Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

nâng cao vai trò của hệ thống kiểm tra kiểm soát tín dụng tại pvfc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.38 KB, 72 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nước ta hiện nay đang từng bước hội nhập và phát triển
mạnh mẽ thì đồng thời với sự bùng nổ của hệ thống ngân hàng tài chính là
sức ép cạnh tranh, tăng trưởng trong các tổ chức tín dụng. Điều đó tạo nên
một xu hướng chung trong các tổ chức tín dụng chú ý nhiều hơn tới hệ thống
kiểm tra kiểm soát nội bộ để trở thành một công cụ đắc lực đảm bảo mọi hoạt
động kinh doanh tài chính tiền tệ nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng
của các Tổ chức Tín dụng an toàn và hiệu quả.
Tuy nhiên, khái niệm về kiểm tra kiểm soát nội bộ chỉ mới du nhập và
đi vào hoạt động ở Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ hai mươi. Do đó
hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ trong các tổ chức tài chính, ngân hàng ở
Việt Nam còn rất nhiều bất cập, hạn chế. Điều này sẽ đặt ra ngành ngân hàng,
các tổ chức tài chính rất nhiều khó khăn thách thức trong quá trình hội nhập.
Công ty Tài chính Dầu khí tuy là một công ty mạnh của Tổng Công ty
Dầu khí Việt Nam nhưng cũng không tránh khỏi những khó khăn và thách
thức đó. Vì vậy trong quá trình thực tập tại Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ -
Công ty Tài chính Dầu khí, cùng với sự tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, sự chỉ
bảo tận tình của Thầy giáo và các anh các chị nơi em thực tập, nên em đã
quyết định chọn đề tài chuyên đề thực tập: “Nâng cao vai trò của hệ thống
kiểm tra kiểm soát tín dụng tại PVFC”.
Ngoài lời nói đầu và kết luận bố cục của chuyên đề thực tập gồm các phần
sau:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về kiểm tra kiểm soát tín dụng
trong các tổ chức tín dụng
Chương II: Thực trạng hoạt động kiểm tra kiểm soát tín dụng tại
PVFC.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao vai trò
của hệ thống kiểm tra kiểm soát đối với hoạt động tín dụng tại PVFC.
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính


Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KIỂM TRA KIỂM SOÁT TÍN DỤNG
TRONG CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1 Khái niệm về kiểm tra kiểm soát tín dụng trong các tổ chức tín dụng.
1.1.1 Kiểm tra kiểm soát nội bộ.
* Khái niệm
Nếu ta xem xét khái niệm và bản chất của quản lý nói chung thì kiểm
tra kiểm soát là một chức năng và thuộc tính cố hữu của quản lý. Và trong
hoạt động của một doanh nghiệp thì kiểm tra kiểm soát luôn đóng vai trò
quan trọng trong quá trình quản lý và được thực hiện chủ yếu bởi hệ thống
kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Theo liên đoàn kế toán quốc tế hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ
thống chính sách và thủ tục nhằm bốn mục tiêu sau: Bảo vệ tài sản của đơn
vị, bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện các chế độ
pháp lý, bảo đảm hiệu quả của hoạt động và năng lực quản lý. Theo đó kiểm
soát nội bộ là một chức năng thường xuyên của các đơn vị, tổ chức và trên cơ
sở xác định rủi ro có thể xảy ra trên từng khâu công việc để tìm ra biện pháp
ngăn chặn nhằm thực hiện có hiệu quả tất cả các mục tiêu đặt ra của đơn vị.
Thứ nhất bảo vệ tài sản của đơn vị bao gồm những tài sản hữu hình
như văn phòng, nhà xưởng, máy móc …và những tài sản vô hình như sổ sách
kế toán, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp…
Thứ hai bảo đảm độ tin cậy của các thông tin kinh tế tài chính do bộ
máy kế toán xử lý và tổng hợp, tức là các thông tin phải bảo đảm tính kịp thời
về thời gian, tính chính xác và tin cậy về thực trạng hoạt động và phản ánh
đầy đủ, khách quan hoạt động của doanh nghiệp.
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
Thứ ba bảo đảm thực hiện các chế độ pháp lý một cách trung thực, đầy
đủ cũng như ngăn chặn, phát hiện kịp thời và xử lý các sai phạm và gian lận
trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ tư bảo đảm hiệu quả của hoạt động và năng lực quản lý, mục tiêu
này yêu cầu hoạt động của doanh nghiệp vừa phải thực sự có hiệu quả đồng
thời cũng phải tiết kiệm tối đa các nguồn lực cho doanh nghiệp.
* Quy trình chung :
Quy trình kiểm tra kiểm soát nội bộ trong hệ thống kiểm tra kiểm soát
của các công ty thường bao gồm các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Chuẩn bị kiểm tra:
Đây là khâu đầu tiên trong quá trình kiểm tra kiểm soát nhằm tạo ra
tiền đề và điều kiện cụ thể trước khi tiến hành kiểm tra, kiểm soát. Trong
bước đầu tiên này các thành viên tham gia phải chuẩn bị chi tiết nội dung sau:
* Xác định mục tiêu và phạm vi kiểm tra, kiểm soát:
Mục tiêu kiểm tra là cái đích cần phải đạt tới và là thước đo về kết quả
kiểm tra trong từng cuộc kiểm tra cụ thể. Mục tiêu kiểm tra cần phải căn cứ
theo những yêu cầu nhất định như sau:
+ Mối quan hệ giữa chủ thể kiểm tra và khách thể kiểm tra
+ Loại hình kiểm tra
+ Yêu cầu quản lý
* Tiến hành chỉ định người tiến hành kiểm tra và chuẩn bị cơ sở vật
chất cơ bản cho quá trình kiểm tra kiểm soát.
* Thu thập thông tin cơ bản:
Mục đích nhằm giúp cho các kiểm tra viên có cái nhìn khách quan về
khách thể kiểm tra và đối tượng kiểm tra qua đó đưa ra quyết định kiểm tra.
Những thông tin cơ bản thường bao gồm:
+ Các loại và đặc điểm nghiệp vụ cần kiểm tra
+ Cơ cấu tổ chức và đặc điểm đơn vị được kiểm tra.
+ Các văn bản có liên quan đến đối tượng kiểm tra và khách thể kiểm tra.
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
* Lập kế hoạch kiểm tra ( kế hoạch tổng quát):
Xác định thời gian thực hiện công tác kiêm tra, thời điểm diễn ra cuộc

kiểm tra- thời gian cuộc kiểm tra- thời gian tiến hành toàn bộ cuộc kiểm tra
Xác định số người thực hiện cuộc kiểm tra, số người tham gia phải
tương ứng với quy mô kiểm tra của đơn vị
Bước 2: Thực hiện kiểm tra, kiểm soát:
Đây là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã được ấn định
trong kế hoạch và chương trình kiểm tra. Trong giai đoạn thực hiện kiểm tra,
kiểm soát mỗi thành viên tham gia phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc đã
được đề ra trước đó. Các nguyên tắc đó bao gồm như sau:
+ Kiểm tra viên phải tuân thủ đúng chương trình kiểm tra đã được xây
dựng.
+ Trong quá trình kiểm tra kiểm tra viên phải thường xuyên ghi chép
những phát giác những nhận định về các nghiệp vụ, các con số, các sự kiện…
+ Định kỳ tổng hợp kết quả kiểm tra trên các bảng tổng hợp như bảng
kê chênh lệch, bảng kê xác minh để từ đó đánh giá mức độ thực hiện so với
khối lượng công việc chung.
Bước 3: Kết thúc và lập báo cáo kiểm tra
Là bước cuối cùng sau khi kết thúc quá trình kiểm tra, kiểm soát các
thành viên phải đưa ra được kết luận về đối tượng tiến hành kiểm tra và họ
tiến hành lập các báo cáo kiểm tra, kiểm soát. Kết luận kiểm tra có các yêu
cầu cụ thể sau đây:
+ Kết luận kiểm tra phải phù hợp với nội dung và đói tượng kiểm tra
+ Đúng tính pháp lý của kiểm tra đòi hỏi các kiểm tra viên phải thu
thập những thông tin bằng chứng tương xứng theo yêu cầu quy chế và chuẩn
mực đồng thời còn đòi hỏi các kiểm tra viên phải có độ chính xác về ngôn từ
ngữ pháp trong văn phạm.
+ Kết luận kiểm tra được thể thiện dưới hình thức biên bản kiểm tra.
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
Bước 4. Đề xuất kiến nghị.
Đây là bước cuối cùng, kiểm tra viên sẽ đưa ra đề xuất kiến nghị với

ban lãnh đạo công ty.
1.1.2 Kiểm tra kiểm soát tín dụng.
1.1.2.1 Khái niệm về tín dụng, chất lượng tín dụng và các chỉ tiêu đánh giá
chất lượng tín dụng trong các tổ chức tín dụng.
* Khái niệm tín dụng.
Cùng với sự phát triển của trao đổi và mua bán hàng hoá, tín dụng là
một quan hệ kinh tế đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử loài người. Ban đầu khi
mới xuất hiện tín dụng chỉ là một hình thức tín dụng thương mại xuất phát từ
quan hệ mua bán chịu những hàng hoá đơn giản giữa một số người với nhau,
trải qua một thời gian dài tín dụng thương mại đã phát triển ở mức độ cao
hơn, tuy bản chất không thay đổi nhưng về hình thức và nội dung của quan hệ
tín dụng thì đa dạng và phong phú hơn rất nhiều. Điều đó tạo điều kiện cho
lượng vốn trên thị trường lưu thông mạnh hơn do các doanh nghiệp vừa đáp
ứng được nhu cầu về vốn lại vừa bán được hàng thông qua tín dụng thương
mại, song mặt khác tín dụng thương mại chỉ có thể thực hiện được giữa
những người có quan hệ giao dịch thường xuyên trong phạm vi buôn bán chịu
hàng hoá đã thực hiện với nhau hơn nữa vốn vay lại thường là một bộ phận
nằm trong chu kỳ của người cho vay không thể kéo dài thêm thời hạn. Do vậy
có thể nói tín dụng thương mại bị hạn chế bởi phạm vi quy mô, thời hạn cũng
như chiều hướng của khoản tín dụng. Điều hạn chế này sẽ được giải quyết
bằng tín dụng ngân hàng - một hình thức phát triển cao của tín dụng nói
chung, về bản chất tín dụng ngân hàng vẫn chuyển vốn (dưới dạng tiền tệ hay
hiện vật) từ người này (người cho vay) tới người khác (người vay) trên cơ sở
hoàn trả và thu lãi sau một thời hạn nhất định nhưng khác ở chỗ ngân hàng là
một tổ chức kinh doanh tiền tệ và nó đóng vai trò là một trung gian tài chính,
nó vừa là người cho vay vừa là người đi vay đối với tất cả các thành phần
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
trong nền kinh tế do đó dịch vụ tín dụng mà nó đưa ra là hoàn hảo và đa dạng
nhất nó không bị lệ thuộc vào phạm vi, quy mô và chu kỳ kinh doanh của bất

kỳ một doanh nghiệp đơn lẻ nào, đồng thời chiều hướng của quan hệ tín dụng
cũng không còn là vấn đề gây cản trở cho sự huy động vốn của các doanh
nghiệp. Đó là tín dụng ngân hàng nói chung – nó gồm cả quan hệ vay và cho
vay, còn khi chúng ta gắn tín dụng vào hoạt động một ngân hàng cụ thể thì tín
dụng ngân hàng thường chỉ được hiểu là quan hệ cho vay và nó là một trong
những khoản mục bên phía tài sản trong bảng cân đối kế toán của mỗi ngân
hàng. Trong mỗi ngân hàng khoản mục tín dụng này thường bao gồm các
hình thức như: cho vay, cho thuê, bảo lãnh, hay chiết khấu các giấy tờ có giá
vv…các khoản tín dụng này có thể có thời hạn ngắn hay dài tuỳ theo sự sắp
xếp của mỗi ngân hàng và nhu cầu của khách hàng.
* Chất lượng tín dụng và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
Thông thường tín dụng luôn là một khoản mục chiếm tỉ trọng lớn và
mang lại nguồn thu cũng lớn trong cơ cấu tổng tài sản và tổng nguồn thu của
mỗi ngân hàng. Nhưng đi đôi với nguồn thu đó tín dụng cũng mang lại rất
nhiều rủi ro, do vậy chất lượng tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh
doanh của một ngân hàng. Một quan hệ tín dụng được gọi là có chất lượng
phải được xét trên hai khía cạnh:
Thứ nhất đối với ngân hàng chất lượng tín dụng có thể được hiểu đơn
giản là hiệu quả của việc cho vay mang lại, tức là khả năng ngân hàng thu
được cả gốc và lãi của khoản tín dụng khi đến hạn từ phía khách hàng mà vẫn
đảm bảo sự an toàn và phát triển bền vững cho ngân hàng.
Thứ hai đối với khách hàng là các doanh nghiệp hay tổ chức cá nhân
thì chất lượng tín dụng được hiểu là khả năng mở rộng tài trợ (cho vay, cho
thuê, bảo lãnh…) của ngân hàng phù hợp và đáp ứng được với nhu cầu của
doanh nghiệp (nhu cầu về qui mô, thời hạn, lãi suất, cách thức, thủ tục cấp
vốn, Hai khía cạnh này có quan hệ chặt chẽ với nhau, để dễ hiểu ta giả sử
nếu khách hàng được ngân hàng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về vốn lại được
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
ngân hàng hướng dẫn, giám sát sử dụng vốn đúng mục đích, sản xuất kinh

doanh có hiệu quả sẽ trả được gốc và lãi cho ngân hàng điều này không
những tốt cho các ngân hàng mà còn tốt cho sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế nói chung. Đây chỉ là cách hiểu chung nhất khái quát nhất về chất
lượng tín dụng, còn để đi sâu và đánh giá được chất lượng tín dụng chúng ta
phải xem xét một số chỉ tiêu đánh giá sau:
* Thứ nhất các chỉ tiêu định tính:
Chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với các khách hàng
có thể được đánh giá bằng khả năng tăng cường mở rộng tín dụng và mức độ
đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp (tổ chức, cá nhân). Một khoản tín
dụng được coi là có chất lượng tốt khi ngân hàng đáp ứng tốt nhu cầu của họ.
Đáp ứng tốt có nghĩa là khi khách hàng cần vốn với số lượng, thời hạn, xác
định ngân hàng phải đáp ứng đầy đủ đồng thời các thủ tục phải chính xác,
khoa học, nhanh chóng, và thuận tiện, lãi xuất phải phù hợp, tương xứng với
rủi ro của khoản tín dụng và đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài ra chất lượng tín dụng của một khoản tín dụng còn thể hiện ở kết
quả hoạt động kinh doanh, cũng như uy tín, thương hiệu của tổ chức tín dụng
và các khách hàng tham gia quan hệ tín dụng đó. Một mặt, nếu một ngân hàng
được đánh giá là có chất lượng tín dụng tốt thì đồng nghĩa với hoạt động tín
dụng của ngân hàng đó phải bù đắp được chi phí và mang lại thu nhập cho
ngân hàng và nếu một ngân hàng được coi là có uy tín lâu năm và đã mất
nhiều công sức để xây dựng một thương hiệu riêng cho mình thì chắc chắn
chất lượng tín dụng của ngân hàng đó cũng khó có thể không tốt. Bởi lẽ uy tín
và thương hiệu chính là giá trị do khách hàng cảm nhận và mang lại cho ngân
hàng qua những lần sử dụng dịch vụ của ngân hàng, đồng thời những giá trị
về uy tín và thương hiệu đó cũng chính là những cam kết của ngân hàng về
chất lượng của dịch vụ mà ngân hàng đưa ra đối với khách hàng. Mặt khác
với một khách hàng (doanh nghiệp) có uy tín và có mối quan hệ tốt với ngân
hàng thì khả năng thu được nợ của ngân hàng đối với khách hàng đó là lớn
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính

hơn các khách hàng khác thậm chí đối với khách hàng này nhiều khi ngân
hàng không cần đòi hỏi thế chấp hay thủ tục như thông lệ mà vẫn bảo đảm
khách hàng sẽ trả được nợ - tức là chất lượng tín dụng đối với những khách
hàng này là tốt.
* Thứ hai về các chỉ tiêu định lượng:
Những chỉ tiêu định tính thường chỉ đánh giá một cách chung và khái
quát chất lượng của tín dụng, còn để đánh giá được một cách cụ thể và chính
xác chất lượng tín dụng chúng ta hãy xem xét một cách tổng hợp các chỉ tiêu
định lượng về phía các doanh nghiệp và ngân hàng sau:
Đối với Doanh nghiệp:
+ Chỉ tiêu đánh giá tài sản của khách hàng: Nhóm chỉ tiêu này gồm
ngân quỹ (tiền gửi ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản phải thu ); các
chứng khoán có giá (trái phiếu, cổ phiếu, ); hàng hoá trong kho; hay các tài
sản cố định như nhà xưởng, máy móc… Sở dĩ ngân hàng phải nghiên cứu
những chỉ tiêu này bởi những thông tin về tài sản cho thấy qui mô, chất lượng
của tài sản, khả năng quản lý của khách hàng rất quan trọng đối với quyết
định cho vay. Hơn nữa chính những tài sản này tuỳ theo tính thanh khoản mỗi
loại mà chúng sẽ tạo nên khả năng thu hồi nợ cho ngân hàng khi khách hàng
mất khả năng sinh lời hay nói cách khác đó chính là những tài sản đảm bảo
cho khoản vay - nhằm phòng ngừa rủi ro làm nên chất lượng của tín dụng.
+ Các chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp: Lợi nhuận chính là
nguồn trả lãi cho ngân hàng do đó khi xem xét đánh giá các khoản tín dụng
ngân hàng cũng cần phải xem xét kỹ tiêu chí này. Thường lợi nhuận của
doanh nghiệp được xem xét bởi ba chỉ tiêu: Đó là tỉ suất lợi nhuận vốn = Lợi
nhuận/Vốn sử dụng bình quân trong kỳ; tỷ suất lợi nhuận giá thành = lợi
nhuận/giá thành sản phẩm trong kỳ; và cuối cùng là tỷ suất lợi nhuận doanh
thu bán hàng = lợi nhuận/doanh thu trong kỳ. Ba chỉ tiêu trên đều phân tích
về lợi nhuận của doanh nghiệp nhưng mỗi chỉ tiêu chỉ phân tích trên một khía
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính

cạnh của lợi nhuận do đó tuỳ vào điều kiện của doanh nghiệp (qui mô, thị
trường đầu ra, đầu vào, công nghệ…) mà ta phải kết hợp cả 3 chỉ tiêu trên
một cách hợp lý thì mới đánh giá được tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp
từ đó mới biết được khả năng trả lãi của doanh nghiệp .nhưng nhìn chung nếu
trong cùng một điều kiện (thị trường đầu ra, đầu vào, công nghệ, qui mô )
nếu doanh nghiệp nào có các chỉ tiêu trên đều cao thì khả năng trả nợ cao hơn
tức là chất lượng của khoản tín dụng cho doanh nghiệp đó cao hơn.
Đối với Ngân hàng, Tổ chức Tín dụng:
+ Chỉ tiêu về doanh số cho vay trong kỳ và tốc độ tăng trưởng doanh số
cho vay của ngân hàng đối với khách hàng. Doanh số cho vay trong kỳ đối
khách hàng là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho khách hàng đó vay trong kỳ.
nó thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với
khách hàng. Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay lại thể hiện khả
năng mỏ rộng quy mô cho vay tới khách hàng qua các thời kỳ. Đây là số
tương đối, nếu dương thể hiện quy mô cho vay tăng lên, âm thể hiện quy mô
cho vay đã giảm qua các thời kỳ. Để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân
hàng ở mức độ nào thì phải xem xét đánh giá nhiều mặt nhưng nếu doanh số
cho vay lớn cùng tốc độ tăng trưởng doanh số cao thì có thể coi là một chất
lượng tín dụng tốt.
+ Chỉ tiêu về dư nợ của khách hàng: Dư nợ của khách hàng là số tiền
mà ngân hàng còn đang cho khách hàng vay ở một thời điểm nhất định,
thường là ở thời điểm cuối kỳ. Đây là số tuyệt đối thể hiện quy mô cho vay
tới các khách hàng tại một thời điểm nhất định. Số dư nợ này cao hay thấp
chưa thể khẳng định được chất lượng tín dụng tốt hay xấu, nó còn phụ thuộc
vào khả năng trả được nợ của khách hàng trong tương lai và nhiều yếu tố
khác, nhưng theo qui định chung thì số dư nợ của một khách hàng không
vượt quá 25% vốn điều lệ của ngân hàng. Điều này chứng tỏ số dư nợ của
khách hàng lớn đến một mức nào đó sẽ gây nguy hiểm cho ngân hàng tức là
chất lượng tín dụng có chiều hướng xấu đi.
9

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
+ Chỉ tiêu doanh số thu nợ từ khách hàng: Là số tiền khách hàng đã
trả ngân hàng trong kỳ từ các khoản vay. Hiển nhiên chỉ tiêu này phản ánh
hiệu quả của việc cho vay của ngân hàng đồng thời cũng phản ánh khả năng
kinh doanh của khách hàng do đó chỉ tiêu này càng cao càng thể hiện chất
lượng tín dụng tốt.
+ Chỉ tiêu nợ quá hạn. Nợ quá hạn là khoản nợ gốc hay lãi mà khách
hàng không trả được cho ngân hàng khi đến hạn.
Chỉ tiêu này được biểu hiện bằng tỉ lệ: Nợ quá hạn/Tổng dư nợ
Rõ ràng nợ quá hạn thể hiện chất lượng tín dụng thấp nhưng đối với
một ngân hàng nợ quá hạn là không thể tránh khỏi, tuy nhiên với mỗi loại
hình vay thường mang các đặc điểm khác nhau như cho vay không có tài sản
đảm bảo, cho vay cầm cố, thế chấp bằng tài sản đảm bảo là các bất động sản,
động sản nên mức độ rủi ro đối với mội loại hinh cũng khác nhau. Thông
thường cho vay cầm cố tài sản là hình thức mặc dù dựa trên các điều khoản
về kỳ hạn trả nợ trên hợp đồng là quá hạn, tuy nhiên đối với các tài sản đảm
bảo này, ngân hàng vẫn có thể thanh lý dưới hình thức phát mại để thu hồi
vốn, vì vậy trên một phưong diện nào đó, vốn của ngân hàng vẫn được đảm
bảo. Vì vậy tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ được coi là chấp nhận được nằm
trong khoảng dưới 5%.
+ Chỉ tiêu nợ khó đòi: Là khoản nợ quá hạn một kỳ gia hạn nợ, mà khả
năng trả được nợ của doanh nghiệp kém, tài sản thế chấp nhỏ… Về số tương
đối người ta hay dùng tỉ lệ: Nợ khó đòi /Tổng dư nợ. Cả hai chỉ tiêu này đều
phản ánh chất lượng tín dụng xấu nên khi kiểm tra, kiểm soát tín dụng cần
chú ý và nên giảm thiểu loại tín dụng này.
+ Ngoài ra còn một số chỉ tiêu đánh giá chung về phía ngân hàng như:
Doanh thu từ cho vay/tổng doanh thu; doanh thu từ cho vay/trên tổng chi phí
vốn vay; thu từ lãi/lợi nhuận sau thuế; thường các chỉ tiêu này cao cũng thể
hiện chất lượng tín dụng tốt. Và một số chỉ tiêu khác về tín dụng như: Tổng
số dư tín dụng / tổng tài sản; Tổng số dư tín dụng / VCSH; những chỉ tiêu

10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
này cũng thể hiện khả năng phát triển dịch vụ tín dụng của tổ chức nhưng
đồng thời cũng phải phải đảm bảo được yêu cầu của NHNN về an toàn hoạt
động tín dụng.
1.1.2.2 Kiểm tra kiểm soát tín dụng:
* Khái niệm
Kiểm tra kiểm soát tín dụng trong các tổ chức tín dụng nói chung chỉ là
một trong những khâu của quá trình kiểm tra kiểm soát do hệ thống kiểm tra
kiểm soát nội bộ tiến hành nên sẽ không có một khái niệm chính xác và hoàn
chỉnh vể kiểm tra kiểm soát tín dụng. Do đó ta có thể hiểu một cách đơn giản
kiểm tra kiểm soát tín dụng là một hoạt động của công tác kiểm tra kiểm soát
nội bộ trong đó kiểm tra viên dùng phương pháp nghiệp vụ thích hợp nhằm
kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện ra những sai sót, vi phạm trong quá trình
thực hiện quy trình tín dụng từ đó đưa ra những đề xuất, ý kiến nhằm nâng
cao chất lượng công tác tín dụng cho tổ chức và đảm bảo thực hiện những
mục tiêu đề ra của tổ chức.
* Quy trình chung.
Như chúng ta đã nói ở trên kiểm tra kiểm soát tín dụng là một phần
hoạt động của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ do vậy quy trình thực hiện
của nó không đi ngược lại quy trình kiểm tra kiểm soát nội bộ. Chỉ khác ở
chỗ đối tượng thực hiện của quá trình kiểm tra kiểm soát ở đây là nghiệp vụ
tín dụng, cụ thể hơn là việc phải xem xét các hoạt động liên quan đến nghiệp
vụ tín dụng có thực hiện đúng với quy trình đã đề ra hay không, có đúng với
các quy chế của NHNN và quy định của tổ chức hay không. Về thứ tự các
bước của kiểm tra kiểm soát tín dụng cũng giống như quy trình của kiểm tra
kiểm soát nội bộ, tuy nhiên trong mỗi bước sẽ có các khác biệt cụ thể:
Bước 1. Chuẩn bị kiểm tra.
1.1 Khảo sát và thu thập thông tin:
11

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
Ở bước này phải nắm được các quy trình quy chế liên quan đến hoạt
động nghiệp vụ tín dụng, phải biết các văn bản pháp quy mới nhất liên quan
tới hoạt động tín dụng trong các tổ chức tín dụng. đồng thời tìm hiểu thông
tin từ các tài liệu có liên quan tới tín dụng của tổ chức, kể cả các báo cáo lần
trước của tổ chức.
1.2 Lập đề cương kiểm tra:
Dựa vào các thông tin thu thập được trong thời gian khảo sát, nhóm
kiểm tra xây dựng đề cương kiểm tra theo Quy định riêng của tổ chức.
1.3 Tổ chức thông báo chương trình kiểm tra:
- Sau khi Đề cương kiểm tra đã được Giám đốc phê duyệt, Phòng
KTKSNB có trách nhiệm lập Thông báo chương trình kiểm tra theo quy định
của tổ chức.
1.4 Chuẩn bị điều kiện cần thiết cho kiểm tra:
Bước này yêu cầu phải chuẩn bị được mọi điều kiện cần thiết cho cuộc
kiểm tra để tạo điều kiện tiền đề cho tiếp tục vào bước sau không bị thiếu sót
và diễn ra một cách thuận lợi.
Bước 2. Thực hiện kiểm tra.
2.1 Thu thập bằng chứng kiểm tra:
- Sử dụng phương pháp đối chiếu so sánh, xác minh: Sử dụng số liệu
do Phòng được kiểm tra cung cấp để so sánh với cân đối của Phòng Kế toán,
để kiểm tra việc cập nhật số liệu của các Phòng tín dụng có được thường
xuyên, kịp thời và chính xác không.
- Kiểm tra thông qua việc quan sát, phỏng vấn cán bộ tín dụng: Khi có
điểm nào chưa rõ trong quá trình kiểm tra có thể phỏng vấn cán bộ tín dụng.
- Có thể kiểm tra toàn bộ hồ sơ hoặc chọn mẫu trọng yếu: tuỳ theo thời
gian, yêu cầu của từng đợt kiểm tra.
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
2.2 Ghi chép và tổng hợp kết quả kiểm tra:

Kiểm tra chủ thể vay vốn:
- Kiểm tra hồ sơ pháp lý (tính đầy đủ của các tài liệu cung cấp theo
quy định Công ty: đăng ký kinh doanh, hồ sơ pháp lý ….)
- Kiểm tra tổng thể dư nợ đối với từng pháp nhân, thể nhân vay vốn để đối
chiếu với mức phân cấp, mức phán quyết và tổng dư cho vay 1 khách hàng so với
vốn tự có (có bị vượt quá 15% vốn tự có của Tổ chức, nếu bị vượt quá thì nguyên
nhân là gì) và có kiến nghị xử lý kịp thời. Kiểm tra đối tượng vay vốn có thuộc
đối tượng không được phép hoặc hạn chế vay vốn không?.
Kiểm tra hồ sơ khoản vay
Kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của phương án vay vốn:
Phương án kinh doanh, dự án, luận chứng kinh tế kỹ thuật được cấp có
thẩm quyền phê duyệt và dự án đó có tính khả thi không?. Đối với những dự
án XDCB, đầu tư trung và dài hạn cần lưu ý đến cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
Kiểm tra trong phương án trả nợ gốc và lãi khách hàng sẽ trả bằng
nguồn nào? Khách hàng phải chứng minh rằng sẽ trả được nợ vay (cả gốc và
lãi) bằng nguồn mà khách hàng đã nêu trong phương án trả nợ.
Kiểm tra hồ sơ cho vay:
- Kiểm tra các tài liệu liên quan đến việc đảm bảo tín dụng:
- Kiểm tra việc áp dụng lãi suất cho vay, loại cho vay, hạn mức tín
dụng, thời hạn cho vay.
- Kiểm tra nguồn vốn cho vay,
- Thời hạn cho vay có phù hợp với phương án kinh doanh nguồn vốn
cho vay,
- Kiểm tra hạn mức cho vay: Căn cứ quy định của chính phủ, theo quy
định riêng của tổ chức.
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
- Kiểm tra quá trình thu nợ thu lãi, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ,
kiểm tra sau khi giải ngân, kiểm tra công tác thu nợ thu lãi, thủ tục chuyển nợ

quá hạn, kiểm tra việc gia hạn nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ.
* Kiểm tra việc lưu trữ hồ sơ:
Việc lưu trữ hồ sơ có khoa học, đảm bảo tính độc lập, bảo mật, dễ tìm dễ lấy
* Đánh giá các bằng chứng:
- Kiểm tra đối chiếu với văn bản chế độ và các quy định hiện hành:
Xác định rõ những việc làm đúng và chưa đúng so với quy định; rút ra
nguyên nhân chủ quan, khách quan
- Tổng hợp, lựa chọn thông tin, xác định nguyên nhân và mức độ liên
quan của từng nguyên nhân.
2.3 Lập Biên bản kiểm tra :
Biên bản kiểm tra sau khi được nhóm kiểm tra lập sẽ được gửi tới lãnh
đạo Phòng kèm theo các bằng chứng kiểm tra để cho ý kiến chỉ đạo (nếu có)
trước khi gửi các đơn vị được kiểm tra. Biên bản kiểm tra sẽ do trưởng nhóm
kiểm tra ký cùng với lãnh đạo đơn vị được kiểm tra.
Bước 3. Báo cáo kết quả kiểm tra.
Sau khi thống nhất được biên bản kiểm tra, kèm theo giải trình của các
đơn vị được kiểm tra (nếu có). Đơn vị kiểm tra sẽ lập báo cáo gửi Ban Giám
đốc. Nội dung báo cáo nêu các kiến nghị và xử lý.
Bước 4. Kết thúc kiểm tra.
Bước này khi kiểm tra và báo cáo kết quả xong các kiểm tra viên đề
xuất ý kiến, kiến nghị và ban Giám đốc.
1.2 Sự cần thiết phải kiểm tra kiểm soát tín dụng trong các TCTD.
Để thấy được sự cần thiết của kiểm tra kiểm soát tín dụng trong các tổ
chức tín dụng trước hết ta phải thấy được vai trò quan trọng của tín dụng đối
với các tổ chức tín dụng và rủi ro mà nó mang lại cho các tổ chức tín dụng:
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
* Vai trò của tín dụng đối với các tổ chức tín dụng và PVFC nói riêng:
Các tổ chức tín dụng, nghiệp vụ tín dụng không những là một nghiệp vụ cơ bản
và thường xuyên mà còn có một vai trò rất lớn đối với hoạt động của các tổ chức

này bởi lẽ tín dụng luôn là một khoản mục chiếm tỷ trọng rât lớn và mang lại
nguồn thu cũng rất lớn trong tổng tài sản của các tổ chức tín dụng. Ta có thấy
điều này qua các chỉ tiêu về tín dụng của một số tổ chức tín dụng sau:
Về số tuyệt đối tại thời điểm cuối năm 2004 tổng dư nợ tín dụng của
một số Tổ chức tín dụng lớn như sau:
STT Tổ chức tín dụng Dư nợ (Triệu đồng) Dư nợ/Tổng tài sản
1 Vietcombank 50.830.650 40%
2 Techcombank là 6.461.690 80%
3 Eximbank là 3.849.070 60%,
4 PVFC 1.869.780 44%
(Nguồn số liệu từ Báo cáo Kiểm toán của các TCTD)
Như vậy thực tế so với tỷ trọng các tài sản khác thì trong kết cấu tài sản
của một ngân hàng khoản mục tín dụng thường có số dư rất lớn và chiếm tỷ
trọng lớn nhất.
* Rủi ro trong hoạt động tín dụng và hậu quả của nó đối với nền kinh tế và
các tổ chức tín dụng.
+ Nguyên tắc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro đối với tín dụng.
Như chúng ta đã biết tín dụng là một nghiệp vụ mang lại lợi nhuận lớn cho
các ngân hàng nhưng đồng thời nghiệp vụ tín dụng cũng luôn luôn mang lại
rủi ro cho ngân hàng đó là rủi ro tín dụng.Tức là khả năng xảy ra những tổn
thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không
trả, hay không trả đủ vốn và lãi. Tính đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro của tín
dụng thể hiện ở hai mặt: Thứ nhất rủi ro tín dụng luôn luôn đi kèm với hoạt
động tín dụng - một hoạt động sinh lời quan trọng nhất của các tổ chức tín
dụng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi. Bởi lẽ khi ngân hàng thực hiện
một hoạt động tài trợ (tín dụng ) cụ thể ngân hàng đã cố gắng phân tích các
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
yếu tố của người vay sao cho an toàn nhất và nhìn chung khi ngân hàng ra
quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không sảy ra. Tuy nhiên

không một ngân hàng nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề có thể sảy ra.
Một mặt khả năng trả nợ của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên
nhân, có thể do khả năng quản lý, kinh doanh yếu kém của họ, có thể do
những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh, bệnh tật…hoặc
thậm chí có thể do chủ ý của họ muốn lừa đảo ngân hàng vv…Mặt khác
không phải cán bộ ngân hàng nào cũng có khả năng thực hiện phân tích tín
dụng một cách thích đáng. Thứ hai lợi nhuận mang lại từ tín dụng càng cao
thì rủi ro nó mang lại càng lớn và ngược lại. Điều này cũng thể hiện ở hai mặt,
mặt thứ nhất như chúng ta đã phân tích ở trên do rủi ro tín dụng là điều không
thể tránh khỏi nên khi ngân hàng càng mở rộng hoạt động tín dụng thì càng
chịu nhiều rủi ro và nếu thu hẹp lại thì rủi ro cũng ít đi. Mặt thứ hai trong mỗi
quan hệ tín dụng cụ thể khi mà ngân hàng muốn cho vay ra với một khoản tín
dụng với lãi xuất cao với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao thì họ phải chấp
nhận mạo hiểm với những khách hàng tha thiết muốn vay, kể cả với lãi xuất
cao.Và thường đó lại là những khách hàng cũng ưa mạo hiểm hoặc khả năng
trả nợ tồi. Cả hai điều đều dẫn đến khả năng tổn thất cho ngân hàng tức là rủi
ro tín dụng lớn. Còn nếu ngân hàng chỉ cho vay với những khách hàng quen,
uy tín cao khả năng trả nợ lớn hơn thì phải chấp nhận với lãi xuất thấp hơn tức
là lợi nhuận nhỏ hơn.
+ Hậu quả của rủi ro tín dụng trong lịch sử.
Vì tín dụng có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế và đối với hoạt động
của các tổ chức tín dụng do vậy một khi rủi ro tín dụng sảy ra đồng loạt ở quy
mô lớn sẽ gây hậu quả nghiêm trọng tới sự phát triển của mỗi quốc gia cũng
như sự đổ bể của hệ thống ngân hàng quốc gia đó. Còn nếu rủi ro tín dụng sảy
ra trong một tổ chức tín dụng thì cũng sẽ gây thiệt hại trực tiếp đến tài sản và
uy tín của tổ chức đó thậm chí nếu với thiệt hại lớn hơn có thể tác động mạnh
đến khả năng thanh toán của tổ chức đó và kéo theo sự ảnh hưởng dây chuyền
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
đến các tổ chức khác. Sau đây là một số ví dụ điển hình về rủi ro tín dụng đã

sảy ra trong lịch sử:
Vào những năm 1970 trên thế giới các NHTM nước ngoài đã cho các
nước kém phát triển vay hàng trăm tỷ đô la. Vào những năm 1980, các khoản
vay này trở nên khó thu hồi (khủng hoảng nợ), hậu quả là các NHTM đã bị
thua lỗ rất lớn và ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của chúng cũng như
nền kinh tế trong những năm tiếp theo.
Một ví dụ khác ở Việt Nam vào những năm 1997 nhiều ngân hàng
thương mại do mở rộng cho vay tràn lan đã rơi vào tình trạng nợ quá hạn, nợ
khó đòi cao khiến cho các ngân hàng chịu nhiều tổn thất đồng thời làm giảm
tốc độ chu chuyển vốn của nền kinh tế và ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng
kinh tế.
* Sự cần thiết phải kiểm tra kiểm soát công tác tín dụng:
Như vậy ta có thể khái quát chung một số đặc điểm của nghiệp vụ tín
dụng trong các tổ chức tín dụng là: Nghiệp vụ tín dụng là một nghiệp vụ cơ
bản, thường xuyên và quan trọng đối với mỗi tổ chức tín dụng. Quan trọng ở
chỗ nghiệp vụ tín dụng vừa mang lại nguồn thu lớn cho tổ chức vừa chứa đựng
nhiều rủi ro ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và phát triển của tổ chức; Nghiệp vụ
tín dụng vừa lớn về số lượng nghiệp vụ vừa phức tạp về hình thức và quy trình
nghiệp vụ do đó là nghiệp vụ rất dễ nảy sinh những sai sót, việc phát hiện và
sửa chữa sai sót cũng rất khó khăn. Do vậy để bảo đảm cho sự hoạt động và
phát triển của các tổ chức tín dụng và hệ thống ngân hàng nói chung cần phải
kiểm tra kiểm soát một cách chặt chẽ công tác tín dụng trong mỗi tổ chức tín
dụng. Việc kiểm tra kiểm soát tín dụng một cách chặt chẽ không những làm
giảm tối thiểu rủi ro tín dụng mà còn góp phần nâng cao chất lượng tín dụng
của mỗi ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác do chất lượng tín dụng
trong các tổ chức tín dụng nhất là các tổ chức tín dụng sở hữu nhà nước hiện
nay nhiều khi còn ở mức thấp và hàm chứa nhiều rủi ro do đó việc đẩy mạnh
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
công tác kiểm tra kiểm soát tín dụng trong các tổ chức tín dụng là việc làm cần

thiết và phải ngày càng được thực hiện một cách chặt chẽ và khoa học hơn.
1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kiểm tra kiểm soát tín
dụng.
1.3.1 Những nhân tố từ phía Tổ chức tín dụng.
* Các chính sách đối với công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ của tổ
chức. Đây là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới vai trò và hiệu quả hoạt động
của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng. Việc ban lãnh
đạo có chú trọng tới hoạt động kiểm tra kiểm soát của tổ chức mình hay
không có vai trò quan trọng trong sự chặt chẽ và nề nếp của hoạt động kiểm
tra kiểm soát. Và trong những hoạt động của tổ chức thì hoạt động kiểm tra
kiểm soát cần phải đặt lên hàng đầu khi ra các quyết định chính sách bởi hiệu
quả hoạt động của nó là cơ sở để nâng cao hiệu quả của các hoạt động khác
và giúp các hoạt động đó đi vào nề nếp. Ngược lại nếu hoạt động KTKS
không được chú trọng đúng mức, thậm chí buông lỏng thì nó cũng là nguyên
nhân dẫn đến sự đi xuống của mọi hoạt động trong tổ chức nói chung và hiệu
quả KTKS nói riêng.
* Tính độc lập của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ. Yếu tố này có
tác động tới ý nghĩa của hệ thống kiểm tra kiểm soát. Một trong những
nguyên lý quan trọng của kiểm toán nói chung và KTKSNB nói riêng là tính
độc lập. Tức là trong cơ cấu, chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của các bộ
phận, pong ban của tổ chức thì hệ thống KTKS phải được độc lập không phụ
thuộc vào bộ phận, pong ban nào (trừ Hội đồng quản trị của công ty). Nếu
hoạt động KTKS bị phụ thuộc dù chỉ là nhỏ thì nó cũng sẽ làm suy giảm và
mất đi ý nghĩa kiểm tra giám soát của mình và công tác KTKS cũng không
thể nói là có hiệu quả được.
* Quy trình kiểm tra kiểm soát tín dụng. Đây là nhân tố ảnh hưởng một cách
trực tiếp tới hoạt động KTKS tín dụng trong từng nghiệp vụ cụ thể. Một quy
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
trình KTKS chặt chẽ và sâu sát trong từng bước của quy trình tín dụng thì sẽ

dễ dàng phân tích đánh giá và phát hiện những sai sót, vi phạm hơn những
quy trình không chặt chẽ, mang tính chung chung. Hơn nữa nếu quy trình
KTKS được thực hiện cùng một lúc song song với quy trình tín dụng thì thực
sự mới có thể cản trở những sai phạm và đưa hoạt động tín dụng vào nề nếp
và khoa học. Còn khi các nghiệp vụ tín dụng diễn ra xong rồi mới được kiểm
tra sau đó là nhắc nhở, rút kinh nghiệm thì không những có thể gây thiệt hại
cho tổ chức mà lần sau những sai phạm vẫn có cơ hội tiếp diễn, tức là hệ
thống KTKS tín dụng không phát huy được vai trò của mình là ngăn chặn và
sử lý các sai phạm trong hoạt động tín dụng.
* Năng lực chuyên môn của đội ngũ nhân viên KTKS tín dụng. Đây là
một yếu tố cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của hoạt động KTKS tín
dụng. Bởi lẽ KTKS nói chung là một công việc đòi hỏi tính chuyên nghiệp rất
cao. Không những các nhân viên phải có trình độ và kinh nghiệm nhất định
trong lĩnh vực kiểm tra kiểm soát nội bộ hoặc kiểm toán nói chung. Mà đối
với từng nghiệp vụ và (ở đây chúng ta đang xét là nghiệp vụ tín dụng) thì cần
đỏi hỏi nhân viên KTKS phải là những người đã từng làm việc và am hiểu
trong lĩnh vực kinh doanh mà mình sẽ kiểm soát (lĩnh vực tín dụng). Ngược
lại với một đội ngũ nhân viên khả năng chuyên môn kém hoặc không am hiểu
lĩnh vực kinh doanh mà mình kiểm soát thì rõ ràng hệ thống KTKS không thể
nói là mạnh và hoạt động tốt cả.
* Trang thiết bị kĩ thuật. Không chỉ có trong hoạt động KTKS tín dụng
là cần có những trang thiết bị kỹ thuật trợ giúp, mà hiện nay với sự phát triển
như vũ bão của công nghệ thông tin thì tất cả mọi ngành nhất là ngành ngân
hàng tài chính đều cần có những trang thiết bị hiện đại trợ giúp trong quá
trình làm việc. Với những trang thiết bị hiện đại như máy tính xách tay, hệ
thống thông tin mạng… và nhiều trang thiết bị, phần mềm chuyên dụng khác
sẽ giúp cho mọi hoạt động KTKS trở nên dễ dàng hơn, tiết kiệm thời gian
hơn và dần dần nâng cao được hiệu quả KTKS tín dụng.
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính

1.3.2 Những nhân tố từ phía nền kinh tế xã hội.
* Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng tài chính nói chung và hoạt
động KTKS tín dụng trong ngân hàng nói riêng. Rõ ràng đây là một nhân tố
ảnh hưởng tới tất cả mọi hoạt động trong các tổ chức tín dụng trong đó có
KTKS tín dụng. Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng tài chính sẽ tạo môi
trường và điều kiện cho hoạt động KTKS tín dụng được bài bản và khoa học
hơn. Đồng thời với một môi trường kinh doanh hiện đại sẽ giúp cho các tổ
chức tín dụng trong nước hoà nhập tốt hơn và học hỏi nhiều hơn đối với hoạt
động KTKS tín dụng của các ngân hàng lớn mạnh trên thế giới .
* Hệ thống các văn bản pháp luật. Một hệ thống văn bản pháp luật
chặt chẽ, đầy đủ và khoa học, là cơ sở để cho các ngân hàng hướng hoạt
động của mình vào trong một khung pháp lý chuẩn từ đó mới phát huy và
nâng cao hiệu quả của các hoạt động trong đó có hoạt động KTKS tín dụng.
* Các nhân tố khác. Ngoài ra còn một số các nhân tố khác cũng có thể
ảnh hưởng tới hoạt động KTKS tín dụng trong các tổ chức tín dụng như:
Chính trị xã hội, điều kiện tự nhiên, địa bàn hoạt động vv…Những nhân tố
này có thể không ảnh hưởng trực tiếp nhưng có thể ảnh hưởng gián tiếp tới
hoạt động KTKS tín dụng trong các tổ chức tín dụng.
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
Chương II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA KIỂM SOÁT TÍN DỤNG
TẠI PVFC
2.1 Giới thiệu chung về công ty Tài chính Dầu khí.
2.1.1 Giới thiệu chung:
* Tên gọi và trụ sở chính .
Công ty Tài chính Dầu khí là một định chế tài chính trực thuộc Tổng
Công ty Dầu khí Việt nam, được thành lập năm 2000 với chức năng đáp ứng
nhu cầu vốn cho các dự án của Ngành Dầu khí, huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư cũng như phát triển các dịch vụ tài chính tiền tệ không chỉ cho

cán bộ công nhân viên ngành dầu khí, mà còn cho các doanh nghiệp, các tầng
lớp dân cư, góp phần xây dựng ngành dầu khí trở thành tập đoàn hùng mạnh
không chỉ trong nước mà còn mở rộng ra khu vực và thế giới.
Vốn điều lệ của Công ty Tài chính Dầu khí là 300 tỷ đồng (Ba Trăm
Tỷ Đồng). Việc tăng, giảm vốn điều lệ của Công ty Tài chính Dầu khí do Hội
đồng quản trị Tổng Công ty quyết định và phải được Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam chấp thuận.
Thời hạn hoạt động của Công ty Tài chính Dầu khí là 50 năm. Trường
hợp cần gia hạn phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận và không được
vượt quá thời hạn hoạt động của Tổng công ty. Mỗi lần gia hạn không quá 50
năm, thời hạn này được kéo dài tương ứng với thời hạn hoạt động của Tổng
Công ty và phải được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận.
Công ty Tài chính Dầu khí chịu sự quản lý của Tổng công ty về chiến
lược phát triển, về tổ chức nhân sự, về qui chế tài chính; chịu sự quản lý của
Ngân hàng Nhà nước theo quy định Pháp luật hiện hành;
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
* Lịch sử phát triển của công ty tài chính dầu khí.
Là một thành viên của tổng công ty dầu khí Việt Nam, công ty Tài
chính Dầu khí Việt Nam (PVFC) đẫ trải qua những chặng đường phát triển
đầu tiên của mình với tất cả những khó khăn và thách thức của một định chế
taì chính còn mới mẻ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập, và PVFC đã
khẳng định được vai trò quan trọng mang tính chiến lược của mình trong
công cuộc đổi mới xây dựng tổng công ty dầu khí trở thành một tập đoàn kinh
tế lớn mạnh cũng như vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đổi mới đất
nước. Từ khi thành lập đến nay PVFC liên tục đạt được những thành tựu quan
trọng, các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định, tổ chức kinh doanh ngày càng
được củng cố và hoàn thiện, hệ thống quản lý được nâng cấp theo tiêu chuẩn
quản lý chất lượng quốc tế ISO 9001:2000, đội ngũ được đào tạo và phát
triển, văn hoá công ty được hình thành.

2.1.2 Các sản phẩm dịch vụ chính của PVFC.
2.1.2.1 Thu xếp vốn cho các dự án.
* Các hình thức thu xếp vốn :
- Đồng tài trợ : Với mối quan hệ hợp tác rộng khắp với các tổ chức tài
chính, tín dụng trong và ngoài nước, PVFC đảm bảo chắc chắn dự án của
khách hàng có nhu cầu vay vốn lớn vượt khả năng cung ứng vốn cũng như
hạn mức cho vay của một tổ chức tín dụng sẽ được hợp vốn tài trợ từ những
nguồn tối ưu nhất, lãi suất cạnh tranh nhất.
PVFC sẽ thực hiện các vai trò :
+ Người thu xếp vốn : Thay mặt bên vay tìm kiếm nguồn vốn cho dự
án ; soạn thảo, đàm phán các điều kiện của hợp đồng vay vốn ; hỗ trợ bên vay
và các thành viên đồng tài trợ trong việc giải ngân, thu nợ, thu lãi, giải quyết
các tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng tín dụng.
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
+ Đầu mối cấp tín dụng : Đại diện cho các thành viên đồng tài trợ soạn
thảo, đàm phán, ký kết hợp đồng tín dụng với bên vay ; thực hiện quản lý
khoản vay.
+ Thành viên đồng tài trợ : PVFC trực tiếp tham gia đồng tài trợ cho
dự án (từ nguồn vốn của mình vàt/ hoặc từ nguồn vốn uỷ thác).
- PVFC cấp tín dụng trực tiếp bằng nguồn vốn của mình hoặc vốn uỷ
thác của Tổng công ty, các tổ chức tài chính tín dụng khác.
- PVFC nhận uỷ thác đàm phán, ký kết các hợp đồng tín dụng với các
nhà tài trợ trong và ngoài nước cho các chủ đầu tư dự án.
Đối với các dự án có nhu cầu vốn vay rất lớn hoặc các điều kiện vay
vốn có đặc thù riêng, phức tạp, các dự án vay vốn nước ngoài với những loại
hình tín dụng, luật pháp, chế tài rất khác biệt, PVFC nhận uỷ thác của chủ đầu
tư dự án để trực tiếp :
+ Đàm phán, ký kết các hợp đồng tín dụng cho dự án.
+ Hỗ trợ giải ngân

+ Quản lý khoản vay.
- Dàn xếp thuê mua tài chính : PVFC thay mặt chủ đầu tư tìm kiếm,
lựa chọn, đàm phán với tổ chức cho thuê tài chính để đảm bảo khách hàng có
sơ hội được sử dụng tất cả các dịch vụ thuê mua tài chính với các điều kiện
phù hợp cho dự án, công trình, trang thiết bị, máy móc và các động sản khác.
2.1.2.2 Huy động vốn
Các hình thức huy động vốn :
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức và các cá nhân :
+ Nhận tiền gửi có kỳ hạn của Tổng công ty dầu khí Việt Nam, các đơn
vị thành viên và các tổ chức kinh tế.
+ Nhận tiền gửi có kỳ hạn của CBCNV trong ngành dầu khí : đây là
nghiệp vụ PVFC đang tích cực triển khai với mục đích để mỗi CBCNV trong
ngành có cơ hội tham gia trực tiếp đầu tư phát triển ngành dầu khí và được
hưởng lợi nhuận từ mục đích đầu tư này mang lại.
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
- Vay vốn của các tổ chức tài chính ngân hàng trong và ngoài nước.
- Phát hành chứng từ có giá
- Nhận uỷ thác quản lý vốn và tài sản có Tổng công ty Dầu khí Việt
Nam
- Nhận uỷ thác đầu tư của các tổ chức và các cá nhân.
2.1.2.3 Tín dụng Doanh nghiệp : Các hình thức như :
- Cho vay
- Bảo lãnh
- Bao thanh toán
2.1.2.4 Hoạt động tài chính Doanh nghiệp.
* Các hình thức
- Tư vấn tài chính dự án : Đến với PVFC, chủ đầu tư sẽ nhận được
phương án tài chính tối ưu cho dự án với những thông tin luôn được cập nhật,
tin cậy và chi phí tài chính hợp lý nhất.

- Tư vấn thẩm định kinh tế dự án
- Tư vấn quản lý vốn và tài sản
- Tư vấn quản lý nợ
- Tư vấn đầu tư
- Đại lý phát hành trái phiếu , cổ phiếu
2.1.2.5 Hoạt động đầu tư
* Các hình thức :
- Đầu tư dự án :
PVFC luôn sẵn sàng cùng với các đơn vị trong ngành và các đơn vị
cùng ngành kinh tế kỹ thuật khác hợp tác đầu tư dự án với các hình thức
phong phú, phù hợp :
- Đầu tư và kinh doanh trên thị trường tài chính tiền tệ :
+ Kinh doanh chứng khoán :
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Ngân hàng tài chính
PVFC trực tiếp kinh doanh chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư có tổ
chức ; Sẵn sàng cung cấp các dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng
khoán cho khách hàng như : Dịch vụ môi giới chứng khoán ; Dịch vụ lưu ký
chứng khoán ; Đại lý phân phối chứng khoán ; Đại lý phát hành chứng
khoán ; Bảo lãnh phát hành chứng khoán ; Mua bán chiết khấu chứng từ có
giá ; dịch vụ quản lý cổ đông
+ Kinh doanh các chứng từ có giá :
PVFC thực hiện giao dịch mua bán các chứng từ có giá trên thị
trường : Công trái, trái phiếu chính phủ ; Trái phiếu các ngân hàng thương
mại ; Trái phiếu, tín phiếu doanh nghiệp ; Các chứng từ có giá được phép
khác.
+ Đầu tư cổ phần : PVFC tiến hành đầu tư thông qua hình thức mua cổ
phần của các doanh nghiệp trong và ngoài ngành nhằm mở rộng hoạt động
kinh doanh và tư vấn tài chính cho doanh nghiệp.
2.1.3 Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong 03 năm gần đây.

Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty thường được biểu hiện qua
các chỉ tiêu kinh tế về mặt giá trị, đó là các chỉ tiêu được biểu hiện trong bảng
sau:
25

×