Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ việt nam sang nhật bản trong điều kiện việt nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (wto) từ nay đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.81 KB, 148 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài tại Việt Nam
Với dân số là 127,46 triệu người và tổng thu nhập quốc nội (GDP) năm 2006
đạt 5,04 tỷ đôla (tốc độ tăng trưởng năm 2006 là 2,1%), Nhật Bản là quốc gia có
nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Nhật Bản có sức mua lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều
mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản (trong đó có đồ gỗ) đang ngày càng gia tăng cùng
với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay. Nhu cầu tiêu dùng của
Nhật Bản mở ra nhiều triển vọng mới cho các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật
trong đó có Việt Nam. Hiện nay Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn thứ hai của Việt
Nam (sau Hoa Kỳ). Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khối lượng hàng hoá trị giá
khoảng 400 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Việt Nam khoảng 2,9 tỷ USD.
Lâu nay, các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chỉ có dầu thô, dệt
may, thuỷ sản… thì nay, đồ gỗ cũng được xem như là một mặt hàng xuất khẩu
chính, giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và là một trong 6
mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, với nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu
ngoạn mục (trung bình 70%/năm).
Hơn thế, trong năm 2005, thị phần đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường Nhật Bản đã tăng từ vị trí thứ tư lên vị trí thứ ba (sau Trung Quốc và Đài
Loan), hiện đang chiếm 8% thị phần nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản và đang có xu
hướng tăng hơn nữa. Với nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ đạt khảng 2,2 tỷ USD/năm của
người Nhật Bản, đồ gỗ là một mặt hàng có triển vọng rất lớn để tăng kim ngạch
xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản năm 2006 và những năm sau nữa.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng trong điều kiện toàn cầu hoá và quốc tế hoá đời
sống kinh tế ngày càng sâu sắc hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam đã là
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cạnh tranh xuất khẩu
nói chung và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nói riêng ngày càng mạnh mẽ và
quyết liệt. Những sản phẩm Việt Nam có lợi thế xuất khẩu sang Nhật Bản cũng là
những sản phẩm mà nhiều nước và khu vực khác trên thế giới nhất là các nước
ASEAN và Trung Quốc có điều kiện lợi thế để xuất khẩu sang thị trường này. Đó là
chúng ta còn chưa nói tới những khó khăn xuất phát từ đặc điểm thị trường Nhật


Bản - một thị trường đòi hỏi khắt khe đối với hàng hoá nhập khẩu và có các rào cản
thương mại phức tạp vào bậc nhất trên thế giới. Vì vậy, nghiên cứu và tìm ra giải
Trần Thị Tuyết Nhung 1 Kinh tế quốc tế 45A
2
pháp để xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản là hết sức cần thiết. Không những
đối với việc mở rộng xuất khẩu trong thời gian trước mắt mà còn về lâu dài, góp
phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ đề ra trong chiến lược xuất
nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ từ nay đến năm 2020.
II. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Làm rõ đặc điểm và xu hướng nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản, đánh
giá thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang Nhật Bản từ năm 1999
đến nay, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm
gỗ sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO).
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị
trường Nhật Bản từ năm 1999 đến nay.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp.
V. Kết cấu của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu bài
viết gồm có ba chương:
- Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết thúc đẩy
xuất khẩu gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
- Chương 2. Thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật
Bản từ năm 1999 đến nay.
- Chương 3. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản
phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức

Thương mại thế giới (WTO) từ nay đến năm 2020.
Trần Thị Tuyết Nhung 2 Kinh tế quốc tế 45A
3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT
KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU SẢN
PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
1.1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Như chúng ta đã biết, cùng với sự phát triển kinh tế của các quốc gia, xuất
phát từ những sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, khí hậu, sự khác biệt về trình độ
phát triển sản xuất và từ nhu cầu phong phú đa dạng của mọi tầng lớp dân cư trên
thế giới…, nhu cầu buôn bán trao đổi hàng hoá cũng ngày càng phát triển cả về bề
rộng và chiều sâu, không những chỉ trao đổi trong nội bộ quốc gia mà còn qua khỏi
biên giới quốc gia, lan rộng ra toàn thế giới.
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ từ nước này sang nước
khác.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh
tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu là một hoạt động không thể thiếu trong thương mại quốc tế. Xuất
khẩu có những vai trò sau:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so
sánh của mình.
Thứ hai, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy
móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy

phát triển sản xuất sản phẩm.
Trần Thị Tuyết Nhung 3 Kinh tế quốc tế 45A
4
Thứ tư, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ năm, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại, tăng cường vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế.
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
1.1.2.1. Hình thức xuất khẩu trực tiếp
Hình thức xuất khẩu trực tiếp là hình thức, trong đó người bán (người sản
xuất, người cung cấp, người xuất khẩu) và người mua (người nhập khẩu) quan hệ
trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thoả thuận về
hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao dịch khác.
1.1.2.2. Hình thức xuất khẩu qua trung gian
Xuất khẩu qua trung gian là hình thức bán hàng được thực hiện nhờ sự giúp
đỡ của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định.
Người trung gian phổ biến trong phương thức này là đại lý và môi giới.
1.1.2.3. Hình thức xuất khẩu buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu hay còn gọi là hình thức xuất khẩu liên kết là phương thức
trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người
mua, lượng hàng trao đổi với nhau có gía trị tương đương nhau. Mục đích xuất khẩu
ở đây không phải nhằm thu ngoại tệ mà thu về một hàng hoá khác có giá trị tương
đương.
Các loại hình buôn bán đối lưu chủ yếu: Hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua
đối lưu, chuyển nợ, mua bán bình hành, mua lại.
1.1.2.4. Hình thức gia công xuất khẩu
Là một phương thức giao dịch kinh doanh quốc tế trong đó một bên (bên đặt
gia công) giao cho bên kia vật tư, nguyên liệu nhằm nhập về những thành phẩm sau
khi trả cho bên kia một khoản lệ phí (phí gia công).
Các hình thức gia công xuất khẩu:

Căn cứ vào sự chuyển giao quyền sở hữu: Hình thức giao nguyên liệu nhận
thành phẩm, hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm.
Căn cứ vào cách thức thanh toán phí gia công: Hợp đồng thực thanh thực chi,
hợp đồng khoán
Trần Thị Tuyết Nhung 4 Kinh tế quốc tế 45A
5
Căn cứ vào chủ thể tham gia gia công: gia công hai bên, gia công nhiều bên.
1.1.2.5. Hình thức tái xuất khẩu
Là hình thức xuất khẩu những mặt hàng ngoại nhập trước đây mà bản chất
hàng hoá đó không thay đổi nhiều qua quá trình gia công lưu thông nhằm tăng giá
trị của hàng hoá đó
Các hình thức tái xuất khẩu: Tái xuất thông thường, tam nhập tái xuất, tạm
xuất tái nhập.
1.1.2.6. Hình thức xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mà người bán (người xuất khẩu)
bán hàng hoá hay dịch vụ trong phạm vi biên giới quốc gia của mình.
Hình thức: Bao gồm các hoạt động như: Bán hàng tại hội chợ, triển lãm quốc
tế, cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế…
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
1.1.3.1.Hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước
Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, tình hình biến động kinh tế xã hội, chính
trị khác nhau mà mỗi quốc gia sẽ theo đuổi một chính sách riêng để đạt mục tiêu
chung là phát triển đất nước. Bởi vậy, chính sách quản lỹ của từng quốc gia có ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó.
Khi quốc gia thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu thì quốc gia đó sẽ
thực hiện tất cả các biện pháp để có thể thúc đẩy xuất khẩu của quốc gia. Ngược lại,
khi quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ nền kinh tế, hạn chế nhập khẩu thì hoạt
động xuất khẩu cũng sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Mặt khác, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cũng cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động xuất khẩu. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, các thủ

tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ không rườm rà, phức tạp thì các doanh nghiệp có
thể tận dụng được nhiều cơ hội hơn trong kinh doanh và xuất khẩu. Thêm vào đó,
khi hệ thống luật pháp ổn định rõ ràng tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài,
đồng thời tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, phục vụ cho hoạt động sản xuất
hàng xuất khẩu.
Trần Thị Tuyết Nhung 5 Kinh tế quốc tế 45A
6
1.1.3.2. Các yếu tố đầu vào sản xuất, nguyên liệu, vốn, lao động…
Các yếu tố này có mối quan hệ tỷ lệ thuận với khả năng xuất khẩu của một
quốc gia. Khi tiềm lực các yếu tố này càng mạnh thì khả năng xuất khẩu hàng hoá
của quốc gia này sang thị trường nước ngoài càng cao, sản phẩm của quốc gia này
càng dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước ngoài và ngược lại. Ví dụ, khi một
quốc gia sản xuất hàng xuất khẩu, nguyên liệu để sản xuất phải nhập khẩu từ nước
khác sẽ dẫn đến tình trạng khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia đó sẽ bị phụ
thuộc vào tình hình biến động nguyên liệu đầu vào của thị trường khác. Khi giá
nguyên liệu đầu vào tăng làm cho giá sản phẩm xuất khẩu tăng, dẫn đến sức cạnh
tranh về giá của sản phẩm đó trên thị trường nước ngoài sẽ giảm, làm hạn chế xuất
khẩu mặt hàng đó.
1.1.3.3. Tỷ giá hối đoái
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên có tác động khuyến khích xuất khẩu, vì lúc này,
đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ nên cùng một lượng ngoại tệ
có thể có thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh tranh
hơn trên thị trường quốc tế. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giame xuống sẽ có tác
động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi
được ít đồng nội tệ hơn nên không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư nhiều cho
hoạt động xuất khẩu.
1.1.3.4. Sức cạnh tranh hàng hoá
Khi sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường nước ngoài lớn, đáp ứng được
những nhu cầu và yêu cầu của người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài thì thì thị
phần của hàng hoá đó sẽ chiếm rất lớn ở nước ngoài, nhiều hơn so với các hàng hoá

cùng loại của nước khác, sẽ thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.
Nếu sức cạnh tranh của hàng hoá đó càng tăng dẫn đến thị phần của hàng
hoá đó trên thị trường nước ngoài càng lớn sẽ tất yếu dẫn đến xuất khẩu hàng hoá
nhiều hơn sang thị trường này.
Trần Thị Tuyết Nhung 6 Kinh tế quốc tế 45A
7
1.1.3.5. Nhu cầu của thị trường nước ngoài
Cho dù là sản xuất cho tiêu dùng trong nước hay sản xuất để xuất khẩu, nhu
cầu vẫn luôn là yếu tố quyết định đến sản lượng. Khi nhu cầu về một hàng hoá nào
đó của một quốc gia trên thị trường nước ngoài tăng thì các nhà sản xuất sẽ tập
trung mở rộng quy mô sản xuất để có thể sản xuất ra nhiều hàng hoá để đáp ứng
nhu cầu, tất nhiên sẽ khuyến khích xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.
Ngược lại, nếu nhu cầu về hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường nước
ngoài giảm sẽ không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư để mở rộng quy mô sản
xuất, thậm chí còn thu hẹp quy mô sản xuất, dẫn đến hạn chế xuất khẩu hàng hoá
đó.
1.1.3.6. Yếu tố khác
Ngoài các yếu tố cơ bản tác động tới xuất khẩu như trên, còn có rất nhiều các
yếu tố khác ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu. Sau đây là một số yếu tố
khác:
Một là, trình độ quản lý, nếu nhà quản lý không có trình độ hay trình độ kém
thì không thể nhận ra được tiềm năng của thị trường, từ đó sẽ không thực hiện các
biện pháp để nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường đó.
Hai là, quan hệ giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu: Quan hệ này nếu
tiến triển tốt đẹp, hợp tác hai bên cùng có lợi thì chắc chắn nước này sẽ giành cho
nước kia những ưu đãi về thuế nhập khẩu, hạn ngạch… thông qua các hiệp định
song phương và đa phương, khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá giữa hai quốc
gia sẽ diễn ra dễ dàng thuận lợi, tạo được sức cạnh tranh của hàng hoá nước này từ
đó thúc đẩy xuất khẩu giữa hai quốc gia. Ngược lại, nếu quan hệ giữa hai quốc gia
không tốt, thì hai bên sẽ không dành cho nhau những ưu đãi, mà còn tạo ra những

hạn chế để nước này không thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước kia, dẫn đến
hạn chế xuất khẩu giữa hai nước. Nếu một trong hai nước có nền kinh tế phát triển
mạnh trên thế giới thì đôi khi còn có thể tạo ra những cấm vận để nước còn lại
không những không thể xuất khẩu sang quốc gia mình mà còn hạn chế cả xuất khẩu
sang quốc gia khác.
Trần Thị Tuyết Nhung 7 Kinh tế quốc tế 45A
8
Ngoài ra, những biến động tình hình kinh tế - xã hội như khủng hoảng, đình
công,… sẽ làm cho nền kinh tế trong nước phải chịu những tổn thất, ảnh hưởng
không nhỏ đến sản xuất trong nước. Do vậy cũng ảnh hưởng gián tiếp đến xuất
khẩu ra nước ngoài. Hơn nữa, lúc này quốc gia đang gặp phải những biến động vì
vậy mọi giải pháp trước mắt đều tập trung nhằm hạn chế ảnh hưởng của những biến
động này tới nền kinh tế, nên hoạt động xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn, rủi ro
hơn.
1.2. Các quy định pháp lý của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đối
với sản phẩm gỗ của Việt Nam
1.2.1. Giới thiệu khái quát về Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các
quy định của WTO
1.2.1.1. Giới thiệu chung về Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) - WTO được thành
lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc)
ngày 15/4/1994. WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.
WTO là nơi đề ra những quy định để điều tiết hoạt động thương mại giữa các
quốc gia trên quy mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Tính đến nay, WTO
có 150 thành viên. WTO chính là một diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến
hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch
vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ , để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương
mại giữa các bên.
WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế: Ra đời
với kết quả được ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý, WTO tạo ra một

hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định và thực thi chính
sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời
sống nhân dân các nước thành viên. Các văn bản pháp lý này bản chất là các "hợp
đồng", theo đó các chính phủ các nước tham gia ký kết, công nhận (thông qua việc
gia nhập và trở thành thành viên của WTO) cam kết duy trì chính sách thương mại
trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các chính phủ ký kết nhưng
thực chất mục tiêu của những thoả thuận này là để tạo điều kiện cho các doanh
Trần Thị Tuyết Nhung 8 Kinh tế quốc tế 45A
9
nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, các nhà xuất nhập khẩu thực
hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán của mình.
Nếu "mục tiêu kinh tế" của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá
thương mại hàng hoá, dịch vụ, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh (gọi
chung là quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm giải quyết
các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên theo các quy
định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật
lệ của WTO chính là “mục tiêu chính trị” của WTO. Mục tiêu cuối cùng của các
mục tiêu kinh tế và chính trị nêu trên là nhằm tới "mục tiêu xã hội" của WTO là
nhằm nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát
triển bền vững, bảo vệ môi trường.
1.2.1.2. Mục tiêu và chức năng của WTO
a) Mục tiêu của WTO: Các mục tiêu của WTO được ghi nhận tại lời mở đầu của
“Hiệp định thành lập WTO” như sau:
"Các bên ký kết Hiệp định này thừa nhận rằng: Tất cả những mối quan hệ
của họ (tức các bên ký kết thành lập ra WTO) trong lĩnh vực kinh tế và thương mại
phải được thực hiện với mục tiêu nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc làm và
một khối lượng thu nhập và nhu cầu thực tế lớn và phát triển ổn định; mở rộng sản
xuất, thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn đảm bảo việc sử dụng tối
ưu nguồn lực của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì
môi trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù hợp

với những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát triển
kinh tế khác nhau”.
“(Các bên ký kết Hiệp định) thừa nhận thêm rằng: cần phải có nỗ lực tích cực
để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia kém phát
triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng
với nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia đó;
(Các bên ký kết Hiệp định) mong muốn đóng góp vào những mục tiêu này
bằng cách tham gia vào những thoả thuân tương hỗ và cùng có lợi theo hướng giảm
đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự
phân biện đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế;
Trần Thị Tuyết Nhung 9 Kinh tế quốc tế 45A
10
Do đó, (Các bên ký kết Hiệp định), quyết tâm xây dựng một cơ chế thương
mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn; quyết tâm duy trì những nguyên tắc cơ
bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa biên
này”.
b) Chức năng của WTO
Theo ghi nhận tại Ðiều III, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới,
WTO có 5 chức năng sau:
Một là, WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành
và những mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của
WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành việc
thực hiện các hiệp định nhiều bên;
Hai là, WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành
viên về những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những quy định của
WTO. WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các thành viên
về những quan hệ thương mại đa biên; đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi
các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ
trưởng đưa ra;
Ba là, WTO sẽ thi hành Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh

việc giải quyết tranh chấp giữa các thành viên;
Bốn là, WTO sẽ thi hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các
nước thành viên);
Năm là, để đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các
chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó.
1.2.1.3. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO
Cho dù có đến gần 30.000 trang văn bản, bao gồm rất nhiều văn bản pháp lý
quy định nhiều lĩnh vực kinh tế - thương mại khác nhau như: thương mại hàng hoá,
thương mại dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, viễn thông, các biện pháp kiểm dịch động
- thực vật, sở hữu trí tuệ song thực chất, tất cả các văn bản đó đều được xây dựng
và chuyển tải các nguyên tắc cơ bản của WTO, hay nói cách khác, WTO hoạt động
dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới là:
Trần Thị Tuyết Nhung 10 Kinh tế quốc tế 45A
11
Một, thương mại không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ quốc
và nguyên tắc đối xử quốc gia);
Hai, thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán);
Ba, dễ dự đoán (tức có thể dự đoán trước được) nhờ cam kết, ràng buộc, ổn
định và minh bạch;
Bốn, tạo ra (nhằm thúc đẩy) môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng
hơn;
Năm, khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế (bằng cách dành ưu đãi hơn
cho các nước kém phát triển nhất).
1.2.2. Lợi ích và khó khăn đối với doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO
1.2.2.1. Lợi ích của doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO:
Thực tế ở các nước trên thế giới và kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam những năm qua cho thấy, khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp
được nhiều hơn mất, khả năng tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng thu hút vốn đầu
tư nước ngoài là chắc chắn.

Bởi lẽ, khi gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ được:
Một là, mở rộng thị trường, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho
doanh nghiệp
Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới vì
WTO là tổ chức có 150 thành viên chiếm trên 85% tổng thương mại hàng hoá và
khoảng 90% tổng thương mại dịch vụ toàn cầu. Gia nhập WTO, ngoài việc được sự
đối xử bình đẳng trong quan hệ thương mại như tất cả các thành viên khác của
WTO, Việt Nam còn được hưởng những ưu đãi thương mại cho một nước đang
phát triển, ở trình độ thấp. Với những lợi thế do WTO mang lại, Việt Nam sẽ có
điều kiện để tăng cường tiếp cận thị trường của các nước thành viên WTO, mở rộng
thị trường xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có tiềm năng, có lợi thế, và một khi
xuất khẩu tăng trưởng sẽ tạo đầu ra cho sản xuất trong nước, mang lại sự tăng
trưởng cho sản xuất trong nước, tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
a. Tăng số lượng thị trường xuất khẩu hàng hoá cho doanh nghiệp:
Nhờ tư cách thành viên của WTO, doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu
vào toàn bộ 149 nước thành viên khác của WTO với mức thuế ưu đãi, thay vì chỉ có
Trần Thị Tuyết Nhung 11 Kinh tế quốc tế 45A
12
một số thị trường truyền thống (Nga, Ðông Âu) và một số thị trường mới khai thác
(Mỹ, Nhật Bản, EU). Nếu nhớ lại rằng, giá trị xuất khẩu của Việt Nam hiện chiếm
1/ 2 giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thì sẽ thấy rõ lợi ích to lớn của việc mở
rộng không gian thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp
Việt Nam. Một khi quy mô sản xuất hàng xuất khẩu phát triển lên đến một mức nào
đó, nếu không giải quyết được bài toán đầu ra, doanh nghiệp khó lòng phát triển,
chứ chưa nói đến phát triển bền vững.
b. Tăng số lượng hàng hoá xuất khẩu ra các nước:
Nhờ thành quả đàm phán cắt giảm thuế quan và loại bỏ dần các hàng rào phi
thuế quan trong lịch sử 50 năm qua của WTO đến nay, doanh nghiệp Việt Nam sẽ
được hưởng lợi từ việc xuất khẩu vào các thị trường các nước thành viên của WTO
với mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp. Nếu không là thành viên WTO, chắc

chắn doanh nghiệp Việt Nam không thể xuất khẩu nhiều hàng hoá sang các nước
đang là thành viên WTO. Bởi lẽ, các nước này trước hết cần thực hiện quy chế đãi
ngộ tối huệ quốc với các nước thành viên WTO; còn trong khi đó họ có thể phân
biệt đối xử với hàng hoá của Việt Nam thể hiện qua việc họ có thể đánh thuế cao
vào hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hoặc sử dụng các biện pháp phi thuế quan để
ngăn trở hàng hoá của Việt Nam. Do vậy, nếu được hưởng mức thuế suất nhập khẩu
thấp, sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam có mức giá cạnh
tranh được với hàng hoá tương tự của các nước khác. Vì thế, có thể khẳng định,
đồng thời với việc mở rộng không gian thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu,
mức thuế nhập khẩu thấp cũng sẽ giúp doanh nghiệp có cơ hội thúc đẩy sự xâm
nhập hàng hoá của mình vào thị trường các nước thành viên WTO.
Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ những quy định
của WTO về ưu đãi cho các nước đang phát triển để tăng lượng xuất khẩu, chẳng
hạn, các mặt hàng sơ chế khi xuất khẩu sang các nước phát triển sẽ được hưởng
mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp, hoặc không có thuế, hoặc hưởng chế độ
của hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) Khi tham gia WTO, doanh nghiệp
Việt Nam cũng được hưởng lợi từ quy chế miễn trừ quy định cấm trợ cấp xuất khẩu
đối với các nước đang phát triển có thu nhập dưới 1.000 USD/người/năm.
Trần Thị Tuyết Nhung 12 Kinh tế quốc tế 45A
13
c. Tạo cơ hội sản xuất và xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các ngành mà Việt
Nam có ưu thế cạnh tranh:
Doanh nghiệp Việt Nam được hưởng cơ hội này từ hai bình diện: do những
quy định của WTO và do ưu thế cạnh tranh về giá cả, chi phí đem lại.
Những cơ hội do quy định của WTO đem lại:
Ðối với hàng nông sản: Vốn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các nước
đang phát triển, nơi mà công nghiệp chế biến chưa phát triển, trình độ chế biến thấp.
Ở những nước này, tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu còn chiếm ở mức cao, do đó,
nếu bị đánh thuế cao, số lượng xuất khẩu sẽ không được nhiều, chắc chắn ảnh
hưởng đến tổng sản lượng xuất khẩu, làm giảm doanh thu xuất khẩu. Nhưng khi vào

WTO, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, sẽ được hưởng những thành
quả nhờ những vòng đàm phán đa phương trước đó của WTO về nông nghiệp. Bao
gồm việc tăng cường tiếp cận thị trường (mở rộng hạn ngạch thuế quan và giảm leo
thang thuế quan đối với sản phẩm chế biến), giảm và loại bỏ mọi dạng trợ cấp xuất
khẩu, giảm đáng kể hỗ trợ trong nước. Việt Nam cũng không phải cắt giảm hỗ trợ
trong nước đối với nông dân (các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm 20%
mức hỗ trợ trong nước trong thời gian 6 năm, các nước đang phát triển khác là
13,3% trong vòng 10 năm). Theo Hiệp định nông nghiệp, các hạn chế về số lượng
trong đó có gạo, nông sản khác sẽ được chuyển thành thuế quan và cắt giảm dần.
Do đó, Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng xuất khẩu gạo và các mặt hàng nông sản
khác sang các thị trường mới. Mặt khác, các sản phẩm nông sản xuất khẩu của các
nước không phải là thành viên sẽ phải chịu thuế suất cao do việc thuế quan hoá của
các nước thành viên.
Ðối với hàng dệt may: Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ cơ chế mới của
WTO. Tại Vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định về hàng dệt - may được ký kết, thay
thế cho Hiệp định đa sợi. Thực chất của Hiệp định đa sợi là các nước phát triển,
nhất là Mỹ và EU đặt ra cơ chế hạn ngạch nhằm bảo hộ công nghiệp trong nước,
theo đó, hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển vào các nước này phải chịu 15
- 30% thuế suất, đặc biệt là phải chịu hạn ngạch xuất khẩu. Hiệp định dệt may đã
quy định rõ chương trình nhất thể hoá các sản phẩm dệt may vào hệ thống thương
mại đa biên. Khi các sản phẩm đã được nhất thể hoá thì không phải chịu sự hạn chế
Trần Thị Tuyết Nhung 13 Kinh tế quốc tế 45A
14
về số lượng nữa. Do đó, khi trở thành thành viên của WTO, hàng dệt may của Việt
Nam sẽ không phải chịu hạn ngạch hoặc được hưởng sự nới lỏng các hạn chế về số
lượng đối với các sản phẩm còn hạn ngạch. Từ 1/1/2005, trong khuôn khổ WTO, đã
bãi bỏ toàn bộ hạn ngạch đối với nhập khẩu hàng dệt may từ các nước thành viên
WTO.
Ðối với những cơ hội do ưu thế cạnh tranh về giá cả, chi phí đem lại: Khi
tham gia vào WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tham gia vào sự phân công lao

động, sản xuất trong một thị trường mang tính toàn cầu. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ
có ưu thế do giá cả rẻ, chi phí thấp (do lương nhân công thấp). Chẳng hạn, doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều ưu thế về các mặt hàng sử dụng tay nghề truyền
thống, sử dụng lao động rẻ (ví dụ lao động nông nhàn, lao động học vấn thấp nên
lương công nhân thấp), nguyên liệu sẵn có trong nước như hàng mây tre, thủ công
mỹ nghệ, đồ gỗ ; hoặc các mặt hàng tận dụng được ưu đãi của thiên nhiên (mặt
nước, biển, sông, hồ, ao, đầm để nuôi thuỷ hải sản ); khí hậu nhiệt đới cho phép
trồng được những loại cây cà phê, hạt tiêu, cao su, thanh long, dừa ; hoặc các mặt
hàng mang tính truyền thống, là đặc sản của địa phương, vùng miền (phở, mỳ tôm,
nước chấm, gia vị, khô mực, khô cá ). Một số mặt hàng tuy sử dụng nguyên liệu
nhập khẩu như dệt may, da giày song cũng có thể tận dụng ưu thế chi phí lao động
rẻ, tiền lương thấp. Ðồng thời, đây cũng là những mặt hàng mà đến nay nhiều nước
phát triển không tập trung sản xuất nữa
Hai là, nâng cao vị thế trong quan hệ thương mại quốc tế và bình đẳng
trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
a. Tiếp cận bình đẳng vào thị trường các nước thành viên:
Các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các quy định chỉ dành cho thành
viên của WTO, qua đó hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận bình
đẳng vào các thị trường của 149 thành viên khác của WTO mà không bị chèn ép,
đối xử không bình đẳng như khi chưa là thành viên WTO. Ðặc biệt, đối với những
quy định chỉ dành cho thành viên của WTO, hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam
cũng sẽ được đối xử bình đẳng trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, một số cường quốc
thương mại vẫn tiếp tục duy trì các biện pháp phân biệt đối xử đối với các nước với
cái gọi là "thương mại nhà nước" hay các nước có nền kinh tế phi thị trường, các
Trần Thị Tuyết Nhung 14 Kinh tế quốc tế 45A
15
nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Các biện pháp này sẽ không được áp
dụng đối với một nước là thành viên WTO.
b. Bảo hộ sản xuất trong nước theo các khuôn khổ quy định của WTO:
Các doanh nghiệp Việt Nam thông qua các hiệp hội của mình hoặc thông qua

cơ quan quản lý nhà nước về thương mại (Cục quản lý cạnh tranh ) để kiến nghị
Chính phủ áp dụng các biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước. Chẳng hạn, với tư
cách là thành viên WTO, doanh nghiệp có thể kiến nghị Chính phủ tiến hành điều
tra về mức gây phương hại của hàng nhập khẩu để thực hiện áp dụng thuế đối
kháng hoặc chống bán phá giá theo quy định của Hiệp định về chống bán phá giá và
thuế đối kháng; thực hiện điều tra để áp dụng thuế chống trợ cấp hàng hoá nhập
khẩu vào Việt Nam; áp dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp nhập khẩu hàng
hoá nước ngoài vào Việt Nam quá mức, gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất
trong nước
c. Sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO để giải
quyết tranh chấp trong thương mại, tránh bị các nước lớn chèn ép khi xay ra tranh
chấp thương mại quốc tế:
Doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận, sử dụng hệ thống giải quyết tranh
chấp công bằng và hiệu quả của WTO để giải quyết tranh chấp trong thương mại,
tránh bị các nước lớn chèn ép khi xảy ra tranh chấp thương mại quốc tế. Ví dụ, nếu
trước kia các quy định của GATT còn nhiều hạn chế với đặc trưng là thiếu cơ chế
đảm bảo cho các nghị quyết được thực hiện thì ở WTO, được xem như một "Liên
hợp quốc" trong lĩnh vực thương mại quốc tế, mà trong đó mỗi quốc gia thành viên
đều có một phiếu bầu, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã đảm bảo mục tiêu
công bằng hơn, thống nhất và chắc chắn hơn; đảm bảo một quy trình, thủ tục và thời
gian biểu chặt chẽ cho việc giải quyết tranh chấp; đảm bảo có được kết luận đúng
cho tranh chấp.
Ba là, hưởng lợi từ các chính sách cải cách trong nước
a. Nhờ gia nhập WTO, tham gia vào một "sân chơi' chung trên phạm vi toàn cầu,
WTO mang lại một cơ hội toàn diện về thị trường hàng hoá, thị trường dịch vụ, thị
trường vốn và thị trường lao động. Với một không gian kinh tế mới rộng lớn hơn rất
nhiều, với hệ thống cơ chế chính sách, luật pháp minh bạch, có thể tiên liệu được,
Trần Thị Tuyết Nhung 15 Kinh tế quốc tế 45A
16
thông qua sự phân công lao động toàn cầu, việc gia nhập WTO hay nói rộng hơn là

tham gia vào quá trình toàn cầu hoá sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy các cải cách kinh tế
trong nước, làm sâu sắc hơn các thành quả của cải cách.
b. Nhờ việc Việt Nam tham gia vào WTO, thực thi chính sách mở cửa thị trường,
tự do hoá thương mại, nền kinh tế trong nước sẽ phải cải cách, mở cửa, tái cơ cấu.
Nền hành chính sẽ được cải cách nhằm đáp ứng các yêu cầu công khai, minh
bạch, dễ dự đoán của "luật chơi quốc tế", bộ máy quản lý hành chính nhà nước sẽ
trở nên gần dân hơn, trở thành một nền hành chính phục vụ dân, phục vụ doanh
nghiệp, làm cho môi trường kinh doanh thông thoáng, tạo thuận lợi tối đa cho
doanh nghiệp, đồng thời giảm thiểu các chi phí tốn kém của doanh nghiệp trong quá
trình gia nhập, tiếp cận và tham gia thị trường.
c. Một khi các cam kết khi gia nhập WTO đưược thực hiện, một mặt quá trình mở
cửa, tự do hoá, thuận lợi hoá thưương mại, đầu tư minh bạch hoá chính sách sẽ dần
đáp ứng yêu cầu của luật chơi quốc tế, mặt khác tạo điều kiện cho chúng ta bổ sung
những nguồn lực mà trong nưước còn thiếu, còn yếu như vốn, công nghệ, kỹ năng
quản lý. Các nhà sản xuất, kinh doanh trong nước sẽ được đặt trong môi trường
cạnh tranh, năng động hơn; tiếp cận với công nghệ, trình độ, chất lượng quốc tế.
Kết quả là các nhân tố nói trên sẽ tạo ra động lực quan trọng giải phóng sức
sản xuất trong nước, thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn tiềm năng
sẵn có của chúng ta như tài nguyên, lao động, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Mike Moore, Cựu Tổng giám đốc WTO (trong chuyến thăm Việt Nam
11/4/2005) đã từng nói: “WTO sẽ tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch hơn, dễ
tiên đoán hơn và hạn chế tham nhũng cho bản thân các nước thành viên. Kinh
nghiệm 50 năm qua đã chứng minh rằng những nước có mức sống cao nhất là
những quốc gia theo đuổi chính sách tự do hoá thương mại. Môi trường kinh doanh
lành mạnh sẽ tạo ra những doanh nhân sẵn sàng đối mặt với cạnh tranh chứ không
phải kiếm lời từ sự trợ giúp của chính phủ hay lợi dụng những hạn chế, bảo hộ của
nhà nước.”
Bốn là, tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
a. Về khía cạnh thị trường:
Trần Thị Tuyết Nhung 16 Kinh tế quốc tế 45A

17
Khi tham gia vào hệ thống phân công lao động toàn cầu, tham gia vào thị
trường toàn cầu rộng lớn, Việt Nam trở thành địa điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài muốn tận dụng cơ hội đầu tư vào các ngành, lĩnh vực tạo ra hàng hoá để xuất
khẩu hoặc phục vụ các nhà xuất khẩu. Ðồng thời, khi các nhà đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam, sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước
sản xuất ra (mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mua để làm nguyên liệu
của họ); tạo ra thị trường làm thuê, nhận gia công, chế tác, cung cấp linh kiện, cung
cấp lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo việc làm cho các
doanh nghiệp trong nước.
b. Về khía cạnh pháp lý :
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và tham gia WTO nói riêng,
thực chất Việt Nam đã chấp nhận thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị
trường, thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các quốc gia.
Việc thực hiện các cam kết này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam cần phải có một
hệ thống luật pháp minh bạch, phù hợp với thông lệ của WTO, bao gồm cả về
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Hệ thống luật
pháp và hệ thống cơ chế chính sách minh bạch, tiên liệu được sẽ làm tăng tính hấp
dẫn của môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh của Việt Nam, làm cho nhà đầu
tư yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam.
Năm là, tiếp thu công nghệ, kỹ năng quản lý, quản trị kinh doanh, tiếp thị,
xây dựng thương hiệu của nước ngoài
Khi tham gia WTO, tham gia thị trường toàn cầu, các luồng vốn đầu tư khoa
học công nghệ, nguồn nhân lực trong nước có cơ hội giao lưu, tham gia vào sự phân
công lao động toàn cầu. Trong sự giao lưu và phân công, phân công lại mang tính
thị trưường nhưư vậy, tất yếu thị trường trong nước được tiếp nhận những yếu tố
tiên tiến, vưượt trội về khoa học công nghệ, khoa học quản lý, tiếp thị, đồng thời
nguồn nhân lực trong nưước được đào tạo, được cọ xát, học hỏi tiếp thu những
thành quả, tinh hoa của các nền kinh tế phát triển hơn.
Trực tiếp hơn, thông qua quá trình đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài (khi

họ đem theo vốn, đem theo bí quyết, công nghệ sản xuất mới, phương thức tổ chức
các kênh phân phối, tiếp thị, cách thức xây dựng thương hiệu, quảng bá nhãn hiệu
Trần Thị Tuyết Nhung 17 Kinh tế quốc tế 45A
18
hàng hoá, sản phẩm vào Việt Nam), các doanh nghiệp trong nước nói chung và đội
ngũ lãnh đạo, quản lý, nhân viên nói riêng có thể học hỏi, rút tỉa, mô phỏng các
công nghệ sản xuất, dịch vụ của nước ngoài; đồng thời rèn luyện, học hỏi được kỹ
năng, kỹ xảo, bí quyết về quản trị doanh nghiệp, về tiếp thị, xây dựng và quảng bá
thương hiệu
1.2.2.2. Khó khăn đối với doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO
Một, nguy cơ bị mất thị phần, mất thị trường:
Việc gia nhập WTO không chỉ đem lại thuận lợi, cơ hội cho các doanh
nghiệp Việt Nam mà còn đưa lại những thách thức, khó khăn rất lớn đối với các
doanh nghiệp. Những cơ hội, những điều kiện có thể đem lại thuận lợi cho các
doanh nghiệp Việt Nam thì ngược lại cũng có thể đem lại những cơ hội, điều kiện
cho các doanh nghiệp nước ngoài, từ đó tạo ra những khó khăn, thách thức đối với
các doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, khi Việt Nam gia nhập WTO, đương nhiên các thành viên WTO
cũng có thêm một thị trường mới và các thành viên này cũng có cơ hội thúc đẩy bán
hàng, xuất khẩu hàng hoá của họ vào Việt Nam.
Thứ hai, khi gia nhập WTO, việc đầu tiên Việt Nam (cũng như bất kỳ quốc
gia hay vùng lãnh thổ nào muốn gia nhập WTO) phải làm chính là đàm phán với
các thành viên của WTO về cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan
nhằm tạo điều kiện cho hàng hoá của các thành viên WTO thâm nhập vào. Ðể thực
hiện các cam kết khi đàm phán gia nhập WTO, hàng rào thuế quan phải hạ thấp
xuống, đồng thời các biện pháp phi thuế như cấm nhập, hạn chế số lượng nhập
khẩu, quy định phải có giấy phép cũng không được áp dụng nữa. Lúc này, thị
trường được "mở cửa", doanh nghiệp nước ngoài được tự do tham gia buôn bán,
cung cấp hàng hoá như doanh nghiệp trong nước mà không bị phân biệt đối xử.
Hàng hoá từ các nước khác sẽ vào Việt Nam dễ dàng. Trong bối cảnh này, các

doanh nghiệp trong nước sẽ lâm vào tình trạng bị cạnh tranh bởi thị trường sẽ có
thêm nhiều người cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
Song điều đáng nói ở đây chính là những nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ
nước ngoài thường có tiềm lực tài chính mạnh hơn, có hàng hoá chất lượng tốt hơn,
mẫu mã đẹp hơn, có công nghệ phân phối, tiếp thị tốt hơn. Do đó, trong cuộc cạnh
Trần Thị Tuyết Nhung 18 Kinh tế quốc tế 45A
19
tranh để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng, doanh nghiệp nước ngoài
có sức mạnh hơn sẽ dễ "thắng" được các doanh nghiệp trong nước. Từ đó, nguy cơ
bị mất thị phần, mất thị trường trong nước, "thua" ngay trên "sân nhà" là nguy cơ có
thật. Tình trạng này xảy ra sớm hay muộn, xảy ra phổ biến hay không tuỳ thuộc vào
năng lực cạnh tranh, chống đỡ của doanh nghiệp trong nước.
Hai, nguy cơ bị thu hẹp sản xuất, chuyển đổi sang lĩnh vực khác, thậm chí
nhiều doanh nghiệp sẽ bị phá sản do không cạnh tranh được với hàng hoá nhập
khẩu:
Từ chỗ bị cạnh tranh bởi hàng ngoại nhập, các doanh nghiệp trong nước sẽ
buộc phải sắp xếp lại, tổ chức lại sản xuất, thay đổi nhân sự để làm sao hàng hoá
sản xuất ra có giá cả, chất lượng, mẫu mã tốt hơn, rẻ hơn trước để cạnh tranh được
với hàng hoá nhập khẩu.
Trong trường hợp tổ chức lại sản xuất rồi, thay đổi nhân sự rồi nhưng hàng
hoá sản xuất ra vẫn không cạnh tranh được, thị phần ngày càng giảm đi, hàng hoá
sản xuất ra không có thị trường tiêu thụ thì đương nhiên doanh nghiệp buộc phải thu
hẹp sản xuất, phải tính toán lại chiến lược sản xuất, kinh doanh, có thể phải chuyển
sang sản xuất mặt hàng khác, thậm chí nếu hàng hoá, dịch vụ sản xuất ra không tiêu
thụ được, không trả được vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp có thể bị thua lỗ, phá
sản.
Nguy cơ này cũng rất rõ ràng bởi vì các doanh nghiệp trong nước thường yếu
kém hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài như doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp thuê chuyên gia nước ngoài quản lý về năng lực
quản trị, trình độ tiếp thị. Nguy cơ này cũng xuất phát từ chỗ bản thân hàng hoá,

dịch vụ của doanh nghiệp trong nước kém chất lượng hơn so với các doanh nghiệp
nước ngoài về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, về tên tuổi, thương hiệu
Ba, nguy cơ bị các DN nước ngoài thôn tính, mua lại, chèn ép, "lấy" mất
nhân viên, mua chuộc lãnh đạo cao cấp qua trả lương cao, hứa hẹn thăng tiến:
Vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh
hơn, nắm giữ các bí quyết công nghệ tiên tiến hơn, có trình độ quản lý giỏi hơn nên
họ có nhiều cơ hội để thành công hơn trong việc sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch
vụ so với các doanh nghiệp trong nước. Dần dần khi họ đã chiếm được thị phần, để
Trần Thị Tuyết Nhung 19 Kinh tế quốc tế 45A
20
tiếp tục mở rộng thị phần, họ sẽ tìm cách "mua" lại, thôn tính các doanh nghiệp
trong nước đang làm ăn thua lỗ, khó khăn (về thị trường, về đầu ra, thiếu vốn để đổi
mới công nghệ, để thuê quản lý giỏi), vừa đạt mục tiêu loại bớt đối thủ trên thị
truờng, vừa tận dụng được mặt bằng, tận dụng nhà xưởng, tận dụng công nhân đã
có tay nghề của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ðể tiết kiệm tiền lương, tiết kiệm chi phí về ăn ở đối với công nhân, cán bộ
quản lý, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ tìm cách thuê người Việt Nam hơn
là đưa người nước ngoài sang Việt Nam. Các chuyên gia có tay nghề giỏi, các cán
bộ quản lý có tài kinh doanh, tổ chức làm việc ở các doanh nghiệp nhà nước chính
là mục tiêu "săn đầu người" của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Bằng cách trả
lương cao, hứa hẹn sự thăng tiến, đãi ngộ (về đào tạo, về phúc lợi tham quan du
lịch, nghỉ ngơi ), các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ bỏ tiền mua chuộc các
cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp của các doanh nghiệp trong nước chuyển sang
làm việc ở các công ty có vốn nước ngoài, vừa đỡ tốn tiên thuê các vị trí tương
đương là người nước ngoài, vừa làm suy yếu các doanh nghiệp trong nước.
1.2.3. Các quy định pháp lý của WTO đối với sản phẩm gỗ của Việt Nam
ảnh hưởng đến xuất khẩu sản phẩm gỗ
Gói thỏa thuận gia nhập WTO của Việt Nam bao gồm:
Các cam kết của Việt Nam về hàng hóa – danh mục (hay còn gọi là “biểu”-
Sched - ule) thuế quan, hạn ngạch và mức trần trong trợ cấp nông sản dày 560

trang, kèm theo lộ trình cắt giảm thuế.
Các cam kết của Việt Nam về dịch vụ - tài liệu dày 60 trang mô tả các ngành
dịch vụ mà Việt Nam sẽ mở cửa thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài kèm theo các điều kiện bổ sung, bao gồm cả hạn chế đối với sở hữu của nước
ngoài.
Báo cáo dày 260 trang của Ban Công tác – mô tả khung pháp lý và thể chế liên
quan tới thương mại của Việt Nam cùng với các cam kết mà Việt Nam đưa ra trong
các lĩnh vực này.
Trong cam kết của Việt Nam về hàng hoá, các mức thuế suất cam kết của Việt
Nam với WTO về gỗ và sản phẩm gỗ nằm trong Chương 44 của Biểu cam kết hàng
phi nông sản. Theo đó, thuế nhập khẩu ngành hàng này thuộc diện các mặt hàng có
Trần Thị Tuyết Nhung 20 Kinh tế quốc tế 45A
21
mức cắt giảm thuế thấp nhất. Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập WTO đối
với ngành hàng gỗ là từ 0% đến 40%. Đối với các mặt hàng gỗ có thuế suất từ 5%
đến 40% thì tuỳ từng mặt hàng mà thuế suất cam kết cắt giảm là từ 3% đến 25% và
thời hạn thực hiện là từ năm 2008 đến năm 2012.
Như vậy, với thuế suất thấp như cam kết, nhiều sản phẩm gỗ sẽ được nhập khẩu
ngược vào Việt Nam gây sức ép cho ngành hàng này ngay tại thị trường trong nước.
Đó là một thách thức tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng bên cạnh đó lại
đưa đến cơ hội nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp đồ gỗ của Việt
Nam. Các doanh nghiệp đồ gỗ Việt Nam có cạnh tranh được ngay trong thị trường
trong nước thì mới có thể vươn ra cạnh tranh với thế giới, mới có thể thúc đẩy xuất
khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói
riêng.
Trong Báo cáo của Ban công tác, về hạn chế xuất khẩu, Việt Nam duy trì
quản lý xuất khẩu đối với một số sản phẩm như gạo, khoáng sản và một số sản
phẩm gỗ vì lý do môi trường. Việt Nam cam kết rằng các hạn chế đối với các sản
phẩm này sẽ được áp dụng theo cách thức phù hợp với các hiệp định WTO. Gỗ
tròn, gỗ xẻ, than từ gỗ và các sản phẩm gỗ thuộc nhóm IA và ván gỗ công nghiệp

chất lượng cao thuộc nhóm IIA nằm trong danh mục hàng cấm xuất khẩu. Sản
phẩm gỗ (ngoại trừ hàng thủ công mĩ nghệ, hàng sản xuất từ gỗ rừng trồng, từ gỗ
nhập khẩu, từ ván nhân tạo thực hiện theo quy định của Thủ tướng tại Quyết định số
136/1998/QĐ- TTg ngày 31/07/1998) là hàng xuất khẩu chịu kiểm soát theo quy
định riêng. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ cần nắm
chắc các quy định về quản lý xuất khẩu của Chính phủ và các hiệp định của WTO
để xuất khẩu sản phẩm gỗ theo đúng quy định. Ngoài sự quan tâm đến mặt hàng
nào được phép xuất khẩu, các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến xuất xứ của
nguyên liệu gỗ đầu vào để sản xuất kinh doanh theo đúng quy định.
1.3. Tổng quan về thị trường Nhật Bản
1.3.1. Khái quát về nền kinh tế Nhật Bản
Với dân số là 127,74 triệu người, với tổng thu nhập quốc nội (GDP) năm
2006 đạt 4,899 tỷ USD, GDP bình quân đầu người khoảng 38.300 USD, Nhật
Bản là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ, với sức mua lớn, nhu cầu
Trần Thị Tuyết Nhung 21 Kinh tế quốc tế 45A
22
phong phú đa dạng, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản
đang ngày càng gia tăng và còn tiếp tục tăng cùng với xu hướng phục hồi nền kinh
tế của Nhật Bản hiện nay.
Các giai đoạn phát triển của nền kinh tế Nhật Bản:
1.3.1.1. Thời kỳ nền kinh tế phát triển thần kỳ
Trong những năm đầu bị chiếm đóng sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản chìm
đắm trong lạm phát, thiếu thốn. Nhưng cùng với những cải cách về chính trị-xã hội,
các chính sách ổn định và phát triển kinh tế năm 1949-50 đã đặt cơ sở cho sự trở lại
thị trường thế giới của Nhật Bản. Tiếp đó, Nhật bước vào thời kỳ tăng trưởng cao
kéo dài cho đến những năm đầu 1970. Tốc độ tăng trưởng trung bình ngày càng
cao: giai đoạn 1955-1960 là 8,5%; giai đoạn 1960-1965 là 9,8%; và giai đoạn 1965-
1971 đạt 11,2%.
GNP năm 1970 đạt 199,8 tỷ USD tăng hơn 8,3 lần so với 23,9 tỷ USD của
năm 1955. Tổng kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần trong 20 năm (1950-70). Dự

trữ ngoại tệ từ 1,8 tỷ USD năm 1960 tăng lên 15 tỷ USD năm 1971. Chính phủ duy
trì được một ngân sách cân bằng cho đến giữa những năm 1960 với các chính sách
thắt chặt tài chính và mở rộng tiền tệ. Lao động chuyển dịch mạnh từ nông thôn vào
các ngành công nghiệp chế tạo. Năng suất lao động tăng nhanh: trung bình 11,5%
trong khoảng 1963-73. Nhưng chính sự thần kỳ của nền kinh tế Nhật cũng làm nẩy
sinh nhiều vấn đề lớn: phụ thuộc ngày càng tăng vào thị trường và nguồn nguyên
nhiên liệu bên ngoài; ô nhiễm môi trường nặng nề. Đặc biệt là mâu thuẫn thương
mại với các bạn hàng, nhất là Mỹ, ngày càng gay gắt.
1.3.1.2. Thời kỳ những năm 70 - Các cuộc khủng hoảng dầu lửa và thời kỳ
phát triển ổn định
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973-74 là nhân tố chủ yếu kết thúc sự thần kỳ
Nhật Bản. Nhưng đây không phải là nhân tố duy nhất mà chỉ là đòn quyết định đánh
vào kinh tế Nhật, làm bộc lộ những mâu thuẫn đã tích tụ sau kỷ nguyên tăng trưởng
cao. Lạm phát đã bùng nổ ngay sau khi dầu mỏ tăng giá. Năm 1974 giá bán buôn
tăng 37% và giá tiêu dùng tăng gần 25%. Tiền lương phải tăng theo càng thúc đẩy
lạm phát. Mức giá năng lượng năm 1985 gấp 8 lần năm 1970. Người tiêu dùng đã
có lúc hoảng sợ phải mua hàng để tích trữ.
Trần Thị Tuyết Nhung 22 Kinh tế quốc tế 45A
23
Tình hình đã buộc Nhật phải đẩy mạnh cải cách cơ cấu kinh tế nhằm hạn chế
tác động của các nhân tố tiêu cực, bước vào thời kỳ tăng trưởng ổn định và quốc tế
hoá nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng trong những năm 1974-85 chỉ còn trung bình
4,3%, chưa bằng một nửa của thời kỳ trước đó nhưng vẫn cao nhất trong các nước
OECD. Thời kỳ này Nhật chú trọng phát triển các ngành công nghệ mới, ít tiêu hao
nguyên liệu, năng lượng; thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ. Chính vì vậy đã chủ động đối
phó được với cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai (1979-80): kinh tế không hỗn
loạn, lạm phát được kiểm soát, giá cả ổn định và tăng trưởng kinh tế giữ được ở
mức khoảng 3%.
1.3.1.3. Thời kỳ những năm 80 - Đồng Yên lên giá
Do xuất khẩu vẫn giữ vai trò trung tâm của sự phát triển, đồng Yên yếu càng

thúc đẩy xuất khẩu. Thêm nữa, đầu những năm 1980 kinh tế toàn cầu suy thoái, nhu
cầu dầu mỏ giảm xuống buộc OPEC từ năm 1983 phải giảm giá dầu. Các yếu tố này
làm cho thặng dư mậu dịch của Nhật ngày càng lớn và mâu thuẫn với các bạn hàng
nhất là Mỹ và EU càng gay gắt. Hiệp định Plaza tháng 9/1985 đã nhất trí thoả thuận
giảm giá đồng đôla và đồng yên đã lên giá gấp đôi, từ chỗ 260 Yên/1USD năm
1985 lên 130 Yên/1USD năm 1987.
Đồng Yên lên giá có làm kinh tế Nhật suy thoái trong 2 năm 1985 và 1986
nhưng không làm giảm khả năng xuất khẩu của NB mà lại dẫn tới cạnh tranh quốc
tế gay gắt hơn theo hướng giành hiệu quả cao. Nhật chuyển các cơ sở sản xuất có
giá trị gia tăng thấp ra nước ngoài bằng đầu tư trực tiếp (1982: 7,7 tỷ USD; 1988: 44
tỷ USD; 1990: 56,9 tỷ USD), tạo ra những địa bàn sản xuất với giá thành thấp. Ở
trong nước đổi mới kỹ thuật hơn nữa để chuyển sang sản xuất những sản phẩm có
giá trị gia tăng cao.
Các biện pháp cải cách kinh tế theo hướng mở cửa thị trường, thúc đẩy nhập
khẩu và kiềm chế xuất khẩu quá mức, giảm thuế thu nhập, kích cầu trong nước,
tăng đầu tư công trình công cộng cũng đồng thời được thực hiện. Thành công về
tổng thể của những cố gắng này đã giúp kinh tế Nhật phục hồi từ cuối năm 1987 và
duy trì được mức phát triển trung bình 5,3% cho đến năm 1990.
Trần Thị Tuyết Nhung 23 Kinh tế quốc tế 45A
24
1.3.1.4. Thời kỳ những năm 90 - Nền kinh tế bong bóng và thời kỳ suy thoái
"Kinh tế bong bóng" chính là nền kinh tế tăng trưởng cực nhanh của Nhật
Bản vào cuối thập niên 80, song đó không phải là tăng trưởng thực sự từ sự phát
triển các hoạt động sản xuất của cải vật chất như các thời kỳ trước đó, mà chủ yếu
tăng trưởng giả tạo do sự đầu cơ vào mua bán bất động sản, trái phiếu, các hàng hoá
nghệ thuật có giá trị lớn.
Đồng thời với hiện tượng đầu cơ này về phía Chính phủ Nhật Bản vào những
năm đó để đối phó với sự lên giá mạnh của đồng yên sau Hiệp ước Plaza 1985, đã
duy trì kéo dài một chính sách lãi suất cho vay thấp, khiến cho các hoạt động đầu tư
buôn bán bất động sản, trái phiếu càng gia tăng mạnh, tạo nên sự tăng trưởng kinh

tế cực nhanh vào cuối những năm 1980, từ 2,5% năm 1986 tăng lên đến 4,6% năm
1987, 4,7% năm 1988, 4,9% năm 1989 và đỉnh cao là 5,5% năm 1990.
Tình hình này khiến nhiều nhà đầu tư bị chi phối bởi ý nghĩa không tưởng là
nhất định hàng hoá của thị trường tiền tệ sẽ tăng theo thời gian và do đó càng kích
thích họ đầu tư mạnh vào thị trường hàng hoá này. Phần lớn nguồn vốn để mở rộng
sản xuất của Nhật Bản vào cuối những năm 1980 là có được thông qua lạm phát tài
sản trong các thị trường chứng khoán, ngân hàng và bất động sản mà người Nhật
gọi là "Nền kinh tế bong bóng". Bong bóng này được tạo ra thông qua sự kết hợp
của lãi xuất cho vay thấp của ngân hàng, việc nới lỏng từng phần các quy định tài
chính, sự tăng giá trên thị trường chứng khoán Tokyo, và giá bất động sản tăng vọt
phi lý.
Lo ngại trước hiện tượng khác thường này, ngân hàng Nhật Bản đã ban hành
chính sách lãi suất cao vào năm 1990 và đầu năm 1991. Chính sách này có làm
giảm cơn sốt vay tiền đầu tư vào bất động sản và mua cổ phiếu (giá cổ phiếu trung
bình trên thị trường chứng khoán Nikkei giảm từ 40.000 cuối năm 1989 xuống gần
16.000 cuối năm 1992). Nhưng do có quá nhiều khoản vay lớn bị trói buộc vào kinh
doanh bất động sản và chứng khoán nên lúc kinh tế bong bóng xẹp xuống cũng là
lúc mà các ngân hàng Nhật Bản đứng trước một núi các khoản nợ khó đòi hay
không đòi được. Hệ thống tài chính tiền tệ Nhật Bản rơi vào tình trạng khó khăn,
không thực hiện được chức năng của nó đối với nền kinh tế, buộc chính phủ phải
đưa ra các biện pháp cứu trợ.
Trần Thị Tuyết Nhung 24 Kinh tế quốc tế 45A
25
Bước vào thập kỷ 1990, kinh tế Nhật Bản suy giảm triền miên, chuyển sang
một thời kỳ ảm đạm chưa từng có, nhiều người còn cho rằng nó đang ở trong đường
hầm không lối thoát.
Đến 3/2002 tổng mức nợ xấu là 440 tỷ USD. Số vụ phá sản hàng năm ở mức
cao làm cho nạn thất nghiệp cũng tăng theo (5,4% ở năm 2003 so với trước đây chỉ
khoảng 3%). Sự suy thoái của kinh tế Nhật có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên
là sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng; sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân

hàng; sự già hoá của dân số với mức chi quá lớn của hệ thống phúc lợi xã hội; sự
yếu kém của bộ máy nhà nước Đã đến lúc Nhật Bản phải có một cuộc cải cách
sâu rộng để chuyển sang một thời kỳ mới. Không phải là thời kỳ học theo để đuổi
kịp phương Tây mà là thời kỳ sáng tạo, tự vạch đường đi cho mình theo hướng toàn
cầu hoá, trí thức hoá nền kinh tế.
1.3.1.5. Đầu thế kỷ XXI - Mặt trời lại mọc
Sau một thập niên bị suy thoái, năm 2003 kinh tế lại bắt đầu tăng trưởng.
Năm 2003, kinh tế Nhật Bản đã tăng trưởng 2,7%; năm 2004 tăng 1,45%; năm
2005 tăng 2,5% và dự kiến năm 2006 sẽ tăng trưởng ở mức 2,1%. Đây là mức tăng
trưởng cao nhất của Nhật trong 14 năm gần đây.
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản qua các năm
từ 1990 đến 2006 (Đơn vị %)
Tốc độ tăng trưởng của GDP những năm gần đây (% so năm trước)
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
5,3 2,9 0,4 0,3 1,0 1,6 3,5 1,8 -1,1 0,7 2,4 -0,2 0,9 2,7 1,45 2,5 2,1
(Nguồn: www.ncnb.org.vn)
Lượng hàng xuất khẩu sang Trung Quốc mạnh, hàng hóa tiêu dùng trong
nước cũng tăng. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 4,3% năm 2005 thấp hơn so với
4,6% năm 2004, và thấp hơn so với 5,5% đầu năm 2003. Trong khi đó, theo số liệu
của Bộ Nội vụ Nhật Bản, tỷ lệ thất nghiệp của nước này trong tháng 10/2005 là
4,5%, tăng so với mức 4,2% của tháng 9 và là mức cao nhất từ tháng 3 đến nay. Tuy
nhiên, tỷ lệ thất nghiệp trên chỉ là tạm thời, do ngày càng có nhiều người tìm được
việc làm tốt hơn nhờ nền kinh tế phục hồi.
Kinh tế Nhật Bản đang ở trong giai đoạn hồi phục đầu tiên sau cuộc đại
khủng hoảng tài chính và bất động sản; bởi sự tăng trưởng không còn phải nhờ vào
Trần Thị Tuyết Nhung 25 Kinh tế quốc tế 45A

×