Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN NQD tại Chi nhánh NHCT Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.86 KB, 64 trang )

mở đầu
Trong tiến trình phát triển kinh tế của mình, nhiều quốc gia đã nhận thấy
sức sống và tính năng động của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trong nền
kinh tế thị trờng; chính hiệu quả của các doanh nghiệp này đã góp phần tạo nên
sức mạnh kinh tế của các quốc gia phát triển và các nớc công nghiệp mới (NICs).
Đánh giá đúng tiềm năng và vai trò to lớn của DNVVN trong sự nghiệp
phát triển đất nớc, Đảng và Nhà nớc ta đã có nhiều chính sách khuyến khích và
kích thích tăng trởng của các DNVVN, không phân biệt thành phần kinh tế hay
loại hình sở hữu. Mặc dù, trong những năm qua, DNVVN đã đạt đợc những kết
quả rất khả quan; nhng trên thực tế, các DNVVN, đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có việc tiếp
cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tuy nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN) là rất lớn song
các DN chủ yếu huy động vốn thông qua thị trờng tài chính phi chính thức (vốn tự
có của chủ DN, vay mợn bạn bè, hoặc vay nặng lãi...) còn vốn tín dụng Ngân hàng
rất ít hoặc DN có vay đợc thì chủ yếu vẫn là tín dụng ngắn hạn.
Sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Hng Yên, đợc sự hớng dẫn
nhiệt tình của các cán bộ Phòng Kinh doanh, đợc tìm hiểu về hoạt động của
phòng, đặc biệt là qua quá trình tìm hiểu về nghiệp vụ cho vay đối với DNVVN
NQD hoạt động trên địa bàn tỉnh của Chi nhánh NHCT Hng Yên, em nhận thấy:
hoạt động tín dụng đối với DNVVN NQD của Chi nhánh NHCT Hng Yên trong
những năm qua tuy đã đạt đợc một số kết quả đáng ghi nhận song vẫn cha đáp ứng
đợc nhu cầu vốn rất lớn của các DNVVN NQD hoạt động trên địa bàn tỉnh. Mặc
dù hoạt động cho vay đối với DNVVN NQD đã đợc Ban Giám đốc Chi nhánh và
lãnh đạo Phòng Kinh doanh quan tâm, bên cạnh đó là sự đổi mới t duy của các cán
bộ trong phòng; song đây là nhóm đối tợng khách hàng có tiềm năng rất lớn mà
NHCT Hng Yên vẫn cha khai thác thực sự hiệu quả.
Trong thời gian tới, Chi nhánh cần có sự quan tâm hơn nữa và cần xây dựng
một chính sách tín dụng hợp lý để mở rộng cho vay, và qua đó có thể khai thác tốt
hơn tiềm năng của các DNVVN NQD. Chính vì những lý do nêu trên mà sau một
1


thời gian thực tập tại phòng Kinh doanh của NHCT Hng Yên, em đã quyết định
chọn đề tài nghiên cứu cho báo cáo thực tập chuyên đề là: Giải pháp nhằm mở
rộng cho vay đối với DNVVN NQD tại Chi nhánh NHCT Hng Yên.
Bài viết gồm 3 phần chính:
- Những vấn đề cơ bản của TDNH đối với DNVVN ngoài quốc doanh.
- Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN ngoài quốc doanh tại Chi
nhánh NHCT Hng Yên.
- Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN NQD tại NHCT Hng
Yên.
Chơng I- Những vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng đối với
DNVVN NQD
1.1. Tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN NQD
2
1.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản
ánh hoạt động đặc trng của Ngân hàng. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân
hàng cho khách hàng; đây là hoạt động sinh lời lớn nhất song cũng chịu rủi ro cao
nhất.
1.1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trờng
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một DN thành lập và tiến hành hoạt
động sản xuất - kinh doanh. Nguồn vốn của một doanh nghiệp luôn bao gồm hai
phần: vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. Tuy nhiên, việc lựa chọn cơ cấu của nguồn
vốn nh thế nào là phụ thuộc vào sự ổn định của nền kinh tế, các chính sách kinh tế
vĩ mô, quan điểm của chủ DN...
- Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm: vốn góp ban đầu (vốn điều
lệ), lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu, các quỹ...
+ Vốn góp ban đầu: Khi thành lập DN bao giờ chủ DN cũng phải có một số
vốn ban đầu nhất định, đối với các DNNQD hoạt động theo Luật doanh nghiệp thì
chủ doanh nghiệp phải có một số vốn nhất định để xin đăng kí thành lập DN (các
chủ DN tham gia góp vốn, phát hành cổ phiếu...)

+ Lợi nhuận không chia: lợi nhuận không chia của DN thực chất là phần lợi
nhuận cộng dồn để lại của DN; tuy nhiên, trong quá trình hoạt động sản xuất -
kinh doanh, nếu DN hoạt động có hiệu quả thì DN mới có điều kiện để tăng nguồn
vốn. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia - nguồn vốn nội bộ - là phơng thức tạo
nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn vì DN giảm đợc chi phí, giảm bớt sự
phụ thuộc bên ngoài; vì vậy, các biện pháp làm tăng lợi nhuận của DN nh các biện
pháp miễn giảm thuế thu nhập cũng góp phần làm tăng vốn tự có của DN. Rất
nhiều DN coi trọng chính sách tái đầu t từ lợi nhuận để lại, tuy nhiên, không phải
lúc nào DN cũng có thể dùng lợi nhuận không chia để tài trợ cho dự án, phơng án
sản xuất - kinh doanh của mình vì phần lợi nhuận không chia giữ lại không đáng
kể hoặc không đáp ứng đợc nhu cầu về vốn.
- Nguồn vốn vay và các khoản nợ gồm: tín dụng thơng mại, tín dụng Ngân
hàng, phát hành trái phiếu.
3
+ Tín dụng thơng mại đợc hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua
bán chịu, mua bán trả chậm hoặc trả góp, chi phí của tín dụng thơng mại ẩn
ngay trong mức giá. Tín dụng thơng mại tuy là phơng thức tài trợ rẻ, tiện
dụng và linh hoạt song nếu quy mô tài trợ quá lớn thì tính chất rủi ro rất lớn.
+ Phát hành trái phiếu: Trái phiếu là một công cụ huy động vốn dài hạn, lãi
suất trái phiếu chính là chi phí vốn của việc huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu. Tuy nhiên, ngay cả ở những nớc có thị trờng tài chính phát triển nh Mỹ,
Singapore...thì phát hành chứng khoán cũng không phải là biện pháp hàng đầu để
DN tài trợ cho hoạt động của họ. Chỉ có các công ty có uy tín và năng lực tài chính
vững mạnh, đáp ứng đầy đủ các điều kiện thì mới đợc quyền phát hành trái phiếu;
các DN nhỏ không đợc thiết lập vững chắc trên thị trờng hầu nh không bao giờ
gom đủ vốn bằng cách phát hành chứng khoán. Vì vậy, Ngân hàng vẫn là nguồn
vốn bên ngoài quan trọng để tài trợ cho các DN
+ Tín dụng Ngân hàng: Với điều kiện VCSH thấp, thị trờng tài chính cha
phát triển thì việc các DN coi nguồn vốn tín dụng Ngân hàng là hình thức huy
động vốn chủ yếu là một tất yếu. Tín dụng Ngân hàng không chỉ giúp các DN cân

đối cơ cấu vốn, đảm bảo một cơ cấu vốn hợp lý mà đối với những DN có tỷ lệ nợ
thấp thì có thể sử dụng nợ nh một phơng pháp để tiết kiệm thuế thu nhập doanh
nghiệp, từ đó tăng lợi nhuận sau thuế (sở dĩ nh vậy là vì doanh nghiệp đợc phép
khấu trừ lãi vay vào lợi nhuận trớc thuế của họ). Các DN thờng cố gắng cân bằng
giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ vững khả năng thanh toán, củng cố uy tín tài
chính. Khi tỷ lệ nợ ở mức thấp, nếu cần vốn thì các công ty thờng chọn cách vay
Ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu, tức là tăng tỷ lệ nợ; nếu tỷ lệ nợ ở mức cao
thì các DN phải tránh tăng tỷ lệ nợ bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc cố gắng
dùng lợi nhuận không chia. Tuy nhiên, các DN thờng không quan tâm nhiều đến
việc giữ một mức cân bằng nhất định mà việc điều chỉnh vốn chủ sở hữu và các
khoản nợ thờng tuỳ thuộc vào thực tế tình hình sản xuất - kinh doanh và các điều
kiện khác.
Nh vậy, có thể thấy vai trò quan trọng của tín dụng Ngân hàng đối với các
DN của Việt Nam trong điều kiện thị trờng tài chính cha phát triển và hoạt động
cha hiệu quả. Đối với các DNVVN NQD thì tín dụng Ngân hàng lại càng quan
4
trọng bởi trong các loại hình DNNQD thì: Công ty hợp danh và công ty t nhân
không đợc quyền phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào, Công ty cổ phần,
công ty TNHH có quyền phát hành trái phiếu song không phải DN nào cũng có
thể thu hút đợc công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu t phải đánh giá uy tín của
DN rồi mới quyết định có mua hay không; các DN vững mạnh và có uy tín trên thị
trờng thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để thu hút
vốn. Trên thực tế, điều kiện để phát hành trái phiếu cũng khá phức tạp, nhất là
trong điều kiện thị trờng tài chính hiện nay của Việt Nam, ngoài ra do đa số
DNVVN có thời gian hoạt động cha lâu nên cha tạo đợc uy tín trên thị trờng; để
có thể phát hành trái phiếu đối với các DN NQD, nhất là các DNVVN là một việc
rất khó khăn, chi phí lớn và mất thời gian; vì vậy, với yêu cầu về vốn phải nhanh
chóng, kịp thời thì tín dụng Ngân hàng là một giải pháp tốt.
Đồng thời, trong điều kiện mà thị trờng tài chính cha phát triển và hoạt
động cha hiệu quả thì nguồn vốn tự có của DN là tơng đối quan trọng trong việc

mở rộng sản xuất - kinh doanh; tuy nhiên, ở nớc ta nguồn vốn này còn rất hạn chế;
vì vậy mà khi cần vốn thì các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN NQD nói
riêng chủ yếu vẫn dựa vào nguồn vốn trên thị trờng tài chính phi chính thức
(nguồn lực vốn và tài sản tự thân, vốn góp của các thành viên, vay của ngời thân,
bạn bè hoặc đi vay nóng, vay trả góp với lãi suất cao...), với lợng vốn cấu vá
từ nhiều nguồn nhỏ lẻ khác nhau thì tính chất không ổn định là khá rõ ràng, ảnh h-
ởng rất lớn đến kế hoạch mở rộng sản xuất - kinh doanh của DN; nguồn vốn vay
từ Ngân hàng còn cha đợc tận dụng hiệu quả, các DNVVN tuy thiếu vốn để đầu t
sản xuất - kinh doanh song rất khó tiếp cận với các nguồn tài chính chính thức; tuy
vay Ngân hàng là phơng thức huy động vốn dài hạn mà các DN Việt Nam áp dụng
phổ biến nhất, song không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận đợc
với nguồn vốn này và khả năng vay cũng bị hạn chế so với quy mô hiện tại của
doanh nghiệp và nhu cầu của dự án, phơng thức sản xuất kinh doanh mà doanh
nghiệp theo đuổi.
Có thể nói: không có doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng nếu
doanh nghiệp đó muốn tồn tại và phát triển bền vững trên thị trờng.Tín dụng ngân
5
hàng có vai trò rất quan trọng đối với phát triển của các DNVVN, điều này đợc thể
hiện ở các đặc điểm sau:
- Nâng cao hiệu quả dụng vốn: khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, DN
phải tôn trọng các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng (HĐTD), bảo
đảm trả nợ một cách đầy đủ và đúng hạn, đồng thời phải tôn trọng các điều khoản
khác của hợp đồng cho dù DN sản xuất - kinh doanh hiệu quả hay không. Ngân
hàng chỉ cho vay khi đã thẩm định đầy đủ về t cách pháp lý của DN và các điều
kiện khác, tất cả phải chứng minh đợc rằng DN kinh doanh có hiệu quả, khả năng
tài chính lành mạnh và có khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Vì vậy, ngay từ khi
thành lập phơng án sản xuất - kinh doanh, DN đã phải cân nhắc "sản xuất - kinh
doanh cái gì, bằng cách nào, đầu vào và đầu ra nh thế nào, không chỉ quan
tâm tới việc thu hồi đủ vốn mà DN còn phải quan tâm đến việc sử dụng vốn nh thế
nào cho hiệu quả, để có thể tăng nhanh vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận

lớn hơn lãi suất đi vay Ngân hàng thì mới đảm bảo có lãi sau khi trả lãi cho Ngân
hàng. Trong quá trình cho vay, Ngân hàng cũng phải tiến hành kiểm soát trớc,
trong và sau khi DN thực hiện dự án để đảm bảo DN sử dụng vốn đúng mục đích,
đồng thời có thể phát hiện những yếu kém của dự án và qua đó có thể t vấn cho
DN về những biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hiệu
quả sản xuất - kinh doanh.
- Tín dụng Ngân hàng đảm bảo cho DN hoạt động liên tục: tín dụng Ngân
hàng giúp cho DN đầu t xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị, trang trải
chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình sản xuất - kinh doanh và phát triển DN.
Trong quá trình hội nhập, khi mà sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, DN muốn tồn
tại và phát triển thì phải thờng xuyên cải tiến kĩ thuật, đầu t mới công nghệ, thay
đổi mẫu mã, nghiên cứu tạo ra những sản phẩm mới; song trên thực tế, không có
DN nào có đủ 100% vốn đảm bảo nhu cầu phát triển sản xuất - kinh doanh; vì vậy,
để có thể mở rộng sản xuất - kinh doanh và phát triển thì DN chủ yếu vẫn phải dựa
vào tín dụng Ngân hàng.
1.1.3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng
1.1.3.1. Phân theo thời gian
6
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng, vì
thòi gian liên quan mật thiết tới tính an toàn và sinh lời cũng nh khả năng hoàn trả
của khách hàng.
Phân theo thời gian, tín dụng phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời gian dới 12 tháng, nhằm
tài trợ cho tài sản lu động, hoặc nhu cầu vốn ngắn hạn.
- Tín dụng trung hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5
năm, thờng dùng để tài trợ cho các tài sản cố định nh: phơng tiện vận tải, trang
thiết bị chóng hao mòn hay một số loại cây trồng vật nuôi...
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm, dùng để tài trợ cho các công
trình xây dựng nh: nhà cửa, cầu đờng... hay các loại máy móc, thiết bị có giá trị
lớn, có thời gian sử dụng lâu, khấu hao chậm.

1.1.3.2. Phân theo hình thức cấp tín dụng
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, điều 49 quy định: Tổ chức tín dụng đợc cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân
dới các hình thức cho vay, chiết khấu thơng phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo
lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nớc.
Theo hình thức tài trợ, tín dụng phân thành: cho vay, cho thuê, bảo lãnh,
chiết khấu thơng phiếu.
- Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng, là hình thức tín
dụng mà Ngân hàng đa tiền cho khách hàng và khách hàng cam kết hoàn trả gốc
và lãi trong khoảng thời gian nhất định. Cho vay gồm rất nhiều hình thức đa dạng,
nh: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay thấu chi, cho vay
luân chuyển...
+ Cho vay từng lần: là hình thức cho vay áp dụng đối với đối tợng là khách
hàng có nhu cầu vay vốn không thờng xuyên, hoặc không đủ điều kiện để đợc cấp
hạn mức tín dụng; mỗi lần vay vốn, khách hàng phải làm đơn, trình Ngân hàng ph-
ờng án sử dụng vốn; Ngân hàng và khách hàng thoả thuận về các điều khoản của
hợp đồng tín dụng và làm các thủ tục vay vốn cần thiết.
7
Số tiền vay vốn bằn tổng nguồn vốn của dự án trừ đi vốn chủ sở hữu hoặc vốn tự
có, vốn khác tham gia.
+ Cho vay theo dự án đầu t: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu t phát triển sản xuất - kinh doanh dịch vụ và phục vụ đời sống.
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định nhằm thực hiện
dự án nhất định thì khách hàng phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch
đầu t và quá trình thực hiện dự án; qua đó, Ngân hàng sẽ thẩm định để đa ra quyết
định cuối cùng.
STCV = Tổng nhu cầu vốn của dự án - VCSH và các nguồn vốn khác tham gia
+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên việc luân chuyển
hàng hoá của DN; DN thuế vốn khi muốn mua thì có thể vay Ngân hàng, khi DN

bán hàng thì Ngân hàng sẽ thu nợ. Cho vay luân chuyển thờng áp dụng đối với DN
thơng nghiệp hoặc DN sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn, có quan hệ vay - trả th-
ờng xuyên với Ngân hàng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: áp dụng đối với các khách hàng có nhu
cầu vốn thờng xuyên hoặc có đặc điểm sản xuất - kinh doanh không phù hợp với
phơng thức cho vay từng lần.
Hạn mức tín dụng đợc xác định căn cứ vào phơng án, kế hoạch sản xuất -
kinh doanh, nhu cầu vay vốn, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm bảo
tiền vay theo quy định của NHCT Việt Nam và khả năng nguồn vốn của Ngân
hàng để tính toán và thoả thuận với khách hàng một hạn mức tín dụng duy trì
trong một thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất - kinh doanh; trong suốt
thời gian duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng đợc quyền rút vốn phù hợp với tiến
độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế nhng phải đảm bảo không vợt quá hạn mức đã
ký; mỗi lần rút vốn, khách hàng phải trình bày phơng án sử dụng tiền vay, nộp các
chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá, dịch vụ và lập một giấy nhận nợ với Ngân
hàng.
Hạn mức tín dụng có thể cấp cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Trong kỳ khách hàng
có thể vay - trả nhiều lần song d nợ không đợc vợt quá hạn mức tín dụng, nếu quy
8
định hạn mức tín dụng cuối kỳ thì trong kỳ d nợ DN có thể vợt hạn mức tín dụng
nhng đến cuối kỳ thì DN phải trả nợ để d nợ nhỏ hơn hạn mức đã đợc cấp.
+ Cho vay thấu chi: Ngân hàng thoả thuận bằng văn bản với khách hàng,
qua đó Ngân hàng chấp thuận cho khách hàng chi vợt mức số tiền có trên tài
khoản thanh toán phù hợp với các quy định của Chính phủ và NHNN về hoạt động
thanh toán qua các tổ chức tín dụng cung ứng dịch vụ thanh toán.
- Cho thuê tài sản: là việc Ngân hàng bỏ tiền để mua tài sản và cho khách
hàng thuê với những thoả thuận nhất định, trong đó bao gồm việc khách hàng phải
hoàn trả gốc và lãi cho Ngân hàng. Cho thuê tài chính áp dụng trong trờng hợp
khách hàng không đủ (hoặc cha đủ) điều kiện để vay; để mở rộng tín dụng, Ngân
hàng mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê; tài sản cho

thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, Ngân hàng có thể thu hồi khi khách
hàng không trả đợc nợ.
- Bảo lãnh: là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay
khách hàng của mình, khi khách hàng không thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam
kết.
- Chiết khấu thơng phiếu: là việc Ngân hàng ứng trớc tiền cho khách hàng t-
ơng ứng với giá trị của thơng phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng khi sở hữu
thơng phiếu cha đến hạn.
1.1.3.3. Phân theo phơng thức tài trợ
- Cho vay kinh doanh: là các khoản cho các doanh nghiệp, các hộ kinh
doanh cá thể vay để phục vụ hoạt động sản xuất - kinh doanh nh: mua tài sản cố
định, mua nguyên vật liệu, mua hàng hoá...
- Cho vay tiêu dùng: là các khoản tín dụng mà Ngân hàng cấp cho khách
hàng là các cá nhân, hộ gia đình để mua nhà, mua các tài sản có giá trị...
- Cho vay khác
1.2. Những vấn đề cơ bản về DNVVN NQD
1.2.1. Các khái niệm và phân loại
1.2.1.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Khái niệm
9
Theo Nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 thì
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có số vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng và số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 ngời.
b. Các tiêu thức phân loại
Quy mô doanh nghiệp đợc xác định dựa trên các tiêu chí: nguồn vốn kinh
doanh, quy mô lao động, doanh thu thuần và giá trị nộp Ngân sách Nhà nớc.
- Lao động: là số lao động thực tế đợc sử dụng tính bình quân trong 3 năm
gần nhất.
- Giá trị nộp Ngân sách: lấy theo số thực nộp vào Ngân sách Nhà nớc theo

số phát sinh trong kỳ, bao gồm các loại thuế và các khoản nộp khác theo quy định
của Nhà nớc trong năm báo cáo (không tính các khoản thuế xuất nhập khẩu, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, các khoản tiền phát, phụ thu).
1.2.1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
a. Khái niệm
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đợc đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp là doanh nghiệp có tính
chất hữu (không kể doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài). Các loại hình DNNQD
chủ yếu là: Công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh và doanh nghiệp t
nhân.
b. Các loại hình DN NQD
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đợc quy định nh sau:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ
chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi
số vốn điều lệ của công ty.
10
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không đợc quyền phát hành cổ
phiếu.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có t cách pháp nhân kể từ
ngày đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó:
- Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lợng thành viên không vợt quá
năm mơi.
- Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của

công ty trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Phần vốn góp của thành viên chỉ đợc quyền chuyển nhợng theo quy định
của pháp luật.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn không đợc quyền phát hành cổ phiếu.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn có t cách pháp nhân kể từ ngày đợc cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty cổ phần
1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó:
- Vốn điều lệ đợc chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhợng cổ phần của mình cho ngời khác,
trừ một số trờng hợp do pháp luật quy định;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lợng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lợng tối đa.
2. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
3. Công ty cổ phần có t cách pháp nhân kể từ ngày đợc cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
Công ty hợp danh
1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
11
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau
kinh doanh dới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên
hợp danh còn có thể có thêm thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
2. Công ty hợp danh có t cách pháp nhân kể từ ngày đợc cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.

3. Công ty hợp danh không đợc phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào.
Doanh nghiệp t nhân
Doanh nghiệp t nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
* Nh vậy, trong tất cả các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì chỉ
có công ty cổ phần là có quyền phát hành cổ phiếu, còn lại tất cả các doanh nghiệp
khác đều không có quyền phát hành cổ phiếu. Mặt khác, công ty Cổ phần, công ty
TNHH, doanh nghiệp t nhân cũng có quyền phát hành trái phiếu song điều kiện để
các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng rất khó khăn bởi trên thực
tế, các doanh nghiệp này hầu hết đều có quy mô vừa và nhỏ, thời gian hoạt động
cha lâu và cha có uy tín trên thị trờng.
1.2.2. Đặc điểm của DNVVN NQD
DNVVN NQD là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và
nhỏ. Tại Việt Nam, đa số các DNNQD đều có quy mô vừa và nhỏ; vì vậy, đặc
điểm của DNVVN NQD cũng chính là đặc điểm của các DNVVN nói chung.
Thứ nhất, đặc điểm nổi bật của các DNVVN chính là quy mô vốn ban đầu
thấp, vốn ban đầu để thành lập doanh nghiệp là do các thành viên góp vốn, do vậy
có quy mô không lớn, hiện tiềm lực tài chính của khu vực này rất bé, số vốn chủ
sở hữu bình quân chỉ khoảng 1.800 triệu đồng. Các DNVVN luôn gặp khó khăn
do chính quy mô vừa và nhỏ của mình, chính đặc điểm này đã dẫn tới hệ quả là
hầu hết các DNVVN sử dụng trang thiết bị, công nghệ lạc hậu nên sản phẩm hàng
hoá - dịch vụ sản suất ra thờng có giá trị công nghệ thấp, hàm lợng chất xám ít,
12
không có tính ổn định và khả năng cạnh tranh không cao, không thích ứng đợc với
nhu cầu của thị trờng, nhất là thị trờng thế giới; hầu hết sản phẩm tạo ra không có
tính định hớng lâu dài trong kinh doanh và DN thờng xuyên thay đổi ngành nghề
và cơ cấu mặt hàng, các mặt hàng phong phú về chủng loại song số lợng không
lớn. Mặt khác, cũng chính vì phần lớn công nghệ mà các DNVVN sử dụng đã lạc
hậu hàng chục năm, thậm chí vài chục năm nên không thể nâng cao năng suất,
giảm giá thành sản phẩm và thờng gây ra ô nhiễm môi trờng, và đây cũng là

nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lợng, nguyên vật
liệu.
Các DN muốn mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ song do vốn chủ sở hữu
thấp, tín dụng Ngân hàng thì khó tiếp cận, không phải DN nào cũng có thể tiếp
cận đợc với tín dụng Ngân hàng; ngay cả khi có thể vay Ngân hàng thì nhiều khi
số vốn vay đợc và thời gian vay cũng cha thực sự phù hợp với thời hạn của dự án.
Trong một cuộc hội thảo về vai trò và thực trạng của các DNVVN, 2/3 số Giám
đốc của các DNVVN cho rằng: đôi khi các DNVVN cũng tiếp cận đợc với tín
dụng Ngân hàng song chỉ là ngắn hạn, tín dụng dài hạn để đầu t mua sắm máy
móc thiết bị, nhà xởng là rất khó, có tới 80% số các khoản tín dụng là ngắn hạn;
điều này chủ yếu là do để đầu t cho máy móc, trang thiết bị thì cần nguồn vốn dài
hạn trong khi nguồn vốn của Ngân hàng chủ yếu là không kỳ hạn và ngắn hạn nên
thờng không đáp ứng đợc nhu cầu của các DN.
Thứ hai, các DNVVN tuy hoạt động linh hoạt nhng kém hiệu quả. Cơ sở
sản xuất của đại đa số DNVVN thờng phân tán, quy mô nhỏ lẻ, manh mún, thờng
sử dụng đất đai, nhà ở của gia đình trong khu dân c làm mặt bằng sản xuất - kinh
doanh. Hiện nay, đa số các DNVVN làm ăn có hiệu quả muốn mở rộng sản xuất -
kinh doanh đều nằm trong tình trạng thiếu đất làm mặt bằng; việc xin cấp đất của
các DNVVN bị cản trở bởi hồ sơ, thủ tục vẫn còn khá phức tạp. Trớc sức ép của
thời buổi tấc đất, tấc vàng, có chủ DN đã phải thốt lên: Nghĩ đến việc xin cấp
đất, thuê đất tôi nh nhìn thấy trên con đờng có những tấm rào không thể vợt qua.
Mặt khác, với đặc điểm sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, đó vừa là lợi thế song cũng tạo
nên những khó khăn cho các DNVVN. Lợi thế của việc sản xuất phân tán, quy mô
nhỏ là có thể hoạt động đợc ở những vùng dân c sống phân tán, len lỏi vào những
13
khu vực thị trờng ngách mà các DN lớn bỏ qua, lĩnh vực hoạt động đa dạng,
phong phú, cũng chính vì vậy mà có thể dễ dàng thay đổi ngành nghề, lĩnh vực
hoạt động để chuyển sang các ngành nghề, lĩnh vực khác có lợi hơn khi thị trờng
có những biến động, chi phí rút lui khỏi thị trờng thấp, dễ chuyển địa điểm kinh
doanh hơn các DN lớn; tuy nhiên cũng chính vì điều này làm cho DN khó đơng

đầu với những biến động bất ngờ của thị trờng, nếu không thực sự cố gắng thì sẽ bị
thị trờng đào thải. Các DNVVN thờng không có chiến lợc kinh doanh dài hạn mà
chỉ làm ăn chạy theo phong trào, khi thấy có cơ hội thì tận dụng tối đa, triệt để
nhất mọi nguồn lực để thu đợc lợi nhuân trớc mắt mà không tính đến lâu dài.
Thứ ba, các DNVVN cũng thờng phải chịu thiệt thòi, phải gánh chịu những
thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng không chỉ ở thị trờng trong nớc
mà còn trên thị trờng thế giới. Phần lớn các DNNQD hiện nay hoạt động trong
tình trạng thiếu cập nhật thông tin về các cơ chế chính sách mới ban hành cũng
nh thông tin về các thị trờng đầu vào nh: thị trờng vốn, thị trờng nguyên vật liệu,
thị trờng công nghệ, thiết bị kỹ thuật..; thiếu thông tin về thị trờng tiêu thụ sản
phẩm, đặc biệt là thị trờng xuất khẩu và cha tiếp cận đợc với công nghệ thông tin
trong quản lý DN. Trong điều kiện hiện nay, khi chúng ta đang trên đờng hội nhập
với thế giới, Việt Nam đang rất tích cực đàm phán để gia nhập WTO trong năm
nay thì các DNVVN càng cần phải nâng cao trình độ tiếp cận thông tin, nhất là
thông tin về các quy định của pháp luật ở trong và ngoài nớc, bởi gia nhập WTO
cũng có nghĩa là cạnh tranh sẽ không ngừng tăng lên, các tranh chấp thơng mại
trên thị trờng sẽ xảy ra ngày càng nhiều hơn và khốc liệt hơn. Khi Việt Nam gia
nhập WTO, các DNVVN chính là lực lợng tiên phong, đợc hởng lợi và cũng là lực
lợng chịu sự cạnh tranh khốc liệt nhất; tuy nhiên, cho đến thời điểm này, khi mà
Việt Nam đã đứng trớc ngỡng cửa của WTO thì các DN thuộc khu vực này vẫn ch-
a có sự chuẩn bị tích cực.
Theo ông Lý Đình Sơn - Phó chủ tịch hiệp hội DNVVN của Việt Nam -
khi các DN có quan hệ làm ăn chặt chẽ với các đối tác nớc ngoài thì cũng là lúc
các vụ kiện thơng mại tăng lên; trong đó các vụ kiện bán phá giá giày dép, cá tra,
cá basa, hay mới đây là vụ Liên minh Châu Âu kiện các DN Việt Nam bán phá giá
xe đạp và các vụ kiện do giao hàng chậm...mà các DN Việt Nam gặp phải trong
14
thời gian qua là những ví dụ điển hình. Trong bối cảnh nh vậy, ngoài việc tự tăng
cờng kiến thức hội nhập, kiến thức về luật pháp quốc tế, các DNVVN Việt Nam
cũng nên hợp tác với nhau. Có một sự thật là các DN Việt Nam có chung lợi ích

rất ngại hợp tác với nhau, mà lại thờng cạnh tranh làm cho vấn đề càng trở nên
phức tạp, trong khi phía đối tác nớc ngoài thì hoàn toàn ngợc lại.
Do quy mô nhỏ nên mô hình tổ chức của các DNVVN rất gọn nhẹ, số lợng
lao động không nhiều, không có quá nhiều các khâu trung gian nên hoạt động
năng động, dễ thích nghi với những thay đổi của thị trờng, dễ dàng chuyển đổi;
các quyết định, chỉ đạo nhanh chóng đến với ngời lao động, giảm độ trễ do các
khâu trung gian tạo ra, công tác kiểm tra, giám sát cũng nhanh chóng và hiệu quả
hơn; điều này làm giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động của DN đồng thời. Tuy
nhiên, cũng chính vì quy mô nhỏ nên nhiều DN cha quan tâm đến việc xây dựng
nội quy lao động để đa ngời lao động vào một khuôn khổ, quy củ nhất định; có
DN xây dựng nhng chỉ để lấy lệ, cha kiểm tra chặt chẽ. Việc thực hiện các nội quy
này việc xây dựng nội quy trong mỗi DN là rất quan trọng vì điều này không chỉ
giúp tăng kỷ luật lao động mà còn giúp ngời lao động hiểu đợc nhiệm vụ của mình
và cũng qua đó để DN xác định mức độ hoàn thành công việc của ngời lao động;
vì vậy, các DN cần quan tâm hơn nữa đến việc này.
Thứ t, các doanh nhân, các nhà quản lý DN cha đợc đào tạo bài bản về
chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu hiểu biết đầy đủ về quản trị doanh nghiệp hiện đại
trong điều kiện hội nhập kinh tế nên trình độ quản lý cha cao; các DN chủ yếu do
chủ DN đứng ra làm giám đốc, hầu nh cha có DN nào thuê giám đốc, và các chủ
DN quản lý DN chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Văn hoá lãnh đạo quản lý là nhân
tố then chốt, trực tiếp quyết định khả năng phát triển kinh tế - xã hội. Trong lịch sử
cũng nh hiện nay, sự thịnh - suy của một quốc gia hay một DN... suy cho cùng bao
giờ cũng có nguồn gốc trực tiếp từ sự quản lý của nhà lãnh đạo. Yếu tố con ngời,
nhất là những ngời giữ vai trò lãnh đạo có ý nghĩa rất quan trọng; các nớc nh: Hàn
Quốc, Đài Loan, Trung Quốc... đã học tập ngời Nhật và đã thành công khi đặc biệt
chú ý đến vấn đề đào tạo đội ngũ quản lý DN; đây cũng là bài học quý báu mà
chúng ta cần học tập ở họ. Trong thời gian tới, cần tập trung vào việc tăng cờng
công tác đào tạo về pháp luật kinh doanh, thơng mại quốc tế cho đội ngũ lãnh đạo
15
các DNVVN; trang bị cho họ những kiến thức bài bản để họ có thể đơng đầu với

những thách thức ngày càng gay gắt hiện nay.
Thứ năm, tay nghề của lực lợng lao động trong các DNVVN của chúng ta
hiện nay đợc đánh giá là thấp so với nhu cầu. Theo ông Nguyễn Hữu Dũng - Viện
trởng Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội - tuy Việt Nam là một nớc có
nguồn lao động dồi dào, trẻ và rẻ; lao động Việt Nam có truyền thống cần cù, sáng
tạo và t chất thông minh, song đa số lao động Việt Nam không có trình độ chuyên
môn kỹ thuật (đến năm 2010 mới phấn đấu có 25% lao động qua đào tạo, trong đó
có 15,5% đợc đào tạo nghề trong khi đó ở các nớc tỷ lệ này là 50%), lao động
trình độ cao thiếu trầm trọng do giáo dục đào tạo cha phù hợp với nhu cầu của nền
kinh tế, năng suất lao động trung bình thấp, thể lực và sức bền của ngời Việt Nam
còn yếu, ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động công nghiệp cha cao. Lực
lợng lao động của Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng thừa thày, thiếu thợ,
hiện tợng thiếu lao động lành nghề, lao động có trình độ cao ở một số khu công
nghiệp đã dẫn tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh để tranh giành lao động
có chất lợng giữa các DN. Mặt khác, do ngời lao động cha hiểu biết nhiều về kỷ
luật lao động nên trong thời gian vừa qua đã liên tục xảy ra một số vụ đình công
bất hợp pháp, tự phát của công nhân một số nhà máy ở Hải Phòng, thành phố Hồ
Chí Minh...không chỉ gây thiệt hại cho DN mà còn gây bất ổn cho xã hội.
Ngoài những đặc điểm của DNVVN, DNVVN NQD còn có những đặc
điểm của các DNNQD. Để tìm hiểu về đặc điểm của các DN Việt Nam nói chung
và DNNQD nói riêng, chúng ta sẽ tìm hiểu thông qua bảng sau:
Bảng mô tả sơ lợc về các loại hình DN tại VN năm 2003 (bảng 1)
16
Loại
hình DN
Tổng số
doanh
nghiệp
Tỷ
trọng

số DN
(%)
Lao động
Số lao
động
(nghìn
ngời)
Số lao
động
TB
Nguồn
vốn kinh
doanh
(nghìn tỷ
đồng)
Nguồn
vốn
bình
quân
(tỷ
đồng)
Thu
nhập
bình
quân
(nghìn
đồng)
1. Doanh
nghiệp
quốc

doanh
4.845 6,70 2.260 466 1.003 207 1.495
2. Doanh
nghiệp
ngoài
quốc
doanh
64.808 89,65 2.050 31,8 337 5,2 1.046
3. Doanh
nghiệp
có vốn
đầu t nớc
ngoài
2.641 3,65 86 325,6 369 139,7 1.774
Tổng
cộng
72.294 100 5.700 71,8 1.709 1.367
Qua bảng trên có thể thấy:
- Tổng số DNNQD rất lớn, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số DN và có xu h-
ớng ngày càng tăng mạnh. Nếu nh năm 2003 chúng ta mới chỉ có hơn 64 nghìn
DNNQD thì đến năm 2005, tổng số DNNQD đã tăng lên 200 nghìn. Trong khi
tổng số DN tăng nhanh trong những năm qua thì cơ cầu có sự chuyển dịch mạh
mẽ: số lợng DN tăng mạnh ở khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu t
17
nớc ngoài còn khu vực DNNN lại giảm mạnh do tổ chức sắp xếp lại, cho thuê, cổ
phần hoá...
- Tổng số lao động mà khu vực ngoài quốc doanh thu hút đợc đang ngày
càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn. Mặc dù số DNNQD rất lớn song số lao động
trung bình/ một DN vẫn khá cao, đạt 31,8 lao động/ một DN; tỷ lệ này đã luôn
tăng qua các năm.

- Nguồn vốn kinh doanh bình quân của kinh tế ngoài quốc doanh rất nhỏ,
chỉ đạt 5,2 tỷ đồng/ một DN, thấp hơn rất nhiều so với khu vực kinh tế Nhà nớc
(207 tỷ đồng) và khu vực kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài (139,7 tỷ đồng).
- Thu nhập bình quân của ngời lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh tuy thấp hơn so với khu vực kinh tế Nhà nớc và khu vực kinh tế có vốn đầu
t nớc ngoài song cũng tơng đối cao.
1.2.3. Vai trò của DNVVN NQD trong nền kinh tế thị trờng
Trong những năm qua, DNNQD luôn đóng vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế của đất nớc. Theo con số thống kê, hiện nớc ta có khoảng
200.000 DNNQD, với tổng số vốn lên đến hàng trăm tỷ đồng.
Sau 20 năm đổi mới, với cơ chế mới, Nhà nớc đã tạo điều kiện cho mọi
thành phần kinh tế cùng phát triển; đến nay, các DNNQD đã trở thành bộ phận
quan trọng tạo nên bớc phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nớc ta trong thời
gian qua. So với kinh tế Trung Ương thì đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ) trong Ngân sách địa phơng lớn hơn
rất nhiều; điển hình nh: Thành phố Hồ Chí Minh, kinh tế t nhân đóng góp trong
tổng thu Ngân sách địa phơng (năm 2004) khoảng 15%, Tiền Giang là 24%, Gia
Lai là 22%, Ninh Bình là 19%...
Trong bài viết nhận xét về sự đánh giá vai trò của khu vực kinh tế t nhân
trong Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng X, bà Phạm Chi Lan - chuyên gia cao cấp,
ban nghiên cứu của Thủ tớng Chính phủ - đã khẳng định: Trong 5 năm qua, tuy
sức ép từ những chấn động bên ngoài rất lớn nhng nền kinh tế Việt Nam vẫn phát
triển chính là nhờ khu vực kinh tế t nhân; ngay cả khai thác khả năng xuất khẩu
trong thời gian qua cũng nhờ khu vực kinh tế t nhân nhiều hơn là khu vực kinh tế
Nhà nớc. Chẳng hạn, việc khai thác thị trờng Mỹ, các thị trờng xuất khẩu mới là
18
nhờ đóng góp ngày càng to lớn của khu vực kinh tế t nhân. Nếu không có sự đóng
góp của khu vực này, nhất là sau khi thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 1999 thì
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, giai đoạn 2001 - 2005 không thể có đợc
những bớc phát triển nh đã thấy. Có thể nói, tất cả những kết quả trọng yếu mà

chúng ta đạt đợc trong thời gian qua đều có sự đóng góp to lớn của khu vực kinh tế
t nhân.
Nh đã phân tích, đã có nhiều quốc gia trên thế giới nhận thức đợc vai trò,
tầm quan trọng và những đóng góp to lớn của DNVVN trong quá trình phát triển
kinh tế của mình, trong đó không thể không kể tới các quốc gia phát triển nh: Mỹ,
Anh, Pháp, hay các quốc gia công nghiệp mới nh Hàn Quốc, Singapore... Tại các
nớc này, tuy hệ thống siêu thị rất phát triển song cũng không thể thay thế hoàn
toàn các doanh nghiệp bán lẻ, nhất là việc cung cấp hàng hoá tại các địa bàn phân
tán, nơi không tập trung đông dân c và đối với các sản phẩm mang tính chất tiêu
dùng, nhỏ lẻ (năm 1994, các DNVVN ở Nhật đã tạo ra trên 55% GDP; ngay cả ở
Mỹ - một đất nớc mà ở đó có những cái tên nh: Microsoft, IBM hay Ford nổi tiếng
toàn cầu, thì các DNVVN vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, thể hiện ở một
con số không nhỏ - 40% GDP của Mỹ là nhờ sự đóng góp của các DN thuộc khu
vực này, những DN lớn nh Boeing hay Microsoft cũng không thể hoạt động riêng
lẻ mà không có sự hợp tác với các DNVVN). Các nớc trên thế giới (nhất là các nớc
đang phát triển) đều tích cực hỗ trợ DNVVN bởi:
- Muốn phát triển bền vững phải dựa vào nội lực hơn là trông chờ vào các
nhà đầu t từ bên ngoài.
- Phát triển DNVVN là cách tốt nhất để giảm tỷ lệ thất nghiệp và các tệ nạn
xã hội.
- Phát triển kinh tế DNVVN là biện pháp hiệu quả góp phần giảm bớt cách
biệt về kinh tế giữa thành thị và nông thôn.
Xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, sự tăng trởng kinh tế của Việt
Nam hiện nay gắn liền với sự đi lên của các DNVVN, một lực lợng kinh tế khá
quan trọng và chiếm tỷ trọng rất lớn trong các loại hình doanh nghiệp. Các
DNVVN là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất và luân chuyển
hàng hoá - tiền tệ với đặc thù nhỏ gọn, linh hoạt, dễ dàng đáp ứng nhu cầu đa dạng
19
của ngời tiêu dùng; nhanh chóng nắm bắt xu hớng và thị hiếu tiêu dùng, họ đã tạo
ra nhiều sản phẩm mới giúp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Theo thời báo Ngân hàng, DNVVN hiện nay chiếm 96% tổng số doanh
nghiệp đang hoạt động, đóng góp 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lợng công
nghiệp, thu hút 26% lực lợng lao động trong cả nớc.
Các DNNQD, mà chủ yếu là các DNVVN trong những năm qua đã có
những đóng góp to lớn cho đất nớc, vai trò của các DNVVN không chỉ thể hiện ở
giá trị kinh tế mà các DN này đóng góp mà còn thể hiện ở việc tạo công ăn, việc
làm, xoá đói, giảm nghèo và giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng trong cả nớc.
- Tạo ra khối lợng hàng hoá - dịch vụ lớn, phong phú về chủng loại và có
chất lợng tốt hơn, góp phần thay thế hàng nhập khẩu và tạo ra lợng hàng hoá - dịch
vụ lớn để xuất khẩu, đồng thời cải thiện và nâng cao mức tiêu dùng trong nớc; đó
cũng là những yếu tố giúp giữ vững ổn định và phát triển của nền kinh tế.
- Vai trò tạo công ăn, việc làm: việc làm là một vấn đề cấp bách của Việt
Nam hiện nay; tốc độ tăng dân số hàng năm của Việt Nam mặc dù đã giảm song
so với khu vực và thế giới vẫn cao, hàng năm có khoảng 1 triệu ngời đến tuổi lao
động và tỷ lệ thất nghiệp là 6%/năm. theo dự báo, từ nay cho đến năm 2010, mặc
dù dân số đã tăng chậm nhng do nguồn lao động vẫn tăng nhanh nên đã tạo ra sức
ép rất lớn cho vấn đề giải quyết việc làm. Thực tế cho thấy, toàn bộ DNNN thời
gian qua hàng năm chỉ thu hút đợc khoảng 1,6 triệu lao động trong khi số liệu
hàng năm cho thấy, DNVVN cũng tạo ra khoảng 50-80% việc làm trong khu vực
công nghiệp - dịch vụ; đặc biệt trong giai đoạn sắp xếp lại các DNNN, lợng công
nhân bị sa thải rất lớn thì chính các DNVVN lại là nơi tái tạo lại công việc cho họ
bởi việc đầu t cho một chỗ làm việc ở một DNVVN thấp bằng 3-10% so với các
DN lớn. Mặt khác, đây cũng chính là khu vực thu hút số lợng lớn lao động là các
sinh viên mới ra trờng và giải quyết một trong những vấn đề bức xúc của nớc ta,
đồng thời góp phần tăng thu nhập cho ngời lao động, đóng góp cho tăng trởng
kinh tế và ổn định xã hội. Sự phát triển của các DNVVN còn giúp tác động tới cơ
cấu lao động, tạo sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hớng tích cực.
- Khai thác và tận dụng các nguồn lực xã hội: các DNVVN thu hút lợng lớn
nguồn vốn trong dân do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán, do yêu cầu vốn yêu cầu ban
20

đầu không nhiều nên có thể tận dụng vốn của bản thân, bạn bè, gia đình...Mặt
khác, các DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút nhiều lao động cha có việc làm, lao
động tạm thời nhàn rỗi theo thời vụ vào sản xuất - kinh doanh, rút dần lao động
nông nghiệp sang khu vực công nghiệp - dịch vụ nhng vẫn sống ở quê hơng mà
không di chuyển theo phơng châm: li nông bất li hơng. Một điều hết sức quan
trọng nữa là: các DNVVN cũng là yếu tố chủ đạo giúp phát huy nghề truyền
thống, làm thay đổi bộ mặt làng quê; trong các làng nghề truyền thống đã hình
thành nhiều DNVVN NQD nhằm tìm kiếm thị trờng tiêu thụ sản phẩm, tổ chức
sản xuất quy mô, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của làng nghề.
- Các DNVVN thờng chọn kĩ thuật phù hợp với kĩ thuật thủ công để nhanh
chóng tiếp thu và làm chủ, ít sử dụng công nghệ tiên tiến đòi hỏi vốn lớn vì vậy
tận dụng kĩ thuật trong nớc và thúc đẩy công nghệ, cải tiến kĩ thuật.
Nh vậy có thể nói đây là một bộ phận sử dụng rất có hiệu quả và tiết kiệm
nguồn lực sẵn có của đất nớc để sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, giảm chi
ngoại tệ, đồng thời tạo ra hàng hoá xuất khẩu và thu ngoại tệ về cho đất nớc, góp
phần bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống.
- Một trong những kết quả nữa khá quan trọng đã đạt đợc trong việc thúc
đẩy phát triển DNVVN là chúng ta đã tạo đợc mối liên kết giữa các DNVVN với
các DN lớn, các Tổng công ty của Nhà nớc, các Tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia
của nớc ngoài đang hoạt động tại nớc ta. Tuy mối quan hệ này mới chỉ đợc xác lập
bớc đầu trong các khâu nh: cung ứng nguyên vật liệu, hợp đồng phụ,...(theo
nghiên cứu của Phòng Thơng Mại và Công nghiệp Việt Nam thì rất ít khu công
nghiệp, cụm công nghiệp đạt đợc tính liên kết cao giữa các DN trên địa bàn), nhng
đã tạo ra mạng lới vệ tinh phân phối. Mối quan hệ này đã có những tác động tích
cực qua lại, các DN lớn đảm bảo cho các DNVVN về tài chính, công nghệ, thị tr-
ờng, về tiêu chuẩn kĩ thuật và về kinh nghiệm quản lý; ngợc lại, các DNVVN lại
đảm bảo cho các DN lớn về công nghiệp bổ trợ, mạng lới tiêu thụ sản phẩm rộng
khắp trên cả nớc; chi phí sản xuất - kinh doanh của các DN lớn có thể giảm đáng
kể nếu nh họ sử dụng hiệu quả và linh hoạt các DNVVN làm các DN vệ tinh. Sự
liên kết này rõ ràng có lợi cho cả hai bên và đặc biệt là làm lợi cho nền kinh tế của

đất nớc. Tổng giám đốc của một công ty sản xuất ô tô, xe máy lớn của Việt Nam
21
đã khẳng định công ty của ông sống đợc là nhờ 83 DNVVN. Ông Phan Văn
Tuất- Viện trởng Viện chính sách Công nghiệp nhận xét: DNVVN không đơn
thuần chỉ là đóng góp hay góp phần vào sự phát triển của Việt Nam nói chung mà
chính là trụ cột phát triển của các ngành phụ trợ.
Với những đóng góp đáng kể vào sự phát triển vợt bậc của nền kinh tế trong
những năm qua, các DNVVN NQD đã đợc quan tâm hơn và nhìn nhận bình đẳng
hơn; Đảng, Nhà nớc đã đánh giá đúng đắn tiềm năng, vai trò và tầm quan trọng
của các DNVVN nói chung và DNVVN NQD nói riêng; vì vậy, gần đây đã có
nhiều chính sách nhằm khuyến khích và kích thích sự phát triển của các DNVVN
NQD nh: Nghị định 90/2001/NĐ-CP (ngày 23/11/2001) về việc trợ giúp phát triển
DNVVN, Quyết định 12/2003/QĐ-TTg (ngày 17/01/3002) về hội đồng khuyến
khích phát triển DNVVN, ngành Ngân hàng cũng đã đề ra nhiều chính sách thích
hợp cho việc tài trợ cho DNVVN. Thống đốc NHNN Việt Nam - ông Lê Đức
Thuý đã phát biểu: Chúng ta đã sống một thời kỳ dài trong cơ chế DNNN đợc u
đãi hơn DNNQD; để xoá bỏ bất bình đẳng, về phía NH cần phải tạo ra một cơ chế
cạnh tranh thực sự; NH muốn tồn tại thì phải tìm cách đa vốn đến những DN cần
vốn và sử dụng vốn có hiệu quả chứ không phải bằng cơ chế đặc quyền, bao cấp
đằng sau, NH tìm đến DN vì DN làm ăn hiệu quả chứ không phải vì nó thuộc
thành phần nào cả.
Với điều kiện thuận lợi và những cơ chế ngày càng thông thoáng nh hiện
nay, các DNVVN đã, đang và sẽ liên tục phát triển, ngày càng khẳng định vị thế
của mình trong nền kinh tế quốc dân.
1.2.4. Xu hớng phát triển của các DN NQD
Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trớc, Đảng và Nhà nớc ta đã nhận thấy
tiềm năng to lớn của các DNVVN, đặc biệt là DNNQD nên đã có những sự quan
tâm đến khu vực này; điều này đợc thể hiện ở việc năm 1999, Thủ tớng Chính phủ
đã ra quyết định số 133/1999/QĐ-TTg (51/5/1999) "Về việc thành lập tổ nghiên
cứu cơ chế chính sách phát triển DNVVN"; tổ này có nhiệm vụ nghiên cứu và đề

xuất với Thủ tớng Chính phủ về cơ chế, chính sách, biện pháp tổ chức thực hiện để
phát triển DNVVN. Đến nay, sau 5 năm, giai đoạn 2000-2005, các DNVVN đã
22
thể hiện vai trò tích cực của mình và đã những đóng góp to lớn vào sự phát triển
của đất nớc.
Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã xác định: Thực
hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cầu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa, bình đăng trớc pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế Nhà nớc giữ
vai trò chủ đạo, là lực lợng vật chất quan trọng để Nhà nớc định hớng và điều tiết
nền kinh tế, tạo môi trờng và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát
triển. Kinh tế Nhà nớc cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế cổ phần ngày càng phát triển, ngày càng
trở thành tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất và sở hữu, đặc biệt
là xã hội hoá vốn của các nhà đầu t. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các
loại hình kinh tế t nhân đầu t phát triển theo quy định của pháp luật, không hạn
chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn. Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử
theo hình thức sở hữu, thực sự bình đẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN, đặc
biệt là các DNVVN, các hộ kinh doanh đợc tiếp cận với nguồn vốn tại các tổ chức
tín dụng của Nhà nớc, kể cả Quỹ hỗ trợ phát triển; đợc đáp ứng thuận lợi nhu cầu
sử sụng đất làm mặt bằng sản xuất - kinh doanh.
Nh vậy, có thể nói Đảng và Nhà nớc đã có sự nhìn nhận khách quan, đúng
đắn hơn về vai trò của DNVVN và DNNQD. Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại
hội X của Đảng đã đề ra mục tiêu là đến năm 2010 nớc ta sẽ có 500.000 DNVVN
làm ăn có hiệu quả. Thời gian qua, Chính phủ và các Bộ, ngành đã có nhiều chơng
trình hỗ trợ, trợ giúp cho DNVVN nh: Trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới
cơ chế tiền vay theo hớng mở rộng cho vay không có bảo đảm bằn tài sản, cho vay
có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay; các chơng trình xúc tiến thơng mại
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam; chơng trình hỗ trợ

thông tin; thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng...Tuy nhiên, trong quá trình triển khai
các chơng trình hỗ trợ còn nhiều bất cập; cụ thể là: Quyết định số 193/2001/QĐ -
TTg về việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN ban hành từ năm 2001
song cho đến nay mới chỉ có 3 tỉnh thành lập quỹ này là Trà Vinh, Yên Bái, Tây
23
Ninh. Các chơng trình hỗ trợ kỹ thuật, thông tin, xúc tiến thơng mại đã đợc triển
khai nhng số DNVVN tiếp nhận đợc sự hỗ trợ này không đáng kể. Nguyên nhân
của tình trạng này là do một số quy định đa ra không phù hợp với tình hình DN;
các chính sách và biện pháp hỗ trợ DN tại các địa phơng không đợc thực hiện
thống nhất, mang nặng tính tự phát, có sự không ăn khớp giữa mục tiêu đề ra và
quá trình triển khai ở các địa phơng; các thông tin về chính sách hỗ trợ của Nhà n-
ớc cũng nh của địa phơng cha đảm bảo tình công khai, minh bạch để các DN đều
biết, trong khi công tác kiểm tra tình hình thực hiện rất yếu nên việc hỗ trợ
DNVVN đạt hiệu quả thấp.
Chúng ta đang đứng trớc áp lực lớn và cha giải quyết thoả đáng bài toán
giữa nhu cầu vốn rất lớn, đặc biệt cho các dự án và các công trình trọng điểm cấp
bách chung của cả nớc với nhu cầu vốn của các DNVVN; nếu cho vay các công
trình trọng điểm nhiều thì vốn cho vay DNVVN sẽ ít đi. Quả thực, 500.000
doanh nghiệp với một miếng bánh nhỏ thì sẽ không thể phát triển đợc.
Mặt khác, tuy đã nhìn nhận tích cực hơn về vai trò, tầm quan trọng và
những đóng góp to lớn của DNVVN trong sự nghiệp phát triển đất nớc trong 20
năm đổi mới và đực biệt trong 5 năm gần đây; đồng thời đã có sự quan tâm hơn tới
các DNVVN song trong nhận thức vẫn đề cao vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nớc
và kinh tế tập thể. Phải nhìn nhận công bằng rằng, trong 5 năm qua, cha nói đến
quãng thời gian 20 năm đổi mới, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nớc đã
thể hiện nh thế nào, đã thực sự là lực lợng chủ yếu đem lại sự phát triển mạnh mẽ
cho giai đoạn vừa qua cha? Nếu nói về tỷ trọng vốn đầu t, tỷ trọng đóng góp vào
GDP... thì vẫn là khu vực này có tỷ trọng cao; tuy nhiên tỷ trọng cao đó không t-
ơng xứng với vai trò chủ đạo mà chúng ta mong muốn và nhất là tỷ trọng cao đó
đồng thời kém theo cái giá phải trả cao của cả nền kinh tế. Nếu nh đầu t của Nhà

nớc vẫn là lớn nhất và do các DNNN thực hiện thì không dễ tránh khỏi tình trạng
lãng phí, thất thoát, tham nhũng rất lớn nh thời gian vừa qua. (Theo lời bà Phạm
Chi Lan).
Vậy, chúng ta cần đặt khu vực kinh tế t nhân vào bản đồ doanh nghiệp Việt
Nam, cần đặt đúng tầm lịch sử và đặt đúng tầm vai trò của doanh nhân trong xã
hội; thực sự tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ doanh nhân phát triển.
24
Với sự nhìn nhận ngày càng tích cực của xã hội về tần lớp doanh nhân và
vai trò của các DNVVN thì trong tơng lai, các DNVVN nói chung và DNVVN
NQD nói riêng sẽ ngày càng có những đóng goóp nhiều hơn nữa cho sự phát triển
của nớc nhà.
Tuy nhiên, để có sự phát triển của các DNVVN thì cần phải có những biện
pháp tích cực hơn nữa. Theo Tiến sĩ Hoàng Hải thuộc trung tâm nghiên cứu kinh
tế quốc tế thì 6 giải pháp cơ bản cần phải thực thi để phát triển DNVVN của nớc ta
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đó là:
- Tiếp tục hoàn thiện nhanh hệ thống pháp luật cho phù hợp với quá trình
chuyển sang KTTT, bao gồm: xây dựng môi trờng kinh doanh bình đẳng, thông
thoáng cho tất cả các DN thuộc mọi thành phần kinh tế (tiếp cận thông tin, tiếp
cận vốn, thị trờng lao động, thị trờng công nghệ...); minh bạch hoá việc bảo hộ đối
với các ngành kinh tế trong nớc; cần mở rộng quyền tự chủ cho DN, nghiên cứu
xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp để DN có thể tái cơ cấu DN.
- Phát triển thị trờng lao động và có chính sách thích hợp đối với thi trờng
bất động sản, hình thành thị trờng chuyển nhợng quyền sử dụng đất thông thoáng
để dễ dàng chuyển nhợng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản.
- Phát triển hơn nữa để hoàn thiện thị trờng tài chính và Nhà nớc cần có
chính sách hỗ trợ cho DNVVN, nhất là DN mới thành lập, tuy nhiên chính sách hỗ
trợ nên tập trung vào những DN đợc xác định là cần thiết, mang lại hiệu quả cho
quốc kế dân sinh, tránh đầu t dàn trải.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN thực hiện quyền kinh doanh và
khuyến khích mở rộng thị trờng xuất khẩu, nên thực hiện phơng châm Nhà nớc

không can thiệp trực tiếp; các cấp, các ngành tạo điều kiện hơn nữa để DN tự do
đăng ký kinh doanh, tự do chuyển đổi ngành nghề mà pháp luật không cấm.
- Nâng cao hơn nữa vai trò của hiệp hội, tổ chức chuyên môn đối với việc
hỗ trợ cho sự phát triển của DNVVN, nhất là Hiệp hội DNVVN.
- Cuối cùng là vấn đề đào tạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh
nghiệp; cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là tăng cờng đào tạo
cơ bản cho sinh viên của các trờng cao đẳng, đại học không chỉ về chuyên môn,
25

×