Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

tác động của quá trình đô thị hoá tới việc làm và thu nhập của người lao động nông nghiệp nông thôn tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.95 KB, 90 trang )

GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang đi trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá với
mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Khắp nơi trên mọi miền đất nước đều đang chuyển mình theo con đường mà
Đảng và Nhà nước đã chọn. Tỉnh Vĩnh Phúc cũng không nằm ngoài xu thế
chung đó.
Trong những năm qua, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đem lại cho
tỉnh một màu sắc mới, phát triển hơn, giàu đẹp hơn. Nhưng bên cạnh đó cũng
còn không ít những vấn đề còn tồn tại, đặc biệt là vấn đề đô thị hoá đã làm
giảm quỹ đất nông nghiệp dẫn đến một bộ phận dân cư nông thôn trình độ
thấp thiếu việc làm, giảm thu nhập gây nguy hại cho mục tiêu phát triển bền
vững, xoá đói giảm nghèo của tỉnh. Điều này đã thôi thúc em nghiên cứu đề
tài: “Tác động của quá trình đô thị hoá tới việc làm và thu nhập của người
lao động nông nghiệp nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc”.
Kết cấu chuyên đề bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đô thị hoá và tác động của đô thị hoá đến việc
làm và thu nhập của lao động nông nghiệp nông thôn
Chương 2: Thực trạng lao động việc làm và thu nhập của lao động nông
nghiệp nông thôn trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Các giải pháp tạo việc làm tăng thu nhập cho lao động nông
nghiệp nông thôn trong quá trình đô thị hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc đến
năm 2010.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
1
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÔ THỊ HOÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ
THỊ HOÁ ĐẾN VIỆC LÀM VÀ THU NHẬP CỦA LAO
ĐỘNG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
1.1. Những vấn đề lý luận chung về đô thị


1.1.1. Khái niệm:
Đô thị là nơi dân cư tập trung với một mật độ cao, chủ yếu là lao động
phi nông nghiệp, cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm
chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của một huyện,
tỉnh hoặc vùng, miền lãnh thổ,cả nước.
- Trung tâm tổng hợp: là những đô thị có vai trò và chức năng nhiều mặt
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
- Trung tâm chuyên ngành: là những đô thị có vai trò, chức năng chủ yếu
về một mặt nào đó như: công nghiệp cảng, du lịch - nghỉ dưỡng, đầu mối giao
thông…
Một đô thị là trung tâm tổng hợp của một vùng hay của một tỉnh cũng có
thể là trung tâm chuyên ngành của một vùng liên tỉnh hoặc toàn quốc tùy
thuộc vào vị trí của đô thị đó trong một vùng lãnh thổ nhất định.
- Lãnh thổ đô thị gồm: nội thành hoặc nội thị và ngoại ô. Các đơn vị
hành chính của nội thị gồm: quận, phường, còn các đơn vị hành chính của
ngoại ô gồm: huyện và xã.
- Quy mô dân số: quy mô dân số tối thiểu của một đô thị không nhỏ hơn
4000 người. Riêng ở miền núi, quy mô dân số tối thiểu của một đô thị không
nhỏ hơn 2000 người. Quy mô này chỉ tính trong nội thị.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
2
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp: tỷ lệ lao động phi nông nghiệp của một
đô thị không nhỏ hơn 60%. Tỷ lệ này chỉ tính trong nội thị.
Lao động phi nông nghiệp gồm:
+ Lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
+ Lao động xây dựng cơ bản.
+ Lao động giao thông vận tải, bưu điện, tín dụng, ngân hang.
+ Lao động thương nghiệp, dịch vụ, du lịch.
+ Lao động trong các cơ quan hành chính, văn hóa, giáo dục, y tế, phục

vụ nghiên cứu khoa học, kỹ thuật.
+ Các lao động khác… ngoài khu vực sản xuất nông nghiệp.
- Cơ sở hạ tầng đô thị: cơ sở hạ tầng đô thị gồm hạ tầng kỹ thuật ( giao
thông, thông tin – liên lạc, cấp nước, cấp năng lượng, thoát nước, xử lý rác
thải, vệ sinh môi trường) và hạ tầng xã hội ( nhà ở, các công trình thương
nghiệp, dịch vụ công cộng, ăn uống, nghỉ dưỡng, y tế, văn hóa, giáo dục, đào
tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao, công viên, cây xanh và các công
trình phục vụ lợi ích công cộng khác).
Cơ sở hạ tầng đô thị phản ánh trình độ phát triển, mức tiện nghi sinh hoạt
của người đô thị và được xác định theo các tiêu chí sau:
+ Chỉ tiêu cấp nước sinh hoạt: lít/ người- ngày
+ Chỉ tiêu cấp điện sinh hoạt: Kwh/ người.
+ Mật độ đường phố: Km/ Km
2
và đặc điểm hệ thống giao thông.
+ Tỷ lệ tầng cao trung bình.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
3
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
+ Mật độ dân cư. Mật độ dân cư là chỉ tiêu phản ánh mức tập trung dân
cư của đô thị được xác định trên cơ sở quy mô dân số nội thi và diện tích xây
dựng trong giới hạn nội thị của đô thị. Đơn vị đo: người/ km
2
.
1.1.2. Đặc trưng của đô thị:
- Đô thị là nơi sinh sống và làm việc của cộng đồng dân cư bao gồm một
tập hợp các tầng lớp: công nhân, trí thức, công chức, tiểu thương tiểu chủ, thợ
thủ công và các doanh nghiệp… là vùng phát triển công nghiệp, thương mại
dịch vụ, là trung tâm phát triển kinh tế văn hoá chính trị.
- Đô thị có cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, trình độ khoa học công nghệ

cao hơn nông thôn. Tự do, dân chủ, công bằng cũng cao hơn nông thôn.
- Một số ngành của nông thôn vẫn tồn tại ở đô thị nhưng có sự phát triển
ở cấp độ cao hơn, các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, kỹ thuật sản xuất cũng
cao hơn…
1.1.3. Vai trò của đô thị:
- Đô thị tượng trưng cho thành quả kinh tế, văn hóa của một quốc gia là
sản phẩm mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và
văn hóa.
- Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra
thu nhập quốc dân của cả nước. Sự đóng góp của các đô thị vào ngân sách
chiếm tỷ trọng là chủ yếu. Chỉ tính riêng 4 thành phố lớn của nước ta là Hà
Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng đã đóng góp trên 80% ngân sách cả
nước. Đô thị sẽ có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến nông thôn và trực tiếp là
các khu vực ngoại thành.
1.1.4. Chức năng của đô thị:
Đô thị có các chức năng chủ yếu sau:
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
4
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
- Chức năng chính trị, quân sự, tôn giáo: đô thị Việt Nam chỉ thực sự
phát triển mạnh hơn từ thế kỷ XVIII trở lại đây. Đô thị cũng là sự kết hợp 2
chức năng: Đô là thành quách để bảo vệ cư dân và thị là nơi diễn ra các hoạt
động kinh tế, thương mại.
- Chức năng quản lý: Sự phát triển đô thị, một mặt được điều chỉnh bởi
các nhu cầu, trong đó nhu cầu kt là chủ yếu tác động qua cơ chế thị trường;
mặt khác chịu sự điều chỉnh do hoạt động quản lý của chính quyền và hoạt
động của các đoàn thể xã hội. Tác động của quản lý nhằm hướng nguồn lực
vào mục tiêu kinh tế, xã hội, sinh thái và kiến trúc, bảo vệ bản sắc văn hóa
dân tộc, vừa nâng coa khả năng đáp ứng nhu cầu công cộng, vừa quan tâm

đến những nhu cầu chính đáng của cá nhân.
- Chức năng sản xuất, thương mại và dịch vụ: Trong những giai đoạn
phát triển kinh tế thị trường vừa qua, chức năng kinh tế là chức năng chủ yếu
của đô thị. Sự phát triển kinh tế thị trường đã đưa đến xu hướng tập trung sản
xuất có lợi hơn là phân tán. Chính yêu cầu kinh tế ấy đã tập trung các loại
hinh xí nghiệp thành khu công nghiệp và cơ sở hạ tầng tương ứng, trước hết là
thợ thuyền và gia đình của họ tạo ra bộ phận chủ yếu của dân cư đô thị.
- Chức năng văn hoá: Ở tất cả các đô thị đều có nhu cầu giáo dục và giải
trí cao. Do đó ở đô thị cần có hệ thống trường học, du lịch, viện bảo tang, các
trung tâm nghiên cứu khoa học ngày càng có vai trò lớn hơn.
Chức năng văn hóa của đô thị càng phát triển hơn vào thời kỳ kinh tế
phồn vinh, mức sống được nâng cao, thời gian dành cho việc hường thụ văn
hóa của mỗi người dân được tăng lên. Chức năng này càng có vị trí đặc biệt
trong giai đoạn chuyển tiếp từ nền văn minh công nghiệp lên nền văn minh
hậu công nghiệp hiện nay, sự phát triển bền vững cần đến nguồn nhân lực có
chất lượng cao hơn. Trong lĩnh vực kinh tế, những “ công nhân áo trắng” hay
“ công nhân trí thức” và những nhà khoa học ngày càng quan trọng hơn so với
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
5
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
thiết bị công nghệ và tài chính. Kể cả trong lĩnh vực xã hội và chính trị cũng
ngày càng đòi hỏi một trình độ dân trí cao hơn. Do đó vai trò của văn hóa,
khoa học giáo dục sẽ được phát huy từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc của bất
kỳ quá trình vận động nào trong một thế giới phát triển bền vững.
- Chức năng xã hội: Chức năng này ngày càng có phạm vi lớn dần cùng
với tăng quy mô dân cư đô thị. Những nhu cầu về nhà ở, y tế, đi lại… là
những vấn đề gắn liền với yêu cầu kinh tế, với cơ chế thị trường. Nhìn chung
các đô thị, chức năng xã hội ngày càng nặng nề không chỉ vì tăng dân số đô
thị, mà còn vìchính những nhu cầu về nhà ở, y tế, đi lại có thay đổi.
1.2. Những vấn đề lý luận chung về đô thị hóa

1.2.1. Khái niệm
- Trên quan điểm một vùng: Đô thị hoá là một quá trình hình thành, phát
triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
- Trên quan điểm kinh tế quốc dân: Đô thị hoá hoá là một quá trình biến
đổi về sự phân bố các yếu tố lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân,
bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển
các đô thị hiện có theo chiều sâu.
Tóm lại, đô thị hóa là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản
xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình
thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo
chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân
số.
1.2.2. Đặc điểm của đô thị hoá
- Đô thị hoá là sự phát triển về quy mô, số lượng, nâng cao vai trò của đô
thị trong khu vực và hình thành các chùm đô thị.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
6
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
- Đô thị hoá gắn liền với một thể chế kinh tế xã hội nhất định, gắn liền
với sự biến đổi về kinh tế xã hội của đô thị và nông thôn, sự biến đổi ấy thể
hiện ở sự phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ…
Phương hướng, điều kiện phát triển của đô thị hoá phụ thuộc vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
+ Ở các nước phát triển, đô thị hoá đặc trưng cho sự phát triển các nhân
tố theo chiều sâu, tạo điều kiện để điều tiết và khai thác tối đa các ích lợi, hạn
chế bất lợi của quá trình đô thị hoá, nâng cao điều kiện sống và làm việc, công
bằng xã hội, xoá bỏ khoảng cách thành thị và nông thôn…
+ Ở các nước đang phát triển, như Việt Nam, biểu hiện của đô thị hoá là
sự bùng nổ về dân số, sự phát triển công nghiệp tỏ ra yếu kém, sự gia tăng
dân số không dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp và phát triển kinh tế. Mẫu

thuẫn giữa thành thị và nông thôn có biểu hiện gia tăng do sự mất cân đối
trong các cơ hội phát triển…
+ Công nghiệp hoá là cơ sở cho sự phát triển của đô thị hoá. Đô thị hoá
trên thế giới bắt đầu từ cách mạng thủ công nghiệp ( tượng trưng là cái sa
quay ); sau đó là cách mạng công nghiệp ( tượng trưng là máy hơi nước ) đã
thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc với năng suất lao động
cao hơn và đã phân công lại lao động xã hội, làm thay đổi cơ cấu lao động xã
hội, đồng thời, cách mạng công nghiệp đã tập trung hoá lực lượng sản xuất ở
mức độ cao dẫn đến hình thành đô thị mới, mở rộng quy mô đô thị cũ. Ngày
nay, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ( tượng trưng cho nó là những cỗ
máy vi tính, những siêu xa lộ thông tin và điện thoại di động ) thì sự phát triển
đô thị hoá đã và sẽ mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Như vậy, mỗi nền văn minh đều tạo ra một phong cách sống, làm việc
thích hợp, một hình thái phân bố dân cư, một cấu trúc đô thị thích hợp.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
7
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
1.2.3. Các hình thức đô thị hoá
- Đô thị hoá nông thôn: là xu hướng bền vững có tính quy luật. Là quá
trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho nông thôn
( cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt…), đây là sự tăng
trưởng đô thị theo xu hướng bền vững.
- Đô thị hoá ngoại vi: là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của
thành phố do kết quả phát triển công nghiệp, cơ sở hạ tầng … tạo ra các cụm
đô thị, liên đô thị… góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn.
- Đô thị hoá giả tạo: là sự phát triển thành phố do tăng quá mức dân cư
đô thị và do dân cư từ các vùng khác đến, đặc biệt là nông thôn … dẫn đến
tình trạng thất nghiệp, giảm chất lượng cuộc sống…
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa
- Điều kiện tự nhiên: trong thời kỳ kinh tế chưa phát triển mạnh mẽ thì

đô thị hóa phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Những vùng có khí hậu
thời tiết tốt, có nhiều khoáng sản, giao thông thuận lợi và những lợi thế khác
sẽ thu hút dân cư mạnh hơn và do đó sẽ được đô thị hóa sớm hơn, quy mô lớn
hơn. Ngược lại những vùng khác sẽ đô thị hóa chậm hơn, quy mô nhỏ hơn.
Từ đó dẫn đến sự phát triển không đồng đều hệ thống đô thị giữa các vùng.
- Điều kiện xã hội: mỗi phương thức sản xuất sẽ có một hình thái đô thị
tương ứng và do đó quá trình đô thị hóa có những đặc trưng riêng của nó.
Kinh tế thị trường đã mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất là điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và là tiền đề cho đô thị hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong khu vực
nông, lâm nghiệp, thủy sản của nền kinh tế sẽ tạo ra quá trình đô thị hóa nông
thôn và các vùng ven biển.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
8
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
- Văn hóa dân tộc: mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng của mình và
nền văn hóa đó có ảnh hưởng đến tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội…
nói chung và hình thái đô thị nói riêng.
- Trình độ phát triển kinh tế: phát triển kinh tế là yếu tố có tính quyết
định trong quá trình đô thị hóa. Bởi vì nói đến kinh tế là nói đến vấn đề tài
chính. Để xây dựng, nâng cấp, cải tạo đô thị đòi hỏi nguồn tài chính lớn.
Nguồn đó có thể từ trong nước hay từ nước ngoài. Trình độ phát triển kinh tế
thể hiện trên nhiều phương diện: quy mô, tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu
ngành của nền kinh tế, sự phát triển các thành phần kinh tế, luật pháp kinh tế,
trình độ hoàn thiện của kết cấu hạ tầng, trình độ văn hóa giáo dục của dân cư,
mức sống dân cư.
- Tình hình chính trị: ở Việt Nam từ sau năm 1975, tốc độ đô thị hóa
ngày càng cao, các khu đô thị mới mọc lên nhanh chóng… Đặc biệt trong thời
kỳ đổi mới, với các chính sách mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài,
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì đô thị hóa đã tạo ra sự phát triển

kinh tế vượt bậc.
1.2.5. Hình thái biểu hiện của đô thị hóa
- Mở rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các
khu đô thị mới, các quận, phường mới là hình thức phổ biến với các đô thị
của Việt Nam trong điều kiện kinh tế còn nhiều hạn chế. Việc hình thành các
khu đô thị mới, các quận, phường mới được xem là hình thức đô thị hóa theo
chiều rộng và là sự mở đường của quan hệ sản xuất cho lực lượng sản xuất
phát triển. Với hình thức này dân số và diện tích đô thị tăng nhanh chóng. Sự
hình thành các đô thị mới để phát triển đồng đều các khu vực, các đô thị mới
được xây dựng trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp và các vùng kinh tế
là xu hướng tất yếu của sự phát triển.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
9
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
- Hiện đại hóa và nâng cao trình độ các đô thị hiện có là quá trình thường
xuyên và tất yếu cảu quá trình tăng trưởng và phát triển. Các nhà quản lý đô
thị và các thành phần kinh tế trên địa bàn đô thị thường xuyên vận động nhằm
làm giàu thêm cho đô thị của mình. Quá trình đó đòi hỏi họ phải điều tiết, tận
dụng tối đa những tiềm năng sẵn có và hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở
hiện đại hóa trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội ở đô thị.
1.2.6. Các tiêu chí đánh giá trình độ đô thị hoá
1.2.6.1. Tiêu chí đánh giá trình độ đô thị hoá theo chiều sâu
- Các chỉ tiêu định lượng
+ Diện tích cây xanh trên đầu người, diện tích nhà ở trên đầu
người, diện tích các công trình công cộng trên đầu người, diện
tích nhà ở trên đầu người…
+ GDP( GO ) bình quân đầu người
+ Trình độ dân trí
+ Số giường bệnh trên 1000 dân.
+ Các công trình văn hoá trên 1000 dân.

+ Tổng số máy điện thoại trên 100 dân.
- Các chỉ tiêu định tính
+ Chất lượng hạ tầng kĩ thuật
+ Chất lượng hạ tầng xã hội
+ Trình độ văn minh đô thị
+ Kiến trúc đô thị
+ Môi trường sinh thái.
1.2.6.2. Tiêu chí đánh giá theo chiều rộng
- Các chỉ tiêu định lượng
+ Quy mô diện tích đô thị
+ Tỷ lệ diện tích đất đô thị trên đất nông thôn
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
10
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
+ Quy mô dân số đô thị, tỷ lệ dân số đô thị
+ Quy mô cơ cấu GDP ( GO ).
+ GDP ( GO ) bình quân đầu người
+ Diện tích đường giao thông trên đầu người
+ Trình độ dân trí
+ Số giường bệnh trên 1000 dân
+ Tổng số máy điện thoại trên 100 dân
+ Tuổi thọ bình quân
+ Các chỉ tiêu định tính
+ Chất lượng hạ tầng kỹ thuật
+ Chất lượng hạ tầng xã hội
+ Kiến trúc đô thị
+ Trình độ văn minh đô thị
1.3. Tính tất yếu của đô thị hoá hiện nay
- Sự phát triển kinh tế của mỗi nước gắn liền với sự hình thành và phát
triển của hệ thống ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ. Sự

phát triển của hệ thống các ngành này thúc đẩy quá trình đô thị hoá diễn ra
nhanh hơn và đô thị hoá lại tác động ngược trở lại sự phát triển của các ngành
này.
- Quy mô dân số ngày càng tăng, đòi hỏi phải đáp ứng cả vể mặt vật chất
và tinh thần như: nâng cao thu nhập, cơ sở hạ tầng, vui chơi giải trí… góp
phần đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá.
- Nhu cầu vật chất ngày càng tăng lên tỷ lệ với mức tăng thu nhập, đòi
hỏi cơ sở hạ tầng phải đáp ứng đủ. Từ đó nảy sinh nhu cẩu đô thị hoá, phát
triển kinh tế đáp ứng nhu cầu cuộc sống con người.
- Quá trình phát triển kinh tế mỗi nước là quá trình phát triển lực lượng
sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, tăng thu nhập và tích luỹ. Quá trình
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
11
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
đó tạo ra những điều kiện vật chất thúc đẩy và thực hiện nhanh quá trình đô
thị hoá. Đó cũng là xu thế vận động mang tính khách quan. Quá trình này dẫn
tới sự biến đổi cơ cấu của nền kinh tế quốc dân từ nông nghiệp là chủ yếu
chuyển sang công nghiệp là chủ yếu và cả sự biến đổi ngay trong khu vực
công nghiệp. Kéo theo đó là tập trung dân cư tại các khu công nghiệp, các
vùng kinh tế để đáp ứng sự thay đổi về nhu cầu sản xuất, sự phát triển kinh tế;
từ đó hình thành nên các trung tâm công nghiệp, đô thị lớn.
1.4. Tác động của đô thị hoá đến việc làm và thu nhập của lao động nông
nghiệp nông thôn
1.4.1. Tác động tích cực
- Thúc đẩy kinh tế đô thị tăng trưởng nhanh hơn: phải nói rằng đóng góp
vào GDP của các địa phương chủ yếu là của các đô thị. Cùng với quá trình đô
thị hóa, các đô thị ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng thu nhập của tỉnh,
huyện. Với cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng, trong đó các ngành sử
dụng nhiều chất xám, vốn tăng lên tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn, cùng với
việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất làm nâng cao năng suất

lao động, gia tăng khối lượng sản phẩm làm ra thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Nâng cao trình độ quản lý: cùng với việc dân cư tăng lên, cũng như quy
trình sản xuất cũng được cải tiến, nhiều ngành nghề mới xuất hiện, thị trường
hàng hóa, lao động, đất đai, khoa học công nghệ, vốn phát triển đòi hòi cũng
như là một điều tất yếu là trình độ quản lý từ cấp trung ương đến địa phương,
trong từng doanh nghiệp, nhà máy tăng lên.
- Có tác động lan toả tích cực đến các vùng lân cân: đô thị với tính cách
là một thực thể kinh tế mở cửa, nó có mối liên hệ kinh tế rộng rãi với khu vực
xung quanh. Đô thị cùng với khu vực xung quanh không chỉ hình thành chỉnh
thể của hệ thống sản xuất, mà còn hình thành mạng lưới công nghiệp, dịch vụ,
thông tin tương đối độc lập. Trong mối liên hệ với khu vực kinh tế xung
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
12
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
quanh, đô thị do điều kiện kinh tế ưu việt của mình, nó có tác dụng thu hút và
tác dụng khuyếch tán to lớn với khu vực xung quanh. Ví dụ, huyện Mê Linh
tỉnh Vĩnh Phúc tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, chịu sự khuyếch tán về lao động
của thủ đô, sự khuyếch tán về công nghiệp và thương mại của thủ đô; hiện
nay, huyện Mê Linh có tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ nhất trong tỉnh Vĩnh Phúc,
với các khu công nghiệp Quang Minh, khu công nghiệp Tiền Phong, tổ hợp
thương mại Mê Linh Plaza. Khu công nghiệp Quang Minh hiện nay không chỉ
thu hút và giải quyết việc làm cho lao động trong tỉnh mà còn tạo nhiều việc
làm cho lao động Hà Nội và một số tỉnh khác, đặc biệt với sinh viên vừa tốt
nghiệp đại học.
Một ví dụ khác về tác động lan tỏa của đô thị, nằm kề thủ đô Hà Nội, là
một thuận lợi cho tỉnh Vĩnh Phúc trong công tác giáo dục đào tạo, nhiều giáo
viên các trường đại học của Hà Nội được thuê giảng dạy tại các trường trung
cấp, cao đẳng ở tỉnh, các giáo viên, giảng viên trong tỉnh rất thuận lợi trong
việc nâng cao trình độ bằng các khóa học tại chức, cao học, chứng chỉ ở Hà
Nội.

Gần với thủ đô Hà Nội, tỉnh luôn luôn tiếp cận được với nguồn hang hóa
dồi dào đặc biệt là về giáo trình sách, văn phòng phẩm, về các hàng điện tử
điện lạnh, hiện nay nhiều cửa hàng ở tỉnh là đại lý bán các hàng nhập từ Hà
Nội về.
Hơn nữa, Hà Nội có dân cư đông, đời sống cao, nhu cầu về giải trí cuối
tuần là rất lớn, tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều điểm nghỉ mát cuối tuần lý tưởng đã
thu hút được lượng khách du lịch ở Hà Nội ngày một đông, đóng góp vào
doanh thu của ngành du lịch hàng năm…
- Nâng cao thu nhập mức sống dân cư các vùng đô thị hoá: ở khu vực
thành thị nền kinh tế với cơ cấu công – nông nghiệp do đó sản xuất đòi hỏi
lao động phải có trình độ. Vì thế, tiền lương và thu nhập thường được trả cao
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
13
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
hơn để tương xứng với giá trị sức lao động mà họ bỏ ra. Do đó, nhìn chung
thu nhập của dân cư tại các thành phố lớn, đô thị thường cao hơn so với các
vùng khác.
Đô thị với đặc điểm là vùng kinh tế, xã hội rất phát triển, cơ sở vật
chất, kỹ thuật hạ tầng phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của con người
khá đầy đủ, hiện đại và đa dạng. Vì vậy, có thể nói đô thị là nơi có điều kiện
sống và làm việc thuận lợi hơn so với khu vực nông thôn. Mặt khác, cùng với
sự phát triển kinh tế - xã hội, các điều kiện phục vụ đời sống và sinh hoạt như
nơi vui chơi giải trí, học tập ngày càng phát triển làm cho trình độ văn hóa,
mức sống của con người tại các khu đô thị ngày càng tăng, thậm chí với việc
tăng này có khi còn tạo ra khoảng cách lớn về mức sống, thu nhập giữa khu
vực thành thị và nông thôn.
Nhìn chung, cuộc sống của người dân nông thôn đa số là tự túc, tự
cấp, còn cuộc sống của người dân đô thị hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào thị
trường theo phương thức mua bán. Các nhu yếu phẩm phục vụ cho cuộc sống
hang ngày, từ những cái nhỏ nhất đều do thị trường cung cấp, bảo đảm cung

cấp đủ nhu yếu phẩm cho cuộc sống hang ngày của người dân là trách nhiệm
nặng nề của chính quyền các vùng đô thị nói chung. Bên cạnh trách nhiệm
bảo đảm cung cấp nhu yếu phẩm thì chính quyền của đô thị còn có trách
nhiệm giải quyết việc làm, tạo ra nguồn sống cho người dân đô thị. Trong khi
đó chính quyền nông thôn cũng phải lo cuộc sống của người dân, song mức
độ phức tạp và gay gắt không thể bằng đô thị.
Nói tóm lại, ở thành thị kinh tế phát triển và các công trình phúc lợi công
cộng như: y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, điện, nước, giao thông cũng phát triển
hơn nông thôn. Kéo theo đó là thu nhập và mức sống hơn hẳn.
- Nâng cao năng suất, trình độ lao động: Khác với nông thôn, ở thành
thị các ngành công nghiệp, dịch vụ rất phát triển, đòi hỏi tất yếu là lao động
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
14
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
phải có trình độ cao để có thể sử dụng các máy móc, thiết bị, công cụ lao
động hiện đại.
Ở thành thị người lao động có thu nhập, mức sống, trình độ văn hóa
cao nên điều kiện, khả năng và mong muốn được học tập, nâng cao trình độ
lành nghề để có cơ hội tìm được công việc có mức lương cao hơn là tốt hơn.
Ngoài ra, tại các vùng đô thị, sự phát triển kinh tế xã hội, cơ sở vật chất, kỹ
thuật hạ tầng giúp cho con người có nhiều điều kiện thuận lợi để trao đổi
thông tin, học tập, nâng cao trình độ lành nghề.
Đối với lao động nông nghiệp, sản xuất phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên, đòi hỏi phải có sự giúp đỡ của khoa học kỹ thuật nhằm giảm thiểu các
tác động của tự nhiên. Trên thực tế hiện nay, ngành nông nghiệp dần được cơ
khí hóa, điện khí hóa. Khi tiến hành đô thị hóa, mặc dù quy mô sản xuất nông
nghiệp giảm nhưng các thành tựu về khoa học kỹ thuật lại được áp dụng một
cách rộng rãi góp phần nâng cao năng suất, trình độ lao động.
Còn đối với sản xuất công nghiệp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
là điều hết sức quan trọng. Đối với vùng đô thị hóa với tỷ lệ cao, mà đặc thù

của sản xuất công nghiệp hầu hết là sử dụng máy móc thiết bị, trên cơ sở đó
yêu cầu lao động phải có kỹ năng nhất định, hay đúng hơn trình độ lao động
phải cao hơn những ngành khác.
Hiện nay khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có sự nhạy
bén trong tiếp cận. Bên cạnh đó cùng với quá trình đô thị hóa, cơ sở vật chất
kỹ thuật hạ tầng ngày càng phát triển, máy móc thiết bị được hiện đại hóa,
trình độ quản lý tổ chức sản xuất, kỹ thuật được nâng cao, điều kiện làm việc
được cải thiện… tại các khu đô thị. Tất cả những thay đổi này cùng với việc
nâng cao trình độ lành nghề góp phần nâng cao năng suất lao động của khu
vực thành thị, từ đó làm tăng năng suất lao động và quy mô sản phẩm của
toàn quốc gia. Ngoài ra ở thành thị trình độ quản lý, tổ chức sản xuất, kỹ thuật
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
15
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
được nâng cao, điều kiện làm việc được cải thiện góp phần tăng năng suất lao
động.
Tất cả những đặc điểm kể trên tại các vùng đô thị góp phần làm tăng
trình độ lao động, từ đó nâng cao năng suất trong khu vực thành thị nói riêng
và trong phạm vi một quốc gia nói chung.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, việc làm, tăng tỷ trọng việc làm các
ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng việc làm ngành nông nghiệp: Mở
rộng quy mô sản xuất, phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ và ra đời
một số ngành nghề, cơ hội kinh doanh mới trong quá trình đô thị hóa tạo ra
một số lượng lớn việc làm cho người lao động trong các vùng đô thị. Đô thị
hóa sẽ tạo điều kiện giúp người lao động chuyển đổi cơ cấu việc làm, từ việc
làm thuần nông thu nhập thấp sang việc làm mới, ổn định và có thu nhập cao.
Sự chuyển đổi cơ chế quản lý và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
kết quả là lao động và sức lao động trở thành hàng hóa. Bên cạnh đó, cùng
với quá trình đô thị hóa các ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ ngày
càng phát triển tạo ra nhiều việc làm ( lao động có tay nghề và lao động giản

đơn ).
Ngoài ra còn phải kể đến một số việc làm mang tính chất lao động giúp
việc cho những gia đình có thu nhập cao song quá bận rộn. Đô thị hóa với đặc
trưng là kinh tế - xã hội phát triển kéo theo hàng loạt các việc làm dẫn tới việc
di dân từ nông thôn ra thành thị, đây là một nguồn bổ sung lao động cho khu
vực thành thị. Sự đa dạng trong cơ cấu kinh tế ngành cũng là một mặt phản
ánh sự đa dạng việc làm do quá trình đô thị hóa mạng lại.
1.4.2. Tác động tiêu cực
- Sự quá tải về dân số: Cùng với đô thị hóa, sức hút của quá trình này đối
với người dân là rất lớn, tạo ra một làm song di dân từ nông thôn ra thành thị
gây nên tình trạng quá tải, bùng nổ về dân số. Tình trạng này đang là vấn đề
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
16
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
nan giải đối với thành phố Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội trong việc giải quyết
về nhà ở, mức sống cho người dân cũng như các dịch vụ sinh hoạt hàng ngày
như điện, nước. Ngoài những vấn đề đó ra, chính quyền của các khu vực này
cũng đang đau đầu với các vấn đề xã hội như trật tự, an ninh, tệ nạn…
- Mất cân đối về cơ hội việc làm và việc làm giữa các vùng: Đô thị hóa
thiếu bền vững như ở Việt Nam đang gây ra vấn đề mất cân đối về việc làm
giữa nông thôn, thành thị; chính vì vậy mới có sự di dân từ nông thôn ra thành
thị tìm kiếm việc làm, như các dòng dân cư đổ từ Bắc vào Nam, từ các vùng
ngoại thành vào thủ đô. Có những nơi ở Việt Nam hiện nay vẫn còn sản xuất
tự cấp tự túc, sản xuất hàng hóa rất nhỏ không phát triển. Các chính sách,
trọng tâm phát triển của Chính phủ có vai trò rất to lớn trong việc quyết định
vùng nào được phát triển và vùng nào không được phát triển.
- Tăng sự chênh lệch về các cơ hội giáo dục đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực giữa các vùng: có thể dễ nhân thấy rằng hiện nay các trường đại học
cao đẳng của cả nước, các trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu tập trung
chủ yếu ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật

cho giáo dục ở các đô thị cũng được quan tâm đầu tư hơn các vùng nông thôn.
- Làm giảm quỹ đất nông nghiệp dẫn đến tình trạng những người phải
chuyển đổi mục đích sử dụng đất rơi vào tình trạng thiếu việc làm: lao động
nông nghiệp bị tác động rất nhiều khi tiến hành quá trình đô thị hóa, diện tích
đất sản xuất nông nghiệp không còn nhiều dẫn đến một số lượng lớn lao động
không có việc làm. Lao động nông nghiệp với thói quen, tập quán sản xuất
nhỏ lẻ, manh mún sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi đô thị hóa diễn ra. Trình độ
lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn, trong khi đó các khu vực đô thị
hóa lại chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch
vụ nên số lao động nông nghiệp khi tham gia vào lĩnh vực này sẽ gặp rất
nhiều khó khăn. Do vậy, khi tiến hành đô thị hóa có thể sẽ làm gia tăng thêm
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
17
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
tỷ lệ thất nghiệp, khó khăn trong vấn đề việc làm và thu nhập, tăng thêm
khoảng cách giàu nghèo, đó là chưa kể đến các tệ nạn xã hội phát sinh.
Đô thị hóa góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân, hình thành lối sống công nghiệp, xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, khi
tăng quy mô các đô thị hiện có bằng các giải pháp mở rộng không gian, hình
thành các phường mới, các cụm đô thị mới, sẽ dấn đến tình trạng thất nghiêp.
1.5. Tình hình phát triển đô thị, đô thị hóa
1.5.1. Xu hướng đô thị hóa ở Việt Nam
- Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong các
đô thị lớn
Sự hình thành các trung tâm có tính chất chuyên ngành trong những đô
thị lớn là xu thế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đô thị, là biểu hiện
của tính chuyên môn hóa cao trong sản xuất. Tất cả các hoạt động sản xuất có
cùng đặc điểm, tính chất được tập trung vào một khu vực tạo điều kiện đáp
ứng các nhu cầu tốt hơn sản xuất với năng suất và hiệu quả cao hơn và tăng
sức cạnh tranh của các sản phẩm của đô thị, thị trường lao động phong phú

hơn…
- Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở các vùng
ngoại ô
Sự hình thành các trung tâm của mỗi vùng có tính chất khách quan nhằm
đáp ứng các nhu cầu sản xuất và đời sống ngày càng tăng lên của chính vùng
đó. Đó là biểu hiện của tính tập trung hóa trong sản xuất. Tuy nhiên, quy mô
sản xuất và hoạt động thương mại dịch vụ sẽ phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội và quy mô dân số của vùng để đảm bảo tính hoạt động có hiệu
quả. Đồng thời các trung tâm này còn là điểm nối, hay sự chuyển tiếp giữa
các đô thị lớn làm cho tính hiệu quả của hệ thống đô thị được nâng cao. Trong
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
18
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
quá trình đô thị hóa, các trung tâm này sẽ trở thành những đô thị vệ tinh của
các đô thị lớn.
- Mở rộng các đô thị hiện có: mở rộng các đô thị hiện có theo mô hình
làn sóng là xu thế tất yếu khi nhu cầu về đất xây dựng đô thị tăng và khả năng
mở có thể thực hiện tương đối dễ. Xu hướng này tạo sự ổn định tương đối và
giải quyết các vấn đề quá tải cho đô thị hiện có.
- Chuyển một số vùng nông thôn thành đô thị: đây là một xu hướng hiện
đại được thực hiện trong điều kiện có sự đầu tư lớn của Nhà nước. Vấn đề cơ
bản là tạo nguồn tài chính để cải tạo đất, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại, ví
dụ như khu đô thị Nam Sài Gòn chính là việc chuyển một vùng nông thôn
thành đô thị hiện đại.
1.5.2. Tình hình phát triển đô thị của cả nước
Từ trước năm 2000, Việt Nam là quốc gia có tiến trình đô thị hóa chậm
chạp và tỷ trọng đô thị thấp kém. Quá trình hình thành và phát triển tuy lâu
dài nhưng luôn dao động, đứt gẫy, biến thiên thất thường do những điều kiện
lịch sử tạo ra. Từ năm 2001 đến 2007 tiến trình đô thị hóa của Việt Nam đã có
những dấu hiệu mới do những yêu cầu của thương mại, mở cửa, hợp tác…

ngày càng mạnh mẽ hơn.
Nếu so sánh với tiến trình đô thị hóa chung của thế giới thì Việt Nam
mới thoát khỏi thời kỳ sơ khai và đang trên chặng đường đầu của một tiến
trình có quy mô, có kế hoạch trước yêu cầu của chiến lược công nghiệp hóa
và hiện đại hóa. Nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, miệt vườn, kênh rạch
truyền thống xuyên suốt Bắc – Nam, mang nặng tính tự cấp tự túc đang dần
lùi bước trước một nền kinh tế thương thuyền hải ngoại, hàng hóa và thị
trường rộng mở bốn phương, hòa nhập cùng cộng đồng quốc tế thì sự xuất
hiện một nền đô thị hóa với quy mô, kích thước mới, hiện đại là điều tất yếu.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
19
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
Trước 1954: Đô thị Việt Nam đóng vai trò trung tâm hành chính, giao
lưu thương mại phục vụ cho sự cai trị của bọn thực dân; sản xuất công nghiệp
nhỏ bé.
Từ 1954 đến 1975: Hai miền theo hai xu hướng chính trị khác nhau:
miền Bắc theo con đường XHCN, miền Nam được sự đầu tư của Mỹ, các đô
thị phát triển mạnh hơn.
Sau 1975: Đất nước thống nhất, tốc độ đô thị hoá ngày càng cao, các khu
đô thị mới mọc lên nhanh chóng.
* Đặc điểm kinh tế đô thị ở Việt Nam
- Xét về tính kinh tế và động lực kinh tế: thương mại trội hơn khá nhiều
kinh tế công nghiệp. Đặc điểm này chứng tỏ kinh tế đô thị Việt Nam vẫn ở
giai đoạn đầu, sơ khai của kinh tế thị trường. Điều đó cho thấy tính tích lũy
còn nhỏ bé, thị trường nội địa phát triển. Sự phồn vinh ban đầu của đô thị
thường thể hiện ở mặt thương mại, với vô số cửa hang mở ra khắp phố
phường.
+ Tính chất kinh tế thương mại của đô thị Việt Nam trong giai đoạn đầu
gắn liền với thời kỳ mở cửa, cũng là nhân tố tạo ra bộ mặt phồn vinh của đô
thị. Quá trình hợp tác đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, phần lớn xoay

quanh các đô thị. Quá trình này đã thúc đẩy việc mở rộng ngoại thương là một
tất yếu, với chiến lược hướng về xuất khẩu và tạo khả năng thay thế nhập
khẩu một phần những sản phẩm sản xuất trong nước có chất lượng tốt. Tuy
vậy trong điều kiện hiện nay, ngoại thương cũng là nhân tố thúc đẩy phát triển
kinh tế thương mại, kìm hãm sản xuất nội địa. Không ít ngành sản xuất trong
nước bị phá sản do đặc điểm này gây ra. Thị trường các đô thị phần lớn là
hàng hóa nước ngoài, các cửa hàng lớn hầu như đóng vai trò đại lý bán hàng
nước ngoài.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
20
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
+ Quy mô sản xuất và buôn bán ở các đô thị Việt Nam thuộc loại vừa và
nhỏ. Khác với các loại xí nghiệp vừa và nhỏ ở các nước công nghiệp, ở Việt
Nam loại xí nghiệp này là di sản của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Do đó hầu hết các xí nghiệp vừa và nhỏ ở đô
thị Việt Nam sản xuất với công nghệ truyền thống chưa được nâng cao và
chưa được hiện đại hóa. Công nghệ truyền thống có giá trị là lĩnh vực tiểu thủ
công nghiệp, đặc biệt là công nghệ chạm khắc đồ gỗ, công nghệ đồ gốm lưu
truyền hàng ngàn năm nay…Loại công nghệ truyền thống này một thời gian
dài không được chú trọng, nay mới bắt đầu chú ý, có một số doanh nghiệp
khai thác hướng này đã đạt hiệu quả khá cao.
+ Đô thị Việt Nam sinh ra từ thời kỳ tiền công nghiệp, nên chưa có quá
trình tập trung sản xuất như ở các nước đã trải qua công nghiệp hóa. Phát
triển thương mại và trung tâm chính trị vẫn là hai nét nổi bật của đô thị Việt
Nam. Từ khi mở cửa nước ta mới bắt đầu xây dựng một số khu công nghiệp,
sớm nhất là khu chế xuất Tân Thuận Sài Gòn. Tuy vậy rút kinh nghiệm các
nước, quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam sẽ không lặp lại quy luật tập
trung sản xuất quy mô quá lớn như ở các đô thị ra đời trong thế kỷ XX. Đây
là một vấn đề đặt ra từ bây giờ cho Nhà nước Việt Nam.
+ Tình trạng đô thị Việt Nam kém phát triển còn do mối quan hệ giữa

thành thị và nông thôn Việt Nam. Do điều kiện kinh tế hàng hóa chưa phát
triển, cơ sở hạ tầng yếu kém, do sự hạn chế về quản lý kinh tế của Nhà nước
nên công nghiệp chế biến nông – lâm - thủy sản chưa gắn liền với nguồn
nguyên liệu như một cơ cấu tái sản xuất. Các vùng phụ cận đô thị chưa phải là
vùng nguyên liệu trù phú cho công nghiệp chế biến ở đô thị, hoặc chưa phát
triển công nghiệp chế biến nhỏ ở nông thôn như những chi nhánh cho công
nghiệp lớn ở thành phố. Còn các vùng trung du miền núi hầu như còn tách
biệt quan hệ kinh tế với đô thị, nhiều nơi sản xuất tự cung tự cấp vẫn còn chủ
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
21
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
yếu. Cho nên các đô thị ở nước ta phồn vinh hơn so với trước là do mở cửa
với bên ngoài, do giao lưu kinh tế giữa đô thị này với đô thị khác, chứ không
phải là mở rộng thị trường trong nước bao gồm thành thị và nông thôn. Xu
hướng phát triển một cách tự phát như vậy chứa đựng những nguy cơ lớn cho
cả nước vì sự phát triển phiến diện một bộ phận của đất nước, sự phân hóa
giàu nghèo tăng nhanh giữa các vùng,… gây nhiều hậu quả cho các đô thị như
mức tăng cơ học về dân số đô thị sẽ tăng nhanh do các dòng người thiếu việc
làm ở nông thôn sẽ đi tìm việc làm ở đô thị, các tệ nạn xã hội và tội phạm
tăng nhiều, làm mất an ninh xã hội và ổn định kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu
của tình trạng trên là cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước còn dựa
chủ yêú theo địa giới hành chính tỉnh, theo bộ chủ quản, sở chủ quản. Trong
đó chứa đựng tính chất phân tán, cục bộ địa phương khá nặng nề, do đó dẫn
đến sự kìm hãm phát triển của thị trường và tính chủ động của các doanh
nghiệp.
+ Một đặc điểm khác của kinh tế đô thị Việt Nam là các cơ sở sản xuất
và cơ sở buôn bán của cư dân không tách rời với nhà ở của họ. Đây là tình
hình phổ biến nóí lên một đặc điểm của một kiểu đô thị tiền công nghiệp chưa
tách rời chức năng sản xuất kinh doanh với chức năng nhà ở.
Nếu như ở Việt Nam ta, công nghiệp hóa diễn ra giống như ở các nước

đi trước, tách rời các chức năng của đô thị, trong khi các đô thị đã phát triển
trên thế giới lại đang tìm cách kết hợp các chức năng trên trình độ cao đã đạt
được. Đây sẽ là một trong những vấn đề chủ yếu cần phải giải quyết trong
việc quy hoạch đô thị Việt Nam. Nếu giải quyết tốt sẽ tạo khả năng cho đô thị
Việt Nam phát triển theo con đường rút ngắn để đuổi kịp các đô thị tiên tiến
trên thế giới.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
22
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
1.5.3. Tình hình đô thị hóa tỉnh Vĩnh Phúc
Hiện nay, tỉnh Vĩnh Phúc có 9 đô thị và 37 thị tứ. Trong đó có thành phố
Vĩnh Yên là đô thị loại 3, thị xã Phúc Yên là đô thị loại 4, còn lại 7 thị trấn là
đô thị loại 5 ( Tam Đảo, Hương Canh, Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh Tường,
Lập Thạch, Hợp Hòa ).
Quá trình hình thành và phát triển đô thị trong tỉnh Vĩnh Phúc chịu ảnh
hưởng lớn của chiến tranh và tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước
và của tỉnh. Vĩnh Phúc là tỉnh mà diễn biến lịch sử đã để lại hậu quả là công
nghiệp, đô thị không phát triển. Các đô thị của Vĩnh Phúc mới khởi sắc từ
1997 trở lại đây, các thị trấn mới được thành lập gần đây là Yên Lạc, Lập
Thạch, Vĩnh Tường, Hợp Hòa, Bình Xuyên đang trong giai đoạn đầu đi vào
ổn định.
Thành phố Vĩnh Yên có chức năng là trung tâm kinh tế chính trị, văn
hóa xã hội và khoa học kỹ thuật của tỉnh.
Thị xã Phúc Yên mới được thành lập, có chức năng là trung tâm phát
triền kinh tế xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc.
Thị trấn Tam Đảo có chức năng là đô thị du lịch nghỉ mát của vùng.
Các thị tứ có tính chất là điểm dân cư đô thị, là trung tâm phát triển kinh
tế, xã hội của cụm xã, là trung tâm dịch vụ môi giới và thương mại.
Mục tiêu chiến lược của tỉnh là phấn đấu trở thành tỉnh cơ bản là công
nghiệp vào năm 2015 và trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm 2020,

phấn đấu trở thành trung tâm công nghiệp cơ khí sản xuất ô tô, xe máy ở khu
vực phía Bắc. Để đạt được mục tiêu đặt ra, Vĩnh Phúc đã và đang tập trung
thu hút mọi nguồn lực và khơi dậy tiềm năng cho đầu tư và phát triển. Tỉnh có
03 KCN đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt, một số khu và cụm công
nghiệp đã được lắp đầy. Bên cạnh mỗi KCN, CCN tỉnh cũng quy hoạch các
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
23
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
khu đô thị lớn và khu du lịch đáp ứng nhu cầu về chỗ ở và vui chơi giải trí đạt
chất lượng cao cho mọi đối tượng, đặc biệt là chỗ ở cho người nước ngoài
làm việc tại Vĩnh Phúc. Nhiều nhà đầu tư từ Anh, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Malaysia đã quan tâm tìm hiểu để lập quy hoạch và xây dựng khu đô thị và
khai thác tiền năng du lịch của Vĩnh Phúc.
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
24
GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận Trường ĐH KTQD
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VIỆC LÀM VÀ ĐỜI SỐNG CỦA
LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ
THỊ HOÁ Ở TỈNH VĨNH PHÚC
2.1. Các đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến việc làm và thu
nhập của lao động nông nghiệp nông thôn
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
- Vị trí địa lý:
Vĩnh Phúc được tái lập ngày 01/01/1997, là một tỉnh thuộc vùng đồng
bằng châu thổ sông Hồng, cửa ngõ Tây Bắc của thủ đô Hà Nội, là một trong 8
tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, dân số xấp xỉ 1,2 triệu người, diện
tích trên 1371km
2
.

Phía Tây Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Đông Bắc giáp tỉnh Thái
Nguyên, phía Đông Nam giáp thủ đô Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Hà Tây
Phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ.
Tỉnh có 7 huyện và 2 thị xã, thị xã Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hoá của tỉnh, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50km, cách sân bay quốc
tế Nội Bài 30km, cách cảng biển Cái Lân - tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng-
thành phố Hải Phòng 150 km.
- Hệ thồng giao thông:
+ Đường bộ:
Vĩnh Phúc có mạng lưới giao thông đường bộ nhìn chung được phân bố
đều khắp trên địa bàn tỉnh. Có 04 tuyến quốc lộ chạy qua: QL2A (Hà Nội –Hà
Giang), QL2B (Vĩnh Yên- Tam Đảo), QL2C (Vĩnh Tường- Vĩnh Yên- Tam
Dương –Tuyên Quang), QL23 (Hà Nội –Đô thị mới Mê Linh). Hiện nay, một
tuyến đường cao tốc từ sân bay quốc tế Nội Bài đi Vân Nam (Trung Quốc)
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Bích Loan Khoa: KHPT
25

×