Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa tại hội sở chính ngân hàng công thương hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 79 trang )

Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là chìa khoá, là nguồn lực hết sức quan trọng đối với phát triển
kinh tế. Tín dụng ngân hàng là “kênh vốn” chính cung ứng cho nền kinh tế
nước ta trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, hoạt động tín dụng ngân hàng có
đảm bảo hiệu quả, an toàn và bền vững thì mới có thể đảm bảo cho sự lưu
thông tuần hoàn của mạch máu kinh tế.
Mấy năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh việc sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Cổ
phần hoá là giải pháp nhằm làm cho sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước từ
“ảo” đến “thực”, chuyển từ kiểm soát bằng chế độ quan liêu sang tự kiểm soát
thông qua lợi ích của các chủ sở hữu thực. Nhưng trên chặng đường này đã
xuất hiện một số doanh nghiệp cố ý chây ỳ không nhận nợ hoặc đòi ngân
hàng khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ. Vì vậy ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ
mất vốn, chất lượng tín dụng giảm sút.
Xuất phát từ thực tế này, trong thời gian thực tập tại ngân hàng Công
Thương Hà Tây, em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng đối
với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa tại Hội sở chính Ngân hàng Công
thương Hà tây”.
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, bố cục của chuyên đề gồm ba phần
chính:
Chương 1: Chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhà nước cổ
phần hoá.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hoá tại Hội sở chính Ngân hàng Công thương Hà tây.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hoá tại Hội sở chính Ngân hàng Công thương Hà
tây.
Do thời gian có hạn cũng như khả năng hiểu biết còn hạn chế, nên
chuyên đề tốt nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong


được thầy giáo cũng như các các cô chú trong phòng khách hàng doanh
nghiệp góp ý.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS-
TS Vũ Duy Hào, và các cô chú trong phòng khách hàng doanh nghiệp- ngân
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
1
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
hàng công thương Hà Tây đã tạo điều kiện để em hoàn thành chuyên đề tốt
nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thân Thị Mỹ Hoà.
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
2
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
Chương 1
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
CỔ PHẦN HOÁ.
1.1 Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhà nước
cổ phần hoá.
1.1.1 Đặc trưng các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhà nước.
Theo luật doanh nghiệp nhà nước ngày 26/11/2003, tại điều 1: “Doanh
nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà
nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Khái niệm này đã bao quát những đặc điểm nổi bật về doanh nghiệp
nhà nước:
 Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế do Nhà nước sở

hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối. Là một tổ chức
kinh tế, cho nên doanh nghiệp nhà nước khác với các tổ chức phi kinh tế khác
(như tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị - xã hội) ở mục đích
hoạt động. Mục đích của doanh nghiệp nhà nước là thực hiện các hành vi kinh
doanh để tìm kiếm lợi nhuận, trong khi đó mục đích hoạt động của các tổ
chức phi kinh tế lại không vì mục đích lợi nhuận.
Vốn điều lệ của doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc là do
các thành viên đóng góp nhưng trong đó nhà nước giữ cổ phần hoặc vốn góp
chi phối chiếm trên 50% vốn điều lệ.
 Mỗi doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh độc lập tự
chịu trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ
của doanh nghiệp.
 Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà
nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
 Mặc dù doanh nghiệp nhà nước có sự đầu tư vốn của nhà nước
vào trong doanh nghiệp, tuy vậy có sự tách biệt rõ ràng giữa chức năng quản
lý nhà nước với chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước có thể coi là “xương sống” của nền kinh tế
Việt Nam. Các DNNN Việt Nam hình thành từ năm 1954 ở miền Bắc và từ
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
3
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
năm 1975 ở miền Nam. DNNN đã thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong
nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác
đầu tư với nước ngoài. DNNN là lực lượng quan trọng trong việc thực hiện
các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản
phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, khi bước sang nền kinh tế thị trường cùng với sự cạnh

tranh khốc liệt, DNNN đã bộc lộ những mặt tồn tại như:
Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biểu hiện
ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn. Theo báo cáo của Bộ tài chính
về các chỉ tiêu chủ yếu năm 1992, thì cả nước có trên 2/3 tổng số doanh
nghiệp nhà nước có số lượng lao động dưới 200 người.
Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu. Phần lớn các DNNN đã được
thành lập khá lâu, có trình độ kỹ thuật thấp. Theo báo cáo điều tra bộ khoa
học – công nghệ và môi trường thì trình độ công nghệ trong các DNNN của
Việt Nam kém các nước từ 3-4 thế hệ. Mặt khác, đại bộ phận DNNN được
xây dựng bằng kỹ thuật của nhiều nước khác nhau nên tính đồng bộ của
doanh nghiệp thấp. Vì vậy, các DNNN Việt Nam khó có khả năng cạnh
tranh cả trên thị trường nội địa và quốc tế.
Trình độ quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong sản xuất kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh còn chưa
cao. Các DNNN là con đẻ của nhà nước, được nhận sự bao cấp theo cơ chế
xin cho nên hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, năng suất lao động thấp.
Hiện nay, DNNN đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi
mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Cổ phần hoá chính là
giải pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường.
1.1.1.2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là chuyển doanh nghiệp nhà nước
từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại
hoặc không tồn tại sở hữu nhà nước. Thực chất cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước là chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần (theo nghị định
187/2004/NĐ-CP). Về hình thức, cổ phần hoá là việc nhà nước bán một phần
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
4
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây

hay toàn bộ giá trị tài sản của mình trong doanh nghiệp cho các tổ chức hoặc
cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua
thị trường chứng khoán. Về bản chất, cổ phần hóa chính là hình thức thực
hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kế hoạch một chủ sở hữu nhà nước
thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu để vừa tạo động lực cho các cá nhân có
sở hữu có thêm lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh, làm cho họ không ngừng
phát huy lao động sáng tạo, vừa huy động được vốn cho doanh nghiệp.
1.1.1.3 Đặc trưng của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
a. Đối tượng và điều kiện cổ phần hoá:
 Đối tượng thực hiện cổ phần hoá: Công ty nhà nước không thuộc
diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, bao gồm: các tổng công ty nhà
nước (kể cả ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính nhà nước); công
ty nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty do
Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập; đơn vị hạch toán phụ thuộc của
công ty nhà nước.
Danh mục công ty nhà nước thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ.
 Điều kiện thực hiện cổ phần hoá:
+ Các công ty nhà nước nêu ở trên được tiến hành cổ phần hoá khi còn
vốn nhà nước ( chưa bao gồm giá trị quyền sử dụng đất ) sau khi giảm trừ giá
trị tài sản không cần dùng, tài sản chờ thanh lý; các khoản tổn thất do lỗ, giảm
giá tài sản, công nợ không có khả năng thu hồi và chi phí cổ phần hoá.
+ Đối với các đơn vị hạch toán phụ thuộc chỉ được tiến hành cổ phần
hoá khi :
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc của doanh nghiệp có đủ điều kiện
hạch toán độc lập.
- Không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
b. Hình thức cổ phần hoá công ty nhà nước:
 Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ

phiếu thu hút thêm áp dụng đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa có nhu
cầu tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
5
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
nhu cầu vốn của công ty cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần
được phản ánh trong phương án cổ phần hoá.
 Bán một phần vốn nhà nước hiện tại doanh nghiệp hoặc kết hợp
vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút
vốn.
 Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp
vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn.
c. Quy trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần.
Thông tư 126/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện nghị định
187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của chính phủ về chuyển công ty nhà
nước thành công ty cổ phần, đã có hướng dẫn quy trình chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần như sau:
Bước 1: Xây dựng phương án cổ phần hóa.
Hàng năm các Bộ, cơ quan ngang Bộ và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh rà
soát, đánh giá, phân loại và lựa chọn các công ty nhà nước thuộc diện cổ
phần hoá, tổ chức lại để trình thủ tướng chính phủ xem xét, phê duyết. Việc
tiến hành cổ phần hoá thực hiện theo các bước công việc cụ thể sau:
- Thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hóa và tổ giúp việc ban chỉ đạo.
- Chuẩn bị các hồ sơ tài liệu
- Xử lý những vấn đề về tài chính và tổ chức xác định giá trị doanh
nghiệp
- Hoàn tất phương án cổ phần hóa
Bước 2: Tổ chức bán cổ phần
- Bán cổ phần

- Điều chỉnh phương án cổ phần hóa
Bước 3: Hoàn tất việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần
- Tổ chức đại hội đồng cổ đông và đăng ký kinh doanh
- Tổ chức bàn giao giữa doanh nghiệp và công ty cổ phần
Các bước công việc trên phải hoàn tất trong thời gian tối đa 9 tháng.
Với đề tài này, em sẽ đi sâu nghiên cứu hơn về xử lý tài chính khi cổ
phần hoá, đặc biệt là việc xử lý nợ ngân hàng:
Điều 12 Nghị định 187 quy định “Doanh nghiệp phải huy động các
nguồn để thanh toán các khoản nợ đến hạn trả trước khi cổ phần hoá hoặc
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
6
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
thoả thuận với các chủ nợ để xử lý hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần.
Trong quá trình cổ phần hoá, nếu doanh nghiệp có khó khăn về khả năng
thanh toán các khoản nợ qúa hạn do kinh doanh thua lỗ thì xử lý nợ theo quy
định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng” (Nghị định 69/2002/NĐ-
CP về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp nhà nước. Ngân
hàng nhà nước đã ban hành thông tư 05/2003/TT-NHNN về việc xử lý nợ tồn
đọng của DNNN tại các ngân hàng thương mại nhà nước và thông tư
05/2005/TT-NHNN hướng dẫn một số nội dung liên quan đến hoạt động ngân
hàng theo quy định tại Nghị định số 187/2004.)
Theo hướng dẫn của thông tư 126 về việc xử lý nợ vay ngân hàng khi
doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá:
- Trường hợp bị lỗ, không thanh toán được các khoản nợ quá hạn,
doanh nghiệp làm thủ tục đề nghị khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ theo quy định
của pháp luật hiện hành.
- Đối với khoản nợ lãi vay chưa thanh toán (bao gồm cả lãi đã nhập
gốc) được ngân hàng thương mại nhà nước xem xét, xoá nợ với mức không
vượt quá số lỗ còn lại (sau khi đã xử lý nợ tồn đọng về thuế và các khoản phải

nộp ngân sách nhà nước).
Trong thời gian tối đa 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ
của doanh nghiệp, ngân hàng thương mại cho vay phải có ý kiến xử lý bằng
văn bản thông báo cho doanh nghiệp. Trường hợp đến thời điểm công bố giá
trị doanh nghiệp mà vẫn chưa nhận được ý kiến xử lý của bên cho vay, doanh
nghiệp được tạm loại khoản nợ lãi vay đề nghị xoá khỏi giá trị doanh nghiệp
để cổ phần hoá.
- Khoản nợ gốc quá hạn không được xóa xử lý như sau:
+ Doanh nghiệp làm đầy đủ thủ tục để chuyển giao cho công ty cổ phần
kế thừa trả nợ.
+ Thoả thuận với ngân hàng thương mại cho vay để chuyển nợ thành
vốn góp cổ phần.
+ Phối hợp với ngân hàng thương mại cho vay thực hiện xử lý nợ theo
phương thức bán nợ cho Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh
nghiệp theo giá thoả thuận.
d. Vai trò của cổ phần hoá.
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
7
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
Cổ phần hoá có vai trò to lớn trong việc đổi mới doanh nghiệp nhà
nước, nhất là ở những nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tác dụng của
cổ phần hoá thể hiện ở một số khía cạnh sau:
 Xoá bỏ tình trạng vô chủ của doanh nghiệp: Thời kỳ dài trước
đổi mới, DNNN được hưởng chính sách tài trợ tràn lan đến mức bao cấp,
không tính đến lỗ lãi, không quan tâm đến tiết kiệm. Có một di hại trong thời
bao cấp đó là tài sản của DNNN là “ tài sản chung’’. “ Của cải chung” đồng
nghĩa với “ không phải của ai”, mọi người đều tuỳ tiện sử dụng mà không
phải bận tâm. Tình trạng này gây nên thói vô trách nhiệm, lãng phí gây hậu

quả xấu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN.
 Tháo gỡ khó khăn cho ngân sách nhà nước đồng thời huy động
được nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội:
Nhà nước là người mẹ đỡ đầu cho các DNNN nên ngân sách nhà nước
luôn phải rót xuống cho các DNNN. Trước sức ép lớn về nhu cầu vốn đầu tư
phát triển kinh tế xã hội, cổ phần hoá sẽ là giải pháp giúp chính phủ thực hiện
được thực tiễn đó. Tài sản DNNN nhờ cổ phần hoá thu hồi lại sẽ được phân
bố cho những dự án quốc gia giàu tính khả thi hoặc đầu tư vào những ngành
mang lại nhiều lợi ích kinh tế, xã hội quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế bền vững.
Sự tồn tại của công ty cổ phần với cơ chế lưu chuyển cổ phần thông
qua thị trường chứng khoán tạo ra quá trình luân chuyển vốn từ nơi không có
hiệu quả hoặc hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao. Cũng thông qua việc
phát hành cổ phần, các doanh nghiệp sẽ dễ dàng thu hút các nguồn vốn trong
xã hội cho phát triển kinh tế.
 Tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp: Cổ phần hoá
DNNN đã biến doanh nghiệp thành có chủ, những người chủ trực tiếp điều
hành và lao động trong chính doanh nghiệp. Quyền lợi của họ gắn liền với sự
thành bại của doanh nghiệp, vì thế tất cả các thành viên dều rất quan tâm đến
công việc của mình, lao động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao và óc
sáng tạo lao động. Trong công ty cổ phần người lao động đồng thời là các cổ
đông có quyền yêu cầu lãnh đạo doanh nghiệp trình bày trước Đại hội cổ
đông những vấn đề về nguyên tắc thu chi của doanh nghiệp, có quyền thắc
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
8
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
mắc về hiệu quả quản lý… Vì vậy có sự tách biệt giữa quản lý và sở hữu thúc
đẩy hiệu quả quản lý doanh nghiệp.
Việc chuyển đổi từ DNNN sang công ty cổ phần, nhờ vào những lợi thế

sẵn có của mình và những hộ trỡ ban đầu về cơ chế, chính sách của nhà nước,
nếu biết tận dụng tốt thì các công ty này sẽ làm ăn hiệu quả, nhanh chóng
vươn lên khẳng định vị thế và chiếm lĩnh thị trường. Chính nó sẽ tạo ra áp lực
cạnh tranh mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, từ đó
tạo thành một vòng xoáy thúc đẩy sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.
 Cổ phần hoá với vấn đề dân chủ hoá đời sống kinh tế và chống
tham nhũng: Sự bao cấp của nhà nước đối với DNNN, cơ chế xin cho là mảnh
đất tốt lành cho những hành động lãng phí, tham nhũng. Trong quá trình thực
thi quyền hạn được Nhà nước trao, cơ quan chủ quản vừa có quyền ban hành
các cơ chế, chính sách riêng áp dụng cho doanh nghiệp, đặc biệt là các loại
giấy phép con, vừa có quyền ban phát cho doanh nghiệp những ưu ái trong
phê duyệt dự án đầu tư, cấp phát vốn, bổ sung vốn điều lệ. Đổi lại để được
ban phát những ưu ái đó, các DNNN thường phải chi “hoa hồng” cho những
cơ quan và cá nhân có thẩm quyền quyết định. Cổ phần hoá sẽ là giải pháp
tích cực để hạn chế tình trạng tham nhũng, nâng cao dân chủ và công bằng xã
hội. Các DNNN sau cổ phần hoá sẽ trở thành công ty cổ phần, khi đó không
tồn tại cơ quan chủ quản và không còn cơ chế “xin-cho” đối với doanh nghiệp
nữa. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị chi phối bởi
các quy luật thị trường và pháp luật, từ đó sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.1.2 Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
1.1.2.1 Tín dụng ngân hàng.
a. Khái niệm:
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Với chức năng huy động vốn, cung ứng vốn cho nền kinh tế cũng như
cung cấp phương tiện thanh toán, ngân hàng thương mại góp phần quyết định
cho sự lưu thông của mạch máu tài chính - tiền tệ của mỗi quốc gia. Luật các
tổ chức tín dụng của Việt Nam ghi “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh nghiệp tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D

9
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”.
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, hơn 70% thu nhập của
ngân hàng là từ hoạt động tín dụng. Như vậy có thể hiểu thuật ngữ tín dụng
ngân hàng như thế nào?
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín
nhiệm). Thuật ngữ tín dụng được hiểu theo những cách khác nhau khi đứng
trên nhiều giác độ:
 Xét trên góc độ dịch chuyển quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết
kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp
chuyển dịch quỹ từ người đi vay sang người cho vay.
 Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về
tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài
chính khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn
trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho vay khi đến hạn thanh toán.
Như vậy có thể hiểu tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc
có hoàn trả, gồm cả cho vay và đi vay. Bài nghiên cứu của em gắn liền với
chủ thể là ngân hàng nên tín dụng ngân hàng chỉ bao hàm là ngân hàng cho
vay.
Các nguyên tắc tín dụng ngân hàng:
 Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời hạn
xác định. Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các
khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng
phải có trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi như đã cam kết. Vì vậy, ngân hàng
luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện cam kết này. Đây là điều
kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.

 Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích thoả
thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy
định khác của ngân hàng cấp trên.
 Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (dự án) có hiệu quả. Thực
hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
10
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
hoạt động có hiệu quả thì khả năng trả nợ mới cao. Các khoản tài trợ của ngân
hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay.
b. Phân loại tín dụng:
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau có thể phân loại tín dụng thành các
loại sau:
 Theo hình thức cấp tín dụng:
 Chiết khấu thương phiếu: Thương phiếu được hình thành chủ
yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau,
bao gồm hối phiếu (giấy nhận nợ của người mua) và lệnh phiếu (giấy đòi nợ
của người bán). Người thụ hưởng có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền
người phải trả hoặc đem đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
 Cho vay:
+ Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức
thấu chi.
+ Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, hoặc
là đối với những khách hàng mà vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số
giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay theo hạn mức: là hình thức cho vay mà ngân hàng thoả

thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng (là số dư tối đa tại thời điểm tính
hạn mức).
+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để mua hàng và sẽ thu nợ khi
doanh nghiệp bán hàng.
+ Cho vay gián tiếp: Phần lớn ngân hàng cho vay trực tiếp. Cho vay
gián tiếp là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng ch
vay qua các tổ, đội, nhóm như hội phụ nữ, hộ nông dân… Ngân hàng có thể
chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như
thu nợ, phát tiền vay… Hoặc ngân hàng có thể cho vay thông qua người bán
lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất.
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
11
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
 Cho thuê tài sản: Ngân hàng đã mua các tài sản theo yêu cầu của
khách hàng để cho khách hàng thuê. Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho
thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính. Cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu
thuê trong thời gian ngắn, người đi thuê không có dự định “mua” tài sản đó để
sử dụng lâu dài, như cho thuê xe ô tô ngắn ngày. Cho thuê tài chính đáp ứng
nhu cầu thuê trong thời gian dài và người đi thuê có thể mua lại tài sản khi hết
hợp đồng thuê. Hoạt động cho thuê của ngân hàng chủ yếu là cho thuê tài
chính.
 Bảo lãnh: Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới
hình thức bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng
của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
 Theo thời gian:
 Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn có thời hạn đến 12 tháng,
nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà
nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp

hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần đảm
bảo , dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
 Tín dụng trung, dài hạn: Theo quy định của ngân hàng nhà nước,
tín dụng trung hạn có thời gian trên 12 tháng đến 5 năm, tín dụng dài hạn có
thời hạn trên 5 năm. Tín dụng trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm
tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất
kinh doanh nghiệp của doanh nghiệp; đáp ứng nhu cầu vay vốn của nhà nước
để đầu tư phát triển; thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền của
người tiêu dùng.
 Phân theo mức độ tín nhiệm với khách hàng:
 Tín dụng không có bảo đảm: là loại tín dụng không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào
uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng trung thực trong
kinh doanh nghiệp, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân
hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không
cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
 Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm
như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Sự bảo
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
12
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thứ hai, bổ sung cho
nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.1.2.2 Vai trò tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhà nước cổ
phần hoá.
a. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhà nước:
 DNNN chưa phải là một pháp nhân hoàn toàn “độc lập” và tự
chủ trong việc đàm phán, thoả thuận và thực hiện các thủ tục liên quan đến
hợp đồng tín dụng và hợp đồng đảm bảo tiền vay. Các DNNN được nhận

những ưu đãi trong việc tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng như là vay không
phải thế chấp, cầm cố tài sản; mở thư tín dụng miễn ký quý để nhập khẩu
hàng hoá và được cho vay bắt buộc khi không trả được nợ đến hạn cho bên
nước ngoài (bên bán hàng)… Cụ thể hơn điều kiện cho vay không cần tài sản
thế chấp đối với DNNN được giảm nhẹ: “Đối với DNNN chưa đáp ứng được
điều kiện” có kết quả sản xuất, kinh doanh có lãi 2 năm liền kề với thời điểm
cho vay “nhưng không thuộc diện yếu kém theo phương án sắp xếp (cổ phần
hoá, giao, bán, khoán kinh doanh nghiệp …) của chính phủ, của các bộ,
ngành, địa phương, có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu
quả, khắc phục được lỗ trong thời hạn nhất định và có khả năng trả nợ vay, thì
được các tổ chức tín dụng xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản”
(theo TT10/2000/TT-NHNN1 ngày 31/8/2000). Có sự phân biệt đối xử của
ngân hàng đối với các loại hình kinh tế. Kết quả khảo sát điều tra của Viện
khoa học tài chính - Bộ tài chính cho thấy 90% công ty cổ phần khẳng định có
biểu hiện của sự phân biệt đối xử của ngân hàng trong lĩnh vực tín dụng. Như
vậy khi ngân hàng cấp tín dụng cho DNNN không có tài sản thế chấp nếu DN
làm ăn thua lỗ thì khả năng thu hồi vốn và lãi rất khó khăn, sẽ làm giảm chất
lượng tín dụng.
 Các DNNN thường vay vốn của ngân hàng thương mại nhà
nước. Cả hai đối tượng này đều cùng thuộc một chủ sở hữu. Với chủ trương
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các DNNN đã được chính phủ chú trọng
đầu tư phát triển. Điều đó đã làm cho các ngân hàng chỉ quan tâm đến hoạt
động cho vay các doanh nghiệp này trong khoảng thời gian dài trước kia.
Nhiều khi ngân hàng phải cho vay theo chỉ định của chính phủ hoặc thực hiện
khoanh nợ, giãn nợ cho các DNNN, làm cho ngân hàng có nguy cơ mất vốn.
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
13
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
b. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá

Một doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, điều
kiện tiên quyết đầu tiên cần có đó là vốn. Để phục vụ cho một dự án không
chỉ sử dụng vốn tự có của doanh nghiệp mà việc huy động vốn từ các kênh
khác là rất cần thiết, đặc biệt là từ ngân hàng.
Về chính sách tín dụng đối với các DNNN, Luật các tổ chức tín dụng ,
điều 6 ghi “ Nhà nước có chính sách tín dụng về vốn, điều kiện vay vốn đối
với doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này đổi mới
thiết bị, hiện đại hoá công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh có
hiệu quả, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước”.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các DNNN cổ phần hoá thể hiện
ở các điểm sau:
 Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp để
bù đắp cho sự thiếu hụt vốn lưu động, đáp ứng các nhu cầu dài hạn như mua
sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản
xuất kinh doanh nghiệp,…
 Tín dụng ngân hàng giúp các DNNN tăng cường năng lực kinh
doanh bằng việc tài trợ vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư các dây truyền công nghệ
hiện đại, mua sắm máy móc thiết bị để có thể thích ứng với sự thay đổi nhu
cầu của thị trường trong và ngoài nước. Việc đổi mới công nghệ, trang thiết bị
sẽ giúp cho các DNNN nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh
tranh giữ vững được thị phần trong nước đồng thời mở rộng ra nước ngoài.
Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường - sự cạnh tranh diễn ra gay gắt,
việc tăng cường năng lực kinh doanh sẽ quyết định sự sống còn của doanh
nghiệp.
 Tín dụng ngân hàng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của DNNN. Để có được khoản vốn do ngân hàng cấp, doanh nghiệp phải có
phương án kinh doanh hiệu quả cũng như năng lực tài chính tốt,…Vì vậy, đòi
hỏi các DNNN được vay vốn phải tìm cách để sử dụng vốn vay hiệu quả, đảm
bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng để có thể hoàn trả vốn và lãi

đồng thời thu được lợi nhuận.
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
14
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
Trong quá trình cổ phần hoá DNNN, vai trò của ngân hàng có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng, nhất là trong bối cảnh hiện tại khi mà vốn của ngân hàng
chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ tài sản DNNN, có trường hợp vốn tín dụng
ngân hàng chiếm tới 80% tài sản của doanh nghiệp. Mặt khác các DNNN cổ
phần hoá cũng có nhu cầu vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh,
đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi mới thực hiện chuyển đổi.
Mà theo chỉ đạo của Hội nghị trung ương 9 thì ngân hàng được tham
gia xây dựng và quyết định phương hướng sắp xếp lại DNNN có vay vốn của
ngân hàng thì vai trò lại càng nổi bật hơn bao giờ hết. Vì thế hoạt động ngân
hàng lại càng quan trọng hơn trong việc phân bố lại các nguồn lực nhằm lành
mạnh và tối ưu hoá các hoạt động kinh tế của loại hình doanh nghiệp này.
1.2 Chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
1.2.1 Khái niệm chất lượng tín dụng.
Trong bất cứ nền kinh tế cạnh tranh nào doanh nghiệp muốn đứng vững
trên thương trường thì việc cải thiện chất lượng là điều tất yếu. Các ngân hàng
thương mại cũng là những doanh nghiệp trong nền kinh tế chỉ có khác ở điểm
mặt hàng kinh doanh đặc biệt là tiền tệ. Vì vậy các ngân hàng cũng phải quan
tâm đến chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình.
Tín dụng lại là xương sống của ngành ngân hàng, nó đóng góp phần lớn
vào thu nhập của ngân hàng, đồng thời nó cũng là lĩnh vực chứa đựng rủi ro
cao nhất. Vì vậy, chất lượng tín dụng là mối quan tâm ưu tiên hàng đầu của
các ngân hàng nói riêng cũng như các cơ quan quản lý nhà nước nói chung.
Vậy chất lượng tín dụng được hiểu như thế nào?
Chất lượng được các tác giả nói đến bằng nhiều cách: Xuất phát từ
người tiêu dùng thì chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu (theo Philip

Crosby), xuất phát từ mặt giá trị thì chất lượng là cái mà khách hàng phải trả
đúng với cái họ nhận được, theo ISO 9000 thì chất lượng là mức độ thoả mãn
của một tập hợp các thuộc tính đối với các yêu cầu.
Trên cơ sở đó có thể hiểu, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu
của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại,
phát triển của ngân hàng.
Đứng trên các giác độ khác nhau từ phía ngân hàng, khách hàng, và nền
kinh tế có thể hiểu rõ hơn về chất lượng tín dụng như sau:
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
15
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
Đối với ngân hàng: Chất lượng tín dụng phản ánh mức độ an toàn tín dụng,
khả năng sinh lơi của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại cũng như khả
năng đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý của khách hàng phù hợp với khả năng, thực
lực của ngân hàng.
Mức độ an toàn tín dụng thể hiện ở khả năng thu hồi đầy đủ đúng hạn
cả vốn gốc và lãi (hoặc phí) theo dự định. Khả năng thu nợ càng lớn thì chất
lượng tín dụng càng cao.
Tuy nhiên, các khoản cho vay có độ an toàn cao, song khả năng sinh lời
của các khoản cho vay thấp thì chất lượng tín dụng của ngân hàng đó không
được gọi là cao. Vì hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận
cho ngân hàng nên chất lượng tín dụng là rất quan trọng, đóng vai trò quyết
định trong việc khả năng sinh lời của ngân hàng. Chất lượng tín dụng tốt sẽ
góp phần tăng quy mô tín dụng, từ đó tăng thu nhập từ hoạt động tín dụng.
Như vậy phải kết hợp giữa tăng trưởng tín dụng và an toàn tín dụng mới đảm
bảo chất lượng tín dụng cao.
Trong phạm vi luận văn, em chỉ đi sâu hơn về chất lượng tín dụng từ
giác độ ngân hàng.
Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng là khả năng đáp ứng nhu cầu của

khách hàng về lãi suất, kỳ hạn, quy mô, phương thức giải ngân và phương
thức thu nợ … đối với mỗi khoản vay mà ngân hàng cung cấp.
Đối với nền kinh tế: Thông qua các khoản cho vay mà ngân hàng cung cấp
cho các chủ thể kinh tế khác nhau trong nền kinh tế, các hoạt động tái sản
xuất mở rộng, đầu tư phát triển…sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đứng trên góc độ nền kinh tế, chất lượng tín dụng được thể hiện ở việc tín
dụng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
Qua đó có thể rút ra:
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ
tiêu có thể tính toán được như tỷ lệ nợ quá hạn, cơ cấu vốn tín dụng,…) vừa
trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh
tế, ).
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
16
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích
nghi của ngân hàng với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức
mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Hiểu đúng bản chất chất lượng tín dụng, phân tích và đánh gía đúng
chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân
của những tồn tại sẽ giúp cho ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích
hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng.
1.2.2.1 Chỉ tiêu định tính.
a. Đối với ngân hàng.
 Mức độ đáp ứng kịp thời nhu cầu tín dụng cho khách hàng.

Chất lượng tín dụng của một ngân hàng được coi là tốt khi ngân hàng
có khả năng đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách
hàng. Để làm được điều đó ngân hàng phải có hệ thống phân tích, đánh gía,
dự báo nhu cầu tín dụng của khách hàng chính xác và nhanh chóng.
 Sự tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc tín dụng.
Các quy định và các nguyên tắc tín dụng được xây dựng nhằm giảm
thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Chính vì
vậy, việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định và nguyên tắc này phản ánh chất
lượng tín dụng của ngân hàng càng cao do ngân hàng có thể hạn chế được
phần nào rủi ro tín dụng. Ngược lại nếu ngân hàng buông lỏng trong việc tuân
thủ các nguyên tắc về tín dụng thì có thể gây cho ngân hàng những rủi ro
trong cho vay, từ đó hạn chế chất lượng tín dụng của ngân hàng.
 Uy tín và thị phần cho vay của ngân hàng trên địa bàn.
Chất lượng tín dụng cũng làm tăng uy tín của ngân hàng trên thị trường, giúp
ngân hàng thu hút được ngày càng nhiều khách hàng, mở rộng hoạt động cho
vay…Chính vì vậy thông qua uy tín và thị phần cho vay của ngân hàng sẽ
phản ánh phần nào chất lượng tín dụng của ngân hàng. Bởi đối với bất kỳ
ngân hàng nào, để tăng uy tín của mình trên thị trường đều buộc họ phải tìm
cách mở rộng thị phần và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng của
ngân hàng mình.
b. Đối với khách hàng:
 Đảm bảo được các điều kiện vay vốn:
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
17
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
Để được vay vốn ngân hàng, các khách hàng phải đáp ứng các điều
kiện tối thiểu về năng lực pháp lý, năng lực dân sự, cũng như năng lực tài
chính nhất định. Một số điều kiện mà khách hàng cần phải có khi vay vốn:
Phải có phương án sử dụng vốn vay, nêu mục đích, hiệu quả, tính khả thi, và

khả năng hoàn trả vốn vay; phải có tài sản đảm bảo nếu ngân hàng yêu cầu…
 Cung cấp thông tin cho khách hàng chính xác và trung thực: Để ngân
hàng có thể đưa ra được các quyết định cho vay một cách chính xác, khoản
cho vay đạt chất lượng cao đòi hỏi trước hết khách hàng phải cung cấp thông
tin cho ngân hàng trung thực, chính xác với thực trạng sản xuất kinh doanh
của mình.
1.2.2.2 Chỉ tiêu định lượng.
a. Chỉ tiêu phản ánh an toàn tín dụng:
 Tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu: Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn (nợ
xấu) trên tổng dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất định.
Tỷ lệ nợ quá hạn =
“Hoàn trả” là nguyên tắc đầu tiên trong hoạt động tín dụng, do đó tính
an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một
khoản vay có một khoản nợ gốc hoặc lãi không được hoàn trả đúng hạn như
đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị chuyển sang nợ qúa hạn
với lãi phạt cao hơn lãi suất bình thường. Nếu một ngân hàng có nhiều món
vay quá hạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh vì sẽ có nguy
cơ mất vốn. Một ngân hàng có nhiều khoản nợ quá hạn và tỷ lệ nợ qúa
hạn/tổng dư nợ cao sẽ bị đánh giá là chất lượng tín dụng thấp.
 Dự phòng rủi ro/Tổng dư nợ:
Định kỳ các ngân hàng phải tiến hành phân loại và đánh giá các món vay và
trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Tỷ lệ dự
phòng rủi ro/Tổng dư nợ phản ánh khả năng bù đắp cho các khoản tổn thất
của hoạt động tín dụng. Tỷ lệ này cao thì hoạt động của ngân hàng sẽ an toàn
hơn nhưng cũng hàm ý chất lượng tín dụng không tốt.
b. Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng tín dụng:
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
18
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn

Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
 Tổng doanh số cho vay: Là tổng doanh số của tất cả các món vay của
ngân hàng thường trong khoảng thời gian một năm. Nó phản ánh quy mô cấp
tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế. Ngân hàng có doanh số cho vay
lớn chứng tỏ ngân hàng có mối quan hệ với rất nhiều khách hàng hoặc có
quan hệ với nhiều khách hàng lớn. Khối lượng cấp tín dụng lớn chỉ có thể đạt
được thông qua việc áp dụng chính sách tín dụng năng động và phù hợp.Và
khi doanh số cho vay lớn mới có thể giúp nâng cao khả năng sinh lời của
ngân hàng.
 Tổng doanh số thu nợ: Doanh số cho vay lớn phải đi kèm với doanh số
thu nợ cao. Nếu doanh số thu nợ thấp cũng sẽ hàm ý có những khoản nợ quá
hạn nên khả năng thu hồi vốn và lãi thấp, chất lượng tín dụng kém.
c. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của hoạt động tín dụng:
 Thu từ lãi cho vay/tổng doanh thu: Là chỉ tiêu đo lường khả năng sinh
lời từ hoạt động tín dụng đem lại. Chỉ tiêu này càng cao thì vai trò của hoạt
động tín dụng càng lớn trong các hoạt động của ngân hàng. Cần phải xem xét
tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu này qua các thời kỳ so với tốc độ tăng trưởng
của dư nợ cho vay.
Tỷ lệ thu từ lãi cho vay/tổng doanh thu=
Tuy nhiên, xu hướng phát triển của các ngân hàng là giảm dần lãi thu
từ hoạt động tín dụng, tăng phí thu từ các hoạt động dịch vụ khác. Nên để
đánh giá chính xác hơn thường sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ thu từ lãi cho vay/dư nợ
bình quân.
 Tỷ lệ thu từ lãi cho vay/Dư nợ bình quân: Chỉ tiêu này phản ánh một
đồng doanh thu cho vay ra thu về được bao nhiêu đồng lãi vay. Tỷ lệ này
càng cao chứng tỏ hoạt động cho vay càng có hiệu quả.
Tỷ lệ thu từ lãi cho vay/Dư nợ bình quân=
d. Chỉ tiêu phản ánh khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù hợp với
thực lực của ngân hàng.

Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
19
Thu lãi từ hoạt động cho vay
Tổng dư nợ bình quân
Thu lãi từ cho vay
Tổng doanh thu
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
 Cơ cấu vốn đầu tư: Việc phân tích cơ cấu tín dụng theo thời gian, các
chủ thể vay vốn…chính là việc xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp
với khả năng đáp ứng của bản thân ngân hàng cũng như đòi hỏi về vốn của
nền kinh tế chưa. Trên cơ sở đó, các ngân hàng có thể quyết định quy mô, tỷ
trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa đảm bảo an toàn vốn
cho vay vừa có thể thu lại lợi nhuận cao.
Mặt khác yêu cầu của cơ cấu vốn đầu tư là phải đảm bảo nguyên tắc
phân tán rủi ro và phải có cơ cấu hợp lý để đảm bảo khả năng thanh khoản. Vì
vậy ngân hàng nhà nước cũng đã có những quy định về các yêu cầu về cơ cấu
vốn đầu tư như:
- Tỷ lệ sử dụng nguồn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn. (Hiện nay ngân
hàng nhà nước quy định tỷ lệ này tối đa là 40%)
- Mức cho vay tối đa đối với một khách hàng, một nhóm khách hàng.
 Vòng quay vốn tín dụng: Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng tổ chức,
quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của
khách hàng.
Vòng quay vốn tín dụng =
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay
vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn ngân hàng luân chuyển càng
nhanh, sẽ tham gia vào được nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hệ
số này tăng phản ánh tình hình quản lý vốn tín dụng tốt, chất lượng tín dụng
cao. Nếu “Dư nợ bình quân” thấp sẽ làm cho vòng quay vốn tín dụng lớn lại

không phản ánh chất lượng tín dụng tốt vì thực tế là khả năng cho vay kém.
Vì vậy cần phải xem xét với chỉ tiêu “Hiệu suất sử dụng vốn”.
 Hiệu suất sử dụng vốn: Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ vốn cho vay trong
tổng nguồn vốn huy động. Qua đó để đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp
với khả năng đáp ứng về vốn của bản thân ngân hàng cũng như của nền kinh
tế hay chưa.
Hiệu suất sử dụng vốn =
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
20
Doanh số thu nợ trong kỳ
Dư nợ bình quân
Tổng dư nợ
Tổng vốn huy động
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
Tỷ lệ này dao động từ 30% đến 100%. Thông thường vào khoảng trên
80% là tốt, nếu dưới hoặc trên mức đó sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho ngân
hàng.
Trên cơ sở tính toán các chỉ tiêu trên có thể đánh giá được chất lượng
tín dụng của một ngân hàng. Giữa các chỉ tiêu có mối quan hệ rất logic, chặt
chẽ. Vì vậy, để đánh giá chất lượng tín dụng không chỉ dựa vào chỉ riêng một
chỉ tiêu nào mà phải đánh giá phối hợp một hệ thống nhiều chỉ tiêu.
1.2.3 Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.
Như đã phân tích ở trên, chất lượng tín dụng là mức độ an toàn tín
dụng, khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng và mức độ đáp ứng nhu cầu
của khách hàng.
Đối với các DNNN trong quá trình đổi mới sắp xếp lại hoạt động kinh
doanh nghiệp đã xuất hiện một số khách hàng cố ý chây ỳ, không nhận nợ
hoặc đòi ngân hàng khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ. Vì vậy vấn đề trọng tâm của
chất lượng tín dụng đối với DNNN cổ phần hoá là an toàn tín dụng - nợ ngân

hàng được xử lý như thế nào trong tiến trình cổ phần hoá DNNN.
Theo số liệu thống kê của Cục tài chính doanh nghiệp, hiện nay, số nợ
phải trả của các DNNN thường cao gấp 1.2 – 1.5 lần vốn nhà nước tại doanh
nghiệp, thậm chí nhiều doanh nghiệp nợ từ vài lần đến hàng chục lần vốn chủ
sở hữu. Số nợ này chủ yếu nợ các ngân hàng thương mại, chiếm khoảng 70%.
Đến cuối năm 2002, nợ phải thu quá hạn của ngân hàng thương mại quốc
doanh là 15.225 tỷ đồng. Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đã ban hành các văn bản luật về việc xử lý nợ đối với DNNN như thông tư số
05/2003/TT-NHNN về hướng dẫn xử lý nợ tồn đọng của các DNNN tại các
ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng xử lý nợ cho các DNNN thực
hiện chuyển đổi theo hướng: giãn, khoanh nợ, xoá nợ lãi vay, bán lại nợ cho
các tổ chức có chức năng mua bán nợ, hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần.
Mặc dầu đã có những văn bản hướng dẫn xử lý nợ nhưng các ngân hàng
thương mại vẫn đối mặt với rủi ro tín dụng, có nguy cơ bị mất vốn, cụ thể
trong các trường hợp sau:
 Ngân hàng bị lừa đảo trong tình trạng thiếu thông tin: Khi cá nhân
trong doanh nghiệp cũ lợi dụng thời gian pháp nhân cũ không còn tồn tại,
pháp nhân mới đã có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nghiệp nhưng chưa
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
21
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
có con dấu mới, cố ý dùng các chứng từ ký trước theo tên chủ tài khoản cũ và
con dấu cũ để rút tiền ra khỏi tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp cũ tại ngân
hàng hoặc thông đồng với bên thứ ba để làm các thủ tục nhận tiền vay ngân
hàng. Điều này làm cho giao dịch bị vô hiệu, khi xảy ra tranh chấp, ngân hàng
không có đủ căn cứ pháp lý để thu hồi lại số tiền đã chuyển đi hoặc giải ngân.
 Do ngân hàng không nắm chắc việc sử dụng vốn vay của khách hàng,
cũng như hình thái tài sản của tiền vay nên trong trường hợp: khi xác định giá
trị doanh nghiệp, DNNN cổ phần hoá loại trừ nợ phải thu không có khả năng

thu hồi, tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ xử lý; vốn đầu tư dài hạn mà
doanh nghiệp cổ phần hoá không kế thừa; chi phí xây dựng cơ bản dở dang
của công trình bị đình hoãn thi công, …ra khỏi giá trị doanh nghiệp, thì nợ
vay của ngân hàng có nguy cơ cũng bị gạt ra ngoài giá trị doanh nghiệp
cùng với các tài sản đó. Một trường hợp khác là ngân hàng cho vay vốn lưu
động đối với đơn vị chính mà người sử dụng vốn vay là đơn vị hạch toán phụ
thuộc, nhưng không quản lý được nguồn tiền về để thu nợ kịp thời, tạo khe hở
cho đơn vị chính chiếm dụng tiền ngân hàng vào các mục đích khác, rồi đẩy
khó khăn tài chính về phía ngân hàng. Việc này thể hiện rõ khi doanh nghiệp
nhà nước có tình hình tài chính yếu kém, nhưng được Ban chỉ đạo đổi mới
doanh nghiệp cho phép cổ phần hoá dần các đơn vị hạch toán phụ thuộc, các
đơn vị cổ phần hoá được nhận các ưu đãi về tài sản, về vị trí kinh doanh
nghiệp… còn nợ vay ngân hàng, cùng các khoản phải thu khó đòi, nguyên vật
liệu hàng hoá tồn kho, ứ đọng mất phẩm chất, tài sản không sử dụng chờ
thanh lý… bị gạt dần về đơn vị chính. Khi đơn vị chính mất khả năng thanh
toán, thì thực hiện giải thể, hoặc phá sản doanh nghiệp. Về phía mình, mặc dù
thấy được nguy cơ mất vốn nhưng ngân hàng không thể can thiệp vào quá
trình chuyển đổi hoặc yêu cầu công ty cổ phần nhận nợ.
 Doanh nghiệp sau chuyển đổi cố ý chây ỳ, không thực hiện nghĩa vụ trả
nợ cho ngân hàng mà ngân hàng không thể khởi kiện được. Trường hợp này
thường xảy ra khi doanh nghiệp sau chuyển đổi có khó khăn về tài chính, có
thay đổi nhân sự chủ chốt; phải nhận sáp nhập 1 DNNN yếu kém khác; hoặc
có các vấn đề pháp lý; trong khi hồ sơ tín dụng tại ngân hàng cho vay không
tuân thủ theo đúng quy định (không đầy đủ, không đảm bảo tính pháp lý)
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
22
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
hoặc cho vay theo hạn mức tín dụng mà không nắm được hình thái tài sản của
vốn vay.

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
1.3.1 Nhân tố từ phía ngân hàng:
Đây là những nhân tố chủ quan bởi nó là yếu tố nội tại trong ngân hàng
và có tác động trực tiếp đến chất lượng hoạt động tín dụng.
 Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng bao gồm hệ thống các quan
điểm, chủ trương, định hướng, quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng và đầu tư
của ngân hàng phù hợp với những quy định pháp lý hiện hành. Chính sách tín
dụng đề cập đến toàn bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng: khách
hàng, quy mô, lãi suất, kỳ hạn, các loại đảm bảo, phạm vi, các khoản tín dụng
có vấn đề và các nội dung khác. Đó chính là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt
động tín dụng đi đúng quỹ đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công
hay thất bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút
được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của ngân hàng trên cơ sở
phân tán rủi ro.
 Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng
trong việc cấp tín dụng. Trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình
tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm
dứt quan hệ tín dụng. Đây là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn mang
tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, đồng thời quan hệ chặt chẽ và
gắn bó với nhau. Chất lượng tín dụng có đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào
việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp
nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng.
Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay là rất quan trọng, là cơ
sở để lượng định rủi ro trong quá trình cho vay. Ở bước này, chất lượng tín
dụng phụ thuộc vào chất lượng công tác thẩm định dự án, thẩm định về khách
hàng.
Giám sát trong quá trình cho vay giúp cho ngân hàng kiểm soát được việc sử
dụng vốn vay của khách hàng, sẽ sớm phát hiện ra những bất trắc khi có sự cố
từ đó để ngân hàng có những điều chỉnh kịp thời. Việc lựa chọn và áp dụng có

Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
23
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
hiệu quả các hình thức kiểm tra sẽ thiết lập được một hệ thống phòng ngừa rủi
ro tín dụng hữu hiệu, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
Thu nợ và thanh lý nợ là khâu quan trọng quyết định đến sự tồn tại của
ngân hàng . Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng sẽ
tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường và hiệu quả,
nhờ đó đảm bảo chất lượng tín dụng.
 Phẩm chất và trình độ cán bộ tín dụng:
Chất lượng cán bộ ngân hàng là nhân tố quyết định đến sự thành bại
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong hoạt động tín
dụng nói riêng. Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tham gia vào mọi khâu của
quá trình tín dụng, từ bước tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng đến bước
thu nợ cuối cùng. Trong môi trường gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách
hàng, đối mặt với nhiều cám dỗ, có nhiều cơ hội để thực hiện hành vi vụ lợi…
Vì vậy cán bộ tín dụng cần được tuyển chọn cẩn trọng, bố trí hợp lý, được
quan tâm giáo dục, rèn luyện…
Cán bộ tín dụng có đạo đức nghề nghiệp sẽ có ý thức hoàn thành tốt
công việc chuyên môn của mình, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của
pháp luật. Cộng với chuyên môn nghiệp vụ giỏi (có năng lực phân tích và xử
lý đơn xin vay, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay …) sẽ giúp
cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực
hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng.
 Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín
dụng. Thông qua việc thu thập và xử lý thông tin, người quản lý có thể đưa ra
các quyết định về cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay… Thông tin
tín dụng có thể thu được từ các nguồn sẵn có ở ngân hàng (trung tâm công

nghệ thông tin quốc gia CIC, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, hồ sơ về
khách hàng trong các nghiệp vụ tín dụng trước, …), từ khách hàng (hồ sơ vay
vốn, chế độ báo cáo định kỳ cho ngân hàng,…), từ các nguồn thông tin khác
(các cơ quan thông tấn, báo chí, toá àn). Thông tin càng đầy đủ, nhanh nhạy,
chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro có thể phát sinh từ
khách hàng hoặc biến động của thị trường, chất lượng tín dụng càng cao.
 Hệ thống công nghệ thông tin, trang thiết bị của ngân hàng:
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
24
Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá
tại Hội sở ngân hàng công thương Hà Tây
Công nghệ được xác định là nền tảng, là bộ phận cấu thành của hệ
thống quản trị ngân hàng hiện đại. Ngày nay, các ngân hàng không chỉ cạnh
tranh bằng lãi suất, khuyến mại, mở rộng mạng lưới mà công nghệ còn được
sử dụng như một vũ khí để tạo ra lợi thế so sánh của ngân hàng mình với đối
thủ cạnh tranh. Hệ thống công nghệ thông tin tốt có thể cho phép ngân hàng
đánh giá chính xác về một khách hàng để đưa ra quyết định đúng đắn.
 Kiểm soát nội bộ:
Trong lĩnh vực tín dụng, hoạt động kiểm soát bao gồm:
- Kiểm soát chính sách tín dụng và các thủ tục có liên quan đến khoản vay
(thẩm quyền về điều hành, quản lý, giám sát các khoản cho vay, hồ sơ, thủ tục
cho vay…)
- Kiểm tra định kỳ do kiểm toán viên nội bộ thực hiện, báo cáo các trường
hợp ngoại lệ, những vi phạm chính sách, thủ tục, kiểm soát kế toán và các
nghiệp vụ có liên quan đến cho vay.
- Kiểm tra đột xuất việc sử dụng vốn vay, tài sản thế chấp của khách hàng để
đánh gía hiệu quả sử dụng vốn và các khoản đảm bảo vốn vay.
Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào mức độ phát hiện kịp thời các sai
phạm và nguyên nhân để từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời. Vì vậy công
tác kiểm tra, kiểm soát càng chặt chẽ sẽ càng làm cho hoạt động tín dụng

đúng hướng, thực hiện đúng các nguyên tắc, các yêu cầu thể lệ trong quy chế
về tín dụng cũng như quy trình tín dụng.
1.3.2 Nhân tố từ phía khách hàng:
 Dự án sản xuất kinh doanh: Các doanh nghiệp khi đi vay vốn phải đưa
ra dự án sản xuất kinh doanh của mình. Dự án sản xuất kinh doanh nghiệp là
một tập hợp những đề xuất về nhu cầu vốn, cách sử dụng vốn, kết quả tương
ứng thu được trong một khoảng thời gian xác định đối với hoạt động cụ thể để
sản xuất kinh doanh nghiệp, dịch vụ đầu tư phát triển hoặc phục vụ đời sống.
Trên cơ sở dự án kinh doanh mà khách hàng lập, ngân hàng sẽ tiến hành thẩm
định lại hiệu quả của dự án, đánh giá tính khả thi. Đây là cơ sở để cán bộ tín
dụng đưa ra quyết định cho vay. Vì thế nếu dự án kinh doanh được khách
hàng lập một cách cẩn thận, chính xác sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
thẩm định có thể thu được kết quả chính xác và hiệu quả, từ đó sẽ nâng cao
tính an toàn cho khoản vay.
Thân Thị Mỹ Hoà Lớp TC44D
25

×