Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

khóa luận tốt nghiệp thể hiện cảm xúc của trẻ 56 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 99 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
EQ là viết tắt của cụm từ “Emotional Quotient” – chỉ số cảm xúc, là một danh từ
tâm lý học rất thịnh hành trên thế giới từ khoảng những năm 1995 thường được gọi
là chỉ số cảm xúc, bắt nguồn từ cuốn sách “EQ” do một nhà tâm lý học nổi tiếng
của trường đại học Havard, Mỹ tên là Gorman viết. Sự xuất hiện của chỉ số cảm xúc
khơng chỉ có giá trị lí luận quan trọng đối với sự phát triển của giáo dục hiện đại mà
cịn có ý nghĩa hiện thực rất lớn. Chỉ số cảm xúc khiến con người bắt đầu được giải
phóng khỏi những sai lầm trong giáo dục truyền thống.
Ngày nay, trên thế giới các chuyên gia tâm lý và giáo dục cho rằng “Những người
có chỉ số thơng minh (IQ) cao nhất làm việc tốt hơn 20% so với những người có chỉ
số IQ trung bình, trong khi những người có chỉ số IQ trung bình lại hồn thành cơng
việc tốt hơn những người có chỉ số IQ cao đến 70%. “Theo nghiên cứu chứng minh
yếu tố quan trọng giúp họ thành cơng là trí tuệ cảm xúc (EQ). Đánh giá “chỉ số cảm
xúc” EQ của trẻ đang được sử dụng nhiều và được coi là chỉ số báo hiệu đáng tin
cậy nhất cho sự thành công trong tương lai của trẻ. Những chỉ số này dự báo trẻ có
những phẩm chất để tự hồn thiện và ý chí phấn đấu để đạt được những mục tiêu
trong đời.
Cùng với sự phát triển và hội nhập nền giáo dục trên thế giới, giáo dục Việt Nam
cũng đang quan tâm đến việc phát triển chỉ số cảm xúc (EQ) cho trẻ mầm non, chỉ
số EQ được xem như là một kỹ năng sống cần thiết cho đứa trẻ và được đưa vào
“Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi” cho trẻ mầm non. Chỉ số EQ cao sẽ giúp trẻ phát
triển tốt khả năng giao tiếp, diễn đạt, hòa đồng với bạn bè, giúp trẻ thích ứng nhanh
với cuộc sống. Điều này sẽ tạo cho trẻ một nền tảng tốt về nhân cách cũng như
những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống giúp trẻ có thể thành cơng vững chắc trong
tương lai[20].
Hiện nay trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh các trường mầm non cũng đưa
chương trình giáo dục cảm xúc dựa trên “Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi” để phát
1



triển cảm xúc cho trẻ mầm non. Tuy nhiên trong quá trình dạy kỹ năng nhận biết và
thể hiện cảm xúc cho trẻ chưa mang lại hiệu quả cao.
Vì những lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng kỹ năng
nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non 19/5
thành phố Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi ở trường mầm non 19/5 thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, tìm ra nguyên nhân
của thực trạng trên.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
3.2.Khách thể nghiên cứu
Khách thể chính: Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Khách thể bổ trợ: Giáo viên mầm non đang trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ mẫu
giáo 5- 6 tuổi.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1.Giới hạn nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng kỹ năng nhận
biết và thể hiện cảm xúc của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đối với bản thân trẻ, đối với
người khác (giáo viên mầm non đang trực tiếp chăm sóc- giáo dục trẻ và bạn trong
lớp) trong các hoạt động giáo dục (giờ học, giờ chơi, giờ sinh hoạt ngoại khóa, các
sự kiện của lớp) của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi và thơng qua các tình huống cụ thể.
4.2.Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Lớp lá 3, lá 4, lá 5 trường mầm non 19/5 thành
phố Hồ Chí Minh.
4.3.Giới hạn thời gian nghiên cứu: 10/2013 đến 5/2014.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

2



5.1.Nghiên cứu cơ sở lý luận về kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi.
5.2.Khảo sát thực trạng kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi ở trường mầm non 19/5 thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, tìm ra nguyên nhân
của thực trạng trên.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Thực trạng kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở
trường mầm non 19/5 thành phố Hồ Chí Minh ở mức độ chưa cao. Có thể do một số
nguyên nhân:
-

Trẻ chưa có kinh nghiệm về kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc.

-

Giáo viên chưa thấy rõ vai trò, ảnh hưởng của mình trong việc dạy kỹ năng
nhận biết và thể hiện cảm xúc cho trẻ.

-

Việc dạy kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc gặp nhiều khó khăn và cần
nhiều thời gian.

-

Số lượng trẻ quá đông nên việc áp dụng các phương pháp dạy kỹ năng cảm
xúc không thể tác động một cách hiệu quả đối với tất cả các trẻ trong lớp.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lí luận

Đọc tìm hiểu các tài liệu liên quan đến đề tài. Nghiên cứu phân tích tổng hợp, chọn
lọc các tài liệu và xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
7.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
a.Phương pháp quan sát
 Mục đích nghiên cứu:
-

Quan sát các biểu hiện về kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ
với cô, của trẻ với bạn, với bản thân trẻ qua các bài tập, các hoạt động của
trẻ trong trường mầm non 19/5 thành phố Hồ Chí Minh, từ đó thu thập
các dữ liệu về kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ.

 Đối tượng nghiên cứu: 30 mẫu giáo trẻ 5-6 tuổi lớp lá ở trường mầm non
19/5 thành phố Hồ Chí Minh.
3


 Cách thực hiện:
-

Quan sát các biểu hiện về kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ
đối với bản thân trẻ, đối với cô, đối với bạn cùng lớp ở các hoạt động
trong ngày (giờ học, giờ chơi, giờ sinh hoạt ngoại khóa, các sự kiện của
lớp), các bài tập tình huống. Trong quá trình quan sát ghi chép lại thông
tin vào phiếu quan sát.

b.Phương pháp đàm thoại
 Mục đích nghiên cứu
-


Trị chuyện với giáo viên về một số vấn đề có liên quan đến kỹ năng nhận
biết và thể hiện cảm xúc của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non
19/5 thành phố Hồ Chí Minh.

-

Trị chuyện với trẻ thơng qua các bài tập khảo sát trên trẻ. Qua đó biết
được thực trạng kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi ở trường mầm non 19/5 thành phố Hồ Chí Minh.

-

Đối tượng nghiên cứu: Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, giáo viên trực tiếp chăm
sóc- giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.

 Cách thực hiện
-

Chuẩn bị phiếu câu hỏi khảo sát trên trẻ về kỹ năng nhận biết và thể hiện
cảm xúc của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.

-

Trò chuyện với cô về một số vấn đề liên quan đến kỹ năng nhận biết và
thể hiện cảm xúc của trẻ để bổ sung những thông tin, dữ liệu cho phiếu
câu hỏi khảo sát trên.

-

Trong q trình trị chuyện ghi chép đầy đủ thông tin.


c.Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
 Mục đích nghiên cứu
-

Biết được nhận thức của giáo viên về kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm
xúc của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.



Đối tượng nghiên cứu: Giáo viên trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo 56 tuổi.
4


 Cách thực hiện:
-

Xây dựng mẫu phiếu hỏi (gồm hệ thống câu hỏi trắc nghiệm và tự luận)
cho giáo viên trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường
mầm non 19/5 thành phố Hồ Chí Minh.

-

Xử lý và phân tích kết quả.

7.3. Phương pháp tốn học
Tính phần trăm (%) kết quả nghiên cứu.

5



CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG NHẬN BIẾT VÀ THỂ HIỆN
CẢM XÚC CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.Những nghiên cứu về kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc ở nƣớc
ngồi
Trên thế giới đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về cảm xúc của con người. Đặc
biệt là các công trình nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc hay cịn gọi là thơng minh cảm
xúc trong đó có đề cập nhiều đến kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc.
Trong lĩnh vực tâm lý học, lý thuyết về trí tuệ cảm xúc đã có từ khi bắt đầu đo
lường trí thơng minh.
E.I.Thorndike (1970)- giáo sư tâm lý giáo dục ở trường Đại học tổng hợp
Columbia là một trong những người đầu tiên tìm cách nhận dạng trí tuệ cảm xúc mà
lúc đó ơng gọi là trí tuệ xã hội. Theo ơng, trí tuệ xã hội là “Năng lực hiểu và kiểm
soát của một người dùng để hành động một cách khôn ngoan trong các mối quan hệ
của con người”. E.I. Thorndike đề nghị một số phương pháp đánh giá trí tuệ xã hội
trong phịng thí nghiệm nhưng đó là một q trình đơn giản làm cho có sự phụ hợp
giữa những khuôn mặt biểu lộ cảm xúc khác nhau với việc nhận biết, mơ tả đúng
những cảm xúc đó.
Robert Thorndike và Saul Stern (1937) đã xem xét những cố gắng đo lường về trí
tuệ xã hội của E.I. Thorndike đưa ra. Nhưng Robert Thorndike và Saul Stern kết
luận rằng những cố gắng đo lường năng lực ứng xử với mọi người đã ít nhiều thất
bại. Điều này có thể do trí tuệ xã hội là một phức hợp gồm một số các năng lực khác
nhau hoặc một số phức hợp của một số lớn các thói quen và thái độ xã hội cụ thể.
Nửa thế kỷ tiếp theo, các nhà tâm lý học hành vi và trào lưu đo lường IQ đã quay
lại ý tưởng đo lường EI.
David Wechster (1952), mặc dù vẫn tiếp tục phát triển trắc nghiệm IQ của mình
vốn lúc đó đã được sử dụng rộng rãi, nhưng ông cũng phải thừa nhận rằng các năng
lực xúc cảm như là một phần trong vô số các năng lực của con người.
6



Howard Gardner (1983) là người có cơng lớn trong việc xem xét lại lý thuyết trí
tuệ trong tâm lý học. Mơ hình đa trí tuệ nổi tiếng của ơng cho rằng, trí tuệ cá nhân
gồm hai loại: Trí tuệ nhân cách và trí tuệ liên nhân cách.
Nhà tâm lý học Isarel (quốc tịch Mỹ) Reuven Bar – On là người đầu tiên đưa ra
thuật ngữ EQ ( Emotinal Intelligence Qoutient) trong luận án tiến sỹ của mình năm
1985. Ơng đặt trí tuệ cảm xúc trong phạm vi lý thuyết nhân cách, đưa ra mơ hình
Well-being (1997) với ý định trả lời câu hỏi “Tại sao một người nào đó lại có khả
năng thành cơng trong cuộc sống hơn người khác”. Ông đã nhận diện được 5 khu
vực bao quát về mặt chức năng phù hợp với thành công trong cuộc sống:
-

Các kỹ năng làm chủ cảm xúc của mình

-

Các kỹ năng điều khiển cảm xúc liên cá nhân

-

Tính thích ứng

-

Kiểm soát stress

-

Tâm trạng chung


Bar – On đã sử dụng thuật ngữ trí tuệ cảm xúc theo ý nghĩa hợp lý sau: là một tổ
hợp các năng lực phi nhận thức và các kỹ năng chi phối năng lực của cá nhân, nó
đặc trưng cho sự tích lũy những hiểu biết được dùng nhằm đương đầu có hiệu quả
với những địi hỏi và sức ép của môi trường sống.
Daiel Goleman, tiến sĩ tâm lý học của Đại học Havard – người phụ trách chuyên
mục khoa học trí tuệ cảm xúc và trí tuệ xã hội của tờ New York Times: Khoa học
mới của mối quan hệ con người, ông tập hợp những kết quả nghiên cứu về trí tuệ
cảm xúc và đã viết cuốn sách gây tiếng vang lớn ở Mỹ với nhan đề “Trí tuệ cảm
xúc: Tại sao nó lại có thể quan trọng hơn IQ đối với tính cách, sức khỏe và sự thành
công trong suốt cuộc đời?”.
Năm 1995 trong tác phẩm Emotional intelligence, nhà tâm lý học Daniel Goleman
đã đề cập đến chỉ số cảm xúc, gọi đó là “Sự thông minh của tâm hồn” hoặc “Thông
minh trong cảm xúc”.
Cuốn sách gần đây khác Goleman “Não và tình cảm: Insights” mới tập hợp lại
với nhau phát hiện gần đây từ nghiên cứu não bộ và các nguồn khác về các chủ đề
7


khác nhau, từ sự sáng tạo và hiệu suất tối ưu, kết nối não để não trong sự điều hành
và làm thế nào để nâng cao trí tuệ cảm xúc bản thân.
Mơ hình trí tuệ cảm xúc do Daniel Goleman đề xuất là mơ hình kiểu hỗn hợp coi
trí tuệ cảm xúc là sự kết hợp giữa các năng lực trí tuệ và các nét nhân cách khơng
thuộc năng lực trí tuệ, gồm 5 lĩnh vực:
-

Hiểu biết về cảm xúc của mình

-


Quản lý cảm xúc

-

Tự thúc đẩy, động cơ hóa mình

-

Nhận biết cảm xúc của người khác

-

Xử lý các mối quan hệ

Những người có cơng trong nghiên cứu và đưa ra chỉ số EQ tiếp đó là hai nhà
tâm lý học người Mỹ: Peter Salovey và John Mayer vào năm 1996. Nhưng trước đó
hai nhà tâm lý đã chính thức cơng bố lý thuyết trí tuệ cảm xúc trong bài báo “Trí tuệ
cảm xúc” (1990). Bài báo này đã có ảnh hưởng mạnh nhất đến lý thuyết trí tuệ cảm
xúc tại thời điểm đó. Trong mơ hình ngun thủy của hai tác giả này, trí tuệ cảm
xúc được nhận diện như là năng lực làm chủ, điều khiển, kiểm soát xúc cảm, tình
cảm của mình và của người khác để sử dụng thông tin này định hướng cách suy
nghĩ và hành động của một cá nhân.
Năm 1997, John Mayer và Salovey chính thức định nghĩa: “Trí tuệ cảm xúc là
năng lực nhận biết, bày tỏ cảm xúc, hòa cảm xúc vào suy nghĩ, hiểu, suy luận với
xúc cảm, điều khiển, kiểm sốt xúc cảm của mình và của người khác” với mơ hình
cấu trúc trí tuệ cảm xúc thuần năng lực do John Mayer và Peter Salovey đề xuất
(1997).
Mơ hình của hai tác giả này đã nhấn mạnh đến mặt nhận thức (đối tượng nhận
thức ở đây là các xúc cảm, tình cảm) và họ đã chứng minh nó đáp ứng ba tiêu chuẩn
sau đây của mơ hình trí tuệ nói chung:

- Đó phải là một mơ hình phù hợp về mặt khái niệm (tức là nó phải phản ánh các
năng lực trí tuệ hơn là chỉ mơ tả hành vi).
8


- Phải có tương quan (tức là nó phải có điểm giống nhưng vẫn có sự khác biệt với
các loại trí tuệ đã được biết đến).
- Nó phải mang tính phát triển (tức là những năng lực đặc trưng cho trí tuệ phải phát
triển cùng với sự tích luỹ kinh nghiệm và tuổi tác của cá nhân).
Mơ hình đó gồm 4 lớp năng lực như sau:
- Khả năng nhận thức chính xác các xúc cảm .
- Khả năng sử dụng các xúc cảm để hỗ trợ, tích cực hố tư duy.
- Khả năng hiểu nguyên nhân và tiến trình phát triển của các xúc cảm.
- Khả năng quản lý các xúc cảm .
Tóm lại, có ba đại biểu tiêu biểu nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc:
1.

Reuven Bar – On đưa ra lý thuyết phân cách và mơ hình kiểu hỗn hợp bằng

cách hịa trộn trí tuệ cảm xúc những đặc tính phi năng lực, mơ hình của ơng dự đốn
thành cơng với tư cách là “Sản phẩm cuối cùng của cái nhà mà một người cố gắng
đạt được, cố gắng hoàn thành …”
2.

Daniel Goleman đề xuất lý thuyết hiệu quả thực hiện cơng việc trong đó đưa

ra kiểu mơ hình hỗn hợp mơ tả trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực tâm lý và các
phẩm chất nhân cách. Ơng cho rằng mơ hình hỗn hợp này có độ hiệu lực dự đốn
rất cao. Đặc biệt mơ hình này giúp cho dự đoán và phát triển những năng lực vượt
trội của những cá nhân xuất sắc trong công việc của từng loại nghề nghiệp, ở từng

cấp độ.
3.

Peter Salovey và John Mayer: Trong lý thuyết của mình đã “Giới hạn trí tuệ

cảm xúc là một năng lực tâm lý và tách trí tuệ cảm xúc ra khỏi những nét tích cực
quan trọng” của nhân cách. Vì vậy, mơ hình của Peter Salovey và John Mayer là
kiểu mơ hình thuần nhất năng lực chú ý vào khái niệm hạt nhân của trí tuệ cảm xúc,
đó chính là các cảm xúc và sự tương tác giữa cảm xúc và ý nghĩ.
Các cơng trình nghiên cứu của tác giả nêu trên đã đặt nền tảng cho việc nghiên
cứu trí tuệ cảm xúc cả về lý luận cũng như đưa ra các thang đo để nghiên cứu về
thực tiễn năng lực trí tuệ cảm xúc của cá nhân. Trong khuôn khổ của đề tài này
9


chúng tôi kế thừa những nghiên cứu của tác giả nước ngoài để xây dựng hệ thống lý
luận của đề tài nghiên cứu đặc biệt là các định nghĩa, vai trị cũng như những biểu
hiện của trí tuệ cảm xúc.
1.1.2. Những nghiên cứu về kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc ở Việt Nam
Trí tuệ cảm xúc là vấn đề khá mới mẻ với các nhà tâm lý học Việt Nam. Tài liệu
chủ yếu được dịch từ các tác phẩm của các tác giả nước ngoài. Khoảng 10 năm trở
lại đây bắt đầu có những cơng trình nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc với các cấp độ
khác nhau và đạt được những bước tiến nhất định.
Trên các tạp chí Tâm lý học và Giáo dục học những năm gần đây đã đăng nhiều
bài viết về trí tuệ cảm xúc.
Đề tài KX-05-06, các tác giả Trần Kiều, Nguyễn Huy Tú, Nguyễn Công Khanh và
nhiều tác giả đã tiến hành đo lường cả 3 chỉ số trí tuệ: trí tuệ thơng minh; trí tuệ cảm
xúc và chỉ số sáng tạo. Trong đó trí tuệ cảm xúc được xem là một trong 3 thành tố
của trí tuệ.
Cơng trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Dung (2002) đã tiến hành đo lường trí tuệ

cảm xúc của giáo viên trung học cơ sở để xem IQ hay EQ đóng vai trị quan trọng
hơn trong công tác chủ nhiệm.
Năm 2004, tác giả Dương Thị Hồng Yến đã tìm hiểu trí tuệ cảm xúc của giáo
viên chủ nhiệm các lớp tiểu học Hà Nội trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ Tâm lý
học được thực hiện tại trường Đại học sư phạm Hà Nội. Năm 2010 tác giả đã phát
triển đề tài này thành luận án tiến sĩ Tâm lý học thực hiện tại Viện Tâm lý học, Viện
khoa học xã hội Việt Nam. Trên các tạp chí Tâm lý học sau này, tác giả Dương Thị
Hồng Yến đã xây dựng quy trình phát triển trí tuệ cảm xúc của cá nhân dựa trên
mơ hình trí tuệ cảm xúc của J.Mayer và P. Salovey và mơ hình EI của D. Caruso.
Những cơng trình nghiên cứu của tác giả này có khả năng ứng dụng cao trong việc
xây dựng các biện pháp giúp cá nhân phát triển trí tuệ cảm xúc. Đặc biệt trong bài
viết mới đây, tác giả Dương Thị Hoàng Yến đã đánh giá cao việc xây dựng nội
dung phát triển trí tuệ cảm xúc trong trường học và coi đó như là “Sứ mệnh của nhà
trường hiện đại”.
10


Năm 2005, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của trường Đại học sư phạm Hà
Nội do tác giả Trần Trọng Thủy chủ nhiệm đã sử dụng công cụ trắc nghiệm để đo
chỉ số cảm xúc của sinh viên hai trường Đại học: Sư phạm Hà Nội và Sư phạm Thái
Nguyên. Bộ công cụ này được nhiều tác giả khác sử dụng trong quá trình nghiên
cứu mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc của các nhóm khách thể khác nhau.
Năm 2007 tác giả Nguyễn Thị Hiền nghiên cứu ảnh hưởng của trí tuệ cảm xúc
đến việc hình thành kỹ năng làm công tác chủ nhiệm lớp của sinh viên, trong đó tác
giả kết luận: Những sinh viên có chỉ số cảm xúc trí tuệ cao hơn là những sinh viên
thành cơng hơn trong việc hình thành kỹ năng làm công tác chủ nhiệm lớp.
Năm 2007 tác giả Phan Trọng Nam trong bài viết “Mức độ trí thơng minh và trí
tuệ cảm xúc của sinh viên trường Đại học Sư phạm Đồng Tháp” (Tạp chí Tâm lý
học số 4 tháng 4/2007) kết luận: Sinh viên làm tốt những bài tập trắc nghiệm liên
quan đến các năng lực nhận biết cảm xúc và hiểu cảm xúc, còn bài tập thể hiện năng

lực xúc cảm hóa ý nghĩ và điều khiển quản lý cảm xúc kết quả đạt được chưa cao.
Năm 2008 tác giả Đỗ Thị Hiền đã nghiên cứu mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc
của sinh viên trường Đại học Cơng nghiệp Hà Nội, trong đó tác giả đã đề cập đến
bản chất của trí tuệ cảm xúc và cho rằng: Trí tuệ cảm xúc là một cấu trúc phức hợp
của nhiều năng lực khác nhau liên quan đến lĩnh vực cảm xúc. Trí tuệ cảm xúc có
biên độ rộng hơn trí thơng minh và dễ thay đổi hơn trí thơng minh. Trí tuệ cảm xúc
là một dạng siêu trí tuệ, siêu năng lực. Trong đề tài này tác giả cũng đã nêu ra các
bước giúp cá nhân nâng cao trí tuệ cảm xúc. Như vậy, theo tác giả Đỗ Thị Hiền, trí
tuệ cảm xúc có thể thay đổi theo thời gian và cá nhân có thể rèn luyện để nâng cao
trí tuệ cảm xúc.
Năm 2010 tác giả Võ Hồng Anh Thư đã nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của học
sinh Trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ Tâm
lý học thực hiện tại trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh. Tác giả đã tiến hành
thực nghiệm một số biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm
xúc cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.

11


Như vậy đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc của nhiều nhóm
khách thể khác nhau, trong đó các tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu mức độ
ảnh hưởng của trí tuệ cảm xúc đến một số lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
trí tuệ cảm xúc trong một số hoạt động nghề nghiệp… Tuy nhiên, hầu như các tác
giả chưa nghiên cứu về kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc (hay trí tuệ cảm xúc)
của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
1.2.Cơ sở lý luận về kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc của trẻ mẫu giáo 56 tuổi
1.2.1.Khái niệm công cụ
1.2.1.1. Kỹ năng
Theo từ điển tiếng Việt, kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực
tiễn [28].

Theo từ điển Oxford định nghĩa “Skill”- là khả năng tìm ra giải pháp cho một vấn
đề nào đó và có được nhờ rèn luyện [2].
Theo từ điển giáo dục học, “Kỹ năng là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt
động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể để tiến hành hành động ấy
cho dù đó là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ”.
Theo từ điển tâm lí học do tác giả Vũ Dũng biên soạn: “Kỹ năng là năng lực vận
dụng có kết quả những tri thức về hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện
những nhiệm vụ tương ứng. Ở mức độ kỹ năng cơng việc được hồn thành trong
điều kiện hồn cảnh không thay đổi, chất lượng chưa cao, thao tác chưa thuần thục
và còn phải tập trung chú ý căng thẳng, kỹ năng được hình thành qua luyện tập” [6].
Trong từ điển tâm lí học của A.M. Colman, “Kỹ năng là sự thông thạo, hiểu biết
chuyên môn sâu, là khả năng đạt được thành tích cao trong một lĩnh vực nhất định;
cụ thể là một cách thức thực hiện hành vi có sự phối hợp, có tổ chức, đạt được
thơng qua sự huấn luyện và thực hành” [ 7].
Từ điển tâm lí học của Mĩ do J.P Chaplin chủ biên (1968) định nghĩa: “Kỹ năng là
thực hiện một trật tự cao cho phép chủ thể tiến hành hành động một cách trôi chảy
và đúng đắn”.
12


Các quan niệm về kỹ năng:
 Quan niệm thứ nhất xem kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành động,
hoạt động.
Tác giả N.D. Levitovxam xem xét kỹ năng gắn liền với hành động. Theo ơng,
người có kỹ năng hành động là người phải nắm được và vận dụng đúng đắn cách
thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả. Ơng nhấn mạnh muốn hình
thành kỹ năng con người vừa phải nắm vững lý thuyết về hành động, vừa phải vận
dụng lý thuyết đó vào thực tế.
Tác giả Trần Trọng Thủy quan niệm rằng kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động,
có kỹ năng [ 19].

Các tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa, Triệu Xuân Quýnh, Bùi Ngọc Oánh cho rằng: “
Kỹ năng là những hành động được hình thành do sự bắt chước trên cơ sở của tri
thức mà có, chúng địi hỏi sự tham gia thường xuyên của ý thức, sự tập trung chú ý,
cần tiêu tốn năng lượng của cơ thể”. Các tác giả cũng đã cho biết, kỹ năng có những
đặc điểm khác nữa là hành động chưa được khái quát, do thao tác chưa chính xác
nên vai trị kiểm sốt của thị giác là quan trọng”.
Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng, theo quan niệm trên thì kỹ năng được hiểu là sự
mơ tả chính xác chỉ đối với những kỹ năng đơn giản mà thao tác có thể quan sát
được. Riêng các kỹ năng phức tạp thì ln địi hỏi phải có sự nổ lực của trí tuệ căng
thẳng và khó có thể tự động hóa được. Kỹ năng đơn giản chưa có thể được xem là
năng lực, nó chỉ là điều kiện đủ của năng lực [17].
 Quan điểm thứ hai xem kỹ năng là biểu hiện của năng lực con người.
Tác giả A.V. Petrovxki cho rằng: “Kỹ năng là cách thức cơ bản để chủ thể thực
hiện hành động, thể hiện bởi tập hợp những kiến thức thu lượm được, những thói
quen và kinh nghiệm”. Cụ thể hơn tác giả viết: “Năng lực sử dụng các sự kiện, các
tri thức và kinh nghiệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những bản
chất của các sự vật và giải quyết thành cơng những nhiệm vụ lí luận hay thực hành
xác định, được gọi là kỹ năng” [13].

13


Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Trần Thị Quốc Minh
cũng cùng quan điểm trên cho rằng kỹ năng là một mặt của năng lực con người thực
hiện một cơng việc có kết quả.
Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng: “Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một
hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để
hành động phù hợp với những điều kiện cho phép” [16, tr. 6].
Theo các quan điểm trên chúng tôi nhận thấy kỹ năng không chỉ đơn thuần là mặt
kỹ thuật của hành động mà còn là biểu hiện của năng lực con người. Việc hình

thành kỹ năng bao hàm cả việc thơng hiểu mối quan hệ qua lại giữa mục đích hành
động, các điều kiện và cách thức hành động nhằm thực hiện hành động có hiệu quả.
* Đặc điểm của kỹ năng:
- Ý thức đóng vai trị tích cực và thường trực. Trong quá trình thực hiện một
hành động, chủ thể thực hiện một kỹ năng nào đó thì chính chủ thể luôn sử dụng ý
thức để nhận biết được các thao tác và hành động cụ thể.
- Khi thực hiện kỹ năng, chủ thể phải sử dụng các tri thức khác nhau để kiểm tra
các thao tác thực hiện.
- Tùy vào từng mức độ kỹ năng của mỗi chủ thể mà các thao tác được thực hiện
đầy đủ, chính xác đến mức độ nào. Tuy nhiên, khi thực hiện kỹ năng, thường những
động tác thừa, động tác phụ chưa được loại trừ.
- Trong kỹ năng có sự thống nhất giữa tính ổn định và tính linh hoạt: có nghĩa là
kỹ năng không nhất thiết phải gắn liền với một đối tượng nhất định, mà trong
trường hợp kỹ năng ở mức độ cao thì chủ thể có khả năng di chuyển linh hoạt và dễ
dàng sang những đối tượng mới.
* Mức độ của kỹ năng:
Trong từ điển rút gọn các khái niệm Tâm lí học của Nga và cũng là quan niệm
của K.K. Platon và G.G. Golubev, có 5 mức độ hình thành kỹ năng như sau:
Bảng 1.1.Phân chia các mức độ kỹ năng theo quan điểm của K.K Platonov
và G.G. Golubev

14


STT

1

2


3

4

5

Các mức

Miêu tả

độ
Mức độ 1

Có kỹ năng sơ đẳng, hành động được thực hiện theo cách thử và
sai, dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm

Mức độ 2

Biết cách thực hiện hành động nhưng khơng đầy đủ

Mức độ 3

Có những kỹ năng chung nhưng cịn mang tính chất rời rạc,
riêng lẽ

Mức độ 4

Có những kỹ năng chuyên biệt để hành động

Mức độ 5


Vận dụng sáng tạo những kỹ năng trong các tình huống khác
nhau

Theo quan điểm của V.B. Bexpalko, có 5 mức độ kỹ năng: Từ những kỹ năng ban
đầu đến những kỹ năng đạt mức độ hoàn hảo:
-

Mức độ 1: Kỹ năng ban đầu

Người học đã có những kiến thức về nội dung một dạng kỹ năng nào đó và trong
những tình huống cụ thể khi cần thiết sẽ có thể tái hiện thành những thao tác, hành
động nhất định. Tuy nhiên, ở mức độ kỹ năng ban đầu này người học chỉ thực hiện
yêu cầu của kỹ năng này dưới sự hướng dẫn của người dạy.
-

Mức độ 2: Kỹ năng thấp

Khác với mức độ 1, ở mức độ kỹ năng thấp, người học có thể tự thực hiện các
thao tác, hành động cần thiết theo một trình tự đã biết. Song ở mức độ kỹ năng này,
người học chỉ thực hiện được những thao tác, hành động trong những tình huống
quen thuộc và chưa di chuyển được sang tình huống mới.
-

Mức độ 3: Kỹ năng trung bình

Người học tự thực hiện thành thạo các thao tác trong tình huống quen thuộc. Tuy
vậy, việc di chuyển các kỹ năng sang tình huống mới cịn hạn chế.
15



-

Mức độ 4: Kỹ năng nâng cao

Một sự khác biệt thể hiện ở mức độ cao là người học đã tự lựa chọn hệ thống các
thao tác, các hành động cần thiết trong các tình huống khác nhau. Bên cạnh đó,
người học đã biết di chuyển kỹ năng trong phạm vi nhất định.
-

Mức độ 5: Kỹ năng hoàn hảo

Đây là mức độ cao nhất của kỹ năng. Người học nắm được đầy đủ hệ thống các
thao tác, hành động khác nhau, biết chọn lựa những thao tác, hành động cần thiết và
ứng dụng chúng một cách thành thạo trong các tình huống khác nhau mà khơng gặp
khó khăn gì [17, tr.20-21].
1.2.1.2 Kỹ năng sống
Theo tác giả Huỳnh Văn Sơn “Sống là một q trình địi hỏi con người phải có
những kỹ năng nhất định”. Khó có thể liệt kê một cách đầy đủ những kỹ năng con
người cần có trong quá trình sống nhưng thuật ngữ “ Sống” ở đây được nhìn dưới
góc độ tâm lí và tâm lí học- xã hội. Nói khác đi, những kỹ năng nghề nghiệp, những
kỹ năng chuyên môn không được đề cập và phân tích như kỹ năng sống dù rằng nó
có mối quan hệ rất chặt chẽ để con người có thể sống, tồn tại và phát triển. Hơn nữa
nếu hiểu theo nghĩa hẹp của kỹ năng sống thì sống có nghĩa là tồn tại cho nên
những kỹ năng sống được phân tích ở đây là những kỹ năng giúp cho con người tồn
tại về mặt thể chất và mặt tâm lí [16,Tr.6].
Quan niệm của UNSESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp
Quốc) cho rằng: “Kỹ năng sống là năng lực cá nhân giúp cho việc thực hiện đầy đủ
chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày”.
Theo UNICEP (Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc), kỹ năng sống là những hành vi

cụ thể, thể hiện khả năng chuyển đổi kiến thức và thái độ thành hành động thích ứng
trong cuộc sống. Kỹ năng sống phải dựa trên nhận thức, thái độ và chuyển biến
thành hành vi như một nhu cầu liên hồn và có định hướng. Giáo dục dựa trên kỹ
năng sống cơ bản là sự thay đổi hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo ra
sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và hành vi.

16


Theo WHO (Tổ chức Y tế Thế giới), kỹ năng sống là năng lực tâm lý- xã hội thể
hiện khả năng ứng phó một cách có hiệu quả yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
Đó cũng chính là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái sức khỏe mạnh
về tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người
khác, với nền văn hóa và mơi trường xung quanh. Năng lực tâm lí xã hội có vai trị
quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần
và xã hội. Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội này.
Tác giả Xkomni thì cho rằng: “Kỹ năng sống là khả năng con người thực hiện
hành vi thích ứng với những địi hỏi và thách thức trong cuộc sống. Kỹ năng sống
thể hiện năng lực sống của con người trong cuộc sống cá nhân, trong mối quan hệ
xã hội”.
Từ góc độ tâm lý học tác giả Nguyễn Quang Uẩn khẳng định: “Kỹ năng sống là
một tổ hợp phức tạp của một hệ thống kỹ năng nói lên năng lực sống của con người,
giúp con người thực hiện công việc và tham gia vào cuộc sống hằng ngày có kết quả
trong những điều kiện xác định của cuộc sống”[ 23].
Có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống nhưng các quan niệm trên có
những điểm chung về nhận định kỹ năng sống là những kỹ năng xã hội của con
người giúp duy trì và thích ứng với những điều kiện sống cá nhân- mối quan hệ xã
hội trong cuộc sống. Từ đó, chúng tơi đưa ra quan niệm sống như sau:
Kỹ năng sống là những năng lực tâm lý- xã hội cơ bản giúp cá nhân thích ứng và
tồn tại trong cuộc sống. Những kỹ năng này giúp cá nhân thể hiện khả năng của

mình để thích nghi với những thách thức trong cuộc sống và phát triển.
* Phân loại kỹ năng sống:
Tùy theo quan niệm khác nhau về kỹ năng sống mà số lượng cũng như tên gọi
những kỹ năng sống sẽ khác nhau, chúng ta có thể đề cập tới các cách phân loại sau:
 Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
Theo quan niệm của WHO, có thể nhận thấy có ba nhóm kỹ năng sống dưới đây:
-

Nhóm một: Nhóm kỹ năng nhận thức.

17


Nhóm này bao gồm những kỹ năng cơ bản sau: Tự nhận thức bản thân, tự đặt mục
tiêu và xác định giá trị, kỹ năng tư duy, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng ra quyết định và
giải quyết vấn đề.
-

Nhóm hai: Nhóm kỹ năng liên quan đến kỹ năng cảm xúc.

Nhóm này bao gồm một số kỹ năng sau: Kỹ năng nhận biết và chịu trách nhiệm
về cảm xúc của mình, kỹ năng kiềm chế và kiểm sốt được cảm xúc, kỹ năng tự
giám sát – tự điều chỉnh cảm xúc của cá nhân.
-

Nhóm ba: Nhóm kỹ năng xã hội.

Ở nhóm kỹ năng này bao gồm một số kỹ năng cụ thể như kỹ năng giao tiếptruyền thông, kỹ năng cảm thông, kỹ năng chia sẻ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng gây
thiện cảm, kỹ năng thích ứng với cảm xúc của người khác,…
 Theo Tổ chức Giáo dục - Khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)

Theo Tổ chức UNESCO thì kỹ năng sống phải được phân chia dựa trên những kỹ
năng nền tảng và những kỹ năng chuyên biệt trong đời sống cá nhân của con người
ở những mối quan hệ khác nhau cũng như ở những lĩnh vực khác nhau. Trên cơ sở
đó, có thể có những nhóm kỹ năng sống như sau:
-

Nhóm một: Nhóm kỹ năng chung.

Ở nhóm kỹ năng chung này bao gồm những kỹ năng cơ bản mà mỗi cá nhân đều
có thể có nhằm thích ứng với cuộc sống chung bao gồm: Kỹ năng nhận thức, kỹ
năng liên quan đến cảm xúc và các kỹ năng cơ bản về xã hội.
-

Nhóm hai: Nhóm kỹ năng chuyên biệt.

Nhóm kỹ năng này bao gồm một số kỹ năng sống được thể hiện trong các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội như: các kỹ năng về sức khỏe và dinh dưỡng,
các kỹ năng liên quan đến thế giới và giới tính, các kỹ năng về những vấn đề xã hội
như rượu, ma túy, thuốc lá, HIV-AIDS, các kỹ năng liên quan đến môi trường thiên
nhiên, các kỹ năng liên quan đến vấn đề bạo lực- rủi ro, các kỹ năng liên quan đến
cuộc sống gia đình, các kỹ năng liên quan đến mơi trường cộng đồng,…
 Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc ( UNICEF)

18


Tổ chức này cũng có những nghiên cứu sâu về kỹ năng sống dưới góc độ tồn tại
và phát triển của cá nhân. Cách phân loại này cũng đề cập đến ba nhóm kỹ năng cơ
bản dưới đây:
-


Nhóm một: Nhóm kỹ năng tự nhận thức và sống của chính mình.

Nhóm này bao gồm một số kỹ năng như: tự nhận thức và đánh giá bản thân, kỹ
năng xây dựng mục tiêu cuộc sống, kỹ năng bảo vệ bản thân,…
-

Nhóm hai: Nhóm kỹ năng tự nhận thức và sống với người khác.

Nhóm này bao gồm một số kỹ năng như: kỹ năng thiết lập quan hệ, kỹ năng hợp
tác, kỹ năng làm việc nhóm.
-

Nhóm ba: Nhóm kỹ năng ra quyết định và làm việc hiệu quả.

Nhóm kỹ năng này bao gồm một số kỹ năng như: phân tích vấn đề, nhận thức
thực tế, đưa ra quyết định, ứng xử, giải quyết vấn đề,…
Ở mỗi góc độ khác nhau, cách phân loại kỹ năng sống có thể khác nhau và mang
tính tương đối. Tuy nhiên, dù có phân loại trên góc nhìn nào đi nữa thì kỹ năng sống
phải là những khả năng thuộc về năng lực cá nhân, giúp bản thân tồn tại và làm chủ
cuộc sống của mình cũng như đạt được những mục tiêu sống một cách hiệu quả.
Với trẻ mầm non việc rèn luyện những kỹ năng sống là rất cần thiết cho cuộc sống
sau này của trẻ. Những kỹ năng sống cần thiết cho cá nhân- cho mối quan hệ xã hội
ở giai đoạn trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi giúp trẻ phát triển một cách toàn diện: Kỹ năng
phát triển thể chất, kỹ năng phát triển nhận thức, kỹ năng phát triển ngôn ngữ, kỹ
năng phát triển thẩm mỹ- tình cảm xã hội. Kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc
cũng là một kỹ năng cần rèn luyện cho trẻ.
1.2.1.3. Cảm xúc
a.


Định nghĩa
Cảm xúc hay tình cảm là một hình thức trải nghiệm cơ bản của con người về thái

độ của chính mình đối với sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, với người
khác và với bản thân. Sự hình thành cảm xúc là một một điều kiện tất yếu của sự
phát triển con người như là một nhân cách [29].

19


Cảm xúc là dòng năng lượng chuyển động (e- motion: energy- motion), ngụ ý
năng lượng vận hành bên trong cơ thể. Năng lượng thay đổi sẽ truyền tín hiệu đến
não. Khi não tiếp nhận thơng tin này nó có khả năng chuyển cảm xúc thành cảm
giác và ra lệnh cho cơ thể phản ứng [1].
Theo từ điển “Random House Dictionary of the English Language” định nghĩa:
“Cảm xúc chính là những phản ứng mạnh mẽ của ý thức được thể hiện bằng sự vui
mừng, đau khổ, sợ hãi, yêu, ghét và khác biệt với những phản ứng của ý chí và tư
duy”[ 27, tr. 19].
Theo nhà tâm lý học người Mỹ John Mayer “Cảm xúc là một trạng thái tinh thần
(bao gồm những quá trình và phản ứng tâm lý) truyền tải những thơng điệp từ phía
các mối quan hệ xã hội của cá nhân’’[ 27, tr. 20].
Theo từ điển Tâm lý học của tác giả Nguyễn Khắc Viện định nghĩa về cảm xúc
như sau: Cảm xúc là phản ứng rung chuyển của con người trước một kích động vật
chất hoặc một sự việc gồm hai mặt: những phản ứng sinh lý do thần kinh thực vật
như tim đập nhanh, toát mồ hôi, nội tiết tăng hay giảm, cơ bắp co thắt hoặc run rẩy,
rối loạn tiêu hóa. Phản ứng tâm lý qua những thái độ, lời nói, hành vi và cảm giác
dễ chịu, khó chịu, vui sướng, buồn khổ, có tính bộc phát, chủ thể kiềm chế khó
khăn” [ 24, tr. 30].
Theo tác giả Nguyễn Xuân Thức, Nguyễn Quang Uẩn đều có chung một nhận
định về cảm xúc: “Đó là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với

những sự vật - hiện tượng của hiện thực, phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên
hệ giữa nhu cầu và động cơ của con người” [21, tr. 53].
Như vậy, cảm xúc là một khái niệm thuộc lĩnh vực tình cảm đó là những hiện
tượng tâm lý biểu thị thái độ rung cảm của con người đối với sự vật, hiện tượng có
liên quan tới nhu cầu và động cơ của họ. Những rung cảm này là những phản ứng
xúc cảm của con người đối với sự vật - hiện tượng trong quá trình nhận thức cuộc
sống và được lặp đi lặp lại, phát triển trong điều kiện xã hội trở thành thái độ ổn
định và thuộc tính của nhân cách, mang tính chủ thể cao.

20


Tóm lại trong đề tài nghiên cứu này, thuật ngữ “Cảm xúc” có thể hiểu như sau:
“Cảm xúc là những thái độ biểu hiện sự rung động của con người với thế giới xung
quanh có liên quan tới nhu cầu và động cơ của chủ thể”.
b.

Chức năng của cảm xúc:

Thông thường, cảm xúc có bốn chức năng lớn là thích ứng, động cơ, tổ chức và
tín hiệu [11, Tr.55].
-

Chức năng thích ứng có nghĩa chỉ cảm xúc là một phương pháp để sinh
tồn đối với sự phát triển của cá thể.

-

Chức năng động cơ có nghĩa chỉ cảm xúc là nguồn gốc của các động cơ.


-

Chức năng tổ chức nghĩa là cảm xúc có vai trị điều tiết hoặc phá hoại các
hoạt động tâm lý.

-

Chức năng tín hiệu đóng vai trị quan trọng trong q trình giáo tiếp xã
hội (giúp nhận ra những mối nguy hiểm hay thể hiện yêu cầu, nhu cầu,…)

Còn theo L.S Greenberg, những cảm xúc của con người có tính trí tuệ và làm cho
họ thành công hay không là nhờ vào những chức năng sau:
 Chức năng thông tin
Cảm xúc là những dấu hiệu đáng giá để được lắng nghe. Chúng gửi thông tin đến
để báo hiệu cho con người đang bị nguy hiểm, báo hiệu ranh giới người đó đang bị
xâm phạm. Cảm xúc cũng nói cho con người biết rằng sự việc có thể diễn ra theo
hướng của chúng không và sắp xếp tổ chức chúng lại nhằm nhanh chóng trả lời các
tình huống để đảm bảo cho việc đi đúng theo con đường đó. Chức năng sắp xếp cho
con người hoạt động.
Cảm xúc chỉ cho chúng ta làm thế nào để điều khiển cuộc sống. Khi chúng ta trải
qua cảm giác khó chịu, có nghĩa là có một điều gì sai sót trong cơng việc mình đang
thực hiện. Vì vậy, trên cơ sở đọc được những thông điệp phản ứng của cơ thể và
nhận thức vấn đề, chúng ta có khả năng hành động sửa chữa phù hợp hơn.
 Chức năng xây dựng và sắp xếp các mối quan hệ
Cảm xúc nói cho con người biết bản chất các mối quan hệ xã hội mà mình đang
có và cách thức kiểm sốt chúng. Chúng thông báo cho chúng ta biết mối quan hệ
21


họ đạt đỉnh cao hay bị phá vỡ hoặc trong tình trạng cần vun đắp thêm. Cảm xúc có

thể được nhận thấy trên khn mặt và giọng nói của một người và bằng cách đó
chúng điều chỉnh bản thân người đó hay người khác.
Mỗi cảm xúc xác định mối quan hệ của cá nhân và người khác với môi trường
xung quanh.
Cảm xúc làm cho cuộc sống thêm màu sắc, có giá trị và ý nghĩa.
Con người không thể trải nghiệm cảm xúc thì họ sẽ thiếu định hướng, khơng biết
cái gì là quan trọng đối với mình. Hơn nữa, nó là cách thức biểu đạt và bộc lộ trạng
thái tâm lý của cá nhân cho người khác biết.
c.

Vai trò của cảm xúc
 Vai trò của cảm xúc đối với sinh lý cơ thể
Cảm xúc có mối quan hệ mật thiết đối với sự hưng phấn của các nơ- ron thần

kinh. Tomskin đã chứng minh rằng: “ Sự hoạt hóa thần kinh của mọi cảm xúc đều
có thể được mơ tả nhờ nguyên tắc mật độ hưng phấn thần kinh”. Ông đã chứng
minh rằng “một vài cảm xúc thần kinh”. Ông đã chứng minh rằng: “Một vài cảm
xúc thường xuyên xuất hiện nhờ nâng cao kích thích nơ- ron, một số cảm xúc khác
nhờ giảm kích thích, một số cảm xúc thứ ba nhờ các kích thích đạt độ bền vững” [3,
tr 76].
Khi một cảm xúc xảy ra, nó làm nảy sinh một quá trình thần kinh trên vỏ não, gây
nên một hưng phấn thần kinh của chất dưới vỏ não và được chuyển hoàn toàn
xuống hệ thần kinh thực vật. Do đó hoạt động của các tuyến nội tiết thay đổi, chiều
sâu và nhịp độ làm việc của hệ thống hô hấp và tim mạch bị rối loạn [9, tr. 107].
Các đáp ứng nội tiết trong cảm xúc giúp cơ thể đối phó với những tình huống khẩn
cấp. Song nếu đáp ứng ấy diễn ra qua một thời lượng nào đó thì hoạt tính của một
số chất nội tiết cũng tạo điều kiện thuận lợi cho một cảm xúc nào đó dễ dàng xảy ra.
Tác động lên hệ thần kinh và nội tiết, cảm xúc có ảnh hưởng đến các cơ quan và
tồn bộ cơ thể. Khi có cảm xúc, trong các cơ của mặt diễn ra những biến đổi sinh lý.
Khi căm giận hay khiếp sợ quá mức nhịp tim có thể tăng lên 40 lần đập trong một

phút. Những biến đổi mạnh của các chức năng trong cơ thể trong lúc cảm xúc mạnh
22


chỉ rõ rằng, tất cả các hệ thần kinh sinh lý và những hệ cơ quan của thân thể đều
tham gia ít hoặc nhiều khi con người ở trạng thái cảm xúc.
Đánh giá vai trò của cảm xúc, nhà sinh lý học thần kinh Xô Viết P.K Anokhin đã
xem các cảm xúc như là một “Công cụ đặc biệt để duy trì quá trình sống trong
những giới hạn tối ưu của nó và ngăn ngừa tính chất hủy hoại do thiếu hay thừa
những yếu tố nào đó trong cuộc sống của một cơ thể”. Nhờ những phản ứng và
những trạng thái cảm xúc, hệ thần kinh trung ương biết và nhận được thông tin rằng
hành vi thỏa mãn nhu cầu quan trọng nào trong cuộc sống đã xảy ra ra sao và kết
quả như thế nào. Khi các cảm xúc nảy sinh có tính chất phản xạ có điều kiện, chúng
đóng vai trị như các tính hiệu báo trước những thay đổi có thể xảy ra trong mơi
trường xung quanh và chuẩn bị cho cơ thể thích nghi một cách tương ứng.
Bên cạnh những cảm xúc tích cực có tác dụng thúc đẩy cuộc sống và hoạt động
của cá nhân còn những cảm xúc tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến các cơ quan tổ chức
mô, hậu quả làm giảm sức làm việc của con người. Sợ hãi làm tim đập nhanh hơn,
mạch máu hẹp lại, da xanh xao, sự khiếp sợ quá mức có thể dẫn đến tử vong nhanh
hơn do bệnh đau tim mạch, vỡ động mạch, tiêu hóa giảm [5, tr 25], [3, tr 23].
 Cảm xúc ảnh hưởng đến tri giác
Cảm xúc cũng như các trạng thái động cơ khác, ảnh hưởng đến sự tri giác của con
người. Một con người đang vui có khuynh hướng tri giác thế giới qua “Lăng kính
màu hồng”. Cịn nét đặc trưng con người đang đau buồn, buồn phiền là khuynh
hướng lí giải những nhận xét người khác như những lời chê bai, trách cứ... Một
người đang sợ hãi có khuynh hướng chỉ nhìn thấy đối tượng gây khiếp đảm (hiệu
ứng “Nhãn quang thu hẹp”).
 Cảm xúc ảnh hưởng đến trí nhớ, tư duy, tưởng tượng
Trong các nghiên cứu của McClelland, Atkinson (1960) có thấy dự thay đổi trong
nội dung tưởng tượng, làm xuất hiện tâm trạng, động cơ khác nhau như những thay

đổi trong nội dung tưởng tượng vê những tình huống cần giải quyết bài tập khó
hoặc trong cuộc tranh đua làm xuất hiện những mong muốn hoàn thành công việc
tốt hơn,…
23


Các nhà tâm lí học ở phương Tây cũng như các nhà tâm lý học Macxit ở các thế
kỉ trước đã nghiên cứu và cho thấy rằng cảm xúc ảnh hưởng đến hoạt động nhận
thức và trí tuệ của con người. Các cảm xúc tiêu cực làm rối loạn quá trình tâm lý.
Khi buồn rầu, đau khổ, con người tiếp nhận thông tin hay lĩnh hội tri thức kém hơn,
hứng thú với ngoại cảnh giảm đi và suy nghĩ trở nên hời hợt…những phản ứng trí
tuệ trở nên chậm chạp hơn và các đam mê thường chi phối lý trí.
L.X. Vugotxki cho rằng: “Cảm xúc không chỉ thể hiện qua nét mặt, điệu bộ cơ
thể tác động qua tim mạch mà cịn lưu giữ trong các biểu tượng của trí nhớ, trong
tưởng tượng của con người. Cường độ cảm xúc có ảnh hưởng trực tiếp đến độ bền
của trí nhớ. Cảm xúc có các ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động trí nhớ của con người
nó có thể làm giảm hoặc tăng tính tích cực của hoạt động này, làm sáng tỏ hoặc lu
mờ, đầy đủ, đúng hoặc biến dạng đi đối tượng, điều đó phụ thuộc vào tính chất, nội
cung của các đối tượng tác động” [8, tr 51- tr 52].
Piagie nói đến vai trị của cảm xúc thì ông quan niệm: “Mỗi ứng xử bao gồm hai
mặt: mặt năng lượng và mặt nhận thức- cấu trúc. Mặt năng lượng là do cảm xúc con
người tạo ra, còn cấu trúc hay nhận thức là kết quả của trí tuệ. Như vậy cảm xúc và
nhận thức không tách rời nhau mặc dù chúng khác biệt nhau”.
 Cảm xúc và hành động
Theo Daniel Goleman, về bản chất, tất cả những cảm xúc điều xuất phát từ kích
thích hành động, đó là những phản ứng tức thì để đối phó với những phản ứng sinh
tồn mà sự tiến hóa đã dành cho con người. Các nhà nghiên cứu cũng nhận ra rằng,
mỗi kiểu cảm xúc chuẩn bị cho thân thể một vài kiểu phản ứng khác nhau như thế
nào. Ví dụ, sự giận dữ làm máu nổi lên bàn tay, khiến cho một người chiếm lấy
nhanh hơn một vũ khí hay đánh kẻ thù và những hormon như adrenalin tiết ra rất

mạnh để giải thoát năng lượng cần cho một hành động quyết liệt, sự sợ hãi đưa máu
tới các cơ chỉ huy sự vận động của thân thể như các cơ bắp chân, chuẩn bị cho việc
chạy trốn và làm cho mặt tái đi do máu được truyền đi nơi khác [2, tr.26- 29].
Các tác giả Nguyễn Xuân Thức, Nguyễn Quang Uẩn đều có chung một cách nhìn
rằng cảm xúc chính là động lực thúc đẩy con người hành động, là nhân tố điều
24


khiển hành vi và hành động cá nhân. Cảm xúc có khả năng làm nảy sinh ra một
năng lượng tinh thần mạnh mẽ, thúc đẩy con người hoạt động tích cực hoạt động để
thực hiện mục đích. Từ lâu con người đã thấy rằng, hiệu quả của bất cứ công việc
nào phần lớn và trước hết phụ thuộc vào thái độ của người đó đối với cơng việc ấy.
Nếu con người có thái độ tốt đúng với hoạt động thì hiệu quả của hoạt động đó sẽ
cao, ngược lại nếu thái độ khơng tốt thì hiệu quả cơng việc hạn chế.
Các nhà nghiên cứu điều cho rằng những cảm xúc tích cực có ảnh hưởng tốt đến
thao tác nhận thức, giúp con người có nhiều năng lượng và hoạt động có hiệu quả
hơn, giải quyết vần đề một cách sáng tạo hơn. Đồng thời cảm xúc tích cực giúp con
người vượt qua khó khăn thử thách, giải quyết vấn đề sáng suốt hơn.
1.2.1.4. Trí tuệ cảm xúc
a. Định nghĩa trí tuệ cảm xúc
Peter Salovey và Jonh Mayer là những người đầu tiên đưa ra định nghĩa về trí tuệ
cảm xúc. Theo đó trí tuệ cảm xúc được hiểu là khả năng hiểu rõ cảm xúc bản thân,
thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng chúng để
hướng dẫn suy nghĩ và hành động của bản thân.
Trong cuốn sách “Sự phát triển cảm xúc và trí tuệ cảm xúc”, P. Salovey đã nêu lại
định nghĩa về trí tuệ cảm xúc như sau: Trí tuệ cảm xúc bao gồm khả năng tiếp nhận
đúng, đánh giá và thể hiện cảm xúc, khả năng đánh giá và phân loại những cảm xúc
giúp định hướng cảm xúc nhằm gia tăng sự phát triển cảm xúc và trí tuệ.
Tác giả Daniel Golemam đưa ra định nghĩa về trí tuệ cảm xúc: “Trí tuệ cảm xúc là
năng lực nhận biết các cảm xúc của mình và người khác, năng lực tự thúc đẩy và

năng lực điều hành tốt các cảm xúc trong bản thân mình và trong các mối quan hệ
với người khác”. Ơng quan niệm rằng: “Trí tuệ cảm xúc bao gồm năng lực tự kiềm
chế, kiểm sốt lịng nhiệt tình, sự kiên trì và năng lực tự thơi thúc bản thân mình”.
Trí tuệ cảm xúc là khả năng nhận thức và thấu hiểu những cảm xúc của bản thân
cũng như những người xung quanh và khả năng vận dụng nhận thức này để kiểm
soát hành vi và những mối quan hệ của bạn [22].
b. Biểu hiện của trí tuệ cảm xúc:
25


×