Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tieng Viet- Luu Thi Nga- TH Can Khe (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.65 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GD&ĐT NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP
HỌC SINH TÍCH CỰC HỌC PHÂN MƠN
LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 5

THANH HĨA NĂM 2020


MỤC LỤC

1. MỞ ĐẦU

Người thực hiện: Lưu Thị Nga
Nội dung
Chức vụ: Giáo
viên
Đơn vị công tác: Trường TH Cán Khê
SKKN thuộc mơn: Tiếng Việt

Trang

1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu



1

1.3. Đối tượng nghiên cứu

1

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

2

2.3. Giải pháp đó sử dụng giúp học sinh học tốt Phân môn Luyện
từ và câu lớp 5.

3

2.3.1.Tạo khơng khí lớp học sơi nổi, hào hứng

3

2.3.2. Giúp HS hình thành và nắm vững kiến thức mới


7

2.3.3. Mở rộng vốn từ cho học sinh

9

2.3.4. Tăng cường luyện tập thực hành

10

2.4. Hiệu quả của sáng kiến

13

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận

14

3.2. Kiến nghị

15


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Ở Tiểu học, mơn Tiếng Việt có vai trị nền tảng cho học sinh trau dồi, phát
huy vốn ngôn ngữ, rèn cho học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt. Nếu học tốt bộ
mơn này nó giúp cho việc học và nắm bắt kiến thức các môn học khác một cách

dễ dàng hơn. Trong mơn Tiếng Việt thì phân Luyện từ và câu là một trong những
phân mơn quan trọng góp phần hình thành tri thức và kĩ năng diễn đạt giao tiếp.
Nói đến dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học người ta thường nói tới 3 nhiệm vụ chủ
yếu là giúp học sinh mở rộng vốn từ, hiểu nghĩa của từ một cách chính xác và
luyện tập, sử dụng từ ngữ trong giao tiếp chuẩn mực. Học Luyện từ và câu
không phải để nhồi nhét vào trí nhớ một cách vơ cảm những ngữ liệu, ghi nhớ
mà học Luyện từ và câu để biết dùng từ ngữ, ngữ liệu vận dụng trong giao tiếp
hàng ngày phù hợp với chuẩn mực văn hóa hàng ngày. Gợi cho học sinh lịng
u Tiếng Việt, ln giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Tuy nhiên khơng phải người giáo viên nào cũng giúp HS hình thành được
tri thức một cách nhẹ nhàng, tích cực, chủ động, sáng tạo. Sử dụng phương pháp
dạy học linh hoạt nhằm giúp học sinh nắm vững được kiến thức quả là một bài
tốn khó đối với người giáo viên khi đứng trên bục giảng. Là một giáo viên
đứng lớp, qua nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy tôi nhận thấy học sinh cịn rất
nhiều lúng túng, khó khăn, khi học phân môn này dẫn tới các tiết học nặng nề,
không hứng thú, không lôi cuốn được các em. Tôi luôn băn khoăn trăn trở làm
thế nào để nâng cao hiệu quả các tiết học Luyện từ và câu? Chính vì vậy, tôi đã
nghiên cứu và chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn
Luyện từ và câu lớp 5”. Với hi vọng giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ
và câu, viết được các đoạn văn có những từ ngữ, hình ảnh sinh động, giao tiếp
tốt, đúng theo chuẩn kiến thức kĩ năng của môn Tiếng Việt, tự tin trong học tập,
hoàn thành nhiệm vụ học tập, học tập tốt ở các lớp cao hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp tích cực nhằm giúp học sinh phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện khả năng và thói quen tự học,
tinh thần hợp tác, kĩ năng sử dụng kiến thức vào thực tiễn, tạo hứng thú trong
học tập cho các em.
- Thông qua các bài Luyện từ và câu để mở rộng vốn từ, hình thành và rèn
luyện cho học sinh các kĩ năng: luyện kĩ năng dùng từ đặt câu, viết đoạn văn, bài
văn một cách mạch lạc, rõ ý và kĩ năng đọc cho học sinh. Giúp các em biết vận

dụng kiến thức đó học vào cuộc sống, ham học hỏi, tìm hiểu, khám phá để biết
về môi trường xung quanh các em, yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất
nước, tôn trọng bảo vệ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Dạy - học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5 trường Tiểu học Cán Khê
năm học 2020 - 2021.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1


- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và nghiên cứu các tài liệu, văn bản để
hiểu được cơ sở lý luận phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
- Phương pháp quan sát: Thông qua việc rèn luyện hàng ngày trên lớp để nắm
được thực trạng giúp cho việc nghiên cứu đạt hiệu quả.
- Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với đồng nghiệp, học sinh để thu thập
thông tin phục vụ cho mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tập hợp lại những kinh nghiệm nghiên
cứu và thực tiễn về học sinh để đề xuất các biện pháp giải quyết vấn đề.
2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự phát triển Cơng nghiệp hố-hiện đại
hố đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự
cường. Nhu cầu này địi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương
trình, phương pháp giảng dạy ở bậc Tiểu học một cách phù hợp.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “giúp học sinh hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm
chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc rất lớn vào việc giảng dạy mơn Tiếng
Việt nói chung và phân mơn Luyện từ và câu nói riêng. Để đạt được mục tiêu đó
người giáo viên phải tìm ra các biện pháp giúp học sinh tích cực học tốt phân

mơn Luyện từ và câu lớp 5 là rất cần thiết.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
1. Đối với giáo viên:
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu quá trình dạy - học Luyện từ và câu
ở lớp 5 Trường Tiểu học Cán Khê tôi nhận thấy một số giáo viên đó cung cấp
đầy đủ kiến thức cho học sinh, sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học
theo hướng đổi mới. Tuy nhiên nhiều học sinh vẫn chưa chủ động trong học tập,
chưa hiểu bài, một số em hoạt động nhóm nhưng khơng tham gia xây dựng bài,
thụ động chờ kết quả của bạn... Bên cạnh đó vẫn cịn một số giáo viên cịn chưa
quan tâm nhiều dạy học phân môn Luyện từ và câu mà chỉ cung cấp vốn kiến
thức sơ giản thường gặp còn ít sáng tạo trong phát huy tính tích cực cho học
sinh. Khả năng diễn đạt ngôn ngữ chưa được trau chuốt: giáo viên cịn “bí từ”
khi giảng; kiến thức bài cịn bó hẹp hồn tồn trong sách giáo khoa và chỉ biết
hướng dẫn học sinh những kiến thức có trong sách giáo khoa chưa chú trọng
chốt nội dung và mở rộng thêm khi dạy xong một tiết học, một chủ đề,.... Giáo
viên dạy học còn ảnh hưởng phương pháp truyền thống, chưa phát huy tính tích
cực lấy học sinh làm trung tâm ở phân môn Luyện từ và câu. Cung cấp kiến thức
cho học sinh nhớ máy móc là chủ yếu. Tổ chức dạy học sinh ở phân mơn này
cịn khô khan, lúng túng chưa mang lại hiệu quả cao. Người giáo viên chưa định
hướng cách học cho học sinh nên khi tìm hiểu về nghĩa, cách dùng từ, sử dụng
2


từ ngữ và nắm chắc ngữ pháp học sinh chưa có cách học chủ động, tích cực và
sáng tạo.
2. Đối với học sinh:
- Thuận lợi: Học sinh được trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. Hầu
hết các em học sinh lớp 5 đã có những kiến thức sơ giản về ngữ âm và ngữ pháp,
những kiến thức đó được làm quen ở các lớp dưới. Các em được sự quan tâm về
nhiều mặt của Ban giám hiệu nhà trường, của phụ huynh và của chính quyền địa

phương. Nhà trường có thư viện với nhiều đầu sách để học sinh có thể đọc sách
vào giờ giải lao. Hơn nữa mỗi lớp có một tủ sách Lam Sơn, một thư viện nhỏ
của lớp để các em HS được đọc thêm và tìm hiểu thêm.
- Khó khăn: Đa số các em đều là con em gia đình lao động sống ở vùng
sâu,vùng xa. Bố mẹ đi làm ăn xa, chủ yếu các em sống ở nhà với ông bà, cô dì,
chú, bác... nên việc kèm cặp các em học tập ở nhà cịn nhiều hạn chế. Nhiều em
chưa ham thích phân mơn này. Mặc dù ở trường, lớp có nhiều sách, báo nhưng
các em chưa ham đọc sách báo.Vì vậy mà vốn từ của các em còn nghèo nàn, tư
duy cịn nhiều hạn chế. Nhiều em cịn có thói quen chờ thầy cô hướng dẫn rồi
chép bài, khả năng nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập chưa
tốt. Học sinh còn học vẹt, ghi nhớ máy móc. Theo dõi kết quả kiểm tra ở lớp 5
phân mơn Luyện từ và câu cho thấy cịn thấp. Khả năng tập trung của học sinh
không cao, chưa chủ động, chưa kiên nhẫn và chưa hứng thú trong học phân
môn này.
Ngay từ đầu năm học 2020 - 2021, tôi đã khảo sát chất lượng phân môn
Luyện Từ và câu của học sinh ở lớp 5A4 (khu D) Trường Tiểu học Cán Khê đạt
được kết quả như sau:
Tổng số

Hoàn thành tốt

20 em

3/20 em = 15%

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

Ghi chú


7/20 em = 35% 10/20 em =50 %

Sở dĩ còn nhiều hạn chế như vậy là do vốn từ các em còn hạn hẹp, nhiều
khi hiểu nhưng không biết dùng từ để diễn đạt cho phù hợp. Nhiều em chưa nắm
vững kiến thức Tiếng Việt, các khái niệm về từ, câu... còn mơ hồ. Qua nghiên
cứu từ thực trạng dạy-học phân môn Luyện từ và câu lớp 5 ở trường Tiểu học
Cán Khê, tôi đã nghiên cứu và vận dụng một số giải pháp giúp học sinh học tốt
phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Tạo khơng khí lớp học sơi nổi, hào hứng.
Để khắc phục tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động,
thiếu tập trung trong giờ học, giáo viên cần lựa chọn các phương pháp và hình
thức dạy học phù hợp. Trong quá trình dạy học, nếu các em có dấu hiệu mệt
mỏi, giáo viên cần thay đổi hình thức để tạo sự hứng thú, lấy lại tinh thần, trạng
thái vui tươi, hoặc có thể chơi một trị chơi nhỏ thay đổi khơng khí lớp học... Khi
3


lập kế hoạch bài dạy tôi luôn trăn trở, nghiên cứu tìm tịi để tạo ra hình thức dạy
học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp nhằm cuốn hút học sinh vào các
hoạt động học tập một cách chủ động tích cực. Có thể tổ chức các hình thức dạy
học linh hoạt tạo khơng khí học tập thoải mái như: thảo luận nhóm, đơi bạn học
tập, tiếp sức, đóng vai, vận dụng các trị chơi trong tiết học, các cuộc thi để học
sinh có cơ hội thi đua cạnh tranh lành mạnh qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức
tích cực, tự giác theo hình thức “Học mà chơi - chơi mà học”.
Đối với học sinh lớp 5 hoạt động học tập đó là hoạt động chủ đạo nhưng
nhu cầu vui chơi của các em vẫn rất lớn. Trí nhớ khơng chủ định chiếm ưu thế.
Các em thường ghi nhớ những gì mình thích, trí nhớ hình ảnh tốt hơn trí nhớ
ngơn ngữ. Các em thường khơng duy trì được sự chú ý trong một thời gian dài.

Vì vậy trong mỗi tiết dạy giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động nhằm tạo
khơng khí sơi nổi để thu hút sự chú ý của học sinh. Việc vận dụng các phương
pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, thiết kế và tổ chức dạy học theo định hướng
phát triển năng lực người học là rất cần thiết đối với giáo viên trong giai đoạn
hiện nay. Trong các phương pháp dạy học thì phương pháp trị chơi là một trong
những phương pháp tích cực. Trong trị chơi các em là người thực hiện và có sự
phân cơng, trao đổi, thay đổi vai trị giữa các thành viên trong nhóm nhờ đó giúp
học sinh phát triển về ngơn ngữ. Thơng qua trò chơi học tập cũng giúp học sinh
phát triển về tư duy lơgic, trí tưởng tượng, khả năng trình bày trước đám đông,
kĩ năng hợp tác, giao tiếp trong q trình chơi…Đó là những kĩ năng rất quan
trọng giúp học sinh ngày càng mạnh dạn tự tin vào bản thân mình hơn. Nhóm
học tập cũng rất cần thiết trong dạy học định hướng phát triển năng lực người
học. Khi học theo nhóm các em được chia sẻ ý kiến cho nhau, được hỗ trợ giúp
đỡ nhau để cùng tiến bộ nhằm phát triển năng lực và phẩm chất, hoàn thiện bản
thân trong quá trình học tập. Tuy nhiên giáo viên cũng cần lưu ý:
Việc chia nhóm phải đảm bảo cho các em học sinh được học tập thuận lợi,
chỗ ngồi của các em phải dễ trao đổi thảo luận với nhau để cùng nhau xây dựng
bài dưới sự điều khiển của giáo viên. Số lượng học sinh quá lớn trong nhóm sẽ
làm cản trở sự trao đổi và điều khiển của nhóm trưởng cũng như các thành viên
trong nhóm, dẫn đến một số em bị bỏ rơi khi thảo luận. Tùy vào từng nội dung
và mục đích thảo luận để giáo viên chia nhóm và giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm
sao cho phù hợp và hiệu quả. Tránh tình trạng nhiều em có thói quen ỷ lại, ngồi
chờ kết quả của bạn. Giáo viên cần hướng dẫn các em luân phiên chỉ định nhóm
trưởng và chỉ định thành viên báo cáo kết quả trong hoạt động nhóm một cách
linh hoạt phù hợp với hoạt động nhóm trong từng bài học.
Ví dụ: Dạy bài Mở rộng vốn từ: Cơng dân (tuần 20 - lớp 5). Bài tập 2:
Xếp những từ có tiếng cơng cho dưới đây vào nhóm thích hợp. (cơng dân, cơng
nhân, cơng bằng, cơng cộng, cơng lí, cơng nghiệp, công chúng, công minh, công
tâm).
Giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm

+ Giáo viên chia lớp thành các nhóm, mỗi nhóm 3 em.
+ Giáo viên giao nhiệm vụ, phát cho mỗi nhóm một phiếu có sẵn một
cánh hoa là yêu cầu chung của bài tập và 3 cánh hoa rời, mỗi cánh ghi một yêu
4


cầu của bài tập (câu a, câu b, câu c). Một nhóm làm vào phiếu khổ to để trình
bày trước lớp.
a. Cơng có nghĩa là “của nhà nước, của chung”
b. Cơng có nghĩa là “ khơng thiên vị”
c. Cơng có nghĩa là” thợ, khéo tay”
+ Học sinh thảo luận nhóm, phân cơng nhau hồn thành nhiệm vụ trong
mỗi cánh hoa sau đó gắn lên bơng hoa.
+ Hết thời gian, các nhóm nộp kết quả.
+ Đại diện nhóm làm vào phiếu khổ to lên trình bày kết quả, các nhóm
khác theo dõi, nhận xét bổ sung.
+ Giáo viên nhận xét chốt lại kết quả đúng, tun dương các nhóm hồn
thành tốt.

Hình ảnh học sinh hoạt động nhóm trong tiết dạy Luyện từ và câu
lớp 5A4 Trường Tiểu học Cán Khê.

5


Hình ảnh học sinh trình bày kết quả hoạt động nhóm trong tiết dạy Luyện từ và
câu lớp 5A4 Trường Tiểu học Cán Khê.
Qua hoạt động nhóm, học sinh đã phát huy được tính tích cực và chủ động
trong học tập. Tạo điều kiện cho tất cả các học sinh tham gia hoạt động để hoàn
thành nhiệm vụ chung của nhóm mình. Đồng thời rèn cho các em kĩ năng hợp

tác, kĩ năng giải quyết vấn đề… nâng cao tinh thần trách nhiệm của bản thân.
- Khi dạy học sinh thực hành trong các bài về Quan hệ từ, cách nối các vế câu
ghép,.. tôi tổ chức cho các em chơi trị “nối tiếp”, trị chơi “hơ - đáp”…. Để thay
đổi khơng khí trong giờ học.
Ví dụ: khi dạy bài 42: Nối các vế câu ghép bằng quan hệ từ. Bài tập 4:
Thêm vào chỗ trống một vế câu thích hợp để tạo thành câu ghép chỉ nguyên
nhân - kết quả. Giáo viên chuẩn bị sẵn các phiếu ghi các vế câu ghép cho sẵn.
Học sinh lần lượt lên bốc thăm, hơ theo nội dung phiếu.Ví dụ: Học sinh hơ: Do
6


nó chủ quan….Học sinh khác đáp lại vế sau. giáo viên cho học sinh lần lượt nêu
đáp án của mình đến khi nào hết ý thì chuyển sang câu khác. Trò chơi cứ tiếp tục
như thế đến hết yêu cầu bài tập.
Với hình thức tổ chức dạy học linh hoạt nói trên, tiết Luyện từ và câu của
lớp có khơng khí lớp học sơi nổi, thoải mái, khiến học sinh mạnh dạn tự tin hơn.
Học sinh lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, chủ động, không ngồi chờ kết
quả của bạn mà chỉ nhận được sự hỗ trợ từ bạn. Từ đó rèn cho các em có khả
năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người thể hiện suy nghĩ,
cảm xúc, thái độ yêu ghét, đồng ý hay không đồng ý để các em trở nên mạnh
dạn tự tin trong học tập và trong giao tiếp.
2.3.2. Giúp học sinh hình thành và nắm vững kiến thức mới
Phân mơn Luyện từ và câu mang tính chất thực hành nên các kiến thức lí
thuyết ở đây chỉ được đưa đến cho học sinh ở mức sơ giản và tập trung chú
trọng đến các quy tắc sử dụng từ, câu. Giáo viên phải có biện pháp dạy học để
học sinh khơng phải học thuộc lịng mà ghi nhớ trên cơ sở những hiểu biết từ
thực tế. Để chuẩn bị dạy một đơn vị kiến thức lí thuyết về từ và câu, chúng ta đặt
khái niệm cần dạy trong hệ thống chương trình để thấy rõ vị trí của nó, đồng
thời phải nắm chắc nội dung khái niệm, nghĩa là bản chất của nó mà chúng ta
cần đưa đến cho học sinh.

Đối với dạng bài hình thành kiến thức giáo viên cần giúp học sinh khai
thác tốt ngữ liệu ở phần nhận xét, hướng dẫn các em tự phát hiện và chiếm lĩnh
kiến thức mới, tránh áp đạt các em nắm kiến thức một cách máy móc. Huy động
tối đa vốn kiến thức các em đó có để phát triển và khái quát thành khái niệm.
GV nên sử dụng bằng sơ đồ tư duy để giúp các em dễ nhớ và nhớ lâu. Khi dạy
kiểu bài này chú trọng áp dụng một cách có hiệu quả các phương pháp: giảng
giải, phân tích ngơn ngữ, khả năng tư duy, phân tích tổng hợp... để hình thành
kiến thức mới cho các em. Giáo viên cần giúp học sinh hiểu được những đơn vị
kiến thức vừa hình thành đó được dùng để làm gì? Dùng nó như thế nào khi nói
và viết? Điều đó giúp các em ghi nhớ kiến thức qua việc sử dụng nó trong giao
tiếp một cách dễ dàng.
Giáo viên tổ chức cho các em luyện tập thực hành bằng nhiều hình thức
khác nhau để khắc sâu kiến thức mới. Đồng thời giáo viên còn phải liên hệ với
các đơn vị kiến thức mà các em hay nhầm lẫn để phân biệt một các rõ ràng,
tránh nhầm lẫn khi sử dụng nó.
Ví dụ: Khi dạy bài: Từ nhiều nghĩa (Tuần 6 - Lớp 5)
Giáo viên cần giúp học sinh hiểu được thế nào là từ nhiều nghĩa, nắm
được nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong từ nhiều nghĩa. Phân biệt được nghĩa gốc,
nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa trong một số câu văn.
Giáo viên có thể sử dụng tranh, ảnh về các sự vật, hiện tượng, hoạt
động...để minh họa cho các nghĩa của từ nhiều nghĩa. Ví dụ: tranh vẽ học sinh
rảo bước đến trường, bộ bàn ghế, núi, cảnh bầu trời tiếp giáp mặt đất...để giảng
nghĩa cho các từ chân (chân người) chân bàn, chân núi, chân trời.... Tranh ảnh về
răng của chiếc cào, mũi của chiếc thuyền, tai của ấm để giải nghĩa từ răng, mũi,
tai....
7


Giáo viên giúp học sinh xác định nghĩa gốc của mỗi từ. Trên cơ sở nghĩa
gốc hình thành những nghĩa chuyển. Từ đó hình thành khái niệm về từ cho học

sinh, khắc sâu kiến thức cho học sinh qua các bài tập.
Nghĩa gốc (Mũi em bé)
Từ nhiều nghĩa
Nghĩa chuyển (mũi thuyền)
Nghĩa chuyển
Nghĩa chuyển (mũi sào)
Nghĩa chuyển (mũi dép)
........
Vậy từ mũi trong trường hợp trên là từ nhiều nghĩa.
Từ đó GV giúp HS rút ra khái niệm: Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa
gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ
cũng có mối liên hệ với nhau.
Ví dụ: - Đơi mắt của bé mở to. (bộ phận quan sát của con người ở trên
mặt) Trong trường hợp này từ mắt là nghĩa gốc.
- Quả na mở mắt. (quả na bắt đầu chín, có những vết nứt rộng ra
giống hình con mắt) Trong trường hợp này từ mắt là nghĩa chuyển.
Muốn phân tích được nghĩa của từ nhiều nghĩa, trước hết phải, miêu tả
thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa.Vì
vậy giáo viên cần cho học sinh thấy rõ: Biểu tượng làm hình ảnh về hình dáng,
kích thước, đặc điểm, tính chất của sự vật được phản ánh trong ngôn ngữ trong
nghĩa gốc của từ, dưới dạng các nét nghĩa trở thành cơ sở để tự phát triển thêm
nghĩa mới. Nhờ vào quan hệ liên tưởng tương đồng người ta liên tưởng từ sự vật
này đến sự vật kia trên những đặc điểm, hình dáng, tính chất giống nhau hay gần
giống nhau giữa các sự vật ấy. Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này
(nghĩa 1) chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất, hành động khác nghĩa (nghĩa 2),
quan hệ nhiều nghĩa của từ nảy sinh từ đó.
Ví dụ: Chín: (1) chỉ quả đó qua một q trình phát triển, đạt đến độ phát
triển cao nhất, hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng (cam
chín).
(2) Chỉ quá trình vận động, quá trình rèn luyện, khi đạt đến sự phát triển cao

nhất. (Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín, tài năng đã chín)
(3) Sự thay đổi màu sắc nước da. (ngượng chín cả mặt)
Để học sinh không nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ đồng nghĩa giáo viên
cần chỉ rõ: Nghĩa của từ đồng âm khác hẳn nhau (ví dụ: treo cờ - chơi cờ). Nghĩa
của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ. Nhờ biết tạo ra từ nhiều nghĩa từ
một nghĩa gốc, Tiếng việt trở nên hết sức phong phú.
Qua việc giáo viên nhận xét, đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức của học
sinh cho thấy: giáo viên lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp
với nội dung bài giảng, giúp học sinh phát huy khả năng của mình và đạt hiệu
quả cao trong học tập.
2.3.3. Mở rộng vốn từ cho học sinh
Trong Tiếng Việt thì phân môn luyện từ và câu là rất quan trọng. Nó góp
phần hình thành các kĩ năng cần thiết cho học sinh. Mặc dù là một phân môn
độc lập song phân môn Luyện từ và câu lại song hành cùng các môn học khác.
8


Nó được tích hợp từ nhiều mơn học khác. Vốn từ ngữ của các em càng phong
phú thì khả năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ chính xác, trình bày càng rõ ràng, đặc
sắc làm cho người đọc dễ hiểu hơn. Số từ ngữ và khả năng dùng từ thì đa dạng
và phong phú. Chính vì vậy mà việc hình thành và phát triển cho HS các kĩ năng
sử dụng từ, dùng từ đặt câu là rất cần thiết nhưng cũng hết sức khó khăn. Nếu
chúng ta khơng chú trọng mở rộng thêm vốn từ, rèn kĩ năng dùng từ đặt câu cho
HS thì các em khơng thể sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện để giao tiếp
được.
Khi dạy kiểu bài này giáo viên cần chú ý phối hợp một cách linh hoạt các
phương pháp dạy học khác nhau nhằm phát huy tối đa tính tích cực chủ động
của HS. Tạo điều kiện để học sinh trao đổi học tập lẫn nhau, hỗ trợ kiến thức và
chia sẻ cho nhau những kinh nghiệm cũng như vốn từ của mình. Cần tổ chức
cho các em được học tập một cách tự nhiên, thoải mái trao đổi để các em tự tin

hơn trong học tập.
Giáo viên cung cấp cho học sinh kỹ năng nắm nghĩa từ và sử dụng từ
trong từng hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn, trong khi giải nghĩa từ, khi cho học
sinh làm các bài tập mở rộng vốn từ, Tôi lựa chọn những biện pháp phù hợp:
Phương pháp giảng giải, phương pháp giải nghĩa bằng trực quan: sử dụng tranh
ảnh, vật thật, mơ hình, biểu bảng …hoặc giải nghĩa trong ngữ cảnh cụ thể : Đưa
từ vào trong các nhóm từ, các câu, các đoạn văn, hồn cảnh giao tiếp cụ thể…
để giải nghĩa. Ngoài việc tuân thủ các phương pháp, biện pháp dạy học hướng
vào giao tiếp, tơi ln tạo ra các hồn cảnh, hứng thú giao tiếp cho các em, tăng
cường mở rộng vốn từ Tiếng Việt qua các môn học khác, qua các hoạt động
ngoại khố trong và ngồi nhà trường (thi đọc thơ, sổ tay từ ngữ, làm báo tường,
thăm quan dã ngoại…).
Ví dụ : Bài tập 1 (Sách Tiếng Việt 5 – tập 2 – trang 81 ,82). Để giúp học
sinh hiểu đúng nghĩa của từ truyền thống giáo viên tiến hành như sau:
- Sử dụng tranh ảnh kết hợp (tranh về trang phục truyền thống, đám cưới được
tiến hành theo nghi lễ truyền thống…) để học sinh nhận ra một số truyền thống
quý báu của dân tộc. Từ tranh ảnh học sinh hiểu được đúng nghĩa của từ
“truyền thống”.
- Dùng sơ đồ tóm tắt nghĩa của từ “ truyền thống”:
Lối sống và nếp nghĩ đó hình thành từ lâu đời
Truyền thống
Được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Đưa ra một số định nghĩa đề giúp học sinh có cơ sở lựa chọn ý (c) trong bài
tập: Lối sống và nếp nghĩ đó hình thành từ lâu đời và được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Với các bước bổ sung này từ xuất hiện trong ngữ cảnh sẽ làm giảm độ
khó của việc định nghĩa từ. Học sinh tự phát hiện và nêu được nghĩa của từ.
Để tăng vốn từ cho học sinh giáo viên không những mở rộng, hệ thống
vốn từ cho học sinh theo chủ đề, chủ điểm mà còn phải liên hệ đến kiến thức, kỹ
năng về tự vựng. Điều này rất khó vì trong lớp học sinh có nhiều trình độ khác

nhau. Vì vậy địi hỏi giáo viên phải phải có kĩ năng phân hóa các đối tượng HS
để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; đảm bảo tính phù
hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp.
9


Ví dụ : Bài tập 2 (Sách Tiếng Việt 5, tập 2 – trang 82)
Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm
Nhóm 1: (Nhóm những học sinh vốn từ cịn hạn chế) Xếp các từ đó cho sẵn
vào 3 nhóm:
Truyền có nghĩa là trao lại cho người khác.
Truyền có nghĩa là lan rộng hoặc làm lan rộng cho nhiều người biết.
Truyền có nghĩa là nhập vào hoặc đưa vào cơ thể.
Nhóm 2: (Nhóm những học sinh vốn từ tương đối tốt) mở rộng và liên hệ
nhóm từ gắn với chủ điểm: truyền thống, truyền nghề, truyền ngơi,.…
Nhóm 3: (Nhóm những học sinh vốn từ tốt) đặt câu với các từ thuộc chủ
điểm truyền thống. ví dụ: Dân tộc ta có truyền thống yêu nước.
Trong một bài học về mở rộng vốn từ thường có bài tập về viết một đoạn
văn ngắn nói về nội dung về vốn từ được mở rộng, đây là dạng bài tập tổng hợp
vừa củng cố vừa vận dụng vốn từ vào thực hành viết câu, làm văn cho nên giáo
viên cần phải uốn nắn các em về cách dùng từ, đạt câu và diễn đạt nội dung rõ
ràng, mạch lạc.
Với cách tổ chức này học sinh được tự suy nghĩ lựa chọn, phát huy tính
tích cực của học sinh, Các em tự phát hiện và sửa sai cho nhau, và quan trọng
nhất là tạo cơ hội cho tất cả các đối tượng học sinh được tham gia vào hoạt
động. Chất lượng giờ học được nâng lên rõ rệt. Học sinh ham thích học Luyện
từ và câu hơn. Vốn từ của các em phong phú hơn. Trong giao tiếp, các em cũng
tự tin và dùng từ, câu chuẩn xác hơn.
2.3.4. Tăng cường luyện tập thực hành
Học sinh Tiểu học rất nhanh hiểu, nhanh nhớ nhưng cũng rất chóng qn.

Vì vậy người giáo viên phải tạo cơ hội cho học sinh được thường xuyên luyện
tập thực hành. Để giờ học được nhẹ nhàng, đem lại hiệu quả thiết thực (nhất là
đối với học sinh còn hạn chế về phân môn này), khi dạy giáo viên cần tập trung
vào những kiến thức cơ bản, cần linh hoạt hơn trong phương pháp nhằm đạt đến
hiệu quả thiết thực. Đối với học sinh lớp 5 các em cần được trang bị những kiến
thức cơ bản về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và văn bản; rèn kĩ năng dùng từ, đặt
câu, liên kết câu và sử dụng dấu câu. Để đạt yêu cầu này giáo viên cần sử dụng
linh hoạt các biện pháp, hình thức tổ chức cho học sinh thực hành, luyện tập.
Trong quá trình dạy học, tùy vào nội dung từng bài học, tôi thường tổ chức cho
học sinh luyện tập theo các biện pháp Sau:
- Luyện tập cá nhân qua việc nghe, nói, đọc, viết kết hợp với các mơn học khác
như: tập đọc, chính tả, kể chuyện, tập làm văn, hoạt động ngoại khóa…
- Luyện tập qua việc sử dụng vật thật, tranh ảnh; dựng yếu tố từ vựng; giải thích
bằng tập theo nhóm: nhiều học sinh hợp tác luyện tập, tham gia các trò chơi
luyện tập (thi nói câu theo hình thức nối tiếp, đố vui,…).
- Luyện tập thông qua miêu tả lôgic (dùng định nghĩa); đặt từ trong câu, đặt câu
trong bài…
Ví dụ: Chỉ ra chỗ sai của câu sau rồi sửa lại cho đúng:
Cô bé cúi mặt xuống để giấu giọt nước mắt đang rơi lã chã.
Câu trên sai về quan hệ logic: Giọt nước mắt(một giọt) không thể rơi lã
chã.
10


Sửa lại: Cô bé cúi mặt xuống để giấu những giọt nước mắt đang rơi lã
chã. Hoặc: Cô bé cúi mặt xuống để giấu giọt nước mắt đang lăn trên má.
- Luyện tập qua một số từ gợi tả âm thanh, gợi tả hình ảnh: tiếng cười nói, tiếng
chim kêu, tiếng gió thổi, tiếng nước chảy, hình ảnh cánh đồng, dịng sơng…
Ví dụ:Thay mỗi từ in đậm bằng một từ láy để câu văn hay và gợi tả hơn.
Dịng sơng chảy nhanh, nước réo to, sóng vỗ hai bên bờ mạnh.

HS có thể thay: Dịng sơng chảy cuồn cuộn, nước réo ầm ầm, sóng vỗ hai
bờn bờ ào ào.
- Luyện tập thông qua sử dụng một số biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, lặp từ,
dùng từ ngữ nối, ....
Ví dụ: Cho các sự vật: Cái cặp, cây bàng. Em hãy đặt câu có sử dụng hình ảnh
nhân hóa các sự vật đã nêu trên.
- Luyện tập về câu theo cấu tạo ngữ pháp: Để học sinh viết câu đúng cấu tạo
ngữ pháp, trước hết phải dạy cho học sinh nắm vững các kiến thức cơ bản về
ngữ pháp trong câu, nhận biết được thành phần chính trong câu.
* Chủ ngữ:
+ Chủ ngữ là một trong hai thành phần chính của câu nêu tên sự vật hiện tượng
có hành động, đặc điểm, trạng thái,…được miêu tả ở vị ngữ. Chủ ngữ thường trả
lời cho các câu hỏi Ai? Cái gì? Con gì? Việc gì? Sự vật gì?
+ Chủ ngữ thường là danh từ, đại từ, hoặc cụm danh từ. Đơi khi cả tính từ, cụm
tính từ, động từ, cụm động từ cũng có khả năng làm chủ ngữ. Trong trường hợp
này, tính từ và động từ được hiểu như một danh từ. Chủ ngữ có thể là một từ,
một cụm từ, một cụm chủ vị. Một câu có một hoặc nhiều chủ ngữ.
+ Trong câu chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ. Trường hợp đảo ngữ, vị trí của
chủ ngữ có thể thay đổi.
* Vị ngữ
+ Vị ngữ là thành phần chính của câu nêu hoạt động, trạng thái, tính chất, bản
chất, đặc điểm … của người, vật, việc nêu ở chủ ngữ; có khả năng kết hợp với
các từ chỉ quan hệ thời gian và trả lời cho các câu hỏi Làm gì? Như thế nào? Là
gì?
+ Vị ngữ thường là động từ hoặc cụm động từ, tính từ hoặc cụm tính từ, danh từ
hoặc cụm danh từ. Vị ngữ có thể là một từ, một cụm từ, cụm chủ vị. Một câu có
thể có một hoặc nhiều vị ngữ.
+ Trong câu vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ. Trường hợp đảo ngữ, vị trí của vị
ngữ có thể thay đổi.
* Trạng ngữ

+Trạng ngữ là thành phần phụ của câu, bổ sung cho nòng cốt câu, tức là bổ
nghĩa cho cả cụm chủ vị trung tâm. Trạng ngữ thường là những từ chỉ thời gian,
địa điểm nơi chốn, mục đích, phương tiện, cách thức… để biểu thị các ý nghĩa
tình huống: thời gian, địa điểm, nguyên nhân, mục đích, kết quả, phương tiện,
… Trạng ngữ trả lời cho câu hỏi: Khi nào? Ở đâu? Vì sao? Để làm gì? Bằng cái
gì?
+Trạng ngữ có thể là một từ, một ngữ hoặc một cụm chủ vị. Trạng ngữ thường
đứng ở đầu câu. Khi đứng ở đầu câu thì được ngăn cách bằng dấu phẩy. Có khi
trạng ngữ đứng ở giữa câu hoặc cuối câu. Ở vị trí cuối câu, trạng ngữ thường có
11


từ nối. Giữa trạng ngữ và thành phần chính của câu thường được ngăn cách bằng
dấu phẩy (khi viết) và ngắt qng (khi nói).
Ví dụ: Xác định thành phần chính của các câu sau:
a) Em là học sinh lớp 5A.
b) Mấy chú Dế sặc nước, loạng choạng bò ra khỏi tổ.
Giáo viên hướng dẫn:
a) Hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi: Ai là học sinh lớp 5A? (Em - "Em" là chủ
ngữ); Em là gì? (là học sinh lớp 5A -"là học sinh lớp 5A " là vị ngữ)
b) Vì câu có dấu phẩy ngăn cách hai hoạt động nên hướng dẫn học sinh đặt câu
hỏi: Con gì sặc nước, loạng choạng bò ra khỏi tổ? (Học sinh trả lời: mấy chú Dế
- "mấy chú Dế" là chủ ngữ); Mấy chú Dế làm gì? (sặc nước, loạng choạng bị ra
khỏi tổ là vị ngữ)
- Luyện tập về câu theo mục đích nói và sử dụng dấu câu đúng.
Câu nghi vấn (câu hỏi):
Chức năng chính: dùng để hỏi. Ngồi ra, câu nghi vấn còn thực hiện các
chức năng khác như để chào xã giao (Bà đi đâu đấy ạ?, Bác có khỏe khơng ạ?
…), để u cầu, ra lệnh (Bác có thể chỉ giúp cháu nhà bạn Lan ở đâu không ạ?),
để khen, chê, để khẳng định/ phủ định, để bộc lộ cảm xúc ( Ôi! Sao bạn giỏi thế?

). Cũng có khi câu hỏi cịn dùng để hỏi chính mình ( Quyển sách mình để ở đâu
nhỉ?)
Hình thức: thể hiện thông qua các từ để hỏi như: à, ư, này, chưa, khơng,
có khơng, khi nào, ở đâu, vì sao …và có dấu chấm hỏi cuối câu. Khi đọc cần
phải cao giọng ở cuối câu.
Câu khiến:
Chức năng chính: để yêu cầu, đề nghị, ra lệnh… ai đó làm gì.
Có các từ cầu khiến: hãy, đừng, chớ, đi, thôi, nào… cuối câu có dấu chấm hoặc
dấu chấm than hoặc câu có ngữ điệu cầu khiến.
Ví dụ: Bạn hãy giữ gìn sức khỏe. Chúng ta vào lớp đi.
Câu cảm:
Chức năng chính: để bộc lộ cảm xúc.
Ví dụ: Chao ơi! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao!
Dấu hiệu nhận biết: có các từ cảm thán như trời ơi, than ôi, ôi, thương
thay. … cuối câu có dấu chấm than và ngữ điệu cảm xúc khi bộc lộ.
Câu kể:
Đây là kiểu câu phổ biến nhất trong giao tiếp. Nó có chức năng chính là
kể, tả, thơng báo, giới thiệu…Bên cạnh đó, nó cũng thể hiện một số chức năng
khác như yêu cầu, đề nghị, bộc lộ cảm xúc… Kết thúc câu là dấu chấm câu.
Ví dụ: Ngày hơm qua, tơi được cơ giáo khen.
- Luyện tập cho học sinh qua các cách liên kết câu để tạo thành đoạn văn, bài
văn hoàn chỉnh: Liên kết trong một văn bản là sự nối kết ý nghĩa giữa câu với
câu, giữa đoạn văn với đoạn văn bằng các từ ngữ có tác dụng liên kết. Câu văn
là một bộ phận của đoạn văn. Trong một đoạn văn, các câu văn phải liên kết chặt
chẽ với nhau cả về nội dung và hình thức.
a.Về nội dung:
- Các câu phải phục vụ chủ đề chung của đoạn văn.
12



VD: “Bố Hoa là bác sĩ. Đồ ăn ở cửa hàng này rất ngon. Sân trường rất nhiều lá”.
Chuỗi câu này khơng tạo thành đoạn văn vì mỗi câu nói về một chủ đề riêng.
- Các câu phải sắp xếp theo trật tự hợp lí.
VD: “Bố Hoa là bộ đội. Người Hùng gặp đầu tiên là bố Hoa. Hùng tìm đến nhà
Hoa. Bác là người vui tính và tốt bụng”.
Chuỗi câu này cũng khơng tạo thành đoạn văn vì trật tự sắp xếp khơng hợp lí.
b. Về hình thức: Ngồi sự liên kết về nội dung, giữa các câu trong đoạn phải
được liên kết bằng những dấu hiệu hình thức nhất định.
Về hình thức, người ta thường liên kết câu bằng các phép liên kết như phép lặp
(lặp từ ngữ), phép thế (thay thế từ ngữ), phép nối (dùng từ ngữ để nối),…
Trong q trình dạy học tơi cũng ln tổ chức và tạo cơ hội cho học sinh
thực hành kĩ năng giao tiếp. Đây là một hoạt động vừa học vừa chơi, kích thích
được sự năng động và ham tìm tịi ở từng học sinh trong một tập thể để xây
dựng một kết quả học tập. Kết quả cho thấy học sinh rất tích cực, hăng say phát
biểu xây dựng bài và có được kĩ năng trình bày, phát huy được vốn từ ngữ và
biết vận dụng nó vào trong giao tiếp một cách hiệu quả.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Nhờ áp dụng các biện pháp hợp lý, phù hợp với đặc điểm tình hình của
lớp, trường và của địa phương nên chất lượng giáo dục phân môn Luyện từ và
câu của lớp 5A4 (khu D) trong năm học này không ngừng được nâng cao. Tôi
xin thống kê kết quả thu được qua lần khảo sát giữa học kì II như sau:
Tổng số
20 em

Hoàn thành tốt
8/20 em = 40%

Hoàn thành
10/20 em=50%


Chưa hoàn thành Ghi chú
2/20 em = 10 %

Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng các biện pháp đó nghiên cứu vào
thực tiễn giảng dạy cho thấy: kết quả dạy và học có chuyển biến rõ rệt. Bước
đầu đó đem lại hiệu quả đáng mừng, cải thiện được phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học, học sinh thật sự là trung tâm trong quá trình dạy học, các em đã
có động cơ thích thú khi học Luyện từ và câu, tự mình tìm tịi học hỏi, đã có một
thái độ học tập chăm chỉ. Với q trình thực hiện như thế các em đã tự tin hơn
trong học tập. Ngoài ra, các em đã hiểu bài ngay tại lớp, nắm được bài một cách
chắc chắn các kiến thức cơ bản và vận dụng trong giao tiếp hàng ngày hiệu quả
hơn.
Giá trị khoa học: Đề tài được áp dụng cho công tác giảng dạy ở học nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục tồn diện học
sinh. Vì vậy mỗi giáo viên cần đổi mới, tạo ra những hình thức và phương pháp
dạy học mới cho các tiết học Luyện từ và câu và các tiết học khác …..Cố gắng
thu hút các em vào các hoạt động học tập, có ý thức tự giác, thật sự ham mê học
tập, tự tin, mạnh dạn trước đông người. Học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh và
chắc chắn đem lại một chất lượng dạy học mới. Trong môi trường dạy học lấy
học sinh làm trung tâm, năng lực của giáo viên sẽ được nhân lên nhiều lần. Song
trong mơi trường đó cũng địi hỏi giáo viên phải cố gắng nổ lực, phải có những
kiến thức và kỹ năng mới, phải tự học, tự nghiên cứu nhiều tài liệu bổ sung kiến
thức, hiểu biết cho mình.
13


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Lớp 5 là lớp cuối cấp của bậc Tiểu học. Vì vậy các em cần có kiến thức
vững chắc về kiến thức Tiếng Việt để có thể học tốt ở trung học cơ sở. Tôi đã

nghiên cứu và vận dụng một số phương pháp và hình thức dạy học tạo khơng
khí sơi nổi trong giờ học một cách hiệu quả,, có một hệ thống các bài tập giúp
học sinh thực hành để củng cố kiến thức, mở rộng vốn từ cho các em. Đặc biệt
luôn phải lấy học sinh làm trung tâm, khuyến khích các em tìm tịi và tự rút ra
những kết luận cho mình. Có như vậy, các em mới nhớ kỹ, nhớ lâu những kiến
thức mới khám phá. Đặc biệt, tôi rất chú ý thời điểm và thời lượng đưa ra các
dạng bài tập phù hợp cho các em luyện tập. Đồng thời sử dụng linh hoạt các
phương pháp và hình thức tạo khơng khí cho giờ học.
Qua việc thực hiện nội dung nghiên cứu trên, cho chúng ta thấy được việc
phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 5 trong phân môn
Luyện từ và câu đó là một việc địi hỏi người giáo viên chủ nhiệm cần phải sáng
tạo và linh hoạt trong các tiết dạy. Để có được kết quả trên, người giáo viên đó
biết áp dụng nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt và khéo léo. Như
chúng ta đó biết, khơng có phương pháp dạy học nào là vạn năng. Vì vậy, trong
dạy học, mỗi giáo viên phải linh hoạt phối hợp các phương pháp dạy học và các
hình thức tổ chức sao cho nhịp nhàng, lô-gic để tiết dạy theo phong phú, tự
nhiên, sinh động và đem lại hiệu quả và niềm vui cho các em trong học tập.
Dạy học Luyện từ và câu theo phương pháp tích hợp các phân môn trong
môn Tiếng Việt; Biết kết hợp mối quan hệ chặt chẽ về yêu cầu kiến thức phân
môn Luyện từ và câu của các khối lớp. Tạo điều kiện cho các em được thực
hành, được trải nghiệm thông qua bài học để đạt mục tiêu giáo dục hiện nay.
Trong giảng dạy giáo viên có đầu tư nghiên cứu sâu, có ý thức tự học tự
rèn luyện; tham khảo các tài liệu, tạp chí, văn bản có liên quan đến chun mơn
và các dạng bài khó. Giáo viên dành thời gian bồi dưỡng và phụ đạo cho học
sinh mơn Tiếng Việt, động viên, khuyến khích học sinh tự học, tự tìm tịi; tận
tâm sửa chữa sai sót cho học sinh, hướng dẫn học sinh ghi chép vào sổ tay.
Tạo cho học sinh có thói quen đọc sách báo, truyện phù hợp lứa tuổi, tập
ghi chép sổ tay những từ ngữ, câu văn hay các em đọc được. Tạo cơ hội cho học
sinh tự tin, mạnh dạn phát biểu trong các hoạt động học tập, có kĩ năng trong
giao tiếp ứng xử.

Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy phân
môn Luyện từ và câu. Giúp giáo viên nâng cao chất lượng học sinh trong lớp
học; giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành
nhiệm vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn. Đây là cơ sở làm nền
tảng cho các em học tốt môn Tiếng Việt ở các lớp trên.
Dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự giác học tập, tự
chiếm lĩnh kiến thức mới. Vận dụng kiến thức cũ để chiếm lĩnh kiến thức mới.
Với sự gần gũi nhiệt tình của giáo viên, học sinh sẽ yêu trường, yêu lớp, hăng
say học tập. Từ đó chất lượng dạy và học được nâng cao góp phần xây dựng một
nền giáo dục thân thiện và hiệu quả.
14


Trên đây là những biện pháp giúp học sinh học tốt phân mơn Luyện từ và
câu có thể áp dụng rộng rãi ở các lớp đó là những yếu tố không thể thiếu được
để nâng cao chất lượng dạy học.
3.2. Kiến nghị
Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học mơn
Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu,
vận dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh.
Đối với Tổ chun mơn của nhà trường cần có các buổi sinh hoạt chun
mơn có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Trên đây là một số kinh nghiệm dạy học mà tôi đã thử nghiệm thành công
tại đơn vị để góp phần nâng cao chất lượng dạy- học phân môn Luyện từ và câu
lớp 5. Rất mong ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp để tơi tiếp tục hoàn thiện
bản thân và giảng dạy tốt hơn nữa trong những năm tiếp theo. Xin chân thành
cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Cán Khê, ngày 8 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN

Lưu Thị Nga

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiếng Việt lớp 5 tập 1, 2
2. Sách GV Tiếng Việt lớp 5 tập 1, 2
3. Bồi dưỡng Văn- Tiếng Việt lớp 5. Tác giả: Nguyễn Thị Kim Dung
4. Em giỏi Tiếng Việt. Tác giả: Lê Thị Nguyên- Trần Đức Niềm

16


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGHÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
STT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh

giá xếp
loại

Kết quả Năm học đánh
đánh giá giá xếp loại
xếp loại

1

Kinh nghiệm dạy văn
miêu tả lớp 4

Cấp huyện

C

2014- 2015

2

Một số kinh nghiệm trong
công tác chủ nhiệm lớp 1

Cấp huyện

C

2016 - 2017

Cấp huyện


B

2018 - 2019

3

Một số kinh nghiệm giúp
học sinh tích cực học phân
mơn tập làm văn lớp 3.

17



×