Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

thuế giá trị gia tăng ở việt nam - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.74 KB, 133 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Công cuộc đổi mới ở nước ta nhằm xây dựng một nền kinh tế hoạt
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, sau hơn 15 năm thực hiện đã thu được nhiều thành quả tốt đẹp.
Nền kinh tế Việt Nam đã phát triển tương đối ổn định và dần chuyển sang
một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế. Trong cơ chế mới này, thuế được nhìn nhận là một
công cụ hữu hiệu của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Thuế vừa đáp ứng
nguồn thu cho ngân sách, vừa thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, khuyến
khích đầu tư đồng thời góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Thuế doanh thu được áp dụng ở Việt Nam từ ngày 01 tháng 10 năm
1990 nhằm thay thế chế độ thu quốc doanh đối với kinh tế quốc doanh và một
số loại thuế trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Thuế doanh thu được áp
dụng rộng rãi với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ thuộc mọi
ngành nghề, mọi hình thức, hoạt động thường xuyên hay không thường
xuyên, có địa điểm cố định hay lưu động. Việc tính thuế đơn giản, thuận lợi
cho công tác thu và quản lý thuế, do đó thuế doanh thu đã trở thành nguồn thu
tương đối tập trung, ổn định của NSNN. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện,
thuế doanh thu đã bộc lộ một số nhược điểm trong đó việc có quá nhiều mức
thuế suất đã hạn chế tính trung lập của thuế. Đặc biệt việc thuế tính trên toàn
bộ doanh thu qua từng khâu lưu chuyển hàng hoá, từ sản xuất, bán buôn, đến
bán lẻ đã ảnh hưởng không tốt đến giá cả và sản xuất kinh doanh. Cùng một
mặt hàng nếu được tổ chức sản xuất và lưu thông qua ít khâu thì tổng số thuế
sẽ phải nộp ít hơn so với việc được tổ chức qua nhiều khâu. Điều này là
không phù hợp với cơ chế thị trường và nền kinh tế chuyên môn hoá cao.
1
Trước những đòi hỏi của thực tiễn, nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ
đổi mới kinh tế - xã hội, hệ thống thuế đã được cải tiến một cách đồng bộ
nhằm đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế, phù hợp với sự vận động
và phát triển của kinh tế thị trường. Một trong những sự kiện quan trọng của


công cuộc cải cách thuế là việc xây dựng và ban hành luật thuế GTGT thay
cho luật thuế doanh thu.
Luật thuế GTGT được Quốc hội khoá 9 thông qua tại kỳ họp lần thứ
11 (02/4/1997 - 10/05/1997) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999.
Trong thời gian qua, sắc thuế này đã có những tác động tích cực đến nhiều
mặt của nền kinh tế như: đảm bảo nguồn thu cho NSNN, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư nước ngoài, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế v.v Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chính sách thuế
GTGT ở Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều nhược điểm và tỏ ra chưa thật phù
hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay. Vấn đề này cần được nghiên cứu
một cách toàn diện và sâu sắc nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc thực thi
luật thuế GTGT. Do đó đề tài “Thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam - thực
trạng và giải pháp” có ý nghĩa thiết thực, mang tính thời sự cấp bách cả về lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu:
Thuế GTGT được triển khai thay thế thuế doanh thu là điểm mốc đánh
dấu bước ngoặt mới trong quá trình cải cách thuế giai đoạn II ở Việt Nam.
Từ đó đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thuế GTGT dưới góc độ
Tài chính - Tiền tệ, Luật… Nhiều bài viết về các kỹ thuật nghiệp vụ phát sinh
trong quá trình thực hiện như vấn đề hoàn thuế, thuế suất, tính thuế đối từng
loại mặt hàng, áp dụng thuế đối với các ngành nghề cụ thể như: Pháp luật thuế
GTGT ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn (PGS-TS Trần Đình
Hảo, TS. Nguyễn Thị Thương Huyền, Trường Đại học Tài chính-Kế toán),
2
Bàn về thuế GTGT đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu (Th.s Nguyễn
Việt Cường, Học viện Tài Chính), Thuế GTGT và việc mua sắm TSCĐ
(Nguyễn Cẩm Chi), Hoàn thuế GTGT - Những bất cập và hướng hoàn thiện
(Th.s Nguyễn Minh Hằng), Thuế GTGT với ngành nông nghiệp (Thu Trang)
… Tuy nhiên việc xem xét vấn đề này một cách tổng thể, dưới góc độ kinh tế
chính trị chưa được quan tâm nhiều. Chính vì vậy việc tiếp cận, nghiên cứu

một cách có hệ thống thuế GTGT là điều rất cần thiết, có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu: Phân tích những vấn đề đặt ra trong quá trình
thực thi luật thuế GTGT, để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện
chính sách thuế GTGT của Việt Nam
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận văn tập trung nghiên cứu một số lý luận cơ bản về thuế nói
chung và thuế GTGT nói riêng.
- Hệ thống hoá và phân tích những kinh nghiệm áp dụng thuế GTGT
của một số nước trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện, những ưu điểm và hạn chế
của Luật thuế GTGT ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý thuế GTGT ở Việt Nam
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chính sách thuế GTGT ở Việt
Nam với tư cách là sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế của nền kinh tế
thị trường.
3
Phạm vi nghiên cứu đề tài là thời gian từ khi Luật thuế GTGT được ban
hành (1997) đến cuối năm 2002.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
nghiên
cứu, khái quát các nội dung về lý luận và thực tiễn. Sử dụng các phương pháp
đối chiếu, so sánh, phân tích từ những vấn đề cụ thể, tổng kết rút ra kết luận
để đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm góp phần thiết thực
vào việc hoàn thiện Luật thuế GTGT và nâng cao hiệu quả của quá trình thực
thi thuế GTGT ở nước ta trong tiến trình hoà nhập với kinh tế khu vực và thế

giới.
6. Những đóng góp mới của luận văn.
- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về thuế nói
chung và thuế GTGT nói riêng để làm cơ sở cho việc hoàn thiện thuế GTGT
ở Việt Nam.
- Giới thiệu và phân tích quá trình thực hiện thuế GTGT của một số
nước tiêu biểu nhằm rút ra một số bài học kinh nghiệm cho nước ta trong việc
tạo lập môi trường, xây dựng Luật thuế và các vấn đề khác hỗ trợ cho quá
trình thực thi thuế GTGT.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam, từ đó
đề xuất một số quan điểm cơ bản để hoàn thiện Luật thuế GTGT cũng như
các điều kiện cần thiết khác liên quan để nâng cao hiệu quả của cơ chế thực
thi và quản lý thuế GTGT trong thời gian tới, đáp ứng được mục tiêu của
công cuộc cải cải thuế và tương thích với hệ thống thuế khu vực nhằm tiến tới
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
4
7. Bố cục của luận văn.
Đề tài “Thuế GTGT ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” ngoài phần
mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1:Một số vấn đề chung về thuế GTGT trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Tình hình thực hiện thuế GTGT ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện thuế GTGT ở Việt Nam.
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Nguồn gốc, đặc điểm và phân loại thuế:
- Nguồn gốc của thuế:
Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với Nhà nước. Khi Nhà nước

xuất hiện, để thực hiện các chức năng của mình như: củng cố bộ máy chính
quyền, đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, tổ chức quản lý và
phát triển kinh tế…, Nhà nước phải có ngân sách để chi tiêu. Nhà nước ban
hành những qui định pháp luật cần thiết làm công cụ để phân phối tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thành quỹ tiền tệ tập trung của mình. Đồng
thời sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu tạo ra khả
năng và nguồn thu thuế khoá của Nhà nước. Như vậy, thuế được hình thành
và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Sự phát triển của
nền sản xuất xã hội, trước hết là của các quan hệ hàng hoá, tiền tệ và sự gia
tăng mạnh mẽ của quyền lực Nhà nước đã làm nảy sinh những biến đổi mới
5
về thuế. Ban đầu thuế được động viên dưới dạng chủ yếu là hiện vật, sau đó
các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị được hình thành và ngày càng phát
triển một cách có hệ thống. Với những tiến bộ của lịch sử, chỉ riêng thuế
không đủ đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu cần thiết, Nhà nước còn phát hành
công trái, thu phí, lệ phí… nhưng dù sao việc thu thuế vẫn là phương thức chủ
yếu để Nhà nước tài trợ cho những chi tiêu của mình. Thuế và hệ thống thuế
là sản phẩm chủ quan của mỗi Nhà nước. Nó được xây dựng thành một hệ
thống thuế gồm nhiều sắc thuế phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng nước,
trong từng giai đoạn lịch sử. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, một hệ
thống thuế được coi là lý tưởng phải đảm bảo 5 tiêu chuẩn sau:
Tính hiệu quả kinh tế: Xét về phương diện kinh tế, việc đánh thuế của
Nhà nước dù bất kỳ dưới hình thức nào cũng đều có tác dụng phân bổ lại
nguồn lực của xã hội. Khi đánh thuế, Nhà nước chắc chắn sẽ tác động đến lợi
ích, đến nguồn tài chính của các bên liên quan, do đó sẽ làm thay đổi hành vi,
thay đổi cách thức sử dụng các nguồn lực tài chính của họ. Có thuế, hệ thống
giá cả sẽ thay đổi, người tiêu dùng sẽ có xu hướng chuyển sang sử dụng nhiều
hơn những hàng hoá rẻ hơn một cách tương đối và hạn chế tiêu dùng những
hàng hoá trở nên đắt hơn một cách tương đối do thuế. Khi một dạng thu nhập
bị đánh thuế, chi phí cơ hội tương đối của việc tạo ra các nguồn thu nhập sẽ

thay đổi. Người ta có xu hướng nghỉ ngơi nhiều hơn hoặc thay đổi hình thức
kiếm thu nhập khác ít tốn kém hơn. Những điều chỉnh như vậy không những
sẽ dẫn đến sự thay đổi về sự phân bổ nguồn lực mà còn gây ra những tổn thất
hiệu quả nhất định đến nền kinh tế, người sản xuất và người tiêu dùng phải
chịu thêm gánh nặng ngoài lượng thuế mà nộp cho Nhà nước.
Tổn thất hiệu quả do thuế phụ thuộc vào hai yếu tố:
- Thuế suất càng cao thì tổn thất hiệu quả càng lớn.
6
- Cung và cầu hàng hoá trên thị trường càng co giãn mạnh thì tổn thất
hiệu quả càng lớn.
Hệ thống thuế hiệu quả là hệ thống thuế ít tạo ra những sai lệch nhất
làm ảnh hưởng đến sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của thị trường, hay
nói cách khác đó là hệ thống thuế giảm thiểu đến mức thấp nhất tổn thất hiệu
quả do thuế gây ra.
Tính đơn giản về mặt hành chính: Khi thu thuế bao giờ cũng phát sinh
chi phí, gồm chi phí trực tiếp quản lý của cơ quan thuế và chi phí gián tiếp do
người nộp thuế phải gánh chịu. Những thủ tục hành chính liên quan đến quá
trình quản lý thuế càng đơn giản, chi phí quản lý và thực thi thuế càng ít tốn
kém thì hiệu quả của việc thu thuế càng cao. Điều đó chứng tỏ rằng để thu
được một lượng thuế nhất định, chi phí hành chính liên quan càng ít càng tốt.
Tính linh hoạt: Hệ thống thuế phải đảm bảo tính ổn định nhưng không
cứng nhắc. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các hoạt động kinh tế luôn
luôn biến động không ngừng. Hệ thống thuế muốn đáp ứng được những đòi
hỏi của nền kinh tế thì phải có khả năng điều chỉnh linh hoạt, thích ứng với
những thay đổi của nền kinh tế.
Tính trách nhiệm về mặt chính trị: Hệ thống thuế phải đảm bảo sự
minh bạch rõ ràng để mọi người có thể chủ động dự kiến được mức thuế mà
mình phải nộp khi tham gia vào 1 hoạt động kinh tế nào đó cũng như Nhà
nước có thể chủ động thực hiện quyền thu thuế và tính toán mức chi tiêu ngân
sách một cách hợp lý.

Tính công bằng: Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong tiến
trình phát triển của nhân loại cũng như trong tiến trình phát triển của thuế
khoá nói riêng. Tính công bằng trong thuế trước hết ở việc phân chia gánh
nặng thuế. Bởi có công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế mới tạo ra
được động lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như giữ vững được
7
ổn định xã hội. Hệ thống thuế phải đảm bảo sự công bằng cả theo chiều ngang
lẫn chiều dọc trong cách đối xử với những người nộp thuế; tức là các cá nhân
có khả năng nộp thuế như nhau phải được đối xử về thuế giống nhau, những
người có khả năng nộp thuế cao hơn phải chịu gánh nặng thuế nhiều hơn và
ngược lại.
Hệ thống thuế được coi là phù hợp không thể đánh giá qua số lượng sắc
thuế ít hay nhiều hoặc chỉ nhìn vào mục tiêu đơn thuần về tăng thu cho NSNN
mà phải được phân tích một cách cụ thể, khách quan, khoa học, toàn diện về
mối quan hệ giữa số thu cho ngân sách với yêu cầu phát triển kinh tế và đời
sống xã hội, không đối lập với quyền lợi và khả năng đóng góp của nhân dân.
Các nguyên tắc trong việc thiết kế một sắc thuế:
Nguyên tắc 1: Giảm tối đa chi phí hành chính thuế. Muốn vậy, việc
thiết kế các sắc thuế phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu.
Nguyên tắc 2: Giảm tối đa những méo mó kinh tế do thuế gây ra. Thuế
không gây méo mó trong trường hợp người nộp thuế không thể thay đổi được
nghĩa vụ nộp thuế của mình, do đó sắc thuế được thiết kế sao cho khả năng
tránh thuế là thấp nhất. Lý thuyết thuế hiện đại cho rằng sắc thuế có thuế suất
đều và thống nhất sẽ triệt tiêu việc dịch chuyển gánh nặng thuế, làm giảm
hiện tượng tránh thuế.
Nguyên tắc 3: Đảm bảo sự phân phối qua thuế một cách công bằng
song ít ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế. Một trong những nguyên tắc công
bằng trong thuế là người có thu nhập cao thì phải đóng thuế cho Nhà nước
nhiều hơn. Trong thực tiễn việc tuân thủ các yêu cầu công bằng trong thuế
cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến các hành vi của người nộp thuế. Tuỳ theo

từng loại thuế mà xuất hiện những khả năng lựa chọn của người nộp thuế: lựa
chọn giữa lao động và nghỉ ngơi, lựa chọn giữa tiêu dùng và tiết kiệm hay đầu
8
tư, lựa chọn tiêu dùng giữa các loại hàng hoá, đầu tư giữa các lĩnh vực… Mỗi
sự lựa chọn đều có ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực trong xã hội. Xét ở
tầm vĩ mô, sự lựa chọn đó có thể đưa đến việc sử dụng nguồn lực một cách có
hiệu quả hay cũng có thể là rất lãng phí. Vì vậy, để vừa đảm bảo thực hiện
chức năng tái phân phối đồng thời đảm bảo yêu cầu thúc đẩy sử dụng nguồn
lực có hiệu quả, sắc thuế phải được thiết kế sao cho giảm tối đa sự lựa chọn
của người nộp thuế theo hướng sử dụng nguồn lực không có hiệu quả.
- Đặc điểm của thuế:
Từ trước đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về thuế, nhưng tựu
chung lại, thuế được hiểu theo hai góc độ như sau:
+ Thuế là một khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức (chủ yếu là
các tổ chức kinh tế) và mọi thành viên trong xã hội; khoản thu này mang tính
chất bắt buộc, không hoàn trả trực tiếp, do pháp luật của Nhà nước qui định.
+ Cũng có thể nói cách khác, thuế là một hình thức động viên, phân
phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội thu nhập quốc dân theo pháp luật
của Nhà nước qui định, nhằm đáp ứng những khoản chi tiêu cần thiết của Nhà
nước.
Từ đó, thuế có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, thuế có tính cưỡng chế và tính pháp lý cao, nó phân biệt với
những khoản đóng góp mang tính tự nguyện. Đặc điểm này được thể chế hoá
trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là
nghĩa vụ bắt buộc của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Nghĩa vụ này được
được thực hiện theo các luật thuế cụ thể được cơ quan quyền lực cao nhất của
một quốc gia qui định. Nếu tổ chức kinh tế hoặc cá nhân không thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ này thì tức là đã vi phạm pháp luật.
9
Thứ hai, thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp.

Nhà nước sử dụng khoản tiền thuế này vào các chi tiêu công cộng và người
nộp thuế được hoàn trả lại một phần tiền nộp thông qua việc hưởng thụ các
dịch vụ công cộng như an ninh, quốc phòng, trật tự trị an xã hội, các phúc lợi
công cộng…
- Phân loại thuế:
Thuế được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ theo mục đích
nghiên cứu. Có 2 cách phân loại phổ biến nhất:
Theo tính chất điều tiết, thuế chia thành thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu: Là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế đồng thời là
người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động viên, điều tiết thu nhập của
người nộp thuế (như thuế lợi tức, thuế thu nhập ). Đây là loại thuế có tác
dụng rất lớn trong việc điều hoà thu nhập, giảm bớt sự chênh lệch đáng kể về
mức sống giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội - một khiếm khuyết của cơ
chế thị trường. Và cũng do đó loại thuế này thường bị người nộp thuế tìm mọi
cách để lẩn tránh, gây không ít khó khăn cho Nhà nước trong công tác thu và
quản lý thuế.
Thuế gián thu: Là loại thuế mà người nộp thuế không đồng thời là
người chịu thuế. Thuế này được cấu thành trong giá cả hàng hóa dịch vụ. Nó
điều tiết thu nhập của người tiêu dùng một cách gián tiếp (như thuế doanh
thu, thuế TTĐB, thuế GTGT, thuế xuất nhập khẩu ) nên người chịu thuế ít
có cảm giác mình bị đánh thuế do đó việc thu thuế cũng dễ dàng hơn và Nhà
nước thường ít gặp phản ứng từ phía người nộp thuế mỗi khi có chủ trương
tăng thuế. Loại thuế này đảm bảo nguồn thu thường xuyên và tương đối ổn
định cho NSNN.
10
Cơ cấu giữa thuế trực thu và thuế gián thu ở các nước khác nhau có
điều kiện kinh tế khác nhau cũng rất khác nhau. Các nước có nền kinh tế phát
triển, do sự cảm nhận về tính không khuyến khích tiết kiệm của thuế TNDN
và thuế TNCN nên đã thực hiện việc cắt giảm thuế trực thu và chuyển dần
gánh nặng thuế sang các loại thuế tiêu dùng như thuế GTGT, thuế TTĐB…

Tuy nhiên thuế trực thu vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn và là chỗ dựa chủ yếu của
ngân sách ở các nước này.
Bảng 1: Cơ cấu thu NSNN các nước khu vực OECD 1970 – 1996
1970 1980 1990 1996
Tổng huy động vào NS
100% 100% 100% 100%
Thuế trực thu
44.7% 45.4% 43.9% 41.2%
Thuế gián thu
35.8% 32.4% 33.3% 33.7%
Cộng thuế
80.5% 77.8% 77.2% 74.9%
BHXH
19.5% 22.2% 22.8% 25.1%
(Nguồn: OECD, S.Clark, Flip de Kam, Evolution et struture de la fiscalité dans la zone
OECD, Problèmes Economiques No 2604, 2/1999)
Đối với các nước có nền kinh tế chưa phát triển, thuế gián thu thường
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu bằng thuế của Nhà nước và xu hướng
tăng dần tỷ trọng thuế trực thu đang được các nước này cố gắng thực hiện
nhằm tạo sự công bằng và tăng thu cho ngân sách.
Bảng 2: Tỷ trọng thuế trực thu của một số nước đang phát triển.
1987 - 1989 1990 - 1992 1993 - 1994
Ấn độ 4.58 16.22 18.22
Ma-lai-xia 29.45 32.56 35.53
Hàn quốc 30.71 31.91 39.91
Philipine 23.31 28.22 28.98
Pakistan 9.59 10.92 16.14
Sirilanca 10.73 12.07 17.87
(Nguồn: Vasanthi Monsingh. Tax mix and Stage of Growth. Website)
11

Một cơ cấu hệ thống thuế hợp lý là sự kết hợp chặt chẽ giữa thuế trực
thu và thuế gián thu, ở đó giới hạn luỹ thoái của thuế gián thu bị hạn chế bởi
phạm vi luỹ tiến của thuế trực thu.
Theo cơ sở thuế: Do đối tượng tác động khác nhau nên tác dụng của
các sắc thuế cũng khác nhau. Dựa vào đó thuế được chia thành:
Thuế thu nhập (thuế TNDN, thuế TNCN, thuế lợi tức…) là loại thuế
đánh vào thu nhập của các tổ chức kinh tế và thu nhập của các cá nhân có tác
dụng chủ yếu là điều hoà thu nhập, đảm bảo công bằng trong phân phối.
Thuế tài sản: là loại thuế đánh vào việc nắm giữ hay chuyển nhượng tài
sản như thuế trước bạ, thuế chuyển quyền sử dụng đất
Thuế tiêu dùng (thuế TTĐB, thuế GTGT…) là loại thuế đánh vào việc
tiêu thụ, sử dụng sản phẩm dịch vụ nhằm điều tiết một cách gián tiếp thu nhập
của người tiêu dùng thông qua giá cả HH-DV. Nên tác dụng chủ yếu của nó là
nhằm hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng theo cơ cấu HH-DV.
Ngoài ra thuế còn được phân chia theo tỷ suất thuế bình quân (tỷ suất
thuế bình quân = thuế /thu nhập), theo đó thuế được chia thành:
Thuế tỷ lệ: Là sắc thuế mà tỷ suất thuế bình quân không thay đổi khi
thu nhập thay đổi.
Thuế luỹ tiến: Là sắc thuế mà trong đó tỷ suất thuế bình quân tăng
cùng với sự tăng lên của thu nhập. Nhà nước thu của người giàu theo tỷ lệ cao
hơn của người nghèo.
Thuế luỹ thoái: Tỷ suất thuế bình quân giảm cùng với sự tăng lên của
thu nhập. Người nghèo bị nộp thuế theo tỷ lệ cao hơn người giàu.
Thuế/Thu nhập
Thuế luỹ tiến
12
Thuế tỷ lệ

Thuế luỹ thoái


Thu nhập
1.1.2: Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, thuế là một công cụ tài chính hữu
hiệu để Nhà nước có thể can thiệp vào nền kinh tế nhằm phát huy những thế
mạnh và khắc phục những khiếm khuyết của nó. Thuế trong nền kinh tế thị
trường có 3 vai trò chính:
- Thứ nhất: Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước:
Để có một nền tài chính quốc gia lành mạnh thì các quốc gia phải dựa
chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, do đó thuế từ nội bộ
nền kinh tế phải là một công cụ quan trọng để góp phần tích cực vào yêu cầu
chi tiêu của ngân sách, góp phần làm giảm lạm phát, ổn định trật tự trị an xã
hội. Lịch sử tồn tại và phát triển của thuế ở các nước trên thế giới cho thấy tỷ
trọng thu bằng thuế thường chiếm phần lớn trong tổng thu NSNN, và hiện nay
ở hầu hết các nước sau khi đã thực hiện cải cách thuế, tỷ trọng này thường
chiếm đến 90%. Khả năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông
qua tỷ trọng của GDP được động viên cho NSNN thông qua thuế.
Bảng 3: Tỷ trọng quy mô thu NSNN và GDP bình quân đầu người năm 2000
Nước
Tổng thu
NSNN so với
GDP
GDP bình
quân đầu
người
(USD)
Nước
Tổng thu
NSNN so với
GDP
GDP bình

quân đầu
người (USD)
Châu Á Châu Mỹ - Latinh
13
Singapore 30% 22 849 Achentina 21% 8 281
Hàn Quốc 34% 8 732 Uruguay 24% 5 822
Malaysia 19% 3 472 Mêhicô 20% 4 915
Thái lan 18% 1 860 Vênzuêla 19% 4 844
Philippines 17% 865 Braxin 23% 4 673
Trung Quốc 20% 853 Chilê 24% 4 337
Srilanca 17% 785 Chuyển đổi Đông Âu
Inđônêsia 18% 614 Séc 28% 5 046
ấn Độ 26% 456 Hungari 48% 4 513
Pakistan 18% 398 Ba lan 37% 4 289
Việt Nam 21% 398 Estônia 29% 3 609
Mông Cổ 25% 339 Slôvakia 26% 3 207
Lào 12% 311 Látvia 30% 2 909
Campuchia 13% 249 CHLB Nga 34% 1 724
Nêpan 12% 242 Bungary 40% 1 363
Kyrgixtan 20% 222 Rumani 26% 1 315
Bêlarút 39% 759
Ucraina 28% 486
Mônđôva 31% 355
(Nguồn: International financial statistics yearbook, IMF and ADB, 2001)
Mỗi nước có quan điểm về cách xác định qui mô huy động NS rất khác
nhau: Có những nước có mức GDP bình quân đầu người thấp nhưng lại có
mức huy động NS khá cao như Mônđôva (355 USD và 37%) nhưng lại có
những nước có mức GDP bình quân đầu người cao nhưng có mức huy động
NS khá thấp như Mêhicô (4915 USD và 22%). Các nước châu Á và châu Mỹ-
Latinh nhìn chung có mức huy động NSNN thấp (phần lớn dưới 25%), trong

khi đó tỷ lệ này lại khá cao ở các nước chuyển đổi Đông Âu và một số nước
châu Á phát triển như Hàn Quốc, Singapore, Ấn Độ. Việc xác định tỷ lệ động
viên vào NSNN là bao nhiêu % GDP để vừa đảm bảo nguồn thu cho NSNN
vừa kích thích tăng trưởng kinh tế là một vấn đề đòi hỏi mỗi quốc gia phải
cân nhắc kỹ lưỡng.
14
- Thứ hai: Thuế là công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế:
Thuế là một trong những công cụ tài chính quan trọng được Nhà nước
sử dụng để quản lý và điều tiết nền kinh tế. Thông qua việc ban hành các luật
thuế, tổ chức triển khai, quản lý thu thuế và công tác kiểm tra giám sát, xử lý
việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mọi thành phần kinh tế và công dân trong xã
hội, Nhà nước thực hiện việc điều tiết mọi hoạt động kinh tế của đất nước nói
chung và từng ngành kinh tế nói riêng nhằm khuyến khích hay hạn chế việc
sản xuất, tiêu dùng một loại hàng hoá nào đó hoặc điều chỉnh sự mất cân đối
của nền kinh tế để đạt được các mục tiêu ổn định và tăng trưởng.
- Thứ ba: Thuế góp phần điều hoà và phân phối thu nhập, đảm bảo
công bằng xã hội.
Phân phối thu nhập dựa trên nguyên tắc thị trường chắc chắn tạo ra
khoảng cách chênh lệch (đôi khi là rất lớn) về thu nhập và mức sống của các
tầng lớp dân cư trong xã hội. Điều chỉnh theo hướng thu hẹp sự chênh lệch đó
trên cơ sở phân phối lại thu nhập và theo đuổi một mục tiêu công bằng xã hội
nhất định là một trong những chức năng xã hội quan trọng của Nhà nước.
Thuế là một trong những công cụ để Nhà nước thực hiện mục tiêu ấy. Để đảm
bảo sự bình đẳng của việc đóng góp giữa các thành viên trong xã hội cần phải
có một chính sách thuế công bằng. Đó là mọi thành phần kinh tế có điều kiện
hoạt động và thu nhập như nhau thì đều phải có nghĩa vụ nộp thuế giống
nhau, người có thu nhập cao phải có nghĩa vụ đóng góp cho xã hội nhiều hơn
người có thu nhập thấp. Tuy nhiên việc áp dụng mức thuế phải vừa đảm bảo
tính công bằng vừa khuyến khích người sản xuất kinh doanh một cách hiệu
quả để nâng cao mức thu nhập và tự giác nộp thuế cho Nhà nước. Các sắc

thuế như thuế TTĐB, thuế TNCN có tác dụng rất lớn trong việc điều tiết thu
nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
15
1.1.3: Phạm vi ảnh hưởng của thuế và hiệu quả kinh tế.
- Phạm vi ảnh hưởng của thuế:
Mỗi một sắc thuế đều qui định rõ ai là người có nghĩa vụ nộp thuế - đó
là phạm vi ảnh hưởng luật định của thuế. Tuy nhiên gánh nặng thuế không chỉ
đơn thuần do người sản xuất hoặc người tiêu dùng chịu mà nó được phân chia
cho cả hai bên. Đây là phạm vi ảnh hưởng kinh tế của thuế. Nghiên cứu về
phạm vi ảnh hưởng của thuế là việc phân tích thực chất gánh nặng thuế đã
được phân chia như thế nào giữa các cá nhân trong xã hội.
Giả định Nhà nước
chưa hề đánh một loại
thuế nào vào mặt hàng X.
Cung và cầu mặt hàng này
trên thị trường cân bằng
tại điểm E
0
với sản lượng
là Q
0
và giá cả là P
0
. Khi
Nhà nước đánh thuế mặt
hàng X với thuế suất (t)
cho mỗi đơn vị hàng hoá, thì người sản xuất phải trả một khoản thuế t cho
mỗi đơn vị hàng hoá bán ra. Với các điều kiện khác không đổi, lúc này người
sản xuất sẽ nâng giá bán để đảm bảo mức thu nhập của mình sau khi nộp thuế
không thay đổi. Thể hiện trên đồ thị là đường cung S

0
dịch chuyển lên trên
một khoảng bằng t thành đường S
1
. Khi giá tăng, nhu cầu về mặt hàng đó sẽ
giảm xuống do thu nhập của người tiêu dùng vẫn như cũ. Điểm cân bằng trên
thị trường lúc này sẽ là điểm E
1
với mức giá cân bằng mới P
1
và mức sản
lượng Q
1
. Khi có thuế, người tiêu dùng phải trả mức giá cao hơn nhưng mua
được lượng hàng ít hơn trước khi có thuế. Mức giá mà người sản xuất thu
16
Q (sản lượng)
E
1
E
0
đường cầu (D)
đường cung (S
0
) trước
thuế
đường cung (S
1
) sau thuế
P

(giá)
P
1
P
0
P
2
Q
1
Q
0
K

H

được sau khi nộp thuế là P
1
- t = P
2
cũng thấp hơn mức P
0
trước khi có thuế.
Điều này có nghĩa là gánh nặng thuế ở đây đã được san sẻ cho cả người sản
xuất và người tiêu dùng (trên hình vẽ ta thấy người sản xuất chịu đoạn P
1
P
0

người tiêu dùng chịu đoạn P
0

P
2
).
Tỷ lệ phân chia gánh nặng thuế giữa người sản xuất và người tiêu dùng
phụ thuộc vào độ co giãn của cung và cầu hàng hoá đó. Nếu cầu co giãn nhiều
thì với một độ tăng giá cho trước, lượng cầu sẽ giảm nhiều hơn, hay nói cách
khác, tương ứng với cùng một mức độ giảm xuống của lượng cầu thì giá mà
người tiêu dùng thực sự phải trả sẽ tăng ít hơn, người tiêu dùng chịu thuế ít
hơn. Tương tự, nếu cung càng ít co giãn thì tương ứng với cùng một mức độ
giảm xuống của sản lượng, giá mà người sản xuất thực sự nhận được sẽ giảm
nhiều hơn, người sản xuất sẽ chịu thuế nhiều hơn.
- Thuế và hiệu quả kinh tế:
Thuế là một tác nhân di chuyển nguồn lực từ người chịu thuế sang Nhà
nước, tuy nhiên sự di chuyển này không được trọn vẹn, phần mà Nhà nước
nhận được từ thuế ít hơn phần thuế do các cá nhân trong xã hội đóng góp.
Thất thoát này gọi là tổn thất hiệu quả do thuế gây ra. Tổn thất hiệu quả được
hiểu là phần chi phí tăng thêm đối với xã hội, nảy sinh do sự sai lệch trong
việc phân bổ nguồn lực do tác động của việc đánh thuế gây ra. Nói cách khác,
tổn thất hiệu quả là sự suy giảm phúc lợi của người bị đánh thuế ngoài phần
thuế mà họ phải nộp cho Nhà
nước.
Giả sử một người có
thu nhập cố định chỉ tiêu
dùng hai hàng hoá B và C.
Trên hình vẽ, số lượng hàng
17
Số lượng
h ng hoá Bà
B
2

B
1
B
3
Số lượng
h ng hoá Cà
I
I’
C
1
GM
C
3
C
2
E
1
E
3
N
A
D
E
2
D
1
H
K
hoá B và C được tiêu dùng thể hiện trên trục tung và trục hoành của đồ thị.
AD là đường giới hạn ngân sách của người này khi chưa bị đánh thuế. Lúc

này, phương án tiêu dùng tối ưu được thể hiện tại điểm E
1
là điểm gặp nhau
giữa đường giới hạn ngân sách và đường bàng quan (I) với số lượng hàng hoá
tiêu dùng là B
1
và C
1
. Khi Nhà nước đánh thuế tiêu dùng vào hàng hoá B, do
giá cả hàng hoá B tăng lên, đường giới hạn ngân sách bị thu hẹp lại thành
đường AD
1
, đường bàng quan của người tiêu dùng dịch chuyển thành đường
I’, tại đây xác định phương án tiêu dùng tối ưu mới E
2
với lượng hàng hoá là
B
2
và C
2
. Số thuế mà người tiêu dùng này phải nộp cho Nhà nước là đoạn E
2
G
(khi chưa có thuế, với đường giới hạn ngân sách AD, họ có thể mua được số
lượng B
2
hàng hoá B và C
2
+ E
2

G hàng hoá C).
Ngoài số thuế phải nộp cho Nhà nước, người tiêu dùng còn phải chịu
tổn thất hiệu quả do thuế gây ra. Xác định mức thiệt hại này dựa vào một đại
lượng tương đương, đó là lượng thu nhập bị mất đi của người tiêu dùng để
làm cho đường bàng quan chuyển từ I sang I’ giống như tác động của việc
đánh thuế. Việc lấy đi một phần thu nhập sẽ làm cho đường giới hạn ngân
sách của người tiêu dùng dịch chuyển vào trong song song với đường giới hạn
cũ cho đến khi đường này (đường HK) tiếp xúc với đường bàng quan I’ tại E
3
.
Trên hình vẽ, ta thấy đại lượng tương đương ME
3
lớn hơn số thuế thu được từ
việc đánh thuế hàng hoá B (E
2
G), tức là người tiêu dùng đã bị thiệt hại nhiều
hơn số thuế đã nộp cho Nhà nước. Phần thiệt hại này chính là tổn thất hiệu
quả do thuế đánh vào hàng hoá B gây ra (đoạn NE
2
).
Nguyên nhân của tổn thất hiệu quả là do giá cả tương đối giữa các hàng
hoá có sự thay đổi sau khi bị đánh thuế. Người tiêu dùng đã thay đổi phương
án tiêu dùng của mình sao cho vẫn tối đa hoá được độ thoả dụng trong điều
kiện có thuế. Tuy nhiên cũng vì sự thay đổi này mà mức độ thoả dụng cá nhân
của họ bị suy giảm nhiều hơn mức thuế đã chuyển giao cho Nhà nước. Ta
thấy rằng, nếu đánh thuế tương đối thống nhất sao cho giá cả tương đối giữa
18
các hàng hoá không thay đổi thì đường giới hạn ngân sách sẽ dịch chuyển vào
trong song song với đường ngân sách lúc chưa có thuế, triệt tiêu được tổn thất
hiệu quả.

Từ đây có thể kết luận rằng: đối với những hàng hoá có công dụng thay
thế hoặc bổ trợ nhau thì phương pháp đánh thuế hiệu quả là đơn giản hoá thuế
suất thậm chí chỉ áp dụng một mức thuế suất đồng thời đánh thuế trên diện
rộng và hạn chế tối đa các đối tượng miễn thuế.
1.2: Thuế Giá trị gia tăng:
1.2.1: Lịch sử ra đời và phát triển của thuế Giá trị gia tăng.
Thuế Giá trị gia tăng là thuế gián thu được thu trên phần giá trị tăng
thêm cuả hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng
hoá, được nộp vào NSNN theo mức độ tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ.
Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản
xuất, chế biến, dịch vụ tác động vào nguyên, vật liệu thô làm cho giá trị của
chúng tăng thêm. Cũng có thể hiểu giá trị gia tăng là số chênh lệch giữa “giá
đầu ra” với “giá đầu vào” do doanh nghiệp hay cơ sở kinh doanh tạo ra trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Giá trị gia tăng được biểu diễn bằng đẳng thức
sau:
Giá trị gia tăng = Giá đầu ra – Giá đầu vào
Để phục vụ nhu cầu chi tiêu ngày càng lớn của mình, Nhà nước đã
không ngừng cải tiến, bổ sung các loại thuế. Nhằm đáp ứng yêu cầu chi tiêu
trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất và động viên sự đóng góp rộng rãi của
quần chúng nhân dân, thuế doanh thu được nghiên cứu áp dụng lần đầu tiên ở
Pháp vào năm 1917. Thời kỳ này, thuế doanh thu được thu ở khâu bán lẻ với
thuế suất thấp nên thu được ít và quản lý lại khó khăn. Đến năm 1920, thuế
19
doanh thu được điều chỉnh thu ở từng khâu của quá trình sản xuất nên Nhà
nước vừa thu được thuế kịp thời vừa làm tăng ngân sách. Tuy nhiên, khi quá
trình sản xuất được tổ chức ở nhiều khâu thì thuế doanh thu ở khâu sau đã
tính bao gồm một phần thuế đã thu ở khâu trước đó. Để khắc phục nhược
điểm này, đến năm 1936 Pháp cải tiến đánh thuế doanh thu ở khâu cuối cùng
của quá trình sản xuất trước khi đưa vào lưu thông nhưng lại làm cho công tác
thu thuế không được kịp thời vì chỉ khi nào hàng hoá đi vào lưu thông thì

Nhà nước mới thu được thuế. Để vừa đảm bảo nguồn thu được nhanh chóng
vừa thúc đẩy sản xuất để bồi dưỡng cho nguồn thu giai đoạn sau, thuế đã
được liên tục sửa đổi và ngày càng hoàn thiện. Trên cơ sở đánh thuế doanh
thu một lần trước khi đưa sản phẩm vào lưu thông, năm 1951, Carl Friedrrich
Von Simens đã nghĩ ra một chính sách đánh thuế trên phần giá trị gia tăng của
HH-DV khi qua mỗi công đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng, đó là
thuế GTGT.
Thuế GTGT được nghiên cứu và áp dụng lần đầu tiên ở Pháp vào ngày
01 tháng 7 năm 1954. Lúc đầu nó được áp dụng cho một số ngành cá biệt, sau
đó thuế GTGT được mở rộng áp dụng cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực vào
năm 1963. Năm 1953, người Nhật cũng nghiên cứu và dự thảo bộ luật về thuế
GTGT nhưng mãi đến năm 1988 mới áp dụng. Sự phát triển mạnh mẽ của
kinh tế thị trường và những ưu điểm nổi trội của thuế GTGT đã làm cho nó
dần trở nên phổ biến. Từ năm 1954 đến 1988 có 47 nước áp dụng thuế GTGT,
đến 1991 là 100 nước và đến nay, theo thống kê của IMF, hơn 120 nước đã áp
dụng loại thuế này.
1.2.2: Đặc điểm của thuế GTGT:
- Thuế GTGT là thuế gián thu điển hình:
20
Số tiền mà người tiêu dùng phải trả cho người bán khi mua hàng hoá là
tổng giá bán của hàng hoá và tiền thuế GTGT (điều này được phản ánh rất rõ
ràng trong hoá đơn tài chính). Người tiêu dùng phải trả tiền thuế GTGT mỗi
khi mua hàng, còn người bán là người thu tiền thuế GTGT của người tiêu
dùng “hộ” Nhà nước. Đây là nét điển hình của thuế gián thu.
- Thuế GTGT khắc phục được hiện tượng thuế đánh chồng lên thuế,
vốn là một nhược điểm của thuế doanh thu, phù hợp với nền kinh tế sản xuất
hàng hoá theo cơ chế thị trường.
Thuế doanh thu và thuế GTGT đều là những sắc thuế gián thu, đều
nhằm mục đích chính là động viên một phần thu nhập của đông đảo người
tiêu dùng tạo nên nguồn thu lớn và ổn định cho NSNN. Nhưng trong nền kinh

tế thị trường với sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, mức độ
chuyên môn hoá lao động sản xuất ngày càng cao như hiện nay thì thuế doanh
thu với đối tượng tính thuế là toàn bộ doanh thu không còn phù hợp nữa.
Xưa kia khi phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất
chưa phát triển, từ nguyên liệu thô, qua các công đoạn sản xuất để được sản
phẩm hữu ích đến với người tiêu dùng cuối cùng có thể chỉ do một nhà sản
xuất đảm nhiệm. Lúc đó, người sản xuất phải nộp thuế doanh thu bằng toàn
bộ doanh thu của sản phẩm cuối cùng nhân với thuế suất, ở đó không làm
phát sinh tình trạng thuế đánh chồng lên thuế. Nhưng ngày nay, khi phân công
lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất phát triển thì mỗi công đoạn
trong quá trình sản xuất do các nhà sản xuất khác nhau phụ trách, thậm chí
xen giữa những người sản xuất là những nhà buôn trung gian, thì thuế doanh
thu được tính trên toàn bộ doanh thu của từng người đã bao gồm một phần
thuế doanh thu của những khâu trước đó. Thuế doanh thu mà mỗi nhà sản
xuất phải nộp không phản ánh được phần giá trị mới sáng tạo mà họ đóng góp
cho xã hội.
21
Trong khi đó, thuế GTGT được tính trên phần giá trị tăng thêm của
hàng hoá dịch vụ. Tiền thuế này được tách riêng khỏi giá bán để khấu trừ khi
tính thuế GTGT phải nộp cho giai đoạn sau. Do đó tổng số thuế GTGT thu
đối với từng sản phẩm không phụ thuộc vào sự tổ chức phân chia các chu
trình kinh tế. Dù các công đoạn sản xuất kinh doanh được chuyên môn hoá
cao, tập trung ở một doanh nghiệp hay phân chia cho nhiều doanh nghiệp,
tổng số thuế GTGT thu được vẫn bằng nhau. Điều này khắc phục được hiện
tượng tính trùng thuế của thuế doanh thu.
Ví dụ: Để mặt hàng đồ gỗ đến tay người tiêu dùng, quá trình sản xuất
kinh doanh này phải trải qua các giai đoạn: doanh nghiệp A khai thác gỗ trên
rừng bán nguyên liệu gỗ cho doanh nghiệp chế biến gỗ B. Doanh nghiệp C
mua nguyên liệu gỗ đã chế biến từ doanh nghiệp B về để sản xuất ra các mặt
hàng đỗ gỗ và bán buôn các sản phẩm gỗ của mình cho doanh nghiệp D.

Doanh nghiệp D là người bán các mặt hàng đồ gỗ cho người tiêu dùng cuối
cùng. Chu trình kinh tế này được biểu diễn như sau:
Bảng 4: Biểu diễn chu trình kinh tế 4 giai đoạn
(đơn vị: nghìn đồng, thuế suất thuế GTGT = 10%)
Giá mua chưa có
thuế
Thuế đầu vào GTGT
Giá bán chưa
có thuế
Thuế đầu ra
Thuế phải
nộp NSNN
1 2 = 1x10% 3 4 = 1 + 3 5 = 4 x 10% 6 = 5 - 2
DN A: Khai thác gỗ
10.000 10.000 1.000 1.000
DN B: Chế biến gỗ
10.000 1.000 4.000 14.000 1.400 400
DN C: Bán buôn đồ gỗ
14.000 1.400 6.000 20.000 2.000 600
DN D: Bán lẻ đồ gỗ
20.000 2.000 8.000 28.000 2.800 800
Cộng 4.400 28.000 7.200 2.800
Ta thấy rằng, người mua hàng cuối cùng khi mua hàng hoá về phải
thanh toán số tiền bằng giá chưa có thuế cộng với thuế GTGT tính trên giá
bán chưa có thuế đó (28.000 + 28.000 x10% = 30.800). Tổng số thuế GTGT
phát sinh trong suốt chu trình này là 2.800 (cộng cột 6) cũng bằng đúng số
22
tiền thuế GTGT người tiêu dùng cuối cùng phải trả: 28.000 x 10% = 2.800 và
cũng bằng chênh lệch giữa tổng số thuế GTGT thu được khi bán hàng qua các
khâu (7.200) trừ đi số thuế GTGT đã trả khi mua hàng (thuế được khấu trừ

4.400).
Ta tìm hiểu một chu trình kinh tế ngắn hơn đó là: doanh nghiệp A là
đơn vị sản xuất các mặt hàng đồ gỗ, họ vừa khai thác gỗ, chế biến, và sản xuất
ra các sản phẩm gỗ. Doanh nghiệp B mua các sản phẩm gỗ của doanh nghiệp
A và bán ra thị trường cho người tiêu dùng cuối cùng.
Bảng 5: Biểu diễn chu trình kinh tế 2 giai đoạn
(đơn vị: nghìn đồng, thuế suất thuế GTGT = 10%)
Giá mua
chưa có thuế
Thuế đầu vào GTGT
Giá bán chưa
có thuế
Thuế đầu ra
Thuế phải
nộp NSNN
1 2 = 1x10% 3 4 = 1 + 3 5 = 4 x 10% 6 = 5 - 2
DN A: Khai thác chế biến gỗ
10.000 10.000 1.000 1.000
DN B: Bán lẻ đồ gỗ
10.000 1.000 18.000 28.000 2.800 1.800
1.000 28.000 3.800 2.800
Ở chu trình này, Tổng số thuế GTGT phải nộp cũng không đổi (2.800).
Xét trong tổng thể nền kinh tế, thuế GTGT được tính ở khâu tiêu dùng
cuối cùng. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chỉ là khâu trung gian, thu
thuế hộ Nhà nước rồi nộp vào ngân sách mà thôi, đây là ưu điểm của thuế
GTGT nhờ phương pháp khấu trừ của nó. Chính vì thế mà thuế GTGT khắc
phục được nhược điểm “thuế đánh trùng lên thuế” của thuế doanh thu, tạo
nên mặt bằng cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp cùng hạng với
nhau, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực tổ chức lại bộ máy quản lý và
dây chuyền công nghệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.

- Áp dụng thuế GTGT sẽ khuyến khích việc sử dụng hoá đơn chứng từ:
23
Các nước có nền kinh tế chưa phát triển thường không có thói quen sử
dụng hoá đơn chứng từ trong các giao dịch kinh tế thông thường. Việc ghi
chép sổ sách kế toán tuỳ tiện gây khó khăn cho công tác thu thuế và quản lý
kinh tế của Nhà nước. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Việc áp dụng thuế
GTGT sẽ khuyến khích và dần đưa việc sử dụng hoá đơn chứng từ trong giao
dịch kinh tế thành điều bắt buộc và dần trở thành một thói quen cho mọi
người. Hoá đơn bán hàng là chứng từ ban đầu làm cơ sở để tính thuế GTGT
đầu vào, đầu ra khi kê khai nộp thuế. Nếu không thực hiện đầy đủ việc lập
hoá đơn chứng từ khi mua bán hàng hoá thì sẽ không có chứng từ làm cơ sở
kê khai nộp thuế, khấu trừ thuế và hoàn thuế. Do vậy, sắc thuế này cũng tạo
điều kiện để Nhà nước quản lý tốt hơn nền kinh tế.
1.2.3: Các phương pháp tính thuế GTGT:
Phương pháp tính thuế GTGT là cách tính thuế GTGT phải nộp đối với
các đối tượng nộp thuế. Xét trên góc độ lý thuyết, có hai phương pháp tính
thuế GTGT như sau (Trong các công thức: t là thuế suất thuế GTGT).
- Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT: thuế GTGT được tính
dựa trên cơ sở tính giá trị tăng thêm là chênh lệch giữa giá đầu ra (chưa tính
thuế) và giá đầu vào (chưa tính thuế).
Thuế GTGT phải nộp = t x GTGT
Trong đó: GTGT = Giá HH-DV đầu ra (chưa có thuế) - Giá HH-DV đầu vào (chưa có
thuế)
Phương pháp này tuy đơn giản nhưng khi nhìn vào tài khoản kế toán
người ta rất khó phân biệt doanh thu bán hàng cũng như giá vốn của từng loại
sản phẩm có thuế suất riêng biệt khác nhau.
24
- Phương pháp trừ gián tiếp hay còn gọi là phương pháp hoá đơn hoặc
phương pháp khấu trừ: thuế GTGT được xác định trên cơ sở lấy thuế tính
trên giá đầu ra trừ đi thuế tính trên giá đầu vào:

Thuế GTGT phải nộp = ( t x giá đầu ra) – ( t x giá đầu vào)
= thuế GTGT đầu ra – thuế GTGT đầu vào
Nếu hiệu số này là số dương thì đó là số thuế GTGT mà doanh nghiệp
phải nộp, còn nếu là số âm thì đó là số thuế GTGT doanh nghiệp được hoàn
lại, còn hiệu số này bằng 0 tức là doanh nghiệp không phải nộp thuế.
Phương pháp này dựa vào hoá đơn chứng từ (bằng chứng của một
nghiệp vụ kinh doanh, gắn nghĩa vụ nộp thuế với nghiệp vụ kinh doanh của
doanh nghiệp), nên có ưu điểm trội hơn hẳn những phương pháp khác về mặt
kỹ thuật và pháp luật. Điểm nổi bật của cách tính này là không cần phải xác
định GTGT nhưng vẫn đánh thuế đủ và đúng đối với mọi đối tượng chịu thuế
tương đương. Vào khâu cuối cùng của chu trình kinh tế, số thuế GTGT mà
người tiêu dùng cuối cùng thực sự phải chịu đúng bằng thuế suất nhân với giá
bán lẻ chưa có thuế GTGT. Số thuế này đúng bằng tổng số thuế GTGT do các
đối tượng khác nhau “nộp” và “khấu trừ luân phiên” trong quá trình luân
chuyển của sản phẩm hàng hoá đó.
1.2.4: Những điều kiện cần thiết để áp dụng thuế GTGT.
Đây là những tiền đề cơ bản, là môi trường cần thiết để sắc thuế này có
thể phát huy tác dụng:
- Nền kinh tế phát triển ổn định và Nhà nước thực sự quản lý được nền
kinh tế: Thuế GTGT là sắc thuế của nền kinh tế phát triển ổn định, ở đó
không có những biến động lớn về giá cả hàng hoá. Giá cả của hàng hoá ở
khâu sau thường cao hơn khâu trước, phản ánh đúng giá trị gia tăng của hàng
hoá qua mỗi công đoạn sản xuất. Khi đó thuế đầu ra thường lớn hơn thuế đầu
25

×