Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng máy móc thiết bị thi công cơ giới ở công ty tây hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.4 KB, 62 trang )

PHẦN GIỚI THIỆU
Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão và xuất
phát từ yêu cầu thực tế của thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, vấn đề
bức xúc đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là phải đổi mới máy móc thiết bị công nghệ,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, không ngừng cải thiện vị thế và uy tín trong
cạnh tranh bằng chính thực lực của mình. Thật vậy, trong những năm qua, nhờ
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước
phát triển nhanh chóng và vững chắc. Trong khi đó cơ chế thị trường đã tao ra sự
phân cực giữa các doanh nghiệp và cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt. Để tồn
tại và phát triển các doanh nghiệp chỉ có một sự lựa chọn duy nhất là phải sản xuất
ra được những sản phẩm có chất lượng tốt, chi phí tối thiểu, hạ giá thành. Một trong
những những nhân tố quan trọng nhất và cũng là vấn đề khó khăn nhất đối với các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là yếu tố vốn cho cơ sở vật chất mà trong đó máy
móc thiết bị giữ vị trí quyết định. Thực trạng hiện nay, sự lạc hậu về máy móc thiết
bị luôn là điều đáng lo ngại nhất đối với các doanh nghiệp bởi lẽ, đây là nguyên
nhân quan trọng tác động trực tiếp đến chất lượng cũng như giá thành của sản
phẩm, đồng thời ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Điều
này càng đúng đối với các doanh nghiệp hoạt động tronh lĩnh vực xây lắp, khi mà
giờ đây chất lượng và giá thành của mỗi công trình phụ thuộc hoàn toàn vào năng
lực thực tế của các thiết bị thi công.
Công ty Tây Hồ là một doanh nghiệp xây dựng quân đội trực thuộc Bộ quốc
phòng mới bước vào thị trường xây lắp từ năm 1996 đến nay. Từ những ngày đầu
thành lập với hệ thống máy móc thiết bị của công ty còn yếu kém và chưa đông bộ
nhưng qua 10 năm hoạt động công ty đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư đổi mới
nâng cao năng lực thi công của mình. Với số vốn ban đầu còn hạn chế công ty
không thể ngay một lúc đầu tư mới toàn bộ cơ sở vật chất mà chỉ có thể dần dần đầu
tư từng bước, do vậy việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị luôn
được công ty coi trọng và xem xét một cách cụ thể.
Là một sinh viên được thực tập tại công ty, qua quá trình khảo sát và tìm
hiểu tôi thấy rằng điều quan tâm lớn nhất hiện nay của công ty Tây Hồ là tìm ra
được một giải pháp quản lý và sử dụng máy móc thiết bị thi công cơ giới có hiệu


quả để có thể đáp ứng được tốt nhất yêu cầu của hoạt động kinh doanh của công ty
trong thời gian tới, nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Chính điều này đã thôi
thúc tôi nghiên cứu và lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản
lý, sử dụng máy móc thiết bị thi công cơ giới ở công ty Tây Hồ". nhằm góp thêm
ý kiến của mình vào quá trình lựa chọn các giải pháp thích hợp trong việc quản lý,
sử dụng máy móc thiết bị của công ty.
Nội dung của chuyên đề nghiên cứu gồm 3 chương.
Chương 1: Quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị là nội
dụng quan trọng của công tác quản lý kỹ thuật trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị phục vụ
thi công xây lắp của công ty Tây Hồ.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng máy
móc thiết bị thi công cơ giới của công ty Tây Hồ.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thị
Hồng Thuỷ, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suất thời gian thực hiện chuyên
đề. Cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa và tập thể cán bộ phòng Kế hoạch tổng hợp
của công ty Tây Hồ đã giúp đỡ tôi có được những tài liệu nghiên cứu chi tiết và gợi
ý cho tôi cách giải quyết mỗi khi em gặp vướng mắc, tôi xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG I: QUẢN LÝ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG MÁY
MÓC THIẾT BỊ LÀ MỘT NỘI DUNG QUAN TRỌNG CỦA
CÔNG TÁC QUẢN LÝ KỸ THUẬT TRONG DOANH NGHIỆP
I. Máy móc thiết bị và công tác quản lý máy móc thiết bị trong doanh nghiệp:
1. Khái niệm về máy móc thiết bị:
Theo quan niệm chung thì thứ nhất máy móc là vật được chế tạo từ nhiều bộ
phận (thường là phức tạp) dùng để thực hiện chính xác một hoặc một loạt các công
việc chuyên môn nào đó. Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tuỳ theo
từng ngành nghề khác nhau mà tranh bị những máy móc thích hợp khác nhau. Thứ
hai, thiết bị là tổng thể những máy móc, dụng cụ, phụ tùng cho một hoạt động nào
đó. Thường người ta nói: thiết bị của doanh nghiệp, thiết bị của phòng thí nghiêm,
thiết bị phân xưởng, bộ phận sản xuất Bộ phận quan trọng nhất về máy móc thiết

bị của doanh nghiệp là thiết bị gia công. Thiết bị gia công gồm tất cả những máy
móc công cụ, dụng cụ, thiết bị phụ trợ và những thiết bị khác sử dụng trực tiếp cho
việc sản xuất, xử lý, kiểm tra và bao gói chi tiết gia công hay sản phẩm.
Theo quan niệm của triết học thì máy móc thiết bị là tư liệu lao động, là những
vật hay phức hợp những vật thể nối con người với đối tượng lao động và truyền dẫn
tích cực sự tác động của cong người vào đối tượng lao động, làm thay đổi hình thức
tự nhiện của đối tượng lao động để biến đổi những đối tượng lao động đó thành
những sản phẩm thoả mãn nhu cầu đa dạng của con người.
Xét dưới góc độ vốn, máy móc thiết bị là tài sản cố địng, là cơ sở vật chất kỹ
thuật của mỗi doanh nghiệp. Đó chính là hình thái vật chất của vốn cố định, một
loại vốn lớn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn dùng cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp. Thật vậy ta thấy rằng trước khi bắt đầu mỗi quá trình
sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nhất thiết phải có sự đầu tư vốn lớn chủ yếu là để
mua sắm máy móc thiết bị, lắp đặt dây chuyền công nghệ. Bên cạnh đó máy móc
thiết bị còn có tính chất đặc trưng là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và giá trị
của nó được chuyển dần vào giá trị sản phẩm. Do vậy mà vốn cố định thường có giá
trị rất lớn, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chu chuyển vốn và quyết định hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Xét dưới các góc độ khác, máy móc thiết bị chính là năng lực sản xuất dùng để
phát triển quy mô của doanh nghiệp. Riêng đối với các doanh nghiệp xây lắp thì
máy móc thiết bị còn là điều kiện để tham gia đấu thầu và thắng thầu các công trình.
Máy móc thiết bị quyết định doanh nghiệp sẽ tiến hành sản xuất những gì, số lượng
bao nhiêu và hiệu quả như thế nào. Trong quá trình sử dụng, giá trị của máy móc
thiết bị giảm dần nhưng hình thái vật chất của nó thì không thay đổi. Sự giảm dần
này là do hao mòn trong quá trình tham gia sản xuất của máy móc thiết bị, giá trị
giảm dần này được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm mà nó tạo ra. Khi đã
chuyển hết giá trị và sản phẩm thì cũng là lúc máy móc thiết bị cần được cải tiến và
thay thế.
Tóm lại, máy móc thiết bị là những tư liệu cơ bản, là hình thái vật chất của
vốn cố định dùng cho hoạt động sản xuất của vốn kinh doanh do vậy nó có một vai

trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất và tái sản xuất, trên cơ sở đó sẽ quyết
địng hiệu quả kinh doanh tổng hợp của mỗi doanh nghiệp.
2. Phân loại máy móc thiết bị:
2.1. Phân loại theo công dụng của máy móc thiết bị:
* Đối với doanh nghiệp nói chung:
- thiết bị vạn năng: là thiết bị được thiết kế có tình mềm dẻo lớn để có thể gia
công được nhiều sản phẩm, chi tiết khác nhau trên những thiết bị đó ( ví dụ như
máy phay, máy tiện, ). Những máy này có thể làm được nhiều chi tiết và sản
phẩm theo những quy trình kỹ thuật và công nghệ khác nhau bằng cách gắn thêm
những dụng cụ và thiết bị phụ trợ nhờ kỹ năng của người điều khiển máy.
- Thiết bị chuyên dùng được thiết kế và sử dụng để sản xuất một hay vài chi
tiết, sản phẩm đặc biệt và không có tính mềm dẻo như máy móc vạn năng. Các máy
móc loại này thường được trang bị hệ thống điều khiển tự động để giảm bớt nhu cầu
về thợ lành nghề, đồng thời han chế khả phạm vi sai số do con người gây ra.
Đối với các doanh nghiệp xây lắp:
- Nhóm 1: Thiết bị thi công.
+ Thiết bị thi công đa năng: các loại máy lu, xúc, ủi, máy trộn bê tông
+ Thiết bị thi công đặc chủng: Các thiết bị thi công cầu, hầm, thiết bị làm đá,
+ Thiết bị thi công mặt đường
- Nhóm 2: Xe vận tải, xe ben.
- Nhóm 3: Thiết bị thí nghiệm.
2.2. Phân loại theo kết cấu và cách lắp đặt.
- Dụng cụ cơ khí và thiết bị cố định: bao gồm tất cả những máy móc thiết bị
được đặt trên sản hay trên bàn thơ: máy phay, máy tiện
- Dụng cụ cơ khí và thiết bị di động: là những máy móc không được lắp đặt cố
định, có thể cầm lên để sử dụng: máy khoan, máy cưa, máy đầm
- Dụng cụ cầm tay.
- Các thiết bị dụng cụ phụ trợ: là những thiết bị đảm bảo cho thiết bị sản xuất
cơ bản có thể sản xuất sản phẩm, chi tiết sản phẩm.
Sơ đồ 01: Phân loại máy móc thiết bị.

PHÂN LOẠI THEO KẾT CẤU LẮP ĐẶT
DỤNG CỤ CƠ
KHÍ VÀ
THIẾT BỊ CỐ
ĐỊNH
PHÂN LOẠI THEO CÔNG DỤNG
DỤNG CỤ CƠ
KHÍ VÀ THIẾT
BỊ DI ĐỘNG
DỤNG CỤ
CẦM TAY
DỤNG CỤ
THIẾT BỊ PHỤ
TRỢ
THIẾT BỊ VẠN
NĂNG
THIẾT BỊ
CHUYÊN DỤNG
2.3. Phân loại máy móc thiết bị theo mức độ sử dụng:
Sơ đồ 02:
3. Vai trò, nội dung công tác quản lý máy móc thiết bị trong doanh nghiệp:
3.1. Vai trò:
Quá trình sản xuất kinh doanh là một quá trình tổng hợp bao gồm nhiều khâu
khác nhau bắt đầu từ việc xác định kế hoạch mặt hàng, tổ chức cung ứng nguyên vật
liệu, chế tạo sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm. Trong đó khâu chế tạo sản xuất sản
phẩm có vai trò quan trọng nhất vì tất cả các khâu khác trong cả quá trình đều tạo
điều kiện thuận lợi cho khâu chế tạo sản phẩm, thúc đẩy việc chế tạo sản phẩm đạt
chất lượng cao được thị trường chấp nhận và hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp có hiệu quả. Mặt khác quá trình chế tạo chính là quản lý người công
SỐ MÁY MÓC THIẾT

BỊ HIỆN CÓ
SỐ CHƯA CẦN
DÙNG, HƯ HỎNG
SỐ MÁY MÓC THIẾT
BỊ CẦN DÙNG
SỐ MMTB
CẦN DÙNG
THỰC TẾ
LÀM VIỆC
DỰ PHÒNG
SỬA CHỮA
LỚN THEO
KH
BẢO
DƯỠNG
THEO KH
CHỜ ĐẠI TU
NGỪNG
LÀM VIỆC
SỐ MMTB
CHƯA LẮP
CHƯA CẦN
DÙNG ĐÃ
LẮP
CHƯA CẦN
LẮP
CHỜ
THANH LÝ
CHƯA
ĐỦ

YẾU
TỐ CƠ
BẢN
ĐÃ
ĐỦ
YẾU
TỐ

BẢN
nhân vận hành máy móc thiết bị tác động lên các đối tượng lao động để sản xuất ra
sản phẩm. Đến lượt mình quá trình quản lý sẽ khẳng định những cố gắng của doanh
nghiệp trong việc nghiên cứu lập kế hoạch xác định khối lượng, chủng loại mặt
hàng sản xuất, chuẩn bị vật tư kỹ thuật, áp dụng các phương pháp công nghệ tiên
tiến và cách thức tổ chức sản xuất hợp lý. Do vậy suy cho cùng hoạt động chế tạo
sản xuất sản phẩm chỉ mang lại lợi ích thực sự, đạt chất lượng cao khi chúng ta làm
tốt công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị trong doanh nghiệp.
Quản lý tốt máy móc thiết bị ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hợp lý tiết
kiệm nguyên vật liệu và lao động cho doanh nghiệp. Cả ba quá trình này đều nhằm
giải quyết một vấn đề là sản xuất ra sản phẩm đạt chất lượng cao và đáp ứng được
nhu cầu của thị trường. Thật vậy quản lý tốt máy móc thiết bị là làm tốt công tác
quản lý con người trong quá trình vận hành máy móc thiết bị sap cho các thao tác
của họ được thực hiện một cách chính xác, nhanh chóng va khoa học trên cơ sở hiểu
biết và kinh nghiệm của từng người. chỉ khi máy móc thiết bị thiết bị vận hành tốt
thì nguyên vật liệu mới được sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. sự kết hợp
nhuần nhuyễn của ba quá trình trên sẽ tao ra được những sản phẩm có chất lượng
tốt và giảm những sản phẩm kém chất lượng.
Quản lý tốt máy móc thiết bị tức là tạo điều kiện cho việc ứng dụng những
thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất từ đó thúc đẩy việc tăng năng
suất lao động. Ngày nay khoa học công nghệ dang phát triển với tốc độ nhanh
chóng so vậy mà các doanh nghiệp cần phải thường xuyên nắm bắt và ứng dụng

tiến bộ khoa học, kỹ thuật hiện đại vào sản xuất, vì các sản phẩm có hàm lượng
khoa học và công nghệ cao sẽ thắng thế trong các cuộc cạnh tranh. Những biện
pháp khoa kỹ thuật trong sản xuất chủ yếu được áp dụng vào việc cải tiến hệ thống
máy móc thiết bị trong doanh nghiệp theo hướng có lợi. Do vậy chính quá trình
quản lý và sử dụng máy móc thiết bị sẽ thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực khoa học
công nghệ trong doanh nghiệp.
Quản lý máy móc thiết bị có hiệu quả chính là việc tăng cường cơ khí hoá
trong quản lý sản xuất chuyển từ lao động thủ công sang lao động cơ khí, giải
phóng sức lao động cho người công nhân, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao
phúc lợi vật chất và tinh thần cho người lao động, khuyến khích khả năng sáng tạo,
trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
Máy móc thiết bị là hình thái vật chất của vốn cố định do vậy quản lý máy
móc thiết bị là một nội dung của công tác quản lý vốn cố định trong doanh nghiệp,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm lao động
sống và lao động vật hoá, tăng thu nhập cho người lao động và tăng tích luỹ cho
doanh nghiệp. Do đó quản lý tốt máy móc thiết bị giúp doanh nghiệp có thể bảo
toàn và phát triển nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Quản lý và sử dụng tốt máy móc thiết bị là mục thiết thực nhất của mỗi doanh
nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đó chính là mục tiêu cơ
bản và lâu dài, quyết định sự sống còn của các doanh nghiệp. Hơn thế nữa trong nền
kinh tế thị trường khi mà cạnh tranh là phương thức duy nhất để tồn tại thì vấn đề
quản lý và sử dụng máy móc thiết bị lại càng có ý nghĩa hơn cả.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp xây lắp nói riêng thì vấn đề quản lý máy
móc thiết bị có hiệu quả còn có ý nghĩa giúp doanh nghiệp tham gia đấu thầu các
công trình quy mô lớn, giá trị cao với sự đòi hỏi khắt khe của chủ đầu tư. Bên cạnh
đó chính yếu tố này sẽ tạo nên năng lực thi công cho doanh nghiệp góp phần làm
nên sự thắng lợi trong công tác đấu thầu.
3.2. Nội dung công tác quản lý máy móc thiết bị trong doanh nghiệp.
3.2.1. Chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất.
- Chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất là tổng hợp các phương án, các biện pháp có

liên quan mật thiết với nhau để xác định được một cơ cấu máy móc thiết bị hợp lý,
cải tiến các phương an công nghệ đang sản xuất, áp dụng các phương an công nghệ
mới và tổ chức sản xuất tiên tiến mang lại hiệu quả kinh tế cao.
- Chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất có ảnh hưởng to lớn tới quá trình sản xuất,
thực hiện các mục tiêu kinh tế, kỹ thuật quan trọng như các chỉ tiêu sản lượng, chất
lượng, năng suất lao động, mức tiêu hao nguyên vật liệu
Từ thực tế đó, vấn đề đặt ra là cần phải có sự quản lý thống nhất để công tác
chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất được tiến hành một cách chu đáo, hạn chế đến mức
thấp nhất các tác động có hại của nó gây ra. Trong các doanh nghiệp, công tác
chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất được tiến hành theo trình tư sau:
* Thiết kế phương án công nghệ.
Trên cơ sở của việc xác định phương án sản phẩm các doanh nghiệp tiến hành
xây dựng phương án công nghệ chế tạo sản phẩm một cách tối ưu. Mục tiêu của
phần việc này là đưa ra được một công nghệ phù hợp với sự đòi hỏi của tiến bộ
khoa học kỹ thuật, đáp ứng được yêu cầu về chất lượng sản phẩm và đạt hiệu quả
cao.
* Xác định cơ cấu máy móc thiết bị hợp lý cần thiết.
Để làm tốt công việc này, các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải xác định rõ
yêu câu, chức năng, nhiệm vụ sản xuất của doanh nghiệp, quy trình chế tạo sản
phẩm và các phương án công nghệ chủ yếu trên cơ sở đó xác định được một danh
mục các loại máy móc thiết bị cần thiết có khả năng đáp ứng các yêu cầu của quá
trình sản xuất. việc xác định cơ cấu này đòi hỏi doanh nghiệp phải đứng trên quan
điểm tiết kiệm, hiệu quả sao cho số lượng máy móc thiết bị của doanh nghiệp được
huy động với mức công suất tối đa. Bên cạnh đó thì vấn đề đầu tư mua sắm máy
móc thiết bị cũng cần phải có sự quản lý chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả đầu tư là cao
nhất. Riêng đối với các doanh nghiệp xây lắp trước khi thic công một công trình thì
các nhà quản lý cũng cần phải nắm rõ được tính chất đặc trưng của công trình từ đó
lựa chọn các loại máy móc thiết bị cần thiết phục vụ thi công ca chuyển đến chân
công trình.
3.2.2. Xác lập quy phạm, quy trình kỹ thuật.

- Qui phạm kỹ thuật là những qui định của Nhà nước, Bộ, Tổng cục về các
nguyên tắc, mẫu mực và điều kiện kỹ thuật phải được tôn trọng khi tiến hành khảo
sát, thăm dò, thiết kế, thi công, thí nghiệm, vận hành, bảo dưỡng và sữa chữa máy
móc thiết bị.
- Qui trình kỹ thuật là những quy định của Bộ hoặc mỗi doanh nghiệp nhằm cụ
thể hoá các qui phạm kỹ thuật và xác định rõ ràng, cụ thể, trình tự về mặt kỹ thuật
của quá trình khai thác và chế biến sản phẩm.
Qui trình và quy trình phạm kỹ thuật được hình thành bởi các văn bản kỹ thuật
có tính chất pháp lý buộc các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và mọi người có
liên quan phải tuân thủ và chấp hành một cách nghiêm túc. Có thể nói đây là những
văn bản pháp qui của Nhà nước, Bộ và các doanh nghiệp nhằm đảm bảo tốt công
tác quản lý kỹ thuật trong các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, các doanh nghiệp có nhiệm vụ một mặt phải chấp hành nghiêm chỉnh
những qui trình và qui phạm kỹ thuật của cấp trên có liên quan đến các mắt hoạt
động của mình và các mặt khác phải hoàn thiện những quy trình kỹ thuật hiện có,
ban hành bổ sung những qui trình kỹ thuật còn thiếu. Theo qui định, các doanh
nghiệp không được phép ban hành các qui phạm kỹ thuật mà chỉ được ban hành các
quy trình kỹ thuật nhung nội dung của chúng không được trái hoặc mâu thuẫn với
qui phạm và qui trình của Nhà nước và cấp trên đã ban hành.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cần phải nắm
chắc và hiểu rõ các qui phạm và qui trình kỹ thuật của các cơ quan cấp trên, phải
thực hiện nghiêm túc các qui định đó để đảm bảo chất lượng và mức độ an toàn cao
nhất cho các công trình. Do vậy khi để cập đến nội dung công tác xác lập các qui
phạm và qui trình kỹ thuật vì đó chính là những chuẩn mực cơ bản để các doanh
nghiệp hướng tới. việc xác lập các qui trình kỹ thuật đối với doanh nghiệp là một
vấn đề quan trọng đồi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc qui định chung và tính chất
đặc thù trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
3.2.3. Công tác kiểm tra kỹ thuật trong doanh nghiệp.
- Kiểm tra kỹ thuật là việc dự kiến và phát triển kịp thời những sai sót, những
nguyên nhân gây ra phế phẩm hoặc làm giảm chất lượng sản phẩm trong suất quả

trình thực hiện các qui phạm, qui trình kỹ thuật. Trên cơ sở đó tiến hành phân tích
tìm ra những nguyên nhân chủ yếu và đề xuất những biện pháp hữu hiệu nhằm khắc
phục những sai sót, những nguyên nhân nêu trên đảm bảo chất lượng sản phẩm ổn
định, ngăn chặn việc đưa nửa thành phẩm, thành phẩm kém chất lượng vào tiếp tục
chế biến sử dụng hoặc đưa ra thị trường tiêu thu.
Để làm được điều này doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra tình hình
hoạt động của hệ thống máy móc thiết bị trong sản xuất, kịp thời phát hiện ra những
sự cố có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến năng lực sản xuất của máy móc thiết bị từ đó
tìm ra những biện pháp khắc phục hậu quả. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phải
kiểm tra sự chấp hành các qui phạm qui trình kỹ thuật, các tiêu chuẩn và cá phương
pháp thao tác của công nhân vận hành máy.
Thực tế hiện nay ở các doanh nghiệp thường áp dụng các hình thức kiểm tra
sau:
+ Kiểm tra toàn bộ hay một số máy móc thiết bị chủ yếu của doanh nghiệp.
+ Kiểm tra cố định hay kiểm tra lưu động: kiểm tra cố định thường áp dụng
với những loại máy móc có kích thước nhỏ và dễ di chuyển. Kiểm tra lưu động thì
ngược lại.
+ Kiểm tra bất thường hay định kỳ.
+ Áp dụng hình thức ba kiểm.( Công nhân tự kiểm tra, Đốc công và tổ trưởng
kiểm tra, cán bộ kỹ thuật kiểm tra)
Nhìn chung công tác kiểm tra máy móc thiết bị trong doanh nghiệp chỉ có hiệu
quả khi nó được tiến hành một cách tự giác, thường xuyên, liên tục và có trách
nhiệm của những người tham gia công tác kiểm tra.
3.2.4. Công tác bảo dưỡng và sửa chữa máy móc thiết bị.
Máy móc thiết bị chiếm vị trí cơ bản trong tổng năng lực sản xuất của doanh
nghiệp ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra,
đến yêu cầu của tổ chức quá trình sản xuất cân đối, nhịp nhàng và liên tục, bản thân
các loại máy móc thiết bị, nhất là những máy móc thiết bị hiện đại, tự động hoá cao,
một bộ phận chi tiết hỏng sẽ làm cho toàn bộ dây chuyền ngừng hoạt động hoặc
không đạt được hiệu quả cao nhất khi sử dụng. Bên cạnh đó do tính chất đặc thù của

máy móc thiết bị là phải tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất nên chúng bị hao
mòn dần theo thời gian. Do vậy bảo dưỡng và sửa chữa máy móc thiết bị là công
việc không thể thiếu trong quá trình quản lý sử dụng máy móc thiết bị. Để làm tốt
điều này thì trước tiên các doanh nghiệp cần làm tốt công tác quản lý hồ sơ, lý lịch
máy móc thiết bị, đảm bảo theo dõi một cách chính xác tình hình hoạt động thực tế
của từng loại máy móc thiết bị để có kế hoạch sửa chữa kịp thời. Việc này có thể do
công nhân vận hành máy trực tiếp ghi chép theo dõi hoặc cán bộ kỹ thuật ở các tổ,
đội thực hiện.
- Bảo dưỡng máy móc thiết bị là hoạt động mang tính thường xuyên, bao gồm
việc kiểm tra thay dầu mỡ, giữ gìn máy móc sạch sẽ, tránh ẩm, tôn trọng nội quy
bảo quản vận hành máy. Trong quá trình sử dụng phải thường xuyên theo dõi máy
móc thiết bị, phát hiện sự cố. Công việc này chủ yếu là do bản thân công nhân đứng
máy thực hiện.
- Sửa chữa máy móc thiết bị là tổng hợp các biện pháp tổ chức, kỹ thuật, phục
vụ bảo dưỡng, kiểm tra và sửa chữa. Những biện pháp đó được tiến hành theo kế
hoạch nhằm giảm hao mòn ngăn ngừa sự cố, đảm bảo hoạt động bình thường cảu
máy móc thiết bị. Có ba dạng sửa chữa cơ bản sau:
Sửa chữa nhỏ: (sửa chữa thường xuyên) đặc điểm của loại sửa chữa này là
không phải tháo rời máy ra khỏi hệ thống sản xuất mà trong quá trình sửa chữa chỉ
thay thế hoặc sửa chữa một số chi tiết bộ phận không cơ bản. Công việc này có thể
do công nhân bậc cao hoặc cán bộ kỹ thuật làm.
Sửa chữa vừa: Ngoài công việc sửa chữa nhỏ, tiến hành thay thế một số bộ
phận bị hao mòn, điều chỉnh lại độ chính xác. Công việc này do cán bộ kỹ thuật
làm.
Sửa chữa lớn: Khối lượng công việc sửa chữa nhiều, có thể phải tháo máy ra
khỏi bệ máy, vận chuyển đến nơi sửa chữa để khôi phục lại tính năng của máy.
Công việc này có thể do doanh nghiệp làm hoặc thuê ngoài.
Kết cấu của quá trình sửa chữa có thể được thực hiện như sau: sửa chữa lớn -
bảo dưỡng - kiểm tra - sửa chữa vừa - sửa chữa nhỏ.
Thực tế hiện nay các doanh nghiệp thường tiến hành sửa chữa máy móc thiết

bị theo ba hình thức cơ bản là:
+ Sửa chữa phân tán: Ưu điểm của hình thức này là kết hợp được sửa chữa với
sản xuất. Nhưng nhược điểm chính của nó là trong nhiều trường hợp không tận
dụng hết khả năng của công nhân sửa chữa, ngược lại trong nhiều trường hợp không
đảm bảo hết khối lượng sửa chữa, kéo dài thời gian ngừng máy để sửa chữa, ảnh
hướng hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị.
+ Sửa chữa tập trung: Ưu điểm của hình thức này là tận dụng được khả năng
của công nhân, nâng cao trình độ chuyên môn hoá sửa chữa, bảo đảm sửa chữa dứt
điểm trong một thời gian ngắn. Nhược điểm của nó là không kết hợp được sản xuất
với sửa chữa ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.
+ Sửa chữa hỗn hợp: Đây là hình thức tận dụng được Ưu điểm cũng như khắc
phục được những nhược điểm của hai hình thức trên nên được các doanh nghiệp áp
dụng tương đối phổ biến nhằm tăng cường hiệu quả huy động công suất máy móc
thiết bị vào sản xuất.
Đốí với các doanh nghiệp xây lắp với tính đặc thù của việc thường xuyên thay
đổi địa điểm sản xuất nên các doanh nghiệp này thường tiến hành sửa chữa máy
móc thiết bị theo hình thức phân tán hoặc hỗn hợp với hai loại sửa chữa cơ bản là
sửa chữa nhỏ và sửa chữa vừa.
Để có thể kế hoạch hoá và xây dựng được một kế hoạch sửa chữa thì công tác
quản lý sửa chữa máy móc thiết bị rất cần phải tính đến hiệu quả sửa chữa trên cơ
sở xác địng số công nhân cho sửa chữa và thời gian ngừng máy hợp lý.
3.3. Một số quan điểm đánh giá hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị
trong doanh nghiệp.
Với ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất ngày nay
công tác quản lý máy móc thiết bị đang là một vấn đề thu hút được nhiều sự quan
tâm nghiên cứu của các đơn vị, bởi lẽ thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh tồn
tại những lãng phí lớn trong sử dụng máy móc thiết bị. Máy móc thiết bị không sử
dụng hết công suất vẫn đang là tình trạng phổ biến trong các doanh nghiệp hiện nay
ở nước ta. Do vậy tăng cường quản lý sử dụng máy móc thiết bị là nhiệm vụ hàng
đầu của mỗi doanh nghiệp trong giai đoạn tới.

Quan điểm 1: Quản lý máy móc thiết bị theo đúng công dụng của chúng.
Mỗi loại máy móc thiết bị đều có những tinh năng, tác dụng và nhiệm vụ khác
nhau, có vai trò khác nhau trong quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm. Do vậy vấn đề
đặt ra là phải sử dụng máy móc thiết bị đúng với khả năng vốn có của nó thì chúng
mới có thể phát huy tác dụng và đạt năng suất cao nhất. Khi các thiết bị được bố trí
hợp lý theo thời gian và không gian thì chúng mới được sử dụng có hiệu quả, khai
thác được hết công suất và tránh được lãng phí trong quá trình sản xuất. Bên cạnh
đó đối với các doanh nghiệp tổ chức sản xuất theo phương pháp dây chuyền thì việc
bố trí máy móc thiết bị theo đúng trình tự, công dụng và năng lực sản xuất còn có ý
nghĩa quyết định buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ.
Quan điểm 2: Quản lý sử dụng máy móc thiết bị theo đúng định mức sử
dụng.
Định mức sử dụng qui định mức tham gia của máy móc thiết bị vào quá trình
sản xuất trong những giai đoạn nhất định. mức tham gia này được tính toán xem xét
sao cho đó là mức tối ưu nhất phù hợp với khả năng hiện tại của máy móc thiết bị.
Khi đó sự tham gia của máy móc thiết bị vào sản xuất một mặt vẫn phát huy hết
công suất sử dụng của chúng, mặt khác vẫn duy trì được thời gian sử dụng lâu dài,
hạn chế được những tổn thất do sử dụng vượt quá định mức gây ra. Do vậy việc
quản lý sử dụng máy móc thiết bị theo đúng định mức sử dụng không chỉ có ý nghĩa
sử dụng tối đa năng lực sản xuất hiện có của doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa duy
trì khả năng sử dụng lâu dài hệ thống máy móc thiết bị đó.
Quan điểm 3: Quản lý sử dụng máy móc thiết bị nhằm nâng cao chất lượng
sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là yếu tố sống còn, quyết định trực tiếp đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thời đại ngày nay khi mà cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật đang dần lên tới đỉnh cao của sự phảt triển, khi mà ngày càng
nhiều các thành tựu khoa học được áp dụng trực tiếp vào sản xuất bằng cách tạo ra
được các dây truyền công nghệ hiện đại thì vấn đề chất lượng sản phẩm càng có ý
nghĩa hơn cả. Để làm được điều này thì trước hết mỗi doanh nghiệp cần phải thực
hiện tốt công tác quản lý sử dụng máy móc thiết bị sao cho sản phẩm sản xuất ra đạt

chất lượng tốt, hạn chế được những sản phẩm hỏng, sản phẩm kém chất lượng đồng
thời rút ngắn đượcc thời gian sản xuất. Thật vậy quản lý sử dụng máy móc thiết bị
càng có hiều quả cao bao nhiêu thì tỷ trọng phế liệu phế phẩm so với tổng số sản
phẩm đạt chất lượng càng thấp bấy nhiêu và chất lượng cũng từ đó mà được cải
thiện.
Quan điểm 4: Quản lý sử dụng máy móc thiết bị phải nhằm giảm hao mòn vô
hình và hữư hình.
Quản lý sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả còn là việc quản lý và sử dụng
làm sao để giảm bớt hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình và kéo dài tuổi thọ của
máy móc thiết bị. trong quá trình quản lý và sử dụng do máy móc thiết bị phải tham
gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh cho nên nó bị hao mòn dần theo thời gian.
sự giảm dần về giá trị cũng như giá trị sử dụng của máy móc thiết bị xảy ra cả khi
hoạt động cũng như khi không hoạt động. Do vậy vấn đề đặt ra là phải quản lý sử
dụng làm sao để hao mòn của máy móc thiết bị là hợp lý, tránh những láng phí
không cần thiết. Nếu máy móc thiết bị tham gia sản xuất cùng với hai yếu tố nguyên
vật liệu và lao động để sản xuất ra những sản phẩm tuân thủ đúng những tiêu chuẩn
an toàn kỹ thuật và định mức sử dụng thì khi đó sự giảm về giá trị của chúng là
điều không thể tránh khỏi và hao mòn lúc đó là hợp lý. Nhưng ngược lại máy móc
thiết bị bị sử dụng sai chế độ, định mức và tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật thì hao mòn
lúc này là không hợp lý và gây ra lãng phĩ. Bên cạnh sự hao mòn hữu hình của máy
móc thiết bị thì trong quá trình quản lý cần phải chú ý đến sự hao mòn vô hình của
máy móc thiết bị do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật gây ra. Do vậy trong quá trình
quản lý các nhà quản trị luôn phải cập nhật được những thông tin khoa học để kịp
thời có các biện pháp xử lý hợp lý.
Quan điểm5: Quản lý sử dụng máy móc thiết bị theo đúng chế độ bảo dưỡng
sửa chữa.
Quản lý máy móc thiết bị theo đúng chế độ bảo dưỡng sửa chữa đòi hỏi phải
theo dõi việc thực hiện các biện pháp tổ chức, kỹ thuật, phục vụ bảo dưỡng, kiểm
tra và sửa chữa nhằm giảm hao mòn ngăn ngừa sự cố, đảm bảo hoạt động bình
thường của máy móc thiết bị. Nếu máy móc thiết bị không được bảo quản tốt,

không chấp hành nội qui, qui tắc bảo dưỡng an toàn kỹ thuật sẽ làm cho chúng giảm
dần giá trị sử dụng đến chỗ gây ra tổn thất trong quản lý sản xuất. Bên cạnh đó nhờ
sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã làm cho tốc độ hao mòn vô hình của máy
móc thiết bị ngày càng nhanh, sự thay thế là khó tránh khỏi. Để hạn chế loại hao
mòn này và tránh cho doanh nghiệp phải liên tục đổi mới thiết bị thì cách thức chủ
yếu nhất là máy móc thiết bị phải được hoạt động liên tục, hết khả năng sản xuất,
tạo ra nhiều sản phẩm để giá trị của chúng có thể được chuyển hết vào sản phẩm
một cách nhanh chóng và doanh nghiệp có thể áp dụng phương pháp khấu hao
nhanh tạo điều kiện thu hồi vốn đầu tư ban đầu. Do vậy khi đánh giá hiệu quả quản
lý sử dụng máy móc thiết bị nhất thiết phải đề cập đến vai trò của công tác bảo
dưỡng, sửa chữa tạo điều kiện cho máy móc thiết bị hoạt động tốt.
Quan điểm 6: Quản lý sử dụng máy móc thiết bị theo thời gian và công suất.
Quản lý sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị còn là việc quản lý và sử dụng
triệt để về số lượng, thời gian hoạt động, công suất của máy móc thiết bị, không để
tình trạng lãng phí do máy móc thiết bị không được sử dụng hoặc chỉ được sử dụng
một phần thời gian, công suất. Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cho
thấy hầu hết máy móc thiết bị đều chưa được sử dụng hết công suất do vậy mà hiệu
quả sản xuất kém gây ra sự lãng phí lớn trong sản xuất. Trong khi đó hàng ngày,
hàng giờ máy móc thiết bị vẫn phải tính chi phí khấu hao nên các doanh nghiệp gặp
rất nhiều khó khăn trong việc hạ giá thành sản phẩm và thu hút vốn đầu tư.
Quan điểm 7: Quản lý sử dụng máy móc thiết bị nhằm thực hiện mục tiêu
kinh doanh tổng hợp.
Quản lý sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả là việc sử dụng chúng để thực
hiện nhiều mục tiêu khác nhau, phục vụ ngày càng tốt hơn cho quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết mục tiêu cuối cùng của mỗi
doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, để làm được điều này thì doanh nghiệp không
thể chỉ dựa vào một yếu tố duy nhất nào đó mà cần phải có sự kết hợp chặt chẽ,
hiệu quả giữa các yếu tố. Trong đó sự kết hợp giữa các yếu tố vốn, máy móc thiết
bị, vật liệu và lao động có ý nghĩa quyết định hơn cả. Nếu máy móc thiết bị được bố
trí một cách hợp lý, khoa học, kết hợp với việc thường xuyên cải tiến, nâng cao tính

năng tác dụng và sử dụng hết công suất thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết
kiệm được vốn đầu tư, vật liệu đưa vào sản xuất và chi phí nhân công. Khi đó máy
móc thiết bị không chỉ sản xuất được các loại sản phẩm hiện có mà còn không
ngừng sản xuất ra được các sản phẩm mới thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sản phẩm
của doanh nghiệp. Chính lúc này doanh nghiệp sẽ có cơ hội để mở rộng thị trường,
mở rộng qui mô kinh doanh, thực hiện các hoạt động liên doanh liên kết, trên cơ sở
đố máy móc thiết bị lại càng có khả năng để phát huy hết năng lực sản xuất của
mình và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không ngừng được nâng
cao.
II. Những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết
bị và hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị.
1. Những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý sử dụng máy móc thiết bị.
Đánh giá hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị là một vấn đề phức tạp cần phải
xem xét trên nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau. Nó đòi hỏi phải có sự đầu tư
nghiên cứu phát hiện ra những nguyên nhân, những nhân tố ảnh hưởng tới quá trính
sử dụng máy móc thiết bị trong doanh nghiệp. Bởi lẽ thực trạng các doanh nghiệp
hiện nay cho thấy đang có sự tồn tại những láng phí lớn trong việc sử dụng máy
móc thiết bị. Máy móc thiết bị không được sử dụng hết công suất vẫn còn là tình
trạng phổ biến trong các doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê của các nhà kinh tế thì
hiện tại các doanh nghiệp mới chỉ sử dụng khoảng 50% công suất thiết kế hiện có.
Mặc dầu con số này đối với các doanh nghiệp xây lắp có phần được cải thiện hơn
nhưng mức lãng phí cũng là rất lớn khoảng 30- 40%. Vấn đề đặt ra là làm sao trong
giai đoạn tới các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để huy động tối đa công suất hiện
có của máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất. Muốn vậy các doanh
nghiệp cần phải giải quyết tốt các nhân tố cơ bản sau.
1.1. Cơ cấu máy móc thiết bị của doanh nghiệp.
Để quá trình sử dụng máy móc thiết bị trở nên có hiệu quả thì trước hết các
doanh nghiệp cần phải xác định một cơ cấu máy móc thiết bị hợp lý đủ về số lượng,
đúng về chất lượng, tiết kiệm chi phí. Đây là khâu đầu tiên trong quá trình đánh giá
hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị bởi lẽ nó sẽ quyết định hiệu quả đầu tư ban đầu

và sự hợp lý của hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó chính cơ cấu máy móc thiết bị sẽ
quyết định năng lực sản xuất của doanh nghiệp và hiệu quả cua quá trình sản xuất.
Một cơ cấu được gọi là hợp lý thì ngoài các yêu cầu nêu trên nó còn phải thể hiện
được khả năng linh hoạt trong việc đổi mới, nâng cao tính năng của máy móc thiết
bị. Thật vậy với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và sự xuất hiện
ngày càng nhiều các công nghệ tiên tiến với tính năng kỹ thuật cao thay thế cho các
công nghệ lạc hậu trước đó làm cho các sản phẩm sản xuất ra có hàm lượng khoa
học ngày một cao. Điều này một mặt có ý nghĩa tích cực thúc đẩy sự phát triển của
tiến bộ xã hội và hiện đại hoá quá trình sản xuất nhưng mặt khác lại gây khó khăn
cho các nhà sản xuất và người sử dụng bởi tốc độ hao mòn vô hình diễn ra quá
nhanh nên tình trạng không kịp thời thu hồi đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra. Đây cũng là
một khía cạnh cần được các doanh nghiệp quan tâm trong quá trình xây dựng thì
mức độ huy động công suất sẽ là lớn nhất và thời gian thu hồi vốn đầu tư là ngắn
nhất. Đối với các doanh nghiệp xây lắp thì việc xây dựng cơ cấu máy móc thiết bị
phải được tiến hành cho từng loại công trình.
1.2. Tổ chức cung ứng đúng chủng loại, số lượng, chất lượng nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu, máy móc thiết bị và lao động là ba yếu tố cơ bản của quá
trình sản xuất, chúng có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời nhau. Thật vậy
nếu máy móc thiết bị có hợp lý, sử dụng tốt bao nhiêu nhưng nguyên vật liệu đầu
vào không chuẩn bị tốt, khồn kịp thời cung cấp cho sản xuất thì hiệu quả sử dụng
cũng trở nên rất thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến hệ số sử dụng thời gian và công suất
huy động máy móc thiết bị của doanh nghiệp. Do vậy yêu cầu đặt ra đối với nguyên
vật liệu, phụ liệu cho sản xuất cần phải mua đúng, mua đủ đảm bảo chất lượng và
đúng tiến độ thời gian. Nếu một trong các yêu cầu trên không đạt sẽ gây ách tắc
trong sản xuất, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị. Đối với các loại
phụ tùng, phụ kiện thay thế doanh nghiệp không sản xuất được thì cần phải có kế
hoạch dự trữ để kịp thời bảo đảm khi cần thiết. Việc xác định số lượng cung ứng
nguyên vật liệu đầu vào có thể dựa vào căn cứ sau:
Căn cứ vào hợp đồng sản xuất, thi công để xác định nhu cầu yếu tố cần mua.
Căn cứ vào định mức tiêu hao nguyên vật liệu.

Căn cứ vào khả năng sử dụng lại phế liệu, phế phẩm.
Căn cứ vào lượng tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ.
Căn cứ vào khả năng thuận lợi của thị trường các yếu tố cần mua.
1.3, Trình độ tổ chức quản lý máy móc thiết bị.
Tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp là làm sao phối hợp chặt chẽ giữa
máy móc thiết bị và sức lao động phù hợp yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất hàng hoá
cho thị trường với hiệu quả cao nhất. Khi doanh nghiệp phối hợp được giữa máy
móc thiết bị và sức lao động nhịp nhàng thì công tác quản lý sử dụng máy móc thiết
bị sẽ có hiệu quả cao hơn. Thật vậy nếu doanh nghiệpcó được cơ cấu máy móc thiết
bị sẽ có hiệu quả cao hơn. Thật vậy nếu doanh nghiệp có được cơ cấu máy móc
thiết bị hợp lý, nguồn cung ứng nguyên vật liệu tốt, đội ngũ lao động lành nghề
nhưng sự phối hợp giữa các yếu tố này không khoa học và chặt chẽ thì hiệu quả sẽ
rất hạn chế. về vấn đề này hiện nay trong các doanh nghiệp xây lắp đang còn nhiều
bất cập bởi lẽ trước đây hoạt động xây dựng chủ yếu mang tính thủ công dựa trên
kinh nghiệm và sự khéo léo của người thợ còn ngày nay do tính chất sản xuất đã
thay đổi, các doanh nghiệp phải quen dần với hoạt động thi công cơ giới bằng sự trợ
giúp đắc lực của máy móc thiết bị. Do vậy mà sự phối hợp này chưa được nhịp
nhàng dẫn đến hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị là chưa cao. Từ đó các doanh
nghiệp phải xây dựng được những kế hoạch cụ thể về thời gian hoạt động của máy
móc thiết bị. về thời gian ngừng máy để sửa chữa nhằm đảm bảo vừa huy động hết
công suất, vừâ kéo dài tuổi thọ cho máy móc thiết bị. Với ý nghĩa đó thì công tác
bảo dưỡng sửa chữa dự phòng theo kế hoạch cần được các doanh nghiệp quan tâm
một cách đúng mực với mục tiêu sửa chữa lấy dự phòng làm chính, công việc sửa
chữa được tiến hành theo kế hoạch và nội dung sửa chữa được xác định từ trước.
Thật vậy, nếu doanh nghiệp không quan tâm đến quá trình bảo dưỡng, sửa chữa thì
máy móc thiết bị sẽ rất nhanh hỏng và gây ra những ách tắc trong quá trình sản xuất
làm cho hiệu quả sản xuất bị hạn chế và hiệu quả sư dụng máy móc thiết bị thấp.
Đây là nhân tố rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định cho nên các doanh nghiệp
cần phải tiến hành lập kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng địng kỳ máy móc thiết bị, xây
dựng lịch xích cho sửa chữa và cung cấp các yếu tố kịp thời cho sửa chữa. Thực tế

cho thấy rằng sửa chữa và bảo dưỡng máy móc thiết bị có quan hệ tỷ lệ thuận với
hiệu quả sử dụng trong doanh nghiệp.
1.4, Trình độ tổ chức lao động và chất lượng lao động quản lý.
Máy móc thiết bị ngày càng hiện đại, tiên tiến đòi hỏi người lao động phải
được đào tạo cẩn thận qua trường lớp để quản lý và sử dụng chúng có hiệu quả. Bên
cạnh việc đào tạo lấy kiến thức thì doanh nghiệp cần phải tổ chức sắp xếp bố trí
người lao động một cách hợp lý, đúng người đúng việc để đảm bảo cho tất cả mọi
người đều có thể phát huy hết khả năng của mình. Trên thực tế lao động làm việc
trong các công ty xây dựng hiện nay chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào
tạo, họ làm việc theo hợp đồng mùa vụ. Chíng vì vậy mà các doanh nghiệp cần phải
giải quyết tốt vấn đề này sao cho vẫn đủ lao động trong những thời điểm quan trọng
nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng và tiến độ của công trình. Số lao động này chỉ
có thể bố trí vào các công việc mang tính thủ công không đòi hỏi phải qua đào tạo
còn đối với công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo thì nên bố trí vào việc quản lý và sử
dụng máy móc thiết bị thi công cơ giới. Do vậy mô hình của các doanh nghiệp xây
dựng hiện nay chỉ bao gồm các đội khung với cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật,
khi có hợp đồng thi công thì sẽ thuê lao động phổ thông theo mùa vụ.
1.5. Trình độ tay nghể của người lao động.
Quá trình vận hành sử dụng máy móc thiết bị trong doanh nghiệp đòi hỏi
người công nhân phải tuân thủ những quy trình, qui phạm kỹ thuật, những nội quy,
qui chế của công ty cho nên nhất thiết người công nhân làm công việc này phải có ý
thức kỷ luật và ý thức chấp hành nội qui một cách nghiêm túc và tự giác. Nếu người
công nhân thiếu ý thức tự giác, thiếu tinh thần trách nhiệm và lòng tâm huyết với
nghề thì có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến tài sản của
doanh nghiệp. Mặt khác ta thấy rằng quản lý máy móc thiết bị chính là quá trình
quản lý người công nhân vận hành máy móc thiết bị do vậy để nâng cao hiệu quả
sử dụng máy móc thiết bị thì vấn đề nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật và khả năng
vận hành máy móc thiết bị cho người lao động là rất cần thiết.
2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị.
Hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị được đánh giá dựa trên năng lực sản xuất

sản phẩm của chúng trong một đơn vị thời gian nhất định( thường là một năm) .
Sản phẩm dùng để đánh giá hiệu quả là những sản phẩm đủ tiêu chuẩn chất
lượng theo thiết kế. Với những doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm khác
nhau thì có thể tính năng lực sản xuất theo sản phẩm đại diện hay sản phẩm qui ước
( Tất cả các sản phẩm khác đều được qui đổi ra sản phẩm đại diện). Đối với các
doanh nghiệp xây lắp có thể tính hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị theo mức độ
đóng góp của chúng và từng công trình và có thể tính trên chỉ tiêu doanh thu hay lợi
nhuận.
Phạm trù năng lực sản xuất của máy móc thiết bị có thể được hiểu như sau:
+ Năng lực sản xuất theo thiết kế là khả năng hoạt động của máy móc thiết bị
đúng theo công suất tối thiết kế, thường là ở trạng thái tốt nhất.
+ Năng lực sản xuất tối đa là khả năng cao nhất có thể đạt được của máy móc
thiết bị trong việc sản xuất sản phẩm khi áp dụng phương án công nghệ và tổ chức
sản xuất hoàn thiện nhất.
+ Năng lực sản xuất theo kế hoách là khả năng sản xuất của máy móc thiết bị
được dự tính trên các điều kiện cụ thể của thời kỳ kế hoạch.
+ Năng lực sản xuất thực tế là khối lượng sản phẩm sản xuất được xác định
một cách cụ thể sau khi kết thúc năm kế hoạch.
Trên thực tế, khi đánh giá hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị người ta dựa vào
một số chỉ tiêu cơ bản sau:
2.1. Nhóm chỉ tiêu chung cho các doanh nghiệp:
2.1.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị về mặt số
lượng:
* Hệ số sử dụng máy móc thiết bị về mặt số lượng: ( H
s
)
H =
Số lượng máy móc thiết bị trực tiếp sản xuất
Tổng số máy móc thiết bị hiện có
Hệ số này cho biết tỉ lệ % số lượng máy móc thiết bị được sử dụng trong sản

xuất. Hệ số này càng lớn chứng tỏ mức huy động máy móc thiết bị vào sản xuất của
doanh nghiệp càng lớn và hiệu quả sử dụng càng cao.
Trong đó:
-Tổng số máy móc thiết bị trực tiếp sản xuất bao gồm số lượng máy móc thiết
bị đang sản xuất và đang trong quá trình sửa chữa cải tiến.
- Tổng số máy móc thiết bị hiện có là toàn bộ số máy móc thiết bị đang hoạt
động và chưa hoạt động.
Song đôi khi chỉ tiêu này không phản ánh đúng hiệu quả sử dụng nên người ta
có thể tính theo đơn vị giá trị.
*Hệ số sử dụng máy móc thiết bị về mặt thời gian: ( H
t

)
Hệ số này cho biết trong năm máy móc thiết bị của doanh nghiệp hoạt động
được bao nhiêu giờ, phải ngừng bao nhiêu giờ. Hệ số này càng lớn thì hiệu quả sử
dụng càng cao.
2.1.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng về mặt chất lượng:
*Hệ số sử dụng công suất thiết bị. ( Hw )
Hệ số này cho biết mức độ huy động công suất của máy móc thiết b. Hệ số
này càng lớn thì hiệu quả sử dụng càng cao. Nó là cơ sở để doanh nghiệp xác định
hướng đầu tư cho máy móc thiết bị.
Hệ số đổi mới máy móc thiết bị: ( H
d
)
Hệ số này cho biết khả năng đổi mới máy móc thiết bị của doanh nghiệp. Hệ
số này tỉ lệ thuận với hiệu quả sử dụng.
* Hệ số về trình độ cơ khí hoá tự đông hoá.
* Hệ số về sức sản xuất của máy móc thiết bị:
* Hệ số về sức sinh lợi của máy móc thiết bị:
* Hệ số về năng suất lao động:

Các chỉ tiêu này đều tỷ lệ thuận với hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị. Bên
cạnh các chỉ tiêu chung nói trên đối với các doanh nghiệp nói chung thì đối với các
doanh nghiệp xây lắp nói riêng, do tính chất đặc thù của hoạt động kinh doanh nên
cần phải có thêm một số chỉ tiêu đánh giá đặc trưng.
2.2, Nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho các doanh nghiệp xây lắp:
* Chỉ tiêu tính toán chi phí mua sắm thiết bị thi công:
* Chỉ tiêu xác định giá dự toán mua sắm thiết bị công nghệ.
* Chỉ tiêu xác định chi phí máy trong xây dựng.
* Chỉ tiêu sử dụng máy móc thiết bị phục vụ thi công.
* Chỉ tiêu xác định mức thi công.
III. Tính tất yếu của việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng máy móc
thiết bị.
Sản xuất luân là nên tảng, là yếu tố hàng đầu quyết định sự phát triển của một
chế độ xã hội, nó luôn giành được sự quan tâm chú ý lớn nhất của các nhà sản xuất.
Trong thời đại công nghệ phát triển mạnh mẽ ngày nay, quá trình sản xuất đòi hỏi
không những phải có kế hoạch cụ thể, đúng đắn, cần đội ngũ cán bộ công nhân
được đào tạo bài bản mà còn phải được trang bị máy móc thiết bị chuyên dụng, hiện
đại.
Thật vậy, máy móc thiết bị là yếu tố quyết định quá trình sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Vì thế mà C.Mác đã từng nói: “ Trong bất kỳ một nền sản
xuất nào, máy móc thiết bị bao giờ cũng là hệ thống xương cốt và là chỉ tiêu quan
trọng nhất ”. Máy móc thiết bị được con người không ngừng cải tiến và hoàn thiện,
do đó nó luôn là yếu tố động nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất. Sự phát
triển của máy móc thiết bị đã góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ sản xuất
thủ công lên nửa cơ khí, cơ khí hoàn toàn và đỉnh cao là tự động hoá quá trình sản
xuất. điều đó đã làm cho sức sản xuất tăng lên khồn ngừng, sản xuất sản phẩm ra
ngày càng phong phú, đa dạng và có chất lượng tốt hơn. Cùng với sự phát triển này
là quá trình thay đổi bản chất của nền sản xuất xã hội theo xu thế đi từ sản xuất nhỏ
thô xơ lên sản xuất lớn đại công nghiệp.
Khi đề cập tới vai trò của máy móc thiết bị C.Mác cho rằng: “ Một phương

thức sản xuất xã hội sau chiến thắng một phương thức sản xuất xã hội trước nó còn
do nó có năng xuất cao hơn, mà năng suất lại phụ thuộc vào công cụ lao động trong
đó máy móc thiết bị đóng vai trò chính ”.
Máy móc thiết bị là cơ sở vật chất cho quá trình sản xuất, nó quyết định qui
mô sản xuất và hiệu quả của dây chuyền sản xuất. Máy móc thiết bị quyết định tính
chất, đặc điểm của sản phẩm sản xuất ra. Sản phẩm làm ra với khối lượng lớn, chất
lượng cao là hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sản xuất của máy móc thiết bị. Bất
kỳ một sư thay đổi nào trong hệ thống máy móc thiết bị cũng có thể ảnh hưởng trực
tiếp đến sản xuất. Đây là vấn để quan trọng mà các doanh nghiệp cần phải quan tâm
trong quá trình cải tiến, đổi mới hệ thống máy móc thiết bị sao cho với chi phí thấp
nhất nhưng đạt hiệu quả cao nhất.
Việc đưa máy móc thiết bị vào sản xuất góp phần rút ngắn chu kỳ sản xuất
kinh doanh, tăng năng suất lao động, tiết kiệm lao động sống và lao động vật hoá,
dấn đến hạ giá thành sản phẩm làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Với sự
phát triển của khoa học công nghệ ngày càng có nhiều các loại máy móc thiết bị
hiện đại có tinh năng kỹ thuật cao được đưa vào sản xuất thay thế những công việc
trước đây con người phải trực tiếp làm, do đó mà năng suất, chất lượng cũng như số
lượng lien tục tăng. Tự động hoá là bước phát triển cao nhất của nền sản xuất, nó
cho phép người lao động hoàn toàn làm chủ quá trình sản xuất. Người lao động giờ
đây thay vì trực tiếp gia công chế tạo sản phẩm sẽ được nâng lên một mức cao hơn
là chỉ thực hiện công tác kiểm tra theo dõi sự hoạt động của máy móc thiết bị, điều
chỉnh máy móc thiết bị sao cho phù hợp còn lại là phần việc của máy móc thiết bị.
Riêng đối với ngành xây lắp thì máy móc thiết bị lại càng có vai trò quan
trọng, nó có thể thực hiện được các công việc phức tạp, nặng nhọc, nguy hiểm mà
con người không thể trực tiếp làm được. Mặt khác trong công tác đấu thầu thì hệ
thống máy móc thiết bị chính là một trong những yếu tố phản ánh năng lực cũng
như khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Chính vì thế mà ngày nay các
doanh nghiệp xây lắp rất chú trọng đến việc nâng cao năng lực thiết bị để có thể
giành được những công trình có giá trị và lợi nhuận cao.
Như vậy có thể thấy rằng máy móc thiết bị đóng vai trò rất lớn trong quá trình

sản xuất, nó thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất, tăng doanh thu giúp cho sự
tích luỹ của doanh nghiệp cao hơn. Do đó vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng máy
móc thiết bị là vấn đề hết sức có ý nghĩa, quyết định sự phát triển của mỗi doanh
nghiệp. Bên canh đó thì đối với nước ta nhìn chung thì phần lớn các doanh nghiệp
đều được thành lập khá lâu, công nghệ thường cũ đã qua sử dụng hoẵc đã lạc hậu
theo thời gian. Trong khi đó nước ta lại đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Chính vì thế mà việc nâng cao năng lực sản xuất của máy móc thiết bị là
một yếu cầu tất yếu không chỉ của nhà nước mà phải cụ thể đến từng doanh nghiệp,
trong đó có các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xây lặp.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ
DỤNG MÁY MÓC THIẾT BỊ PHỤC VỤ THI CÔNG XÂY
LẮP CỦA CÔNG TY TÂY HỒ
I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Tây Hồ.
Công ty Tây Hồ thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc phòng được thành lập vào
ngày 18 tháng 4 năm 1996 theo quyết định số 505/QĐQP trên cơ sở sáp nhập jai
doanh nghiệp là: công ty Tây Hồ và công ty Xây dựng 232.
Quyết định thành lập công ty Tây Hồ do Bộ trưởng quốc phòng ban hành dựa
trên các văn bản cụ thể sau:
+ Nghị định số 15/CP ra ngày 2 / 3 / 1993 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
+ Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 20 / 4 / 1995.
+ Thông báo số 1119 ĐMDN/TB ngày 13 / 3 / 1996 của Chính phủ.
Từ ngày đầu theo quyết định thành lập, công ty Tây Hồ là một doanh nghiệp
nhà nước có tư cách pháp nhân, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản tại
ngân hành, có con dấu riêng, có trụ sở chính tại số 2 Hoàng Quốc Việt, Quận Cầu
Giấy, Hà Nội. Cũng theo quyết định này công ty được phép kinh doanh các ngành
nghề chủ yếu sau:
- Xây dựng công nghiệp, dân dụng, giao thông, trang trí nội thất, ngoại thất.
- Lắp đặt thiết bị công trình, dây chuyền sản xuất.
- Sản xuất kinh doanh vật liệu, vật tư thiết bị xây dựng.

- Kinh doanh bất động sản.
- Nhập vật tư, thiết bị phục vụ xây dựng từ nước ngoài.
- Khảo sát thiết kế thi công xây dựng…
Sơ đồ thành lập công ty Tây Hồ.
Quá trình hình thành và phát triển của công ty Tây Hồ được đánh giá bằng sự
ra đời trung tâm giao dịch xuất nhâp khẩu và dịch vụ Bộ quốc phòng năm 1982 với
chức năng chính là thực hiện quản lý, giao dịch các hoạt động có lien quan đến xuất
nhập khẩu trong quân đội. Từ đó trung tam cũng thực hiện việc quản lý ngoại hối
trong toàn quân thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Lúc này trung tâm là cơ quan
duy nhất của Bộ quốc phòng thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu cho toàn quân mà
không vì mục đích lợi nhuận. Bởi lẽ trung tâm không trực tiếp quan hệ với các đối
tác nước ngoài mà chỉ làm nhiệm vụ quản lý, tập hợp các nhu cầu về xuất nhập
khẩu trực tiếp để thực hiện các giao dịch này. Tất cả hoạt động của trung tâm đều
Trung tâm kinh
doanh vật tư( Cục
vật tư tổng cục kỹ
thuật) thành lập
năm 1990 với
chức năng kinh
doanh
Trung tâm xuất
nhập khẩu ( cục
tài chính - Bộ
quốc phòng)
thành lập 1990
với chức năng
xuất nhập khẩu
Trung đoàn xây
dựng 232( BQP)
thành lập năm

1989 với chức
năng xây dựng
Công ty Tây Hồ -
BQP sáp nhập năm
1996
Công ty xuất nhập khẩu
và kinh doanh thương
mại Tây Hồ( Tổng cục
CNQP-KT thuộc BQP)
sáp nhập năm 1992
Công ty xây lắp 232
(Tổng cục CNQP-KT)
nâng cấp năm 1992
được chỉ đạo một cách trực tiếp bởi Bộ Trưởng Bộ quốc phòng mà cơ quan quản lý
trực tiếp là Tổng cục công nghiệp quốc phòng. Bước vào thời kỳ đổi mới do chủ
trương chyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, đã mở ra một thời kỳ mới cho các hoạt động kinh tế của đất
nước. Với chủ trương thu hẹp dần sự bao cấp trong hoạt động kinh tế và thúc đẩy
các doanh nghiệp tự hạch toán độc lập, làm ăn có hiệu quả. Trên cơ sơ đó Nhà nước
công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế và cho phép các thành phần này
được hoạt động một cách bình đẳng trước pháp luật. Cũng trong bối cảnh này Bộ
quốc phòng đã quyết định chuyển đổi trung tâm giao dịch xuất nhập khẩu và dịch
vụ thuộc Bộ quốc phòng thành công ty kinh doanh xuất nhập khẩu và dịch vụ Bộ
quốc phòng vào năm 1988 với chức năng chính là kinh doanh xuất nhập khẩu trực
tiếp. Từ đây công ty chính thức được công nhận là một doanh nghiệp nhà nước với
các đặc điểm của nó và thực hiện hai nhiệm vụ chính là xuất nhập khẩu vật tư hàng
hóa, các trang thiết bị quân sự phục vụ cho quốc phòng và kinh doanh. Trong thời
gian này công ty được đánh giá là một doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả,
không ngừng mở rộng qui mô kinh doanh cũng như là sự tăng trưởng nhanh về vốn,
hàng năm công ty đều hoàn thành các chỉ tiêu đã đề ra.

Trong những năm đầu của thập niên 90 các hoạt động kinh tế ở nước ta diễn ta
hết sức khó khăn một phần là do mới bước vào thời kỳ đổi mới các doanh nghiệp chưa
quen với cung cách làm ăn của cơ chế thị trường, vẫn giữ nguyên thói quen từ thới bao
cấp cho nên đa phần các doanh nghiệp nhà nước đều lâm vào tình cảnh kinh doanh
không hiệu quả và dẫn đến phá sản hảng loạt. Mặt khác do sự khủng hoảng chính trị
của phe XHCN mà đặc biệt là sự xụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô
vào năm 1991 cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế nước ta lúc đó. Chính lúc
đó Đảng ta đã quyết định từng bước cải cách nền kinh tế trên cơ sở giải thể các doanh
nghiệp làm ăn không hiệu quả, sáp nhập những doanh nghiệp nhỏ, giảm dần tỷ trọng
các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, ổn định nền kinh tế vĩ mô, giảm lạm
phát. Cùng với chủ trương này Bộ quốc phòng cũng quyết định sáp nhập hai công ty là
Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu và dịch vụ với công ty kinh doanh vật tư đều
thuộc Bộ quốc phòng để thành lập nên công ty Tây Hồ với chức năng chính là kinh
doanh vật tư và xuất nhập khẩu các loại hành hoá, trang thiết bị phục vụ sự nghiệp
quốc phòng và đảm bảo hiệu quả kinh doanh của công ty.
Tiếp tục thực hiện chủ trương cải tổ và sắp xếp lại các doanh nghiệp trong
Quân đội của Bộ quốc phòng và thực tế của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước cho thấy lĩnh vực cơ bản đang là một trong những lĩnh vực thu hút được
một lượng lớn vốn đầu tư. Vì vậy ngày 18 / 4 / 1996 Bộ quốc phòng quyết định lại
quyết định sáp nhập công ty Tây Hồ và Công ty xây dựng 232 thành Công ty Tây
Hồ thuộc Bộ quốc phòng với chức năng và nhiệm vụ hoàn toàn mới. Theo chức
năng và nhiệm vụ này công ty phải chuyển hướng lấy nhiệm vụ sản xuất xây lắp

×