Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

thông tin cho các doanh nghiệp ở trung tâm thông tin thương mại thuộc bộ thương mại – hiện trạng và phương hướng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.02 KB, 107 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI
o 0 o
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Thông tin cho các doanh nghiệp ở Trung tâm Thông tin Thương
mại thuộc Bộ Thương mại - Hiện trạng và phương hướng phát triển.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
Lớp : QTKD Thương Mại 45A
Khóa : 45
Hệ : Chính Qui
GVHD : GS.TS Hoàng Đức Thân
Hà Nội – 2007
LỜI NÓI ĐẦU
Trải qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có rất nhiều biến chuyển và
đạt được nhiều thành tựu. Trong suốt 20 năm ấy, chúng ta luôn cố gắng hội
nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực nhưng vẫn giữ đặc thù riêng của kinh
tế Việt nam là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Năm 2006
qua đi, đánh dấu một bước ngoặt lớn cho nền kinh tế Việt nam với nhiều
thành tựu đạt được trong lĩnh vực ngoại giao cũng như kinh tế: chúng ta tổ
chức thành công hội nghị APEC, ứng cử thành viên không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) khi được Đại hội đồng WTO phê chuẩn tư
cách thành viên của Việt nam ngày 7/11/2006 và chính thức kết nạp vào ngày
11/1/2007. Chúng ta đã thực sự tham dự vào sân chơi chung của thế giới.
Bước vào sân chơi chung ấy, chúng ta có được nhiều điều kiện thuận
lợi mới để phát triển nền kinh tế nhưng cũng đồng thời đối mặt với muôn vàn
khó khăn. Trong khi đó, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng trình độ kinh tế
nước ta vẫn còn thua kém nhiều nước ngay cả các nước trong khu vực Đông
Nam Á. Nguyên nhân của những tồn tại đó của nền kinh tế Việt nam thì có
nhiều và một phần là do hệ thống thông tin nước ta đã có những bước tiến
đáng kể nhưng thông thông tin vẫn còn rời rạc, thiếu đồng bộ, kém hiệu quả,


chưa thật kịp thời để nắm bắt các cơ hội nên chưa phát huy được hết vai trò
của nó trong thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Nếu hệ thống thông tin Việt nam
cũng như của các tổ chức chuyên tin đầy đủ hơn, kịp thời hơn, chính xác hơn
và cung ứng đúng đối tượng phục vụ hơn, hiệu quả hơn thì chắc chắn nền
kinh tế của chúng ta sẽ còn tiến những bước xa và nhanh hơn trong quá trình
phát triển.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
2
Trong khi đó, với thời đại ngày nay thì thông tin chính là công cụ hiện
đại và là một tài sản vô hình nhưng tạo nên sức bật cho các nước đang phát
triển rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Về phương diện thương
mại, công nghiệp dịch vụ thông tin đã trở thành một nền công nghiệp mới mẻ
mang tính toàn cầu. Nó trở thành một công cụ và là một vũ khí sắc bén trong
việc thúc đẩy phát triển kinh tế, giao lưu thương mại và hòa nhập với thị
trường quốc tế.
Nhận thức được tình hình đó cùng với sự nghiên cứu xâm nhập vào
môi trường thực tiễn tại Bản tin Thông tin Thương mại của Trung tâm Thông
tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại em đã chọn đề tài: “Thông tin cho các
doanh nghiệp ở Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại –
Hiện trạng và phương hướng phát triển”.
Mục tiêu của luận văn:
Đi sâu phân tích thực trạng tình hình cung cấp thông tin nói chung và
chủ yếu là tình hình cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp nói riêng của
Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại để rút ra các mặt
mạnh và các mặt yếu trong quá trình hoạt động của Trung tâm. Từ đó đề xuất
các phương hướng và giải pháp nhằm phát triển hệ thống thông tin cho các
doanh nghiệp ở Trung tâm.
Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp biện chứng, tổng hợp, phân tích, so sánh các số
liệu thực tế trong hoạt động của Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ

Thương mại và trên cơ sở các kết quả để đưa ra các kết luận và các giải pháp.
Kết cấu của luận văn:
Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
3
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thông tin trong hoạt động của
doanh nghiệp và nền kinh tế.
Chương 2: Thực trạng về hoạt động cung cấp thông tin cho các doanh
nghiệp của Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại
Chương 3: Phương hướng và biện pháp phát triển hệ thống thông tin
cho các doanh nghiệp ở Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
4
Mặc dù đã rất cố gắng song do tính chất phức tạp của vấn đề, sự hạn
chế về thời gian và kiến thức nên bản luận văn không thể tránh khỏi những sai
sót. Em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn GS.TS Hoàng Đức Thân - người
đã trực tiếp tận tâm hướng dẫn em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Đồng
thời, em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị Ban
biên tập Bản tin Thông tin Thương mại trong suốt quá trình thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
5
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÔNG TIN
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NỀN KINH TẾ
1.1. THÔNG TIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ
QUỐC DÂN
Thông tin (Information) là khái niệm cơ bản của khoa học cũng là khái
niệm trung tâm của xã hội trong thời đại ngày nay. Mọi quan hệ, mọi hoạt
động của con người đều dựa trên một hình thức giao lưu thông tin nào đó.

Mọi tri thức đều bắt nguồn bằng một thông tin về những điều đã biết, đã nói
và đã làm.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ kết hợp với sự ảnh
hưởng ngày càng sâu rộng của truyền hình và internet vào đời sống của loài
người, thông tin đã trở thành nguồn tài nguyên đặc biệt và là nguồn lực phát
triển của mỗi quốc gia. Nếu biết cách sử dụng thì thông tin sẽ trở thành công
cụ điều hành sản xuất và quản lý xã hội rất hiệu quả cho Nhà nước nói chung
và từng tổ chức nói riêng.
1.1.1. Khái niệm, phân loại vai trò của thông tin:
a) Khái niệm thông tin:
Thông tin theo tiếng La tinh là “informatio” chính là gốc của từ hiện
đại “information” có hai nghĩa. Thứ nhất, nó chỉ một hành động rất cụ thể là
tạo ra một hình dạng (forme). Thứ hai, tùy theo tình huống, nó có nghĩa là sự
truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay một biểu tượng. Tuy nhiên, xã hội
ngày càng phát triển thì khái niệm về thông tin cũng phát triển theo; mỗi
ngành, mỗi lĩnh vực lại có cách hiểu thông tin theo những cách khác nhau.
Theo nghĩa thông thường thì Thông tin là tất cả các sự việc, sự kiện, ý
tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người được con người
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
6
thu thập, xử lý và bảo quản, truyền đạt cho nhau nhằm thực hiện các mục đích
nhất định.
Theo quan điểm triết học: thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã
hội (thế giới vật chất) bằng ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh v.v…hay nói rộng hơn
bằng tất cả các phương tiện tác động lên giác quan của con người.
Theo quan điểm quản lý thì thông tin là các dữ liệu phản ánh thế giới
khách quan được tập hợp, trình bày dưới một hình thức cụ thể và cung cấp
cho người nhận tin để họ có thể ra một quyết định hoặc đảm trách một công
việc cụ thể
Còn theo quan điểm tin học thì thông tin được phân biệt ở hai mức độ:

dữ liệu và thông tin. Dữ liệu là các số liệu, sự kiện, hình ảnh ban đầu thu thập
được qua điều tra, khảo sát. Và khi dữ liệu đã qua xử lý, phân tích, tổng hợp
và được cho là có ý nghĩa cho một đối tượng, một công việc nào đó thì chúng
sẽ trở thành thông tin.
Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về thông tin và mỗi khái
niệm đều có cách giải thích riêng của mình tùy thuộc vào lĩnh vực mà quan
điểm đó nghiên cứu. Và từ các quan điểm này, chúng ta có thể nhận thấy:
- Trước hết, thông tin là tri thức bởi nó được rút ra từ các sự
kiện, sự việc cụ thể của tự nhiên và xã hội của thế giới khách quan.
- Thứ hai, thông tin là kết quả của một quá trình thông tin như
thu thập, xử lý, điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp, bảo quản và truyền
đạt…
- Thứ ba, thông tin chỉ phát huy đựơc sức mạnh khi nó có một ý
nghĩa nhất định đối với người nhận tin.
Tóm lại, thông tin là tri thức được hình thành qua quá trình thông tin
để tạo thành các dữ liệu phù hợp và có ý nghĩa đối với người nhận tin.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
7
Một quá trình thông tin có thể biểu diễn dưới dạng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Quá trình thông tin
b) Phân loại thông tin:
Có rất nhiều cách để phân loại thông tin:
- Theo giá trị và quy mô sử dụng, thông tin được phân thành:
+ Thông tin chiến lược
+ Thông tin tác nghiệp
+ Thông tin thường thức
- Theo nội dung của thông tin:
+ Thông tin khoa học và kỹ thuật: là các kết quả nghiên
cứu phát minh, các phương pháp, các sản phẩm, các tính chất công nghệ, các
tiêu chuẩn, các trang thiết bị,…

Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
8
Xác định nhu
cầu thông tin
NGƯỜI NHẬN TIN
Xử lý thông tin: phân
tích, tổng hợp,…
Truyề
n tin
Thu
thập
thông
tin
Lưu trữ thông tin
Nhiễu
Nhiễu
Nhiễu
Nhiễu
+ Thông tin kinh tế: tài chính, giá cả, thị trường, quản lý,
cạnh tranh,…
+ Thông tin pháp luật: luật, quy định, quy tắc,…
+ Thông tin văn hóa và xã hội: giáo dục, y tế, nghệ thuật,
thể thao, …
- Theo đối tượng sử dụng:
+ Thông tin đại chúng: dành cho mọi người.
+ Thông tin khoa học: dành cho người dùng tin (khách
hàng).
- Theo mức độ xử lý nội dung:
+ Thông tin cấp một: thông tin gốc
+ Thông tin cấp hai: thông tin tín hiệu và chỉ dẫn

+ Thông tin cấp ba: tổng hợp các thông tin cấp một
- Theo hình thức thể hiện thông tin:
+ Thông tin nói
+ Thông tin viết
+ Thông tin bằng hình ảnh
+ Thông tin điện tử hay thông tin số
+ Thông tin đa phương tiện (multimedia)
1.1.2. Đặc điểm thông tin trong lĩnh vực kinh tế:
Thông tin kinh tế là những dữ liệu phản ánh lĩnh vực hoạt động kinh tế
của xã hội được thu thập, xử lý và cung cấp cho những chủ thể trong quá trình
quản lý và thực hiện các hoạt động kinh tế của họ.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
9
Nó phản ánh các hiện tượng, các quá trình kinh tế diễn ra ở cả 3 lĩnh
vực: sản xuất, lưu thông và tiêu dùng.
Thông tin kinh tế bao gồm những thông tin kinh tế - xã hội và kinh tế -
kỹ thuật. Đó là những số liệu, những sự kiện, tin tức và các tài liệu khác trên
cơ sở nhận thức ban đầu về chất lượng và sự ưu thế về mặt số lượng, phản
ánh những quan hệ kinh tế - xã hội và được dùng để phân tích, quản lý, lập kế
hoạch và dự báo sự phát triển kinh tế xã hội. Thông tin kinh tế phản ánh các
hiện tượng kinh tế khách quan . Nó khác với các thông tin khoa học tự nhiên,
thiên văn, sinh học là những thông tin về các hiện tượng tự nhiên trong thế
giới khách quan.
a) Đặc điểm của thông tin trong lĩnh vực kinh tế:
Thứ nhất, thông tin kinh tế là thông tin trong lĩnh vực hoạt động kinh tế
giúp các chủ thể kinh tế ra quyết định thực hiện các hoạt động kinh tế của
mình. Thông tin kinh tế trước hết và chủ yếu phục vụ quá trình ra quyết định
về các hành vi kinh tế trong nền kinh tế. Đồng thời thông tin cũng là công cụ
truyền đạt các ý đồ của các chủ thể quản lý tới các đối tượng quản lý
Thứ hai, sự phát triển của thông tin kinh tế gắn liền với sự phát triển

của hoạt động kinh tế . Các hoạt động kinh tế càng diễn ra sôi động và mau lẹ
thì sự phát triển của thông tin kinh tế càng nhanh hơn và cũng khó kiểm soát
hơn. Đây chính là nguyên nhân của hiện tượng bùng nổ thông tin và gây ra
các nhiễu thông tin đặc biệt với các nước đang phát triển.
Thứ ba, giá trị của thông tin kinh tế gắn liền với mức sinh lợi của doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp hiện đại rất cần thiết và bắt buộc phải coi thông tin
kinh tế là một điều kiện, tiền đề của xây dựng chiến lược kinh doanh, chiến
lược thị trường.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
10
Thứ tư, có thể dễ dàng chuyển đổi thông tin từ phương tiện này sang
phương tiện khác. Điều này đặt ra vấn đề bảo vệ quyền sở hữu các thông tin
cũng như bảo vệ bí mật thông tin, đồng thời có cơ chế trao đổi chuyển giao sở
hữu thông tin như các loại tài sản khác.
Ngoài ra, với tính thời điểm, giá trị của thông tin chỉ tồn tại trong
khoảng thời gian nhất định, trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Nếu
không còn tính thời sự nữa thì các thông tin cũng vô giá trị, không còn sử
dụng được nữa. Vì vậy, tài sản này phải được trao đổi, được đưa vào sử dụng
đúng lúc, đúng chỗ và đúng người có nhu cầu. Điều này đòi hỏi chủ sở hữu
các thông tin không chỉ quan tâm đến việc thu thập, xử lý các thông tin mà
cần phải tìm được khách hàng khai thác các thông tin đó một cách kịp thời,
hiệu quả, cũng như cách thức truyền tin kinh tế hợp lý. Các thông tin kinh tế
mà bị bưng bít, cất dấu ở các cơ sở dữ liệu quá thời hạn sẽ trở thành vô giá trị,
không còn là tài sản, sức mạnh hữu hiệu của người chủ chúng nữa.
b) Đặc trưng của một thông tin tốt:
Thứ nhất, thông tin phải thích hợp (pertinence). Điều đó có nghĩa là
thông tin phải đáp ứng được với yêu cầu của người sử dụng, thông tin phải
giúp người dùng tin giải quyết được vấn đề mà họ đang đặt ra trong công việc
của họ.
Thứ hai, thông tin phải kịp thời (timeliness). Điều đó có nghĩa là thông

tin phải được cung cấp đúng lúc mà người dùng tin cần. Ví dụ thông tin về giá
cả của một mặt hàng nào đó sẽ mất hết ý nghĩa nếu nó không đến kịp thời, vì
giá cả luôn thay đổi từng ngày, thậm chí từng giờ.
Thứ ba, thông tin phải chính xác (accuracy). Tính chính xác là yêu cầu
bắt buộc đối với mọi thông tin. Nếu các số liệu trong một bản thống kê mà
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
11
không chính xác, thì mọi kết luận rút ra từ các số liệu đó có thể dẫn đến sai
lầm hoặc có hại.
Ngoài ra, thông tin tốt còn là thông tin chứa đựng yếu tố bất ngờ
(element of surprise). Điều đó thể hiện tính mới của thông tin.
1.1.3. Chức năng của hệ thống thông tin kinh tế:
a)Khái niệm hệ thống thông tin kinh tế:
Hệ thống là một tập hợp các phần tử (các thành phần) có liên hệ với
nhau, hoạt động để hướng tới mục đích chung theo cách tiếp nhận các yếu tố
vào, sinh ra các yếu tố ra, trong một quá trình xử lý có tổ chức.
Hệ thống thông tin kinh tế là hệ thống liên kết các yếu tố, các phân hệ
theo một cấu trúc nhất định để thực hiện các hoạt động thu thập, xử lý và
cung cấp các thông tin về các hoạt động kinh tế cần thiết cho quá trình quản
lý các hoạt động của một hệ thống kinh tế.
Hệ thống thông tin kinh tế là bộ phận của hệ thống kinh tế mà nó phục
vụ.
b) Các yếu tố của hệ thống thông tin kinh tế:
 Yếu tố con người:
Mỗi hệ thống thông tin kinh tế trước hết là một hệ thống xã hội, được
tạo bởi những cá nhân con người khác nhau để thực hiện các mục tiêu của hệ
thống
Trong một hệ thống thông tin kinh tế, con người có thể độc lập thực
hiện một hay một số chức năng nhiệm vụ nhất định hoặc được ghép vào các
nhóm, mỗi nhóm có ít nhất 2 thành viên trở lên để thực hiện nhiệm vụ chung

của nhóm.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
12
Trong các hệ thống thông tin hiện đại, các nhóm được hình thành theo
nhiều cách thức, tiêu chuẩn khác nhau. Các nhóm có thể tạo thành các cấp
khác nhau theo tuyến dọc hoặc phân hệ theo chiều ngang. Các cá nhân trong
nhóm có sự phân công trong công việc, quyền hạn và trách nhiệm nhất định.
Trong nhiều trường hợp, các nhóm công tác trong hệ thống thông tin có thể
bao gồm nhiều cá nhân với các chuyên ngành khác nhau để thực hiện một số
mục tiêu nào đó
Yếu tố con người đóng vai trò cốt lõi trong một hệ thống thông tin kinh
tế. Yếu tố này là nguồn gốc để tạo ra và sử dụng các yếu tố khác trong hệ
thống thông tin kinh tế
 Yếu tố công nghệ thông tin:
Trong một hệ thống thông tin, công nghệ thông tin là phần cơ bản thực
hiện các quá trình thông tin. Các thành phần cấu thành nên Công nghệ thông
tin gồm có: phần kỹ thuật (đặc trưng cho trình độ), phần năng lực con người,
phần thông tin của công nghệ, phần tổ chức. Còn theo giới chuyên môn thì
công nghệ thông tin bao gồm có phần cứng và phần mềm
 Yếu tố thông tin:
Nếu như yếu tố con người là cốt lõi và yếu tố công nghệ là thành phần
cơ bản tạo nên hệ thống thông tin thì yếu tố thông tin lại đóng vai trò vừa là
nguyên liệu vừa là sản phẩm của hệ thống thông tin. Chất lượng, tính thời sự,
tính hữu dụng và số lượng thông tin là cơ sở để đánh giá quá trình hoạt động
của hệ thống thông tin
Tuy nhiên, yếu tố thông tin không tồn tại độc lập mà trong mối quan hệ
biện chứng với các yếu tố khác của hệ thống thông tin. Yếu tố thông tin dù tốt
đến đâu cũng trở thành vô nghĩa nếu như yếu tố con người và công nghệ
thông tin không tương ứng với yếu tố thông tin. Ngược lại, dù nguồn lực con
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh

13
người và công nghệ thông tin rất tốt mà không có nguồn thông tin tốt thì cũng
không thể có được một hệ thống thông tin hiệu quả được.
c) Chức năng của hệ thống thông tin kinh tế:
Ngoài các chức năng thông thường của hệ thống thông tin nói
chung, hệ thống thông tin kinh tế còn có những chức năng riêng có của nó
như:
 Hệ thống thông tin kinh tế có chức năng hướng dẫn hoạt động
kinh tế thực tiễn. Chức năng này rất quan trọng và giữ vai trò số một bởi vì nó
trực tiếp phục vụ cho các hoạt động kinh tế, phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Việc hướng dẫn thực tiễn bao gồm: giúp cho các nhà doanh nghiệp, các tổ
chức hoặc nhà nước xây dựng các chương trình, kế hoạch sản xuất – kinh
doanh định hướng cho những hoạt động kinh tế lâu dài hoặc điều chỉnh hoạt
động hàng ngày về sản xuất – kinh doanh, xử lý nghiệp vụ.
 Chức năng cung cấp tư liệu khoa học cho nghiên cứu khoa học.
Thông tin khoa học kinh tế là kết quả nghiên cứu khoa học kinh tế bởi vì
nghiên cứu là cỗ máy sản xuất ra tư liệu, vật liệu, phương tiện cho thông tin.
Nhưng đồng thời thông tin kinh tế lại tạo ra tiền đề mới, vật liệu mới để cho
nghiên cứu kinh tế sáng tạo ra các nội dung mới.
 Chức năng góp phần hình thành tư duy kinh tế lành mạnh. Trong
quá trình hoạt động kinh tế, tư duy kinh tế ngày càng được nâng lên, được
phát triển từ chỗ vô thức, từ chỗ chỉ thấy được lợi ích vụn vặt dần dần trở
thành tư duy có ý thức, mang tính tự giác, tính khoa học. Tư duy kinh tế được
hình thành theo phương pháp khoa học, trải qua nhiều nấc thang khác nhau:
tư duy triết học giúp các nhà kinh tế bao quát được thế giới lợi ích; tư duy xã
hội là nấc thang giúp các nhà kinh kết hợp với lợi ích xã hội. Tư duy xã hội là
một yêu cầu cần thiết đối với mọi hoạt động kinh tế. Thông tin kinh tế giúp
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
14
con người từ chỗ nhận thức thế giới lợi ích và xã hội tiến tới nhận thức mối

quan hệ lợi ích giữa cá thể với cộng đồng, đồng thời nó cung cấp những kiến
thức cho các đối tượng tham gia vào các quá trình kinh tế, giúp họ hiểu biết
được mục đích, phương pháp, đối tượng khai thác các lợi ích
1.1.4. Vai trò của hệ thống thông tin trong quá trình kinh tế và
kinh doanh:
Thông tin hiện nay được coi là loại tài sản quan trọng nhất đối với bất
kỳ tổ chức nào . Nó là tài sản tạo nên sức mạnh của mỗi tổ chức, của mỗi
quốc gia. Thông tin kinh tế nói riêng và thông tin nói chung là sản phẩm của
lao động trí tuệ của con người. Nó được tạo ra, được lưu giữ và sử dụng nhằm
làm tăng năng lực tạo ra của cải vật chất của con người. Vì vậy, trong nền
kinh tế và đặc biệt là nền kinh tế thị trường thì thông tin giữ vai trò động lực
chính của quá trình sản xuất và kinh doanh.
Điều này được thể hiện qua các vai trò trong quá trình kinh tế và kinh
doanh mà hệ thống thông tin đảm nhận
 Hệ thống thông tin kinh tế trước hết và chủ yếu phục vụ cho quá
trình ra quyết định về các hành vi kinh tế của các chủ thể kinh tế trong nền
kinh tế. Các chủ thể đó bao gồm: Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức và
các hộ gia đình. Nói một cách khác, mọi chủ thể tham gia vào nền kinh tế cho
dù là người sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng, người chủ nguồn lực hay
quản lý vĩ mô trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh tế đều phải sử
dụng các thông tin kinh tế.
 Thêm vào đó, hệ thống thông tin kinh tế còn có vai trò thông
báo, phê phán những mặt trái của các hoạt động kinh tế. Đồng thời nó góp
phần đấu tranh để hình thành các mối quan hệ kinh tế cộng đồng, góp phần
tạo ra một môi trường kinh tế lành mạnh
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
15
 Hệ thống thông tin kinh tế là tiền đề, là cơ sở và công cụ của
quản lý kinh tế. Thông qua hệ thống này, tất cả các chủ thể kinh tế đều tìm
thấy trong đó lượng thông tin thiết thực cho công việc của họ. Thông qua việc

thu thập xử lý thông tin các chủ thể quản lý phải nắm được các quy tắc ứng
xử, các thông lệ, các kinh nghiệm, các quy luật kinh tế, các mối quan hệ, các
quá trình vận động kinh tế được tổng kết trong các lý thuyết kinh tế làm tăng
năng lực, kỹ năng của người ra quyết định đồng thời giúp các chủ thể quản lý
kinh tế tránh được những sai lầm, chủ quan khi ra quyết định.
 Thông qua hệ thống thông tin kinh tế, các chủ thể kinh tế có thể
tăng sự hiểu biết và thích ứng lẫn nhau trong hoạt động kinh tế bao gồm cả
sản xuất, trao đổi và tiêu dùng trong toàn bộ nền kinh tế trong nước cũng như
nền kinh tế quốc tế.
 Ngoài ra, với xu hướng quốc tế hóa, sự phát triển hệ thống thông
tin kinh tế còn giúp cho nền kinh tế mỗi nước hội nhập nhanh hơn với nền
kinh tế khu vực và thế giới. Sự hạn chế về trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, của quan hệ sản xuất ở các nước có nền kinh tế kém phát triển trong
đó có nước ta, có thể khắc phục bằng nhiều con đường khác nhau như: tiếp
thu các thành tựu khoa học và công nghệ góp phần rút ngắn quá trình từ
nghiên cứu đến sản xuất trong chu trình “Khoa học-Kỹ thuật-Sản xuất”, thu
thập thông tin về tình hình thị trường, về khả năng cạnh tranh, về khách hàng,
về môi trường tự nhiên, về chính trị, xã hội,… trong nền kinh tế quốc tế.
Như vậy, hệ thống thông tin kinh tế là tài sản quý giá, là sức mạnh, là
quyền lực của mỗi tổ chức, mỗi chủ thể kinh tế, mỗi quốc gia bởi nó là một tài
sản đặc biệt – tài sản để tạo ra các tài sản khác. Hệ thống thông tin kinh tế
nói chung và thông tin kinh tế nói riêng chính là đặc trưng cho sức mạnh, tạo
nên nguồn lực phát triển cho người sở hữu và sử dụng chúng.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
16
1.2. HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP THÔNG TIN CHO CÁC DOANH
NGHIỆP CỦA CÁC TỔ CHỨC CHUYÊN NGHIỆP:
Cùng với sự phát triển của xã hội, ngày nay hoạt động thông tin và tư
liệu ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có những người hoạt động chuyên
nghiệp trong lĩnh vực thông tin và tư liệu. Từ đó trong xã hội xuất hiện nghề

mới, nghề thông tin hay các tổ chức tìm kiếm, xử lý, sản xuất, cung cấp thông
tin chuyên nghiệp.
Các tổ chức này thực hiện quá trình thông tin và cung cấp cho các chủ
thể kinh tế: nhà nước, gia đình, doanh nghiệp. Qua đó, hình thành nên thị
trường thông tin hoạt động ngày càng sôi động. Tuy nhiên, bản luận văn này
xin phép chỉ đề cập đến đối tượng dùng tin là các doanh nghiệp bởi đây là đối
tưọng chủ yếu của Bản tin Thông tin Thương mại nói riêng và Trung tâm
Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại nói chung. Với đối tượng này, hoạt
động cung cấp thông tin bao gồm các quá trình:
1.2.1. Nghiên cứu yêu cầu thông tin của các doanh nghiệp:
Nhu cầu thông tin là một nhu cầu tất yếu của đời sống xã hội, vì vậy
việc xác định nhu cầu thông tin là khâu quan trọng đầu tiên. Nhu cầu thông
tin phát sinh từ các hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là từ các quá trình ra
quyết định kinh doanh
Trong mỗi doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ có rất nhiều loại quyết định
phải được đề ra và thực hiện. Mỗi cấp, mỗi thời điểm cần phải ra những quyết
định khác nhau đòi hỏi các nhu cầu thông tin khác nhau. Vì vậy, trong quá
trình thông tin hay tham gia vào thị trường thông tin, các tổ chức chuyên tin
cần phải xác định nhu cầu thông tin một cách cụ thể, rõ ràng để có thể cung
cấp cho các doanh nghiệp những thông tin thích hợp và sử dụng có hiệu quả.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
17
Để xác định được nhu cầu thông tin, các tổ chức chuyên tin phải xác
định được những yếu tố khách quan tác động đến các doanh nghiệp cũng như
các yếu tố chủ quan của chính bản thân doanh nghiệp. Thêm vào đó, thực
hiện việc tiếp nhận các phản hồi về hiệu quả các thông tin đã cung cấp cho
các doanh nghiệp một cách thường xuyên để có sự điều chỉnh hợp lý.
1.2.2. Tổ chức hệ thống thu thập và xử lý thông tin và cung
cấp thông tin:
Đây là khâu thứ hai rất quan trọng trong quá trình thông tin của các tổ

chức chuyên tin. Dựa trên cơ sở nhu cầu thông tin đã được xác định, các tổ
chức này sẽ tổ chức hệ thống thu thập và xử lý thông tin để tạo ra các sản
phẩm thông tin đúng với nhu cầu của các doanh nghiệp.
Trong quá trình thu thập thông tin, cần giải quyết tốt các yếu tố sau:
xác định hệ thống thước đo, các mặt của sự vật hay hiện tượng cần nghiên
cứu và phương pháp thể hiện các sự vật hay hiện tượng này trên các sản phẩm
thông tin; xác định phương pháp thể hiện thông tin; xác định, sử dụng các
phương pháp thu thập thông tin như quan sát, thử nghiệm, phỏng vấn,… để
tiếp cận, tìm hiểu các mặt của đối tượng thông tin.
Bên cạnh khâu thu thập thông tin, xử lý thông tin lại là khâu biến đổi
cần thiết để cung cấp thông tin thích hợp cho đối tượng sử dụng tin.
Chất lượng của thông tin được cung cấp được đánh giá qua rất nhiều
yếu tố: độ chính xác, tính thời sự, giá trị của thông tin mang lại và cả trình độ
của đối tượng tiếp nhận thông tin nữa. Chính vì vậy, các dữ liệu thông tin thu
thập được chưa phải là thông tin mà chúng phải được xử lý cho một mục đích
nhất định cho phù hợp thì mới thực sự trở thành thông tin. Quá trình đó chính
là quá trình xử lý thông tin gồm rất nhiều nội dung: phân loại, chọn lọc các dữ
liệu; mô hình hóa để giảm bớt độ phức tạp của thông tin cho người nhận tin
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
18
dễ dàng hiểu và lý giải các vấn đề; trên cơ sở các dữ liệu thu thập được phải
sử dụng các kỹ thuật dự đoán để xác định xu hướng phát triển của chúng từ
đó tạo ra các thông tin sẵn sàng cho người sử dụng. Vấn đề mô hình hóa và
dự đoán trở nên đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực thông tin kinh tế, đòi hỏi
phải có đội ngũ nhân viên chuyên tin phải có năng lực, trình độ và kiến thức
nhất định.
1.2.3. Ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp thông tin:
Sau khi xác định nhu cầu thông tin của các doanh nghiệp, thu thập đồng
thời xử lý các thông tin để cho ra những sản phẩm phù hợp thực sự cần thiết
và có giá trị đối với các doanh nghiệp, các tổ chức chuyên tin phải tổ chức ký

kết và thực hiện các hợp đồng cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp có
nhu cầu.
Đây là bước quan trọng đảm bảo giá trị pháp lý cho các sản phẩm
thông tin mà các tổ chức chuyên nghiệp này cung cấp. Hợp đồng cung cấp
thông tin cũng phản ánh mối quan hệ ràng buộc giữa tổ chức cung cấp thông
tin và doanh nghiệp sử dụng tin. Nó thể hiện rằng, các sản phẩm thông tin đã
thực sự trở thành hàng hóa, trở thành đối tượng kinh doanh và đảm bảo doanh
thu cũng như sự tồn tại của các tổ chức kinh doanh thông tin chuyên nghiệp.
1.2.4. Tổ chức xuất bản và cung cấp thông tin:
Sau khi đã ký kết hợp đồng cung cấp thông tin, các tổ chức chuyên tin
phải thực hiện hợp đồng này bằng việc cung cấp các sản phẩm thông tin cho
các doanh nghiệp. Việc cung cấp này có rất nhiều dạng khác nhau, tùy thuộc
vào yêu cầu sử dụng tin của doanh nghiệp có hình thức cung cấp hợp lý. Cụ
thể các hình thức đó có thể là: xuất bản thành các tài liệu bằng giấy, cung cấp
đĩa CD-Rom, cung cấp thông tin online qua mạng internet,…
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
19
Đây cũng là khâu quan trọng bởi nó thể hiện việc thực hiện hợp đồng
cung cấp thông tin đã được ký kết trước đó. Đây cũng là quá trình đưa các sản
phẩm thông tin của tổ chức chuyên tin ra thị trường thông tin. Thông qua các
sản phẩm được xuất bản hay cung cấp ra thị trường này, các tổ chức chuyên
tin sẽ khẳng định vị trí của tổ chức trên thị trường thông tin và có thể đánh giá
một cách khái quát quá trình thông tin đã thực hiện.
1.2.5. Quản lý và đánh giá hiệu quả hoạt động cung cấp thông tin:
Khâu cuối cùng của quá trình thông tin đối với các tổ chức chuyên tin
là khâu quản lý và đánh giá hoạt động cung cấp thông tin của mình. Khác với
các sản phẩm hữu hình khác, thông tin là một sản phẩm đặc biệt mang hàm
lượng chất xám rất cao. Chính vì vậy, để hoạt động cung cấp thông tin của
mình được đảm bảo ngoài việc luôn chú ý tới cơ sở vật chất, trình độ và năng
lực của đội ngũ lao động các tổ chức chuyên tin còn phải thường xuyên đánh

giá hiệu quả của các sản phẩm tạo ra từ hoạt động của mình.
Một đặc điểm vô cùng quan trọng của thông tin đó là nó có quan hệ
mật thiết với sự phát triển kinh tế. Trong khi đó, một nền kinh tế thì không lúc
nào đứng yên mà nó luôn biến động không ngừng. Vì vậy, hoạt động cung
cấp thông tin của các tổ chức chuyên tin phải vô cùng linh hoạt. Để hoạt động
cung cấp thông tin luôn luôn đạt hiệu quả cao, các tổ chức này phải tổ chức
quản lý chặt chẽ và đánh giá hiệu quả hoạt động của quá trình thông tin một
cách thường xuyên và liên tục. Có như vậy, các sản phẩm thông tin của tổ
chức mới đảm bảo và ngày càng gia tăng gía trị các sản phẩm này trên thị
trường thông tin đang rất sôi động.
1.3. TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG THÔNG TIN HIỆN NAY:
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
20
1.3.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và vị thế mới của Việt nam:
1.3.1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới:
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ thông tin trong
những năm gần đây đã mang lại những tác động to lớn và những biến đổi sâu
sắc trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội ở khắp các nước
trên thế giới. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà nền kinh tế thế giới
chuyển biến từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên hạn hẹp
của thiên nhiên sang nền kinh tế của thông tin và trí tuệ.
Trước kia, sản xuất được phân bổ dựa trên lợi thế so sánh tự nhiên với
hai yếu tố là các nguồn nguyên liệu và các yếu tố sản xuất như vốn và lao
động. Ngày nay, các ngành tăng trưởng mạnh nhất đều dựa vào sức mạnh của
trí tuệ. Đó là các ngành vi điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, vô tuyến viễn thông, máy tính điện tử (phần cứng, phần mềm), máy công
cụ và robot, chế tạo máy bay dân dụng,… Các tài nguyên thiên nhiên bị gạt ra
ngoài chương trình cạnh tranh. Trong thời đại ngày nay, chỉ duy nhất có tri
thức và kỹ năng là các nguồn lực tạo ra lợi thế so sánh bền vững. Điều đó đã
nâng cao vị thế của thông tin trong các nguồn lực phát triển.

Ở mọi ngành sản xuất, các hoạt động sản xuất có lợi nhuận cao nhất
trong mỗi ngành là các hoạt động sản xuất có hàm lượng tri thức cao. Các
hoạt động này đã tạo ra các sản phẩm chính xác, chất lượng cao, phục vụ cho
các mục đích chuyên môn hóa cụ thể và có giá trị gia tăng. Các cơ sở kinh
doanh cố gắng làm cho hàng hóa của mình “thông minh” hơn để kiếm lợi
nhuận. Việc tìm tòi phát minh ra sản phẩm mới, đem lại lợi nhuận cao trở nên
quan trọng. Xu thế sản xuất mới chuyển từ khối lượng lớn sang giá trị cao ra
đời và ngày càng phát triển.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
21
Ngày nay, tri thức là nguồn duy nhất tạo ra lợi thế so sánh dài hạn,
nhưng tri thức chỉ có thể áp dụng thông qua kỹ năng cá nhân. Tuy nhiên,
nhiều kỹ năng mới chưa được đưa vào dạy trong nhà trường, mà chúng chỉ có
thể được học tập trong môi trường sản xuất. Trước sự thay đổi chóng mặt của
công nghệ, người lao động phải liên tục phải học tập, trao đổi thông tin, tri
thức và kỹ năng. Để sử dụng các sản phẩm thông minh, khách hàng cũng phải
có một tiến trình học tập. Để tồn tại và phát triển các công ty phải xây dựng
cách làm mới để thúc đẩy việc phổ biến thông tin, kỹ năng và tri thức cho
người lao động và khách hàng. Doanh nghiệp trở thành một tổ chức học tập là
một thay đổi lớn về tư duy trong kinh doanh.
Một đặc điểm lớn của nền kinh tế thế giới hiện nay là xu thế toàn cầu
hóa. Theo Coitrep (Tạp chí Xã hội và Kinh tế Nga) toàn cầu hóa là giai đoạn
mở rộng về chất của xu hướng tăng cường sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nước. Toàn cầu hóa bao quát toàn bộ đời sống xã hội, trong đó mắt
xích trung tâm là toàn cầu hóa về kinh tế, tiếp theo là văn hóa. Toàn cầu hóa
về kinh tế thể hiện ở sự phân công lao động và phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế,
trong đó vai trò của các công ty đa quốc gia, các mạng thông tin liên lạc toàn
cầu, các tổ chức kinh tế quốc tế ngày càng tăng; tự do thương mại, đầu tư tài
chính ngày càng mở rộng; tính độc lập kinh tế của mỗi quốc gia chỉ còn là
tương đối. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự giao lưu văn hóa giữa các nước là

điều tất yếu, là điều kiện để tồn tại và phát triển. Mỗi quốc gia phải biết kết
hợp nhuần nhuyễn giữa giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa
văn hóa của thời đại.
Trong bối cảnh của nền kinh tế thế giới, vai trò của thông tin, nhất là
thông tin khoa học công nghệ và thông tin kinh tế ngày càng nâng cao. Ở
nhiều nước thông tin thực sự trở thành hàng hóa và một thị trường thông tin,
một nền kinh tế thông tin ra đời là một điều tất yếu.
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
22
1.3.1.2. Vị thế mới của Việt nam:
a) Thông tin đối với các nước đang phát triển:
Một thực tế hiện nay là sự sản sinh ra thông tin và tình hình phát triển
khoa học phân phối không đều trên thế giới. Các nước đang phát triển chỉ sản
sinh ra chưa đầy 1% thông tin khoa học của thế giới. Trong khi đó phần lớn
thông tin tập trung ở các nước công nghiệp phát triển. Ở đây họ giành một
phần quan trọng trong thu nhập quốc dân cho hoạt động nghiên cứu, giáo dục
và thông tin. Các nước này có một hệ thống cơ sở thông tin hùng mạnh, có
các chuyên gia và cán bộ thông tin được đào tạo, các kênh chuyển giao thông
tin với nguồn tin phong phú và số lượng người dùng tin đông đảo, có chính
sách thông tin quốc gia nhất quán.
Trong khi đó ở các nước đang phát triển tình hình hoàn toàn khác. Các
phương tiện giành cho việc sản sinh ra thông tin và mạng lưới thông tin còn
rất thiếu thốn. Hầu hết các nước này chỉ có cơ sở hạ tầng về thông tin yếu
kém, thiếu trang thiết bị hiện đại gây nên sự chậm trễ trong việc chuyển giao
và tiếp cận thông tin.
Vấn đề đặt ra với những nước này là phải nhanh chóng thu hẹp những
lỗ hổng về thông tin sẵn có ở các nước công nghiệp phát triển. Điều này đặt ra
hai điều kiện với các nước đang phát triển: Thứ nhất, các nước này phải
nhanh chóng đào tạo cán bộ thông tin xây dựng hệ thống thông tin quốc gia.
Thứ hai, phải có sự tham gia của các nước công nghiệp phát triển vào hệ

thống chuyển giao thông tin cho các nước đang phát triển.
b) Vị thế mới của Việt nam:
Công cuộc đổi mới kinh tế trong những năm qua ở nước ta đã đem lại
những thay đổi to lớn trong hệ thống kinh tế cũng như cơ chế vận hành nền
kinh tế nước ta. Hệ thống thông tin kinh tế trong những năm gần đây đã có
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
23
những bước phát triển vượt bậc, kể từ phương tiện thông tin đại chúng cho
đến các tổ chức cung cấp thông tin chuyên ngành. Bước đầu đã cải thiện một
cách đáng kể chất lượng hệ thống cung cấp thông tin. Về cơ bản, hệ thống
thông tin kinh tế ở dạng phản ánh thực trạng đã đến được với đa số quần
chúng nhân dân, một số thông tin kinh tế chuyên ngành đã đảm bảo được tính
trung thực, kịp thời và có xử lý ở mức độ nhất định.
Thêm vào đó, năm 2006 đi qua đánh dấu một sự kiện quan trọng khẳng
định Việt nam đã thực sự tham gia vào sân chơi kinh tế chung của thế giới.
Đó là sự kiện Việt nam ra nhập vào tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sự
kiện trọng đại này giúp Việt nam có thể giao lưu tự do thương mại với các
nước là thành viên của WTO. Nhờ vậy, chúng ta có thể nhanh chóng đáp ứng
nhu cầu thứ hai để phát triển thông tin đối với các nước đang phát triển: giao
lưu thông tin với các nước đang phát triển nhằm thực hiện nhanh chóng việc
chuyển giao thông tin từ các nước phát triển. Có phát triển hệ thống thông tin
kinh tế chúng ta mới có thể nhanh chóng xây dựng nền kinh tế tri thức, nhờ
vậy mà thu hẹp những lỗ hổng với các nước phát triển về tất cả mọi mặt.
Không chỉ tham gia vào WTO, Việt nam ngày càng tỏ ra cố gắng giữ
mối quan hệ tốt với các nước trong khu vực Đông Nam Á, châu Á,…bằng
việc tham gia các tổ chức như: Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN),
Diễn đàn hợp tác kinh tế Á-Âu (ASEM), Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình
Dương (APEC), khu vực tự do mậu dịch Đông Nam Á (AFTA)… Chính vì
vậy, cơ hội chuyển giao thông tin đối với Việt nam ngày càng rộng mở. Và
thực tế cho thấy rằng hệ thống thông tin kinh tế của Việt nam đang ngày càng

hoàn thiện, mở rộng và hiệu quả hơn.
1.3.2. Thị trường thông tin:
a) Sự ra đời của thị trường thông tin:
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
24
Trên thế giới, Thập kỷ 1980 – 1990 của thế kỷ XX có thể coi là thập
niên của thông tin mà sự kiện đáng chú ý là một “thị trường thông tin” hay
một nền “công nghiệp thông tin” bắt đầu được hình thành. Hàng loạt các ngân
hàng dữ liệu lưu trữ thông tin với khối lượng lớn và chất lượng cao ra đời.
Nhiều tổ chức môi giới và dịch vụ thông tin được hình thành, thỏa mãn nhu
cầu đa dạng của người dùng tin.
Những số liệu về thị trường thông tin (số ngân hàng dữ liệu, số cơ quan
sản xuất thông tin, số cơ quan dịch vụ thông tin,…) trở thành chỉ tiêu đánh giá
trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước. Những cường quốc thông tin cũng
đồng thời trở thành các cường quốc kinh tế. Có đến 80% bằng phát minh của
thế giới được công bố trong 12 nước phát triển.
Đối với Việt nam, sự phát triển nền kinh tế thị trường, sự mở cửa và
từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới làm cho hoạt động thông
tin kinh tế phục vụ cho quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp và quản lý
kinh tế của chính phủ trở nên cực kỳ phức tạp và tốn kém. Nó đòi hỏi phải
phát triển các tổ chức chuyên tin. Trước đây, chúng ta đã có hệ thống thông
tin thống kê phục vụ cho nhu cầu thông tin của Chính phủ cũng như của các
đơn vị kinh tế. Nhu cầu thông tin kinh tế hiện nay đã vượt ra ngoài khả năng
đáp ứng của hệ thống thông tin thống kê. Hơn nữa, cơ cấu tổ chức tương đối
của hệ thống này không thể thực hiện được toàn bộ chức năng thông tin về
một nền kinh tế phức tạp, năng động và có nhiều mối liên hệ với bên ngoài
như hiện nay. Xuất phát từ những đặc điểm tình hình trên, đã có nhiều tổ chức
chuyên tin xuất hiện và hoạt động bắt đầu từ cuối thập niên 80 và phát triển
mạnh bắt đầu từ cuối thập niên 90 của thế kỷ 20
Khác với hệ thống thông tin của các doanh nghiệp và của Chính phủ,

đáp ứng nhu cầu thông tin của chính hệ thống kinh tế mà nó phục vụ, hệ
thống thông tin của các tổ chức chuyên tin này đáp ứng các nhu cầu thông tin
Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh
25

×