Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển cầu giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.16 KB, 76 trang )

Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG I: TÍN DỤNG NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC 5
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 5
1.1. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp: 5
1.1.1. Khái niệm 5
1.1.2 Vai trò của ngành xây lắp 6
1.1.2.1 Ngành công nghiệp xây lắp phát triển là điều kiện khai thác và sử
dụng tối đa nguồn lực của đất nước 6
1.1.2.2 Khuyến khích sự phát triển của ngành xây lắp là cơ hội thu hút
lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội 7
1.1.2.3 Ngành xây lắp được thành lập theo quy định của pháp luật, giữ
một vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hơn các mục tiêu
kinh tế vĩ mô của đất nước. 7
1.1.2.4 Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước cần có sự
đóng góp không nhỏ của ngành xây dựng cơ bản. 7
1.1.3 Đặc điểm của ngành nghề xây lắp 8
1.1.3.1 Đặc điểm về các loại hình tổ chức sản xuất 8
1.2.2.2 Đặc điểm về sản phẩm của ngành xây lắp 9
1.1.2.3 Đặc điểm về tổ chức thi công công trình 10
1.1.2.4 Vốn và vấn đề chu chuyển vốn tại doanh nghiệp xây lắp 10
1.2 Chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xây lắp 12
1.2.1 Chất lượng tín dụng ngắn hạn trong các Ngân hàng thương mại: 12
1.2.2 Chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xây lắp: 14
1.2.2.1 Sự cần thiết khách quan phải nâng cao chất lượng tín dụng ngắn
hạn trong lĩnh vực xây lắp 15
1.2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh


nghiệp xây lắp 18
1.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với
doanh nghiệp xây lắp 21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN
TRONG LĨNH VỰC XÂY LẮP TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN CẦU GIẤY 27
2.1 Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy 27
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Cầu Giấy 27
2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Cầu Giấy 27
2.1.3 Các sản phẩm tín dụng đang được triển khai tại Chi nhánh Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy 28
2.1.4 Cơ cấu tổ chức 29
Nguyễn Thị Trang 1 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
2.1.5 Tình hình hoạt động tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Cầu Giấy 31
2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy 36
2.2.1 Những yêu cầu chung, thống nhất về tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực
xây lắp tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 37
2.2.2 Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy 40
2.2.2.1 Chỉ tiêu về quy mô và cơ cấu tín dụng ngắn hạn 41
2.2.2.2 Các chỉ tiêu về nợ quá hạn 48
2.3 Đánh giá chung về chất lượng tín dụng ngắn hạn và những nhân tố ảnh
hưởng đến việc tăng, giảm chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực
xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy 50
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG

NGẮN HẠN TRONG LĨNH VỰC XÂY LẮP TẠI CHI NHÁNH 57
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CẦU GIẤY 57
3.1 Định hướng cho hoạt động tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy 57
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp
tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy 58
3.2.1 Đổi mới chính sách tín dụng ngắn hạn phù hợp trong lĩnh vực thi
công xây lắp 59
3.2.2 Tăng cường đánh giá năng lực các doanh nghiệp xây lắp 62
3.2.3 Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc thẩm định trong cho vay 64
3.2.4 Tăng cường các biện pháp xử lý nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng
ngắn hạn đối với các doanh nghiệp xây lắp 65
3.2.5 Kiểm tra và giám sát chặt chẽ quá trình vay và sử dụng vốn vay cũng
như quá trinh trả nợ vay của các doanh nghiệp xây lắp 67
3.2.6 Tăng cường trao đổi, đúc rút kinh nghiệm đối với từng khoản vay,
từng doanh nghiệp 67
3.2.7 Nâng cao năng lực và chất lượng cán bộ tín dụng 68
3.3 Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây
lắp 69
3.3.1 Với cơ quan Nhà nước 69
3.3.2 Với Ngân hàng Nhà nước 70
3.3.3 Với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 72
3.3.4 Với các doanh nghiệp xây lắp 73
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
Nguyễn Thị Trang 2 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm gần đây đã và đang có những
bước khởi sắc rất đáng ghi nhận. Tốc độ tăng trưởng đạt 7,5%; kinh tế, chính trị,

xã hội có nhiều những chuyển biến tích cực. Đó là kết quả của chính sách đổi
mới, phát huy chung của nền kinh tế, của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước, của hội nhập, của những chính sách huy động vốn và sử dụng vốn
rất hiệu quả.
Là một nước còn nghèo, điểm xuất phát thấp, để không bị tụt hậu, chúng
ta không còn con đường nào khác là phải tăng cường đầu tư để đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội Đây
là quá trình đòi hỏi có nhu cầu vốn rất lớn bao gồm cả nguồn vốn ngắn, trung và
dài hạn. Trong khi vốn ngân sách Nhà nước cấp hạn hẹp, việc thực hiện mục
tiêu tăng trưởng, phát triển đất nước, với tốc độ đô thị hoá cao, cơ sở hạ tầng
đang được củng cố và phát triển, nhiều khu đô thị mới, khu công nghiệp đang
dần dần được hình thành, thì toàn bộ nguồn vốn sản xuất, vốn lưu động, vốn
cố định đều cần những nguồn tài trợ khác từ việc đi vay.
Trước những tín hiệu về sự sôi động của một nền kinh tế đang phát triển,
nhiều Ngân hàng thương mại đã thực sự vào cuộc và thực hiện nhiều lĩnh vực
hoạt động kinh doanh khác nhau. Và việc đầu tư cho việc phát triển thi công các
công trình xây dựng đang giành được rất nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý.
Đối với hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy nói riêng thì việc triển khai
cho vay hỗ trợ vốn đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây
lắp đang được xem là một hoạt động đặc thù từ khi còn là Ngân hàng cấp phát
vốn xây dựng cơ bản. Trong nhiều năm qua, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Cầu Giấy đã triển khai cho vay, hỗ trợ vốn rất lớn đối với các đơn vị
hoạt động thi công xây lắp, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo tiến độ thi
công và đầu tư các dự án.
Nguyễn Thị Trang 3 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
Tín dụng ngắn hạn với vai trò không thể phủ nhận được của nó đã đang
phát huy được vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu bức thiết về số vốn
lưu động, đổi mới trang thiết bị…nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức

cạnh tranh của doanh nghiệp.
Quá trình thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu
Giấy đã hướng sự quan tâm đặc biệt của tôi về vấn đề này, về tầm quan trọng, về
những thuận lợi, khó khăn và thách thức đang đặt ra đối với Ngân hàng và các
doanh nghiệp trước cửa ngõ của quá trình hội nhập và phát triển. Chính vì vậy
mà tôi đã tự lựa chọn cho mình đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn
trong lĩnh vực xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu
Giấy”
Chuyên đề được kết cấu theo 3 chương lớn:
Chương I: Tín dụng ngắn hạn đối với các doanh nghiệp xây lắp
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây lắp tại
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực xây
lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu Giấy.
Nguyễn Thị Trang 4 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I: TÍN DỤNG NGẮN HẠN ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
Tín dụng ngắn hạn là một nghiệp vụ kinh doanh của Ngân hàng và
nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong thi công xây lắp được xác đinh
là một chiến lược kinh doanh quan trọng đối với hệ thống Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam nói chung và đối với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Cầu Giấy nói riêng.
1.1. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp:
Các doanh nghiệp hình thành và hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh
doanh khác nhau, với những chức năng, nhiệm vụ và vai trò đối với nền kinh
tế cũng rất khác nhau. Các Ngân hàng đã tự phân loại đối tượng khách hàng
theo các lĩnh vực: thi công xây lắp, kinh doanh thương mại và hoạt động sản
xuất để theo dõi việc vay vốn và sử dụng vốn của từng thành phần doanh
nghiệp.

1.1.1. Khái niệm
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp là doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế, được thành lập theo quy định của pháp luật, được
hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp khi có đăng ký kinh doanh về xây
dựng.
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp phải đăng ký hoạt động
xây dựng theo đúng quy định,chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội
dung đã ký kết trong các hợp đồng. Đồng thời phải thực hiện chế độ bảo hiểm
công trình xây dựng, thực hiện an toàn lao động, bảo vệ môi trường sinh thái
trong khi công trình đang thi công. Các doanh nghiệp xây lắp phải công khai
rộng rãi những thông tin về năng lực hoạt động của doanh nghiệp cho các chủ
đầu tư biết trước khi đưa ra quyết định lựa chọn.
Nguyễn Thị Trang 5 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
Các doanh nghiệp xây lắp đảm nhiệm một nhiệm vụ quan trọng là xây
mới, mở rộng, khôi phục và sửa chữa tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân
đặc biệt khi đất nước đang trong quá trình xây dựng.
1.1.2 Vai trò của ngành xây lắp
Một cơ sở hạ tầng vững chắc, hiện đại là điều kiện tiên quyết quyết
định cho sự phát triển kinh tế, là nhân tố quyết định làm thay đổi cơ cấu kinh
tế quốc dân của mối nước. Kinh nghiệm cho thấy những quốc gia có nền kinh
tế phát triển đều đi lên từ một nền móng hạ tầng rất tốt. Ngành công nghiệp
xây dựng đã góp phần quan trọng trong việc biến đổi cơ sở hạ tầng và vai trò
của nó ngày càng được khẳng định qua từng thời kỳ phát triển của đất nước
giúp đạt được mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tăng trưởng kinh tế.
1.1.2.1 Ngành công nghiệp xây lắp phát triển là điều kiện khai thác và sử
dụng tối đa nguồn lực của đất nước
Là ngành sản xuất vật chất nên các yếu tố về cơ sở vật chất cần phải
vững mạnh, đặc biệt yếu tố về sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao
động để đáp ứng trước nhiệm vụ được đặt ra đối với ngành xây dựng.

Quá trình đổi mới của nước ta đã trải qua một thời gian khá dài, đó là
một quá trình mà ngành công nghiệp xây lắp phát huy hết khả năng của nó và
mang lại những kết quả rất đáng ghi nhận trong việc khai thác, sử dụng nguồn
lực đất nước cùng với việc mở ra một sự hứa hẹn cho một tiềm năng phát
triển kinh tế lớn bởi sự phát triển của ngành công nghiệp xây dựng là một cơ
hội để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, một cơ hội để con người
phát huy trình độ, tay nghề và tính sáng tạo vì lợi ích của chính cá nhân họ và
vì lợi ích cộng đồng. Đó là động lực kích thích sự phát triển của lực lượng sản
xuất, thúc đẩy xã hội phát triển theo kịp với tốc độ tăng trưởng của khu vực
và thế giới.
Nguyễn Thị Trang 6 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2.2 Khuyến khích sự phát triển của ngành xây lắp là cơ hội thu hút lao
động, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội
Một lợi thế lớn của Việt Nam là một lực lượng lao động đông đảo với
sức khỏe, sức trẻ, nhiều đối tượng được qua những lớp đào tạo chính quy, có
trình độ tri thức và tay nghề cao. Bước sang nền kinh tế thị trường, tính đa
dạng của loại hình xây lắp được phát huy trên tất cả các ngành nghề, có mặt
tại tất cả các khu vực từ nông thôn đến thành thị với nhiều loại hình doanh
nghiệp khác nhau từ doanh nghiệp Nhà nước đến các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh hoạt động ngày càng hiệu quả. Ngành xây lắp là ngành nghề tạo
việc làm nhanh và dễ dàng hơn so với các ngành nghề khác qua việc tiếp nhận
và điều chuyển lực lượng công nhân tới rất nhiều vị trí lao động khác nhau tại
tất cả các công trình xây dựng được trải dài trên khắp đất nước.
1.1.2.3 Ngành xây lắp được thành lập theo quy định của pháp luật, giữ một
vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hơn các mục tiêu kinh tế vĩ
mô của đất nước.
Sự hoạt động có hiệu quả của ngành xây lắp nhanh chóng làm tăng chỉ
tiêu GDP, tăng thu cho ngân sách Nhà nước và thúc đẩy quá trình tái sản xuất
mở rộng, tăng nhanh doanh số và chất lượng sản phẩm xây dựng trên thị

trường. Điều này giúp cho các ngành nghề khác cũng như bị cuốn theo vào
quá trình phát triển không ngừng của ngành xây lắp và cùng kéo nền kinh tế
của đất nước đi lên. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đã
thực sự làm sống lại nhịp độ phát triển của đất nước và nó đã tự khẳng định
lại vai trò quan trọng không thể phủ nhận trong việc nâng cao chất lượng cơ
sở hạ tầng - tiền đề cho công cuộc đổi mới kinh tế, phát triển đất nước.
1.1.2.4 Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước cần có sự đóng
góp không nhỏ của ngành xây dựng cơ bản.
Bên cạnh việc cung cấp một lượng sản phẩm lớn cho thị trường, tích tụ
vốn cho xã hội, các doanh nghiệp còn thông qua hoạt động sản xuất kinh
doanh để tự tích tụ nguồn vốn giúp các doanh nghiệp này chủ động hơn trong
Nguyễn Thị Trang 7 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
sản xuất kinh doanh bằng nhiều hình thức khác nhau như các quỹ phát triển
sản xuất, quỹ khấu hao cơ bản…Công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị đang
được hiện đại hoá, trình độ công nhân đang được nâng cao để phù hợp với
nhu cầu phát triển của ngành nghề xây lắp. Đồng thời ngành xây lắp cũng cần
tiến hành những cuộc cách mạng hoá trong kỹ thuật và công nghệ để theo kịp
với sự phát triển nhanh chóng của thị trường.
1.1.3 Đặc điểm của ngành nghề xây lắp
Đầu tư xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, có
những điểm riêng so với các ngành sản xuất vật chất khác như việc sản xuất
thi công thường phải được thực hiện tương đối lâu, quy mô công trình (quy
mô của sản phẩm được sản xuất ra) rất lớn, sản phẩm hình thành không thuộc
tài sản lưu động mà gắn liền ngay với địa điểm thực hiện thi công và sản
phẩm có thể đựơc sử dụng trong một thời gian rất dài.
1.1.3.1 Đặc điểm về các loại hình tổ chức sản xuất
Xây dựng cơ bản là một trong những ngành nghề sản xuất vật chất lớn
nhất của cả nước, có khả năng tái sản xuất các tài sản cố định. Lĩnh vực của
hoạt động xây lắp rất rộng có thể được phân loại theo các công trình xây

dựng:
* Công trình dân dụng: Bao gồm các công trình công cộng (văn hoá,
giáo dục, y tế, thương nghiệp, dịch vụ, khách sạn, nhà phục vụ giao thông,
thông tin liên lạc), các công trình về nhà ở chung cư, nhà riêng…
* Công trình công nghiệp: bao gồm các công trình khai thác (khai thác
than, quặng, dầu khí, công trình kho xăng dầu, công trình luyện kim…); các
công trình cơ khí, chế tạo; công trình công nghiệp vật liệu xây dựng; công
trình công nghiệp nhẹ…
* Các công trình giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, hầm, sân
bay…
Nguyễn Thị Trang 8 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
* Các công trình thuỷ lợi như giếng, đường ống dẫn nước, kênh, hồ
chứa đập,…
* Các công trình hạ tầng kỹ thuật như cấp thoát nước, xử lý chất thải,
công trình chiếu sáng đô thị,….
1.2.2.2 Đặc điểm về sản phẩm của ngành xây lắp
- Sản phẩm xây lắp thường không đồng bộ, luôn biến đổi theo địa điểm
và giai đoạn xây dựng; quy mô lớn, kết cấu phức tạp, giá trị lớn, thời gian sản
xuất và sử dụng lâu dài.
- Chất lượng của sản phẩm xây lắp nhiều khi quyết định đến chất lượng
của các ngành sản xuất khác có liên quan.
- Vì sản phẩm xây lắp rất đa dạng, giá trị mỗi dự án là khác nhau nên
để hoàn thành sản phẩm trong lĩnh vực thi công xây lắp yêu cầu phải có nhiều
chủng loại nguyên vật liệu, máy móc và những công nhân theo các ngành
nghề khác nhau. Các sản phẩm này cũng có thể là những mạch máu nối liền
các ngành, vùng địa phương như các đường giao thông, cảng biển…nên cần
cân nhắc tập trung vốn và nhân lực hợp lý khi triển khai dự án.
Sản phẩm của ngành xây lắp được thiết kế riêng về kỹ thuật. Mỗi công
trình đều có những yêu cầu, những tiêu chuẩn riêng cần được thực hiện về

thiết kế, kỹ thuật, công nghệ, mỹ quan và sự an toàn…và đảm bảo những giá
trị riêng vào thời điểm nghiệm thu sản phẩm. Việc thực hiện một qui trình xây
dựng lâu dài, nhiều công đoạn, nhiều kẽ hở sẽ làm cho quá trình quản lý điều
hành hoạt động đầu tư phức tạp hơn trong việc đảm bảo thi công công trình
diễn ra được lành mạnh, mức độ phát sinh các tiêu cực là tối thiểu. Đó là vấn
đề đặt ra cho các nhà quản lý về việc xây dựng cơ chế chính sách trong điều
hành hoạt động đầu tư xây dựng đảm bảo những sản phẩm của quá trình sản
xuất là những công trình có đủ điều kiện đưa vào sử dụng.
Nguyễn Thị Trang 9 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2.3 Đặc điểm về tổ chức thi công công trình
Các sản phẩm xây lắp thường được hình thành khắp nơi và gắn liền với
địa điểm sản xuất nên việc tổ chức xây dựng một công trình như thế nào cần
có những kế hoạch riêng đối với từng địa phương, và từng dự án cụ thể.
Để hạn chế việc ứ đọng vốn trong thi công xây lắp, các nhà đầu tư cần
lựa chọn những phương án có thời gian hợp lý cho việc tổ chức thi công xây
dựng các công trình ở từng thời điểm khác nhau.
Yêu cầu trong công tác tổ chức xây dựng là phải có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các tổ chức xây dựng, giữa thầu chính hay thầu phụ.
Các công trình xây dựng là những công trình được thực hiện và hình
thành chịu ảnh hưởng rất lớn của thời tiết, khí hậu là một bất lợi lớn cho việc
dự trữ vật liệu và thi công công trình. Vì vậy việc lập kế hoạch xây dựng, đảm
bảo tiến độ thi công luôn cần được tính toán kỹ trong công tác tổ chức thực
hiện.
1.1.2.4 Vốn và vấn đề chu chuyển vốn tại doanh nghiệp xây lắp
Quá trình thực hiện một dự án xây dựng bắt đầu từ việc các dự án được
đem ra đấu thầu và được các chủ đầu tư lựa chọn. Các chủ đầu tư luôn biết tự
tìm cho mình những dự án tốt nhất, ký kết hợp đồng với các đơn vị xây lắp có
đủ tư cách pháp nhân, năng lực hành nghề xây. Chủ đầu tư (bên A) sẽ chịu
trách nhiệm trong việc huy động, tìm nguồn vốn cho công trình được thi công

đúng tiến độ, các đơn vị xây lắp bao thầu (bên B) sẽ chịu trách nhiệm trong
vấn đề xây dựng các công trình theo thiết kế của chủ đầu tư. Các doanh
nghiệp xây lắp có uy tín, có năng lực trong kỹ thuật thi công cùng với năng
lực tài chính sẽ ngày càng được đánh giá cao.
Doanh nghiệp xây lắp thực hiện việc hoàn thành công trình cũng cần có
những giá trị đầu vào cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất ra thành phẩm.
Những đối tượng lao động của doanh nghiệp được chia thành:
Nguyễn Thị Trang 10 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
- Vật tư dự trữ chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục (nguyên,
nhiên vật liệu….)
- Vật tư đang trong quá trình chế biến (bán thành phẩm)
Hai bộ phận này hình thành nên tài sản lưu động của doanh nghiệp
trong quá trình xản xuất, tài sản lưu động này sẽ vận động không ngừng cùng
tài sản lưu động trong lưu thông (tức là các tài sản này sẽ thay thế nhau trong
quá trình chọn lọc, xuất giao sản phẩm và thanh toán) và đảm bảo cho quá
trình tái sản xuất diễn ra thuận lợi và liên tục.
Về phía các doanh nghiệp xây lắp, vốn lưu động được chia thành:
- Vốn nằm trong quá trình dự trữ
- Vốn đang trong quá trình sản xuất
- Vốn đang trong quá trình lưu thông
Đặc điểm của sản phẩm xây lắp là được thi công và hình thành ngay tại
chỗ, không phải nhập kho và vận chuyển đi tiêu thụ, công trình được thực
hiện theo những hợp đồng đặt hàng nên sản phẩm xây lắp có thể được bán
ngay sau khi hoàn thành và không bị gây khó khăn trong vấn đề tiêu thụ.
Ngay khi kết thúc việc thi công một công trình xây dựng thì công trình đó sẽ
được bàn giao cho người giao thầu và được lập biên bản kiểm nghiệm theo
yêu cầu chi trả sau khi việc nghiệm thu công trình hoàn tất, doanh nghiệp xây
lắp khi tham gia vào việc bao thầu cũng cần có một số vốn ban đầu, tức là
cũng cần có một năng lực tài chính cần thiết cho việc đầu tư vào các tài sản

lưu động ấy, nhu cầu về vốn xuất phát từ sản lượng xây lắp phải bàn giao kết
toán trong kỳ kế hoạch và thời gian cần thiết để làm thủ tục và các giấy tờ
thanh toán.
Nguyễn Thị Trang 11 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
1.2 Chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực xây lắp
1.2.1 Chất lượng tín dụng ngắn hạn trong các Ngân hàng thương mại:
* Vai trò của tín dụng ngắn hạn trong các Ngân hàng thương mại
- Tín dụng ngắn hạn có tác động tích cực trong việc đáp ứng nhu cầu
bức thiết về số vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Các Ngân hàng đóng một vai trò đáng kể trong việc tạo ra tiền, không
phải vì việc in những tờ tín phiếu có mênh giá lớn nhỏ, những tờ tiền giấy hay
tiền xu mà do việc cho vay, khơi những nguồn vốn trong dân cư, các tổ chức
kinh tế để sinh lợi.
Hoạt động Tín dụng ngắn hạn tại các Ngân hàng thương mại đáp ứng
nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và góp phần tái sản xuất mở rộng nền
kinh tế thông qua việc thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn rỗi
thúc đẩy nền kinh tế năng động và hiệu quả. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn (từ
12 tháng trở xuống và có thể được chia nhỏ thành các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng,
9 tháng và 12 tháng) thường cao hơn tỷ trọng của tín dụng trung và dài hạn
trong các Ngân hàng thương mại vì các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản
lưu động của khách hàng.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, luôn có sự chênh nhau về lượng
tiền và thời gian cần thiết để dự trữ vật tư hàng hoá cho chu trình hoạt động
tiếp theo với thời gian và lượng tiền thu được từ việc tiêu thụ và sản xuất kinh
doanh của chu trình hoạt động trước đó, từ đó có thể làm cho các báo cáo lưu
chuyển tiền tệ của doanh nghiệp lúc âm, lúc dương, nguồn vốn lúc dư thừa,
lúc thiếu hụt, không được sử dụng có hiệu quả. Tín dụng ngắn hạn xuất hiện

như một phương tiện giúp các doanh nghiệp sửa chữa được khiếm khuyết tất
yếu này, thời vụ làm ăn không bị bỏ lỡ và sản xuất kinh doanh tiếp tục được
vận hành, lưu thông thông suốt, liên tục, nguồn vỗn xã hội được sử dụng có
Nguyễn Thị Trang 12 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
hiệu quả. Bên cạnh đó tín dụng ngắn hạn còn giúp các doanh nghiệp mở rộng
sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường.
- Tín dụng ngắn hạn giúp các doanh nghiệp thực hiện quản lý vốn và sử
dụng vốn có hiệu quả:
Ngân hàng trước khi giải ngân sẽ tự đánh giá khả năng thu hồi khoản
vay qua các phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sẽ đảm bảo
cho những doanh nghiệp có năng lực với những dự án khả thi, cân đối được
nguồn vốn trả nợ đúng hạn cho ngân hàng mới được cấp tín dụng.
Hoạt động tín dụng ngắn hạn yêu cầu doanh nghiệp phải hoàn trả nợ
(gốc và lãi) sau một thời gian ngắn (dưới 12 tháng). Chính động lực này đã
đôn đốc các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh và
đảm bảo có tỷ suất lợi nhuận lớn. Doanh nghiệp muốn nhận được tài trợ từ
nguồn tín dụng ngắn hạn đòi hỏi phải thuyết trình năng lực tài chính của mình
trước các cán bộ thẩm định và tín dụng của Ngân hàng. Khi hợp đồng đã được
ký, ngân hàng sẽ thực hiện quá trình kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn
của doanh nghiệp, đảm bảo nguồn vốn đựơc sử dụng đúng mục đích và đúng
thoả thuận trong hợp đồng. Bên cạnh đó, ngân hàng còn có thể giúp đỡ cho
doanh nghiệp các hoạt động về tư vấn, hợp tác với doanh nghiệp tháo gỡ khó
khăn tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Tín dụng ngắn hạn giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm
và tăng sức cạnh tranh trên thị trường:
Cạnh tranh là một quy luật kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị
trường. Doanh nghiệp muốn đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh thì phải
đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế nhất định theo những tiêu chuẩn, những yêu cầu

khắt khe của thị trường. Những yêu cầu này đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng
cao chất lượng lao động, cơ chế quản lý, chế độ hạch toán kế toán, không
ngừng cải tiến, mua mới máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử
Nguyễn Thị Trang 13 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
dụng vật liệu mới, mở rộng sản xuất một cách thích hợp. Vốn tự có của doanh
nghiệp nhiều khi không đủ sức để trang trải cho nhu cầu khối lượng vốn lớn
như vậy. Khách hàng có thể tìm đến các dịch vụ của ngân hàng để hỗ trợ cho
hoạt động kinh doanh của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là
cầu nối từ doanh nghiệp đến thị trường, nhịp độ phát triển lại tăng trưởng nhịp
nhàng, đều đặn, theo kịp nhịp độ phát triển chung của ngành, của nền kinh tế.
Nguồn vốn tín dụng giúp doanh nghiệp giải quyết các khó khăn trước mắt,
những nhu cầu vốn tạm thời, nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản
xuất kinh doanh, đảm bảo số lượng đáp ứng yêu cầu thị trường và doanh
nghiệp tìm được một vị trí vững chắc trong môi trường cạnh tranh ngày càng
sôi động.
1.2.2 Chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực xây lắp:
* Các khái niệm:
Về quan điểm chung: Tín dụng phục vụ thi công xây lắp được hiểu là
những khoản tài trợ trực tiếp liên quan và phục vụ cho Doanh nghiệp thực
hiện các hợp đồng, thi công các công trình xây lắp. Chỉ số dư nợ này bao gồm
dư nợ cho vay ngắn hạn (Vốn lưu động), dư nợ cho vay trung, dài hạn. Có thể
hiểu:
- Dư nợ cho vay trung và dài hạn giúp Doanh nghiệp đầu tư mua sắm
máy móc, thiết bị, phương tiện thực hiện thi công xây lắp.
- Dư nợ cho vay ngắn hạn để Doanh nghiệp thanh toán chi trả tiền
nguyên vật liệu, vật tư, nhân công, thuê máy móc thiết bị phương tiện thi
công và các chi phí hợp lý khác cấu thành trong giá trị công trình nhận thầu.
Để hiểu chất lượng của Tín dụng, chúng ta đi từ khái niệm cơ bản từ

chất lượng của một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Chất lượng của một sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ là khả năng của một sản phẩm trong việc hoàn thành
các chức năng của mình. Hoặc đơn giản hơn có thể hiểu là giá trị sử dụng của
Nguyễn Thị Trang 14 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đó dựa trên cơ sở mức độ thoả mãn nhu cầu
người tiêu dùng.
Để đạt tới chất lượng tín dụng, theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế
thì con đường đó là liên tục, năng động, không ngừng được cải thiện và đổi
mới, điểm mốc là vô cùng mà không có điểm tận cùng. Chất lượng tín dụng
ngắn hạn theo nghĩa rộng được hiểu là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng,
bảo đảm sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng, phù hợp với mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của Quốc gia. Sản phẩm tín dụng luôn là những đối
tượng giành được sự quan tâm nhiều nhất của các Ngân hàng thương mại vì
những khoản thu nhập đáng kể mà chúng mang lại nếu không nói là lớn nhất
được thể hiện trong bảng quyết toán tài sản ở mỗi Ngân hàng, đặc biệt là các
Ngân hàng tại Việt Nam khi mà các sản phẩm dịch vụ khác còn chưa nhiều.
Chính vì vậy mà khái niệm về chất lượng tín dụng cần phải được hiểu một
cách thấu đáo giúp cho việc phát triển các sản phẩm tín dụng ngày càng gần
gũi hơn với khách hàng mà vẫn đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận Ngân hàng, nó
phản ánh mức độ thích nghi của Ngân hàng với sự thay đổi của môi trường
bên ngoài, thể hiện sức mạnh của Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn
tại.
1.2.2.1 Sự cần thiết khách quan phải nâng cao chất lượng tín dụng ngắn
hạn trong lĩnh vực xây lắp
Quá trình đổi mới và xây dựng Đất nước đang bước vào giai đoạn rất
mau lẹ và sôi động, các công trình xây dựng cơ bản đang được xúc tiến với
tiến độ khẩn trương và gấp rút. Tín dụng ngắn hạn đang là chiếc chìa khoá
cho các nhà đầu tư huy động được lượng vốn lớn cần thiết trong khoảng thời
gian ngắn đáp ứng cho nguồn vốn lưu động.

Chất lượng sản phẩm luôn là mục tiêu của khách hàng, là mối quan tâm
của doanh nghiệp hoạt động sản xuất chân chính. Với tư cách là một doanh
nghiệp kinh doanh những sản phẩm đặc thù, các Ngân hàng đang ngày càng
chạy đua nhau thu hút khách hàng bằng việc tung ra các sản phẩm hấp dẫn
Nguyễn Thị Trang 15 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
nhất, chính vì vậy mà chất lượng của hàng hoá, trực tiếp ở đây là chất lượng
tín dụng nói chung, tín dụng ngắn hạn nói riêng phải luôn được chú ý nâng
cao.
- Đối với các Ngân hàng thương mại
Việc lựa chọn dự án để đầu tư các khoản tín dụng ngắn hạn vào một vị
trí an toàn và hiệu quả nhất sẽ giúp Ngân hàng có được rất nhiều lợi thế: Đầu
tiên là uy tín trong kinh doanh, các Ngân hàng sẽ tìm kiếm được những nguồn
vốn lớn đa dạng, người gửi tiền sẽ thực sự yên tâm, hài lòng về giá cả và chất
lượng khi tiền của mình đang được đầu tư vào những công trình được đảm
bảo về tính hiệu quả trong tương lai. Đồng thời Ngân hàng sẽ thu hút được
nhiều doanh nghiệp với những hợp đồng tín dụng hấp dẫn. Thứ hai: Chất
lượng tín dụng còn là điều kiện giúp Ngân hàng bảo toàn vốn, thu hồi được cả
gốc và lãi, Ngân hàng sẽ không phải dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp cho
việc mất vốn, mất lãi hoặc cả hai, điều đó giúp lợi nhuận Ngân hàng tăng lên,
duy trì được khả năng thanh toán, sự ổn định tài chính và bảo vệ quyền lợi
của khách hàng. Ngân hàng sẽ tìm kiếm được những khoản lợi tức cao nhất
có thể có từ những khoản tín dụng ngắn hạn này Chất lượng tín dụng được
nâng cao giúp Ngân hàng giảm thiểu được những rủi ro và tạo ra được những
khoản vay có đủ tiêu chuẩn, có mối quan hệ tốt hơn với những khách hàng cũ,
tìm kiếm được những khách hàng mới trong công tác huy động và sử dụng
vốn. Thứ 3: Việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trong xây lắp sẽ giúp
Ngân hàng tạo được những mối quan hệ lâu dài với khách hàng, đặc biệt là
những khách hàng lớn trong ngành xây dựng giúp cho quá trình sàng lọc và
giám sát của Ngân hàng thêm phần hiệu quả và ít tốn kém mà vẫn bảo đảm

các nguyên tắc tín dụng.
- Đối với các doanh nghiệp xây lắp
Nâng cao chất luợng tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp là một cơ
hội giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này hoạt động có hiệu
Nguyễn Thị Trang 16 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
quả hơn rất nhiều. Trước hết, với áp lực của nguồn vốn đi vay phải hoàn trả
gốc và lãi trong thời gian ngắn (dưới 1 năm) buộc các nhà đầu tư phải gấp rút
tiến hành thi công các dự án một cách hiệu quả nhất nhằm đưa công trình vào
hoạt động trong thời gian nhanh nhất. Việc đi vay yêu cầu khách hàng phải có
những cam kết ràng buộc với phía Ngân hàng những điều khoản thoả thuận
trong hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng sẽ được Ngân hàng giám sát một
cách chặt chẽ bảo đảm cho công trình được thực hiện đúng tiến độ và đúng
chất lượng. Việc này cũng là điều kiện để doanh nghiệp củng cố chế độ hạch
toán và kế toán theo đúng các quy định hiện hành, những chuẩn mực kế toán
khắt khe. Những mối quan hệ thường xuyên với Ngân hàng có thể tạo điều
kiện cho khách hàng tiết kiệm được các chi phí như giảm giá thành, tăng tính
cạnh tranh của hàng hoá, dễ dàng hơn trong việc ký kết các hợp đồng tín dụng
ngắn hạn với lãi suất kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản đáp ứng nhu cầu vay vốn
cấp thiết để duy trì, mở rộng và nâng cao hiệu qủa hoạt động thi công xây lắp,
hoặc nhận được các dịch vụ tiện ích quan trọng khác từ phía Ngân hàng như
tư vấn miễn phí, nâng cao hạn mức tín dụng, dễ dàng được Ngân hàng xem
xét bảo lãnh…
- Đối với toàn bộ nền kinh tế
Khi các Ngân hàng hay các doanh nghiệp xây lắp làm ăn có hiệu quả,
tức là một bộ phận kinh doanh của Đất nước đang đẩy nền kinh tế đi lên.
Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xây lắp sẽ giúp cho quá trình xây dựng Đất nước, quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá được tiến hành nhanh chóng với cơ sở hạ tầng được
đảm bảo về số lượng và chất lượng. Ngân hàng sẽ giúp cho nhu cầu vốn lưu

động của tất cả các doanh nghiệp xây lắp được đáp ứng, góp phần giải quyết
công ăn việc làm, nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Các Ngân hàng thương mại làm ăn có hiệu quả sẽ giúp nền tài chính được
lành mạnh hoá, góp phần ổn định tiền tệ và giảm lạm phát. Tín dụng ngắn hạn
trong cho vay xây lắp cũng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
Nguyễn Thị Trang 17 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
vốn sản xuất, giải quyết tốt giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế,
đảm bảo cho nền kinh tế thị trường luôn luôn thoả mãn nhu cầu về vốn.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh
nghiệp xây lắp
Không thể tiến hành kiểm soát hoạt động tín dụng khi không đưa ra
được những chỉ tiêu định lượng. Chất lượng tín dụng biểu hiện chất lượng
hoạt động của Ngân hàng là tốt hay xấu nên việc đánh giá chất lượng tín dụng
trở thành một công việc thường xuyên và hết sức quan trọng tại các Ngân
hàng. Kiểm soát các chỉ tiêu về chất lượng tín dụng giúp các Ngân hàng nhận
biết được tình hình hoạt động tại đây và kịp thời đưa ra các biện pháp, chính
sách phù hợp với mục tiêu của thời kỳ mới, nhiệm vụ mới để có thể quản lý
tín dụng tốt, kiểm soát được rủi ro và đảm bảo an toàn trong kinh doanh.
* Chỉ tiêu về quy mô tín dụng ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh tổng lượng vốn lưu động Ngân hàng cung cấp
cho khách hàng với thời hạn từ 12 tháng trở xuống. Để bao quát hết về quy
mô tín dụng ngắn hạn được thể hiện trong báo cáo kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp như thế nào, chúng ta thông qua các chỉ tiêu cụ thể như doanh
số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ tín dụng…
- Doanh số cho vay ngắn hạn trong kỳ được hiểu là tổng số tiền mà
Ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ. Doanh số cho vay ngắn hạn càng lớn cũng
đồng nghĩa với việc quy mô hoạt động của Ngân hàng đang tăng trưởng. Đây
là một tín hiệu tốt lành đối với bản thân Ngân hàng, và đối với chính khách
hàng khi nhận thấy mìn đang thực hiện giao dịch với một Ngân hàng ngày

một lớn mạnh. Đó là kết quả của cả một quá trình cố gắng, nỗ lực hết mình
trong việc phát huy những tiềm lực nội bộ và khai thác những điều kiện bên
ngoài cho sự phát triển.
- Doanh số thu nợ ngắn hạn: Quan hệ tín dụng kết thúc khi Ngân hàng
thu hồi hết gốc và lãi, các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng
Nguyễn Thị Trang 18 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
hạn là các khoản tín dụng an toàn. Có các khoản tín dụng không được hoàn
trả hoặc được hoàn trả không đủ, không đúng hạn, việc thanh toán nợ không
đúng hạn cho Ngân hàng cho thấy các trục trặc trong hoạt động của khách
hàng, tìm ra nguyên nhân và kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến
tính an toàn của tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng là việc rất
quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Ngân hàng
thống kê số tiền thu nợ của các doanh nghiệp trong một thời kỳ hình thành
nên chỉ tiêu doanh số thu nợ ngắn hạn. Nếu doanh số thu nợ ngắn hạn cao
chứng tỏ Ngân hàng đang có các khoản tín dụng ngắn hạn chất lượng tốt. Để
tìm được các khoản tín dụng này một mặt phụ thuộc vào chính sách khách
hàng, một mặt đòi hỏi Ngân hàng phải có một đội ngũ các cán bộ tín dụng có
kỹ năng, kinh nghiệm, linh động trong việc thẩm định và đánh giá phương án
kinh doanh, tài sản đảm bảo, đánh giá năng lực tài chính của khách hàng cũng
như có những dự đoán và phản ứng nhanh nhạy trước những biến động của
thị trường, của nền kinh tế.
- Dư nợ tín dụng ngắn hạn phản ánh số tiền mà Ngân hàng hiện đang
còn cho khách hàng vay vào thời điểm tính hay vào thời điểm cuối kỳ. Nếu
chỉ tiêu này tăng ổn định qua các năm chứng tỏ Ngân hàng đang có chiến lược
mở rộng thị phần hợp lý.
* Các chỉ tiêu về cơ cấu tín dụng
Đây là các chỉ tiêu mà các Ngân hàng đang sử dụng để đánh giá chất
lượng tín dụng ngắn hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây
lắp thông qua việc xác định xem Ngân hàng đã đáp ứng được bao nhiêu phần

trăm so với nhu cầu vốn của doanh nghiệp, kèm theo là việc so sánh với cơ
cấu tín dụng mà Ngân hàng đang thực hiện đối với các loại doanh nghiệp
khác với mức chênh lệch là bao nhiêu.
Các chỉ tiêu cụ thể:
Nguyễn Thị Trang 19 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
+ Doanh số cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp/Tổng doanh số cho
vay
+ Doanh số thu nợ đối với doanh nghiệp xây lắp/Tổng doanh số thu nợ
+ Dư nợ cho vay ngắn hạn/Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn
* Các chỉ tiêu về phản ánh nợ quá hạn
Rủi ro tín dụng là không thể loại bỏ, vì vậy Ngân hàng phải quản lý rủi
ro tín dụng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Ngân
hàng đã thực hiện cụ thể hoá thành các chỉ tiêu:
- Nợ quá hạn: Là khoản nợ (gốc hoặc lãi) khách hàng không trả được
khi đã đến hạn thanh toán thoả thuận trên hợp đồng tín dụng mà không được
Ngân hàng đồng ý gia hạn. Đây là khoản làm cho các Ngân hàng phải đau đầu
trong việc quản lý và thu nợ, liên quan đến tính an toàn các khoản tín dụng
nên việc đánh giá chính xác chỉ tiêu này là việc cần thiết và rất quan trọng.
Tuy rằng nợ quá hạn được xem là một chỉ tiêu quan trọng nhất trong việc xem
xét tình hình chất lượng tín dụng nhưng các cán bộ tín dụng vẫn phải xem xét
nó trong mối quan hệ với các số liệu thống kê khác, tức là xem xét đến các chỉ
tiêu tỷ lệ có liên quan vì khi một khoản vay được đánh giá là một khoản nợ
quá hạn thực sự thì đều gây bất lợi cho khách hàng cũng như Ngân hàng.
Khách hàng sẽ phải chịu một mức lãi phạt cao hơn mức lãi suất thông thường,
gây khó khăn nhiều hơn trong kinh doanh, Ngân hàng đứng trước nguy cơ của
một khoản nợ khó đòi, nguy cơ mất vốn cao, tính an toàn thấp và làm giảm
thu nhập.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn = Tổng dư nự quá hạn ngắn hạn/Tổng dư nợ

cho vay ngắn hạn
Chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn cũng như tốc độ tăng
giảm của chúng qua mỗi thời kỳ cần được theo dõi thường xuyên giúp tìm ra
Nguyễn Thị Trang 20 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn càng thấp thì
chất lượng tín dụng càng cao và việc xem xét biến động của tỷ lệ này qua các
thời kỳ có thể thấy được hiệu quả của công tác quản lý tín dụng ngắn hạn tại
Ngân hàng đó.
* Các chỉ tiêu khác
Chất lượng tín dụng còn được thể hiện thông qua các khoản cho vay có
vấn đề, qua việc xếp loại và cho điểm khách hàng - những dấu hiệu đánh giá
sự lành mạnh của từng khoản tín dụng mà Ngân hàng đã, đang và sẽ giải
ngân. Các chỉ tiêu khác nhau cần được phối hợp khéo léo trong việc đánh giá
một khoản nợ vì các quan điểm khác nhau, các cách tính toán khác nhau có
thể làm một số chỉ tiêu bị biến dạng.
1.2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với
doanh nghiệp xây lắp
* Nhân tố chủ quan
- Từ phía Ngân hàng: Chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng bởi chính sách
tín dụng, việc phân tích tín dụng, quy trình tín dụng, thông tin tín dụng, việc
huy động vốn và chất lượng cán bộ tín dụng tại Ngân hàng.
+ Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một Ngân hàng,
trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên Ngân hàng,
tăng cường tính chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất
chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng
sinh lời, có ý nghĩa quyết định đến thành công hay thất bại của Ngân hàng.
Chính sách tín dụng đã được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm. Chính
sách tín dụng càng hoàn thiện tức là chất lượng tín dụng càng được bảo đảm,
cơ hội thu hút nhiều khách hàng mới càng tăng lên, mối quan hệ với các

khách hàng cũ càng được thắt chặt, đó là điều mà tất cả các Ngân hàng đều
đang phấn đấu.
Nguyễn Thị Trang 21 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
+ Quy trình tín dụng ngắn hạn: Mỗi nghiệp vụ tại các Ngân hàng đều
phải tiến hành lần lượt theo từng bước quy định. Sự tôn trọng và sự kết hợp
nhịp nhàng trình tự của quy trình tín dụng ngắn hạn sẽ giúp các Ngân hàng có
cái nhìn xuyên suốt, chi tiết diễn biến của các khoản tín dụng, nhận biết được
các khiếm khuyết của quá trình thực hiện để sớm hạn chế rủi ro có thể xảy ra
và hoàn thiện công tác tín dụng cho những khoản tín dụng khác. Đây là tập
hợp tất cả các bước cho một quá trình cấp tín dụng trọn vẹn bắt đầu từ khi
phân tích nhu cầu cho đến khi thu hồi được hết cả gốc và lãi. Tuy vậy khi
thực hiện các công đoạn này cán bộ tín dụng không thể cứng nhắc một cách
máy móc mà phải có những phản ứng linh hoạt trong từng trường hợp để chắc
chắn rằng lợi ích cho các bên tham gia đều được đảm bảo.
+ Tình hình huy động vốn: Các Ngân hàng thương mại huy động vốn
để tiến hành hoạt động kinh doanh và hoạt động kinh doanh lớn nhất luôn là
những khoản tín dụng. Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thì
huy động vốn cho việc đầu tư vào các khoản tín dụng ngắn hạn trong lĩnh vực
xây lắp đang rất được coi trọng khi mà những khoản tín dụng này ngày càng
lớn và trở thành thế mạnh của cả hệ thống. Nguồn vốn ổn định và chính sách
lãi suất được cân đối một cách hợp lý với nhu cầu vốn và lãi của các khoản tín
dụng ngắn hạn đảm bảo cho hoạt động này có chất lượng ngày càng cao, số
lượng ngày càng lớn.
+ Thông tin tín dụng: Một hợp đồng tín dụng luôn được đánh giá và
phân tích cẩn thận. Việc thu thập các thông tin liên quan có nhanh, kịp thời và
chính xác hay không là một căn cứ quan trọng để xác định chất lượng của
khoản tín dụng là tốt hay tiềm ẩn nhiều rủi ro. Công tác thu thập thông tin
hiệu quả sẽ tạo cơ hội giúp các Ngân hàng thực hiện được mục tiêu đẩy mạnh
việc mở rộng tín dụng ngắn hạn.

+ Chất lượng cán bộ tín dụng: Nhân tố con người phải thường xuyên
được quan tâm và coi trọng hàng đầu, là nhân tố quyết định tới thắng lợi tới
bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Trình độ về nghiệp vụ, giao tiếp,
Nguyễn Thị Trang 22 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
marketing, ngoại ngữ, vi tính, sự tận tình chu đáo cẩn thận và trung thực được
coi là những nhân tố hàng đầu cần có của một cán bộ tín dụng. Nhờ trình độ
của các cán bộ tín dụng mà các khoản tín dụng sẽ được phân tích với những
chỉ tiêu đáng tin cậy giúp Ngân hàng đưa ra được quyết định chính xác và
khách hàng sẽ nhận được một số vốn hợp lý nhất. Chất lượng các khoản vay
đương nhiên được bảo đảm bởi những nhân viên tín dụng chuyên nghiệp,
khách hàng sẽ thực sự yên tâm khi được giao dịch tại Ngân hàng và các mối
quan hệ được mở rộng, các hợp đồng tín dụng luôn sẵn sàng được ký kết.
- Từ phía doanh nghiệp xây lắp: Chất lượng của khoản tín dụng còn
phụ thuộc vào chính doanh nghiệp đang tiếp nhận việc sử dụng nguồn vốn từ
phía Ngân hàng. Cơ chế quản lý và các biện pháp quản lý thi công, việc
nghiệm thu và đạo đức trong kinh doanh sẽ quyết định mức độ hiệu quả của
việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp.
+ Cơ chế quản lý và các biện pháp quản lý thi công công trình của
doanh nghiệp: Trong hoạt động kinh doanh hiện đại, cụ thể trong lĩnh vực xây
lắp - một lĩnh vực đòi hỏi một đội ngũ quản lý có trình độ, trách nhiệm cao
với công việc, một hệ thống quản lý có trật tự nhằm thuận tiện cho việc điều
động những vị trí khác nhau trong khi tiến hành thi công một công trình xây
dựng cơ bản nhiều hạn ngạch, nhiều công đoạn. Tính hiệu quả của dự án là cơ
sở cho đánh giá hiệu quả của việc sử dụng vốn. Những sự thay đổi của thị
trường đầu vào, đầu ra, của công nghệ, thị hiếu…trong từng giai đoạn cụ thể
không được tính toán trước có thể gây ra những sự cố bất ngờ cho kế hoạch
thi công và là nguyên nhân chính làm giảm chất lượng sử dụng vốn vay. Chất
lượng tín dụng ngắn hạn đã bị giảm sút do việc không đưa ra được những dự
đoán đúng và những tính toán trên cơ sở khoa học. Tìm kiếm một cơ chế quản

lý phù hợp, một biện pháp quản lý linh hoạt, có khoa học trong việc thi công
xây lắp các công trình sẽ đảm bảo khá chính xác hiệu quả của dự án khi thẩm
định, khi quyết định đầu tư và ngược lại.
Nguyễn Thị Trang 23 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
+ Quá trình nghiệm thu và thanh toán khi khối lượng xây lắp hoàn
thành
Theo trình tự đầu tư và chi phí xây dựng, quá trình đầu tư được chia
thành ba giai đoạn: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và kết thúc việc xây
dựng dự án đầu tư. Nghiệm thu là một công đoạn trong quá trình thi công một
công trình xây dựng để sau đó công trình được khai thác và đưa vào sử dụng.
Ở mỗi giai đoạn đều cần những giải pháp quản lý tốt nhằm đảm bảo hiệu quả
tối đa của một đồng vốn được đưa ra để thực hiện đầu tư. Nghiệm thu nghiêm
túc một công trình xây dựng là yêu cầu quan trọng vì đó là những đánh gía
cuối cùng đảm bảo rằng các công đoạn trước đạt hiệu quả tốt nhất. Những
nhân tố gây lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong hoạt động đầu tư có thể bị phát
hiện trong giai đoạn này, vì vậy công tác nghiệm thu được kiểm soát chặt chẽ
về việc đảm bảo lãi trong thi công, việc sử dụng nguồn lực, chất lượng thi
công, độ an toàn khi sử dụng…là căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành công
trình từng công đoạn, từng hạng mục. Công tác nghiệm thu có những ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng của nguồn tín dụng ngắn hạn mà doanh nghiệp
đang sử dụng.
+ Đạo đức của doanh nghiệp trong kinh doanh: thể hiện trong việc
doanh nghiệp có trung thực trong các báo cáo tài chính, trong các phương án
đầu tư hay không, có sử dụng vốn đúng mục đích, có thiện chí trả nợ cho
Ngân hàng hay không. Nếu khách hàng không thiện chí trong việc hợp tác với
Ngân hàng, thì Ngân hàng đang gặp phải trường hợp rủi ro về đạo đức và chất
lượng các khoản tín dụng của Ngân hàng có thể không được đảm bảo. Chính
vì vậy mà đứng trước một hợp đồng tín dụng đòi hỏi các cán bộ tín dụng
Ngân hàng phải thật tỉnh táo và có những đánh giá, phân tích thật chính xác.

* Nhân tố khách quan: Liên quan đến các môi trường về kinh tế, pháp
lý và chính trị xã hội
Nguyễn Thị Trang 24 Ngân hàng 44A
Khoa Ngân hàng – Tài chính Chuyên đề tốt nghiệp
+ Môi trường kinh tế gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng
của Ngân hàng thương mại. Quá trình diễn biến và những biến động trong
hoạt động thi công đòi hỏi Ngân hàng phải theo dõi sát sao và nắm bắt nhanh
để đưa ra được những dự đoán kịp thời vì một sự thay đổi trong môi trường
này như: Lạm phát, sự giảm giá tiền tệ, sự suy giảm về sức mạnh tài chính
của người vay do tác động của môi trường kinh tế có thể gây ra những rủi ro,
gây ra sự hao mòn vô hình của những khoản tiền mà Ngân hàng cho vay, làm
giảm chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Môi trường kinh tế thay đổi làm ảnh
hưởng đến tất cả các thành phần kinh tế, đến mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và Ngân hàng cũng không được xem là ngoại lệ vì Ngân hàng
cũng đóng vai trò là một doanh nghiệp đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh của
nền kinh tế.
+ Môi trường pháp lý: Mỗi chủ thể trong nền kinh tế khi tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh đều phải đáp ứng những yêu cầu tối thiểu theo quy
định của pháp luật hiện hành vì pháp luật xây dựng một hành lang pháp lý
lành mạnh cho mọi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời
môi trường pháp luật còn là cơ sở giải quyết các mối quan hệ giữa Ngân hàng
và khách hàng và đảm bảo lợi ích cho cả hai bên. Trong hoạt động tín dụng
tại Ngân hàng vẫn chưa đồng bộ và đầy đủ, an toàn tín dụng đôi khi chưa thực
sự được bảo đảm, hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được nhu
cầu về giải quyết các tranh chấp, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân
sự… đó là kẽ hở có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của các khoản tín
dụng mà Ngân hàng đang sở hữu.
+ Môi trường xã hôi chính trị: Môi trường chính trị xã hội luôn được
giới kinh doanh quan tâm và đánh giá rất tỷ mỷ vì một môi trường ổn định sẽ
tạo lòng tin cho các khách hàng, các doanh nghiệp và tạo cảm giác yên tâm

cho các quyết định kinh doanh của họ, đặc biệt là các khoản đầu tư dài hạn.
Môi trường không ổn định sẽ hạn chế các khoản đầu tư mới, hạn chế những
hợp đồng tín dụng hấp dẫn và tác động xấu đến các hợp đồng tín dụng cũ của
Nguyễn Thị Trang 25 Ngân hàng 44A

×