trong két. Do tính chất

vô danh của tiền, nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của
khách để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi căn bản hoạt động của nhà
buôn tiền - kẻ cho vay nặng lãi thành nhà buôn tiền - ngân hàng. Hoạt động
cho vay dựa trên tiền gửi của khách hàng tạo nên lợi nhuận lớn nên các ngân
hàng tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người
gửi tiền. Bằng cách cung cấp nhiều tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động
được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện mở rộng và hạ lãi suất cho vay.
Như vậy hoạt động cho vay trong ngân hàng đã ra đời ngay từ khi ngân hàng
ra đời.
Hiện nay, ngân hàng là tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của nước CHXHCN Việt Nam ghi: “
Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Hoạt động chính của ngân hàng
thương mại (NHTM) là huy động và sử dụng vốn nhằm thu lợi nhuận. Việc
huy động vốn chính là quá trình tạo nên các khoản tài sản khác nhau của ngân
hàng trong đó cho vay là khoản mục tài sản lớn và quan trọng nhất.
Như vậy, “cho vay: là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín
dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích
và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và
lãi”. ( Mục 2 - điều 3 - 1627/2001 QĐ – NHNN).
Từ định nghĩa trên có thể thấy cho vay có một số đặc điểm sau:
•Tài sản giao dịch trong quan hệ cho vay là tiền. Tiền cho vay là một
món nợ đối với cá nhân hay doanh nghiệp đi vay nhưng lại là một tài sản đối
với ngân hàng. So sánh với các tài sản khác khoản mục tiền vay có tính lỏng
Nguyễn Thị Huyền 5 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
kém hơn vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho
vay đó đến hạn thanh toán. Ví dụ: Một ngân hàng cho khách hàng vay một
khoản tiền với thời hạn 2 năm, ngân hàng đó không thể thu hồi lại tiền của
mình trước thời hạn 2 năm thời điểm mà khoản vay đến hạn trả. Các khoản

tiền cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn các tài sản khác.
•Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy ngân hàng khi cho vay phải có
cơ sở để tin rằng khách hàng sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố cơ bản trong quản
trị tín dụng. Khi quyết định cho khách hàng vay, ngân hàng phải có sự sàng
lọc những người đi vay có triển vọng tốt ra khỏi những người có triển vọng
xấu. Nhằm thực hiện sàng lọc có hiệu quả, ngân hàng cần tập hợp được nhiều
thông tin đáng tin cậy về người đi vay. Đồng thời ngân hàng phải tiến hành
giám sát để đảm bảo người vay sẽ sử dụng đúng mục đích, hạn chế rủi ro cho
ngân hàng. Trên thực tế một số cán bộ tín dụng khi xét duyệt cho vay không
dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng mà lại chú trọng đến
các bảo đảm, chính quan điểm này đã ảnh hưởng đến chất lượng các khoản
cho vay.
•Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói
cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện
được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát
hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất
danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố khác nhau nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có
thể thấp hơn tỷ lệ lạm phát ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
•Trong hoạt động cho vay, tiền vay được ngân hàng cấp trên cơ sở cam
kết hoàn trả vô điều kiện của bên đi vay khi đến hạn. Khách hàng phải cam
kết hoàn trả vốn và lãi với thời gian xác định được ghi rõ trong hợp đồng tín
dụng. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với khách hàng nhận tiền cho vay của ngân
hàng và là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay
Trong nền kinh tế thị trường cho vay ngày càng được mở rộng và trở nên
Nguyễn Thị Huyền 6 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
quan trọng. Chủ thể tham gia quan hệ cho vay bao gồm: ngân hàng, các đối
tượng vay vốn (cá nhân, tổ chức kinh tế,…), cả Nhà nước trung ương cũng

như các địa phương. Cho vay đã đem lại nhiều lợi ích không chỉ cho những
đối tượng tham gia trong quan hệ cho vay mà còn đem lại những lợi ích to lớn
cho nền kinh tế. Dưới đây ta xét vai trò của hoạt động cho vay đối với ngân
hàng, đối tượng vay vốn và toàn bộ nền kinh tế:
a. Đối với NHTM:
- Cho vay đem lại nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng. Trong các khoản
mục sử dụng vốn thì cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và quan trọng nhất.
Lãi từ hoạt động cho vay là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng, được dùng để
chi trả các chi phí như: lãi tiền gửi, lãi tiền vay, các chi phí khác. Phần còn lại
là lợi nhuận của ngân hàng. Có lợi nhuận ngân hàng sẽ sử dụng để đầu tư máy
móc, thiết bị, mở rộng mạng lưới…phát triển kinh doanh.
- Cho vay giúp ngân hàng sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động được.
Ngân hàng huy động vốn từ dân cư, tổ chức kinh tế và phải trả chi phí cho
hoạt động đó bao gồm các chi phí: quảng cáo, thuê nhân viên, lãi tiền gửi…
trong đó chi phí lãi tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nếu ngân hàng huy động
tiền và cất tiền vào trong két thì tiền không sinh lời trong khi ngân hàng lại
phải trả chi phí cho số tiền đó. Cho vay sẽ giúp ngân hàng sử dụng được
nguồn vốn đó đem lại nguồn thu cho ngân hàng để trang trải các chi phí. Mặt
khác, cho vay càng tăng thì đến lượt nó sẽ thúc đẩy hoạt động huy động vốn
tăng nhanh hơn.
b. Đối với đối tượng vay vốn:
- Cho vay đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh doanh
được liên tục, không đứt đoạn. Các tổ chức kinh tế trong một thời điểm nào đó
thiếu vốn để mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân,…do chưa thu được
tiền bán hàng. Lúc này họ phải đi vay để duy trì quá trình sản xuất, họ có thể
vay bạn bè hay người thân nhưng không phải lúc nào cũng có thể vay được.
Hoạt động cho vay của NHTM sẽ đáp ứng nhanh nhất và kịp thời vốn cho họ
để tiếp tục quá trình sản xuất.
Nguyễn Thị Huyền 7 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.

- Cho vay góp phần đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất kinh doanh và mở rộng sản xuất của khách hàng. Các khách hàng
trong quá trình sản xuất luôn cần phải mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường. Muốn vậy họ cần phải đổi mới công nghệ, mua những thiết bị máy
móc mới, xây dựng thêm nhà xưởng, thuê thêm lao động… chi phí cho những
hoạt động này là rất lớn và bản thân các doanh nghiệp tại một thời điểm không
thể có đủ vốn để chi trả. Vốn vay ngân hàng sẽ giúp họ thực hiện được điều
đó trong khi bản thân doanh nghiệp chưa có đủ vốn .
- Trên cơ sở sàng lọc và giám sát ngân hàng buộc các đối tượng vay vốn
phải sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả. Trong nghiệp vụ cho vay
của ngân hàng không phải đối tượng nào có nhu cầu đều được vay mà ngân
hàng luôn có sự sàng lọc, lựa chọn. Ngân hàng sẽ chỉ thực hiện cho vay đối
với khách hàng có uy tín, có phương án kinh doanh hiệu quả và có triển vọng
phát triển. Do vậy mà các chủ thể vay vốn phải có một phương án vay vốn có
hiệu quả và có tư cách đạo đức tốt. Khi cho vay, ngân hàng sẽ tiến hành giám
sát, kiểm tra xem đối tượng vay vốn sử dụng vốn vay có đúng mục đích
không? Nếu khách hàng sử dụng vốn vay không hiệu quả ngân hàng sẽ tư vấn
để giúp họ có phương án có hiệu quả hơn hoặc nếu khách hàng sử dụng không
đúng mục đích ngân hàng có thể thu hồi lại vốn cho dù chưa hết thời hạn vay
vốn. Chính vì vậy mà khách hàng luôn phải sử dụng vốn đúng mục đích từ đó
đem lại hiệu quả cho khách hàng, tránh rủi ro cho ngân hàng.
c. Đối với nền kinh tế:
- Cho vay góp phần làm quá trình sản xuất diễn ra liên tục thường xuyên
trong nền kinh tế, góp phần tạo sự tăng trưởng về kinh tế. Thừa thiếu vốn tạm
thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp. Việc phân phối vốn tín dụng đã
góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình
sản xuất được liên tục. Nhờ được cung cấp vốn mà các chương trình, hoạt
động sản xuất kinh doanh được thực hiện, được bắt đầu và duy trì tạo sự phát
triển cho nền kinh tế. Nhìn hẹp hơn, ở góc độ người đi vay, người cho vay thì

Nguyễn Thị Huyền 8 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
cho vay đem lại khoản lợi cho cả hai bên. Lợi ích kinh tế của hai phía đạt
được từ quan hệ cho vay chính là biểu hiện cụ thể nhất của sự tăng trưởng về
kinh tế.
- Cho vay là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và
ngành mũi nhọn. Các ngành kinh tế kém phát triển thường đem lại hiệu quả
kinh tế không cao nhưng nó có thể là rất cần thiết. Chẳng hạn: ngành nông
nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cho nền kinh tế nhưng đem lại lợi
nhuận không cao bằng các ngành khác do vậy mà các doanh ngiệp thường
không muốn đầu tư vào các ngành này. Trong điều kiện nước ta, nông nghiệp
là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội, đang trong quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá và là ngành chịu tác động nhiều nhất của điều
kiện tự nhiên. Vì vậy trong giai đoạn trước mắt Nhà nước cần đầu tư phát
triển nông nghiệp để giải quyết nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều
kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển.
Những ngành kinh tế mũi nhọn thường là những ngành mới phát triển
đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Phát triển những ngành này sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn
các ngành khác như: sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí. Các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thường không đủ tiềm lực tài chính để đầu tư, không
ai khác ngân hàng chính là người sẽ cho vay để tài trợ cho các ngành này.
- Cho vay góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Ngân hàng cho khách
hàng vay vốn để sản xuất kinh doanh, việc phát triển sản xuất sẽ góp phần giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Bên cạnh đó, ngân hàng
cũng cho vay trực tiếp đối với khách hàng là cá nhân dưới hình thức cho vay
tiêu dùng để mua sắm những thiết yếu cần thiết cho cuộc sống như: xây dựng
nhà cửa, mua xe…. trong khi bản thân họ không có đủ tiền. Từ đó mà cho vay
đã góp phần cải thiện đời sống của người dân.
- Cho vay góp phần điều chỉnh cơ cấu đầu tư, từ đó tác động chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Ngân hàng sẽ chỉ cho vay đối với các ngành có hiệu quả cao và

có khả năng phát triển. Mặt khác, ngân hàng cũng cho vay theo chỉ định của
Nhà nước, chính quyền địa phương trong đó có chính sách chuyển dịch cơ cấu
Nguyễn Thị Huyền 9 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
kinh tế. Ở Việt Nam cho vay còn tác động vào quá trình hình thành cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần. Bởi ngân hàng khi cho vay không phân biệt thành
phần kinh tế mà sẵn sàng cho vay với các đơn vị hoạt động kinh doanh có
hiệu quả, trả nợ ngân hàng đầy đủ.
1.1.3. Phân loại cho vay trong Ngân hàng Thương mại:
Dựa vào mục đích nghiên cứu mà người ta phân chia hoạt động cho vay
theo nhiều hình thức khác nhau.
a/ Dựa vào mục đích sử dụng tiền vay:
Khi phân chia theo tiêu thức này, các nhà ngân hàng mong muốn tìm ra
nguồn tiền trả nợ ngân hàng. Tuỳ theo mục đích sử dụng tiền vay mà người ta
phân chia hoạt động cho vay của ngân hàng thành hai loại chính là:
- Cho vay tiêu dùng: Mục đích của việc cho vay là người đi vay phải sử
dụng tiền vay vào việc tiêu dùng, mua sắm tài sản… nhằm mục đích phục vụ
lợi ích cá nhân. Khi thực hiện hình thức cho vay này cán bộ tín dụng (CBTD)
đã phải tính đến nguồn tiền để trả ngân hàng đó chính là thu nhập cá nhân của
người vay tiền. Hình thức phổ biến nhất của loại hình này là cho vay trả góp,
một loại hình đã áp dụng rất thành công ở các nước đang phát triển. Ngân
hàng có thể cho công chức vay để họ mua sắm ô tô, trả góp nhà ở. Điều này
đã giúp cho sự tiêu thụ hàng hoá trở nên thuận lợi hơn, do vậy nó thúc đẩy sản
xuất phát triển.
- Cho vay để kinh doanh: mục đích của loại cho vay này là ngân hàng
cho các doanh nghiệp vay để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của họ, nhằm
mở rộng sản xuất hay đáp ứng nhu cầu nào đó về tiền của doanh nghiệp. Dựa
vào đặc điểm từng ngành mà ngân hàng sẽ thiết lập điều kiện cho vay, cách
thức trả nợ dựa trên nguồn thu tiền hàng hoá của doanh nghiệp. Có thể phân
chia loại hình này theo tiêu thức là: cho vay doanh nghiệp sản xuất hay cho

vay doanh nghiệp thương mại; có thể phân chia theo ngành nghề kinh tế như:
cho vay ngành nông nghiệp, cho vay ngành công nghiệp, cho vay ngành dịch
vụ.
Nguyễn Thị Huyền 10 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
b/ Dựa theo thời hạn cho vay:
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng nhận
được vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Theo thời hạn tín
dụng cho vay được phân thành:
- Cho vay không có thời hạn xác định: là những khoản cho vay mà thời
điểm sử dụng tiền vay và thời điểm trả tiền vay không được kí kết tại thời
điểm kí kết hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng. Thay vào đó
ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau những điều kiện thu hồi tiền
vay của ngân hàng hoặc điều kiện hoàn trả vốn vay của khách hàng. Tiền lãi
của khoản vay này được xác định theo sự biến đổi lãi suất của ngân hàng.
- Cho vay ngắn hạn: là những khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở
xuống nhằm bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp. Khoản vay này có lãi
suất thấp, tính thanh khoản của món vay cao và độ rủi ro thấp.
- Cho vay trung hạn: là những khoản cho vay có thời hạn trên 1 năm đến
5 năm nhằm tài trợ cho các tài sản cố định như: sửa chữa, mua sắm thêm thiết
bị vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn, thay đổi
sản phẩm hàng hoá…Lãi suất của món vay trung hạn thường cao, tính thanh
khoản của món vay thấp và độ rủi ro cao.
- Cho vay dài hạn: Là những khoản cho vay có thời hạn 5 năm trở lên
nhằm tài trợ cho các công trình xây dựng cơ bản: nhà, sân bay, cầu đường
máy móc, thiết bị có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu phát triển sản xuất theo
chiều rộng hoặc chiều sâu. Vì thời gian dài nên độ rủi ro của những khoản vay
dài hạn là cao nhất, tính thanh khoản là thấp nhất nhưng lãi suất lại là cao
nhất.

Các khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đều có thời hạn sử
dụng tiền và thời điểm nhận vốn vay cũng như thời điểm hoàn trả được xác
định cụ thể và chính xác ngay từ khi ký kết hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng
và khách hàng.
Nguyễn Thị Huyền 11 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
c/ Dựa theo hình thức bảo đảm của khoản vay:
- Cho vay có tài sản đảm bảo: là những khoản cho vay mà bên cạnh việc
cho khách hàng vay vốn, ngân hàng còn lắm giữ tài sản của người vay với
mục đích xử lý tài sản đó để thu hồi vốn vay khi người vay vi phạm hợp đồng
tín dụng. Nghĩa vụ hoàn trả của khách hàng được thực hiện bảo đảm bằng cầm
cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên
thứ ba.
+ Cho vay thế chấp: là hình thức mà người nhận tài trợ phải chuyển các
giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho ngân
hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.
+ Cho vay cầm cố: Là hình thức mà người nhận tài trợ của ngân hàng
phải chuyển quyền kiểm soát tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng trong thời
gian cam kết.
- Cho vay không có tài sản đảm bảo: là những khoản vay mà ngân hàng
không nắm giữ tài sản của người đi vay để xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào
đó là những điều kiện ràng buộc khác khi ký hợp đồng tín dụng. Căn cứ để
ngân hàng có thể cho khách hàng vay theo hình thức này là: ý thức của khách
hàng, tình hình tài chính, lịch sử tín dụng của khách hàng, lợi tức có thể có
trong tương lai của dự án xin vay vốn…
+ Cho vay tín chấp: là hình thức cho vay của ngân hàng căn cứ vào uy tín,
sự tin tưởng đối với khách hàng. Phát triển cho vay tín chấp rất có lợi bởi vì
có những khách hàng có dự án tốt, khả năng sinh lời cao nhưng không có tài
sản thế chấp vẫn có thể được vay vốn.
+ Bảo lãnh: là hình thức cho vay căn cứ vào sự bảo lãnh bằng uy tín của

bên thứ ba. Người thứ ba khi đứng ra bảo lãnh sẽ cam kết thực hiện nghĩa vụ
tài chính đối với ngân hàng thay cho người đi vay khi khách hàng không thực
hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.
d/ Dưạ vào mức độ cho vay:
- Cho vay trực tiếp: là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng. Ngân
hàng trực tiếp cho khách hàng vay vốn thông qua hồ sơ vay vốn mà khách
Nguyễn Thị Huyền 12 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
hàng nộp cho ngân hàng. Khách hàng làm việc trực tiếp với CBTD để nộp
đơn xin vay vốn, thoả thuận các vấn đề liên quan.
- Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua tổ chức trung gian.
Đó là các tổ, hội, đội như: hội phụ nữ, hội nông dân, nhóm sản xuất…Mục
đích của các tổ chức này cùng quan tâm đến là vấn đề phát triển kinh tế làm
giàu, xoá đói giảm nghèo, dựa trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Đối tượng
đi vay là các hộ nông dân, người buôn bán nhỏ, các hộ nghèo, học sinh, sinh
viên… hình thức cho vay này có hai loại.
+ Cho vay gián tiếp thông qua tổ chức trung gian: là các tổ hội, đội như:
hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh…
+ Cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản
xuất. Việc cho vay này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích.
Hình thức cho vay này thường áp dụng với thị trường có nhiều món vay
nhỏ, người vay phân tán cách xa ngân hàng. Thông qua hình thức này sẽ giúp
ngân hàng tiết kiệm chi phí cho vay, giảm bớt rủi ro. Tuy nhiên hình thức này
cũng bộc lộ nhiều nhược điểm: nhiều trung gian có thể lợi dụng vị thế của
mình để tăng lãi suất hoặc lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình,
còn các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc bán với
giá đắt cho người vay vốn.
e/ Dựa vào phương thức vay vốn:
- Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên,

không đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Khi có nhu cầu vay vốn
theo hình thức này khách hàng chuẩn bị một hồ sơ xin vay trong đó tự giới
thiệu về mình, ghi số lượng tiền vay, thời hạn trả và phương án sử dụng tiền
vay. Sau đó ngân hàng sẽ thẩm định hồ sơ xin vay của khách hàng.
Phương thức cho vay từng lần là phương thức truyền thống, thông dụng
của các NHTM. Ưu điểm của phương thức này là đơn giản. Ngân hàng luôn
kiểm soát được mục đích và hiệu quả sử dụng tiền vay. Tuy nhiên mỗi lần vay
khách hàng lại phải làm hồ sơ xin vay. Điều này gây tốn kém cho khách hàng
Nguyễn Thị Huyền 13 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
và ngân hàng để thẩm định lại những văn bản khách hàng mang đến. Điều này
làm tăng chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương thức cho vay trong đó ngân
hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì
trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là hình thức cho vay mà không xác
định chính xác được thời điểm cần vay và thời điểm hoàn trả, khối lượng tiền
vay mà ở đây có sự xen kẽ giữa thời điểm vay và thời điểm hoàn trả tạo nên
những nhu cầu về vốn không rõ ràng của khách hàng. Điều kiện để được cho
vay theo hạn mức tín dụng là: có tín nhiệm với ngân hàng về việc trả nợ và
vay vốn, có nhu cầu vay vốn thường xuyên, vòng luân chuyển vốn nhanh,
thường xuyên có tiền nộp vào ngân hàng, kinh doanh ổn định.
Khi đến ngân hàng vay vốn khách hàng chỉ phải làm đơn xin vay lần
đầu và các tài liệu liên quan đến việc vay vốn và thiết lập mối quan hệ theo
phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Phương thức cho vay này tạo
thuận tiện cho khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường
xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh ngân hàng không ấn định trước ngày
trả nợ. Khi khách hàng có tiền ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự chủ động
trong quản lý ngân quỹ của khách hàng. Tuy nhiên với phương thức cho vay
này là rất rủi ro. Do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể
nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay đó.

- Cho vay thấu chi: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho phép
người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến
một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là
hạn mức thấu chi. Theo cách này ngân hàng và khách hàng thoả thuận một
hạn mức tín dụng để khách hàng sử dụng số dư nợ trên tài khoản thanh toán
trong một thời hạn nhất định. Khách hàng sử dụng vốn vay bằng cách phát
hành séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ, vượt quá số dư tiền gửi để chi trả. Khi
khách hàng có tiền nhập vào tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu cả gốc và lãi.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về
thời gian và quy mô. Do vậy phương thức này tạo thuận lợi cho khách hàng
Nguyễn Thị Huyền 14 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt
thủ tục đơn giản, phần lớn là không có tài sản đảm bảo. Nhược điểm của
phương thức này là rủi ro cao vì khi doanh nghiệp đặc biệt khó khăn thì các
khoản vay thấu chi có thể không được khách hàng trả nợ.
- Cho vay theo dự án đầu tư: là phương thức cho vay mà ngân hàng cho
khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Ngân hàng cùng khách
hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức đầu tư duy trì cho cả thời gian
đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ, ngân hàng thực hiện giải ngân
theo tiến độ thực hiện dự án. Mỗi lần rút vốn vay khách hàng lập giấy nhận nợ
tiền vay trong phạm vi mức vốn đã thoả thuận kèm theo các chứng từ xin vay
phù hợp mục đích sử dụng vốn vay trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm của
phương thức này là: thời gian hoàn vốn chậm, lãi suất cao, giá trị khoản vay
lớn.
g/ Các hình thức phân chia khác:
- Cho vay một ngân hàng tài trợ hoặc hợp vốn (đồng tài trợ)
- Cho vay theo đối tượng đi vay vốn: cho vay cá nhân, doanh nghiệp, các
tổ chức chính trị - xã hội.

1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI LÀNG NGHỂ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Tổng quan về làng nghề:
a. Khái niệm về làng nghề:
Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đều cho thấy
làng xã có vai trò hết sức quan trọng trong sản xuất, cũng như đời sống dân cư
ở nông thôn. Theo kết quả nghiên cứu sử học: làng xã xuất hiện từ thời các
vua Hùng dựng nước; những xóm làng định canh đã được hình thành dựa trên
cơ sở những công xã nông thôn. Công xã nông thông là một tập hợp các gia
đình sống quây quần với nhau trong một khu vực địa giới nhất định.
Lúc đầu phần lớn các thành viên trong làng đều làm nông nghiệp. Sau
đó có một bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau
Nguyễn Thị Huyền 15 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
hình thành nên một số tổ chức theo nghề nghiệp như: phường gốm, phường
dệt… Từ đó, các nghề được lan truyền rộng ra khắp làng và hình thành nên
làng nghề. Bên cạnh những người chuyên làm nghề thì đa phần các gia đình
trong làng đều vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm nghề. Nhưng do nhu cầu
trao đổi hàng hoá, các nghề mang tính chuyên môn sâu hơn và thường chỉ giới
hạn trong quy mô nhỏ (làng) dần tách khỏi nông nghiệp để chuyển hẳn sang
nghề thủ công. Càng về sau xu hướng người lao động tách khỏi đồng ruộng
chuyển sang làm nghề thủ công và sống bằng chính nghề đó ngày một tăng.
Những làng nghề phát triển mạnh số hộ và số lao động làm nghề tăng nhanh
và sống bằng nghề đó ngày càng nhiều.
Như vậy làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra các làng nghề truyền
thống và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá văn minh dân
tộc. Trải qua thời gian dài của lịch sử, có những làng nghề vẫn được lưu giữ
nhưng có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn, có những làng nghề mới ra
đời. Lâu nay quan niệm về làng nghề vẫn chưa được thống nhất, có nhiều
quan điểm khác nhau nhưng có nhiều người thống nhất khái niệm làng nghề

như sau:
“Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một làng có một hay một
số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu
nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn
làng”.
Căn cứ để xác định một làng có phải làng nghề hay không dựa trên những
tiêu thức sau:
- Số hộ và số lao động làm nghề ở làng nghề đạt từ 50 % trở lên so với
tổng số hộ và lao động của làng.
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề ở làng nghề đạt trên 50%
tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
- Những sản phẩm mà làng làm ra phải mang tính đặc thù của làng.
Nguyễn Thị Huyền 16 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
- Có hình thức tổ chức phù hợp chịu sự quản lý của Nhà nước của chính
quyền địa phương gắn với mục tiêu kinh tế xã hội và làng văn hoá của địa
phương.
Tên nghề của làng phải được gắn với tên làng: nếu là làng có một nghề
thì lấy nghề đó đặt tên cho làng. Nếu làng có nhiều nghề phát triển, sản phẩm
nghề nào nổi tiếng nhất thì lấy nghề đó đặt tên làng. Chẳng hạn: làng dệt lụa
Vạn Phúc (Hà Tây), làng gốm Bát Tràng (Hà Nội)…
Người ta có thể chia làng nghề ra thành hai loại: làng một nghề và làng
nhiều nghề. Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại
hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có lác đác ở một
vài hộ không đáng kể. Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề
có tỷ trọng nghề chiếm ưu thế gần như tương đương nhau. Cũng có thể chia
làng nghề thành: làng nghề truyền thống và làng nghề mới.
b. Đặc điểm của làng nghề:
Thứ nhất: Làng nghề phát triển đa dạng về quy mô, cơ cấu ngành nghề.
- Về quy mô làng nghề: Đại bộ phận các cơ sở sản xuất kinh doanh có

quy mô nhỏ bình quân mỗi cơ sở làm nghề chỉ có khoảng vài chục triệu đồng.
Làng nghề phát triển với nhiều loại mô hình sản xuất, hình thức tổ chức của
các cơ sở làng nghề cũng mang đậm sắc thái nông nghiệp nông thôn như: các
hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã…Trong những năm gần đây còn xuất hiện những
nghề mới như chế biến nông sản, thực phẩm… đã hình thành nên những công
ty, doanh nghiệp tư nhân.
- Về cơ cấu nghành nghề: đã có sự thay đổi thích ứng với cơ chế thị
trường. Một số ngành phát triển mạnh như sản xuất vật liệu xây dựng, chế
biến nông sản, cơ kim khí Có thể nói cơ cấu những ngành nghề của làng rất
phong phú. Ở các địa phương tỷ lệ ngành nghề cũng khác nhau do nhu cầu
tiêu thụ và tiêu dùng khác nhau.
- Về trình độ kỹ thuật: trước đây ở các làng nghề sử dụng công cụ thủ
công là chủ yếu đến nay đã có sự kết hợp giữa thủ công và máy móc. Một số
công cụ đã được cơ giới hoá, hiện đại hoá và áp dụng công nghệ tiến tiến vào
Nguyễn Thị Huyền 17 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
sản xuất như thiết bị chế biến lương thực, thực phẩm, công nghệ sinh học…
nhưng tỷ lệ này mới chỉ ở mức thấp.
Thứ hai: Về sản phẩm của làng nghề
Sản phẩm làng nghề là những sản phẩm tiểu thủ công nghiệp. Đối với
các sản phẩm của các làng nghề truyền thống thì sản phẩm mang tính đơn
chiếc, có tính mỹ thuật cao. Bên cạnh những sản phẩm mang tính truyền thống
còn có rất nhiều sản phẩm của những làng nghề mới làm cho các sản phẩm
của các làng nghề ngày càng đa dạng, phong phú với nhiều chủng loại, thuộc
nhiều ngành khác nhau. Nhờ bám sát nhu cầu thị trường mà các mặt hàng của
làng nghề tăng lên nhanh chóng, chất lượng được nâng cao đáp ứng nhu cầu
khách hàng. Đặc biệt những sản phẩm nghề truyền thống đã được cải tiến
nhanh chóng, phù hợp với thị hiếu được người tiêu dùng trong và ngoài nước
yêu thích và đang ngày càng chiếm ưu thế trên thị trường.
Thứ ba: Làng nghề có khả năng giải quyết tốt việc làm cho người lao

động. Một đặc điểm nổi bật về lao động ở các làng nghề là lao động chủ yếu
trong các hộ gia đình chiếm tới 90 % , chỉ còn khoảng 10 % nằm ở các doanh
nghiệp. Nếu như trước đây lao động trong các làng nghề chủ yếu là thủ công
thì ngày nay do có sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các làng nghề đã ứng
dụng ngày càng nhiều khoa học công nghệ vào sản xuất nhất là ở các làng
nghề mới. Một số tỉnh có làng nghề phát triển như: Bắc Ninh, Nam Định, Thái
Bình…ngoài số lao động sử dụng tại địa phương còn thuê mướn nhân công ở
bên ngoài rất nhiều, làm thị trường lao động ở nông thôn sôi động hẳn lên.
Lao động trong các làng nghề truyền thống có trình độ kỹ thuật cao, tay
nghề giỏi, mang tính mỹ thuật độc đáo đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước
và quốc tế. Bên cạnh những lao động có tay nghề cao ở các làng nghề truyền
thống đại đa số trình độ lao động ở các làng nghề là thấp. Các chủ hộ, chủ cơ
sở thường chưa qua trường lớp đào tạo nào nên trình độ quản lý yếu kém. Họ
thường quản lý theo kinh nghiệm, kinh doanh theo kiểu chớp giật. Điều đó chỉ
đem lại những lợi ích trước mắt không đem lại hiệu quả lâu dài cho họ.
Thứ tư: Về hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề.
Nguyễn Thị Huyền 18 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
Khi mới hình thành hình thức tổ chức kinh doanh của làng nghề là hộ
gia đình gắn với các phường nghề, hội nghề như: phêng gốm, phường đúc
đồng…Hiện nay hình thức tổ chức kinh doanh của làng nghề vẫn chủ yếu là
hộ gia đình có nơi lên đến 90 % . Bên cạnh đó cũng đã tồn tại các hình thức
hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Tuy các hình
thức này mới chỉ chiếm số ít nhưng nó đã cho thấy sự phát triển của làng nghề
ở trình độ phát triển cao hơn.
c. Vai trò của làng nghề trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được coi là một
chiến lược quan trọng mà Đảng đã đề ra. Để đạt được điều đó thì trước hết cần
đẩy mạnh việc khai thác các tiềm năng sẵn có nhằm xoá dần tình trạng thuần

nông, độc canh cây lúa tạo công ăn việc làm cho người lao động dư thừa ở
nông thôn hiện nay. Điều này chỉ có thể được thực hiện thông qua con đường
khôi phục và phát triển các làng nghề. Từ đó ta có thể thấy được vai trò quan
trọng của làng nghề như sau:
- Phát triển làng nghề góp phần giải quyết việc làm cho người lao động ở
nông thôn Tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn luôn là mối quan
tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Các làng nghề đang ngày càng thu hút
nhiều lao động không chỉ lao động ở địa phương mà còn cả lao động ở các địa
phương khác đến làm thuê. Đồng thời, phát triển làng nghề còn kéo theo các
dịch vụ khác phát triển tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Chẳng hạn ngành chế biến lương thực, thực phẩm tạo điều kiện cho ngành
chăn nuôi phát triển. Việc phát triển các làng nghề là giải pháp quan trọng
nhằm khai thác tiềm lực ở nông thôn tạo điều kiện cho người lao động không
có khả năng sản xuất nông nghiệp chuyển sang làm nghề mà họ có ưu thế hay
người nông dân có việc làm lúc nhàn rỗi. Việc các ngành nghề thu hút lao
động ở nông thôn sẽ hạn chế người dân di cư nên thành phố để tìm kiếm việc
làm.
Nguyễn Thị Huyền 19 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
- Các làng nghề đã tạo ra một khối lượng hàng hoá lớn đa dạng, phong
phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá mở
rộng thị trường. Phát triển làng nghề sẽ huy động tối đa nguồn lực sẵn có ở
nông thôn như: tài nguyên đất đai, nguyên liệu, lao động… vào quá trình sản
xuất kinh doanh, khai thác có hiệu quả nguồn vốn trong nhân dân, tay nghề
của người lao động. Trên cơ sở đó làng nghề đang tạo ra ngày càng nhiều sản
phẩm phong phú về hình thức, đa dạng về chủng loại đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân. Hiện nay, ngày càng nhiều các mặt hàng của các làng
nghề được xuất khẩu như: dệt len, gốm sứ, mây tre đan, điêu khắc… đặc biệt
là các mặt hàng mang tính truyền thống như: dệt thổ cẩm, đồ gốm, mây tre
đan… đang được người nước ngoài ưa thích. Nhiều người nước ngoài biết đến

Việt Nam là nhờ vào những sản phẩm truyền thống đó.
- Phát triển làng nghề góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống
nhân dân ở nông thôn. Qua thực tế cho thấy thu nhập bình quân một người lao
động làm nghề bao giờ cũng cao hơn thu nhập bình quân một lao động thuần
nông. Một lao động làm nghề thường có thu nhập bình quân một tháng đạt
khoảng 300000 – 1000000 đồng cá biệt có thể cao hơn. Đây là điều mà một
người trồng lúa không thể đạt được trong một tháng. Thu nhập tăng lên người
nông dân có điều kiện mua sắm những thiết bị phục vụ cho cuộc sống chẳng
hạn ở một số làng nghề hiện nay có trên 80 % các hộ gia đình có xe máy. Thu
nhập tăng người dân cũng sẽ tích luỹ nhiều hơn, cá biệt có hộ gia đình hàng
năm tích luỹ được hàng trăm triệu đồng. Đời sống của người dân được cải
thiện, những biểu hiện tiêu cực như trộm cắp cũng từ đó mà giảm dần, an
ninh trật tự xã hội được ổn định.
- Làng nghề sẽ chuẩn bị đội ngũ lao động có khả năng thích ứng với lĩnh
vực công nghiệp, tạo cơ sở cho các doanh nghiệp hiện đại ra đời. Phát triển
làng nghề đã thúc đẩy việc huy động nguồn lực trong nhân dân để đưa vào sản
xuất kinh doanh làm cho nền kinh tế nông thôn có sự tăng trưởng mạnh mẽ.
Từ đó cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống…sẽ được cải thiện hay xây mới
tạo thuận lợi cho việc đi lại là cơ sở để thu hút đầu tư phát triển những ngành
Nguyễn Thị Huyền 20 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
công nghiệp. Ngày nay bên cạnh sản xuất thủ công các làng nghề cũng đã đầu
tư vào những thiết bị máy móc hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật.
Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ lao động ở nông thôn thích ứng
với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ chức kỷ luật trong công việc.
Bên cạnh đó, ở các làng nghề cũng có sự liên kết giữa các doanh nghiệp
với các cơ sở sản xuất. Các doanh nghiệp có thể mua lại sản phẩm hay cung
ứng nguyên liệu cho làng nghề hoặc tinh chế, lắp ráp một bộ phận của sản
phẩm tạo thành một sản phẩm hoàn chỉnh để bán ra thị trường. Các doanh
nghiệp này sẽ đảm bảo thị trường đầu vào, đầu ra, cung cấp thiết bị công

nghệ, thậm chí có thể cả vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh ổn định. Mặt
khác các doanh nghiệp có thể giảm bớt được những công việc chi tiết, phụ trợ
để tập trung vào khâu then chốt hoàn thiện sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế
cao.
- Phát triển làng nghề truyền thống góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc. Các làng nghề truyền thống có từ lâu đời, các sản phẩm là sự kết tinh, sự
giao lưu và phát triển các giá trị văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc. Do
vậy mà các sản phẩm truyền thống mang trong mình bản sắc dân tộc mà các
dân tộc khác không có.
1.2.2. Sự cần thiết cho vay của Ngân hàng thương mại đối với sự phát
triển làng nghề:
Thứ nhất, cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của làng nghề để đổi mới công
nghệ, mở rộng sản xuất. Các làng nghề muốn tồn tại và phát triển thì phải có
vốn đầu tư. Việc đầu tư từ vốn ngân sách cho phát triển làng nghề còn rất hạn
chế bởi khả năng tài chính của Nhà nước thấp. Bên cạnh đó, khả năng tự đầu
tư của bản thân làng nghề là rất thấp. Sự hạn chế đó bắt nguồn từ hạn chế về
thu nhập và khả năng tích luỹ của các hộ gia đình, cơ sở sản xuất. Để thay đổi
bộ mặt nông thôn, tạo điều kiện cho làng nghề phát triển đáp ứng vốn bằng
vốn vay ngân hàng có ý nghĩa rất to lớn trong việc tài trợ vốn ban đầu cho sản
xuất kinh doanh. Chính sự hỗ trợ vốn của ngân hàng đã giúp làng nghề mở
rộng qui mô sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại vào quá
Nguyễn Thị Huyền 21 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
trình sản xuất với năng suất và chất lượng cao hơn. Bên cạnh đó, hoạt động
cho vay của ngân hàng cũng giúp các hộ, cơ sở sản xuất có thể giải toả những
tắc nghẽn trong sản xuất kinh doanh, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh
đó được tiến hành một cách thuận lợi.
Khi công nghệ được đổi mới chất lượng sản phẩm sẽ được nâng cao,
tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Nếu qui mô sản xuất
được mở rộng sẽ thu hút thêm nhiều lao động, số lượng sản phẩm tạo ra ngày

càng nhiều… làm tăng thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống nhân
dân.
Thứ hai, hoạt động cho vay của Ngân hàng góp phần khôi phục các
làng nghề truyền thống, hình thành và phát triển các làng nghề mới, từ đó góp
phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Phát triển các
làng nghề nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân ở nông thôn, góp
phần xoá đói giảm nghèo và thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại với sản
phẩm mũi nhọn là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản và cũng
là thực hiện mục tiêu: “ ly nông bất ly hương” ở nông thôn. Làng nghề ở Việt
Nam trong đó một bộ phận quan trọng là làng nghề thủ công truyền thống với
sản phẩm đặc trưng là hàng mỹ nghệ tinh xảo. Các sản phẩm này không chỉ có
ý nghĩa kinh tế mà còn chứa đựng ý nghĩa dân tộc. Vốn vay ngân hàng đã góp
phần quan trọng trong việc khôi phục các làng nghề truyền thống, đồng thời
phát triển các làng nghề mới. Từ đó giảm dần các hộ thuần nông góp phần vào
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nông – công nghiệp và dịch
vụ.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại đối với làng nghề:
a. Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
•Chính sách tín dụng: chính sách tín dụng của một ngân hàng là hệ thống
các biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương tín dụng hoặc hạn chế tín
dụng để đạt mục tiêu đã hoạch định của NHTM đó và hạn chế rủi ro, bảo đảm
an toàn trong kinh doanh. Bất kỳ một chính sách tín dụng nào cũng đạt 3 mục
Nguyễn Thị Huyền 22 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
tiêu: lợi nhuận của ngân hàng; an toàn, ít rủi ro; sự lành mạnh của khoản tín
dụng. Một chính sách tín dụng luôn phải trả lời các câu hỏi: qui mô của các
khoản cho vay là bao nhiêu? Thời hạn cho vay bao nhiêu là phù hợp? Sử dụng
các hình thức cho vay nào? Lĩnh vực cho vay nào đang có xu hướng phát
triển?

Chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại
của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều
khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở phân
tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước, đảm bảo
công bằng xã hội. Bất cứ ngân hàng nào muốn mở rộng hoạt động cho vay
đều phải có chính sách tín dụng rõ ràng, thích hợp với ngân hàng mình.
•Qui trình tín dụng: Qui trình tín dụng bao gồm những quy định phải
thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng.
Nó được bắt đầu thực hiện từ khi chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá
trình cho vay cho đến khi thu hồi nợ. Hoạt động cho vay có được đảm bảo hay
không tuỳ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước, sự phối hợp
nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng… sẽ tạo điều kiện cho vốn
tín dụng được luân chuyển bình thường theo đúng kế hoạch đã định, nhờ đó
bảo đảm chất lượng tín dụng.
•Trình độ nghiệp vụ của nhân viên ngân hàng: nhân tố con người luôn
đóng vai trò hết sức quan trọng. Sự thành công trong hoạt động cho vay đối
với làng nghề hay không phụ thuộc vào năng lực, trách nhiệm của người cán
bộ tín dụng. Họ là những người trực tiếp quản lý toàn bộ số vốn từ khi đầu tư
cho đến khi kết thúc hợp đồng tín dụng. Trước khi cho vay CBTD phải phân
tích kỹ phương án vay vốn, tình hình tài chính của các hộ, cơ sở sản xuất,
kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay của các cơ sở. Làng nghề đang ngày
càng mở rộng và phát triển, việc nâng cao năng lực, trách nhiệm nhân sự là rất
cần thiết. Điều đó phòng tránh cho ngân hàng rủi ro trong cho vay đối với làng
nghề.
Nguyễn Thị Huyền 23 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
•Thông tin tín dụng: thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản
lý tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những
quyết định cần thiết có liên quan đến việc cho vay, theo dõi quản lý tài khoản
cho vay. Số lượng, chất lượng của thông tin về làng nghề có liên quan đến

mức độ chính xác trong việc phân định tình hình về các làng nghề, các cơ sở
để đưa ra những quyết định phù hợp. Vì vậy thông tin càng đầy đủ, chính xác,
kịp thời thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng lớn,
khả năng mở rộng cho vay đối với các làng nghề càng lớn. Ngân hàng có thể
thu thập thông tin từ nguồn sẵn có của ngân hàng, khách hàng cung cấp, từ
trung tâm thông tin tín dụng, từ các nguồn khác.
•Trang thiết bị ngân hàng phục vụ cho hoạt động cho vay: Nếu một ngân
hàng được trang bị đầy đủ, thiết bị công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng
tài chính, phạm vi, qui mô hoạt động sẽ giúp ngân hàng hoạt động tốt hơn.
Ngoài những nhân tố nêu trên thì công tác tổ chức của ngân hàng cũng
ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Tổ chức ngân hàng phải
được tổ chức một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng
giữa các phòng ban trong ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống ngân hàng… để
tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng, giúp ngân hàng theo dõi
sát sao các khoản cho vay, từ đó đem lại hiệu quả cao trong hoạt động cho
vay.
b. Nhân tố thuộc về làng nghề:
Việc ngân hàng có quyết định cho vay hay không phụ thuộc phần nhiều
vào làng nghề. Ngân hàng sẽ thực hiện cho vay nếu làng nghề có đủ điều kiện.
Thứ nhất: Trước hết là nhu cầu vay vốn của khách hàng, đó phải là
những nhu cầu cần thiết như vay để sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm duy trì hay phát triển sản xuất. Nhu cầu này tuỳ thuộc vào từng
ngành nghề, mức vốn tự có và mở rộng sản xuất kinh doanh ở làng nghề.
Chẳng hạn: làng nghề có nhu cầu tín dụng ngắn hạn để tài trợ cho vốn lưu
động thường xuyên như mua nguyên vật liệu, sửa chữa máy móc, hàng dự trữ
cho kỳ sau…Thông thường chu kỳ sản xuất kinh doanh của làng nghề là ngắn
Nguyễn Thị Huyền 24 Lớp Ngân Hàng 44A
Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây.
hơn so với chu kỳ sản xuất xây dựng cơ bản. Khách hàng ở các làng nghề
cũng có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm tài sản cố định: máy

móc, thiết bị, nhà cửa… khi mà vốn tự có của bản thân các cơ sở là không đủ.
Nhu cầu vay vốn của làng nghề phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề,
đối tượng tài trợ, giai đoạn sản xuất kinh doanh và điều kiện của người vay.
Do vậy nhu cầu của khách hàng khác nhau về quy mô, thời hạn, phương thức
cho vay. Khi mở rộng cho vay với đối tượng khách hàng này, ngân hàng cần
xem xét nhu cầu khách hàng cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu đó của
mình.
Thứ hai: Tình trạng tài chính của làng nghề. Ngân hàng sẽ cho vay nếu
nhận thấy khả năng tài chính của khách hàng là lành mạnh và có thể phát
triển. Khi cho vay ngân hàng sẽ xem xét các yếu tố sau:
- Khả năng trả nợ: được thể hiện trong hồ sơ hoạt động kinh doanh trước
đây như: báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán và phương án sản
xuất kinh doanh. Trong đó phương án sản xuất kinh doanh là rất quan trọng,
nó phản ánh khả năng trả nợ trên cơ sở dự toán các luồng tiền trong tương lai.
- Tài sản bảo đảm: Tài sản đảm bảo vẫn được coi là công cụ hữu hiệu
nhất để hạn chế rủi ro. Tài sản bảo đảm phải dễ xác định giá trị, dễ mua bán
có thể chuyển nhượng, thuộc sở hữu hợp pháp của khách hàng. Thông thường
các hộ sản xuất thường đảm bảo bằng đất đai, nhà cửa, máy móc thiết bị. Đối
với các doanh nghiệp thường là hàng tồn kho, khoản phải thu, máy móc thiết
bị. Ngân hàng cũng cho khách hàng vay không có tài sản bảo đảm khi khách
hàng đáp ứng được nhu cầu sau: tư cách và năng lực tài chính tốt hoặc là
khách hàng có quan hệ lâu dài thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng. Tuy
nhiên thực tế cho vay không có tài sản bảo đảm bằng tài sản vẫn chưa nhiều,
các làng nghề thường chứa nhiều rủi ro do thị trường tiêu thụ và nguyên liệu
biến động thường xuyên.
Thứ ba: Tư cách đạo đức, trình độ quản lý của khách hàng ở làng nghề
cũng có vai trò quan trọng. Kinh nghiệm của nhiều cán bộ tín dụng cho thấy
tư cách đạo đức, tính cách và năng lực quản lý của khách hàng quyết định rất
Nguyễn Thị Huyền 25 Lớp Ngân Hàng 44A

×