Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp
Trần Quốc Hùng
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 58 30
Người hướng dẫn: PGS. TS Lê Thị Thu Thuỷ
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Khái quát chung về khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng và pháp luật về hoàn
thuế giá trị gia tăng. Đánh giá thực trạng pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt
Nam. Đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam.
Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật kinh tế; Hoàn thuế; Thuế giá trị gia tăng
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) lần đầu tiên được Quốc hội khóa IX thông qua ngày
10/5/1997 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Việc quy định thuế GTGT thay cho
thuế doanh thu là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của Việt Nam.
Tính đến nay, Luật đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Gần đây nhất, tại kỳ họp thứ 3
Quốc hội khóa XII, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 03/6/2008 đã thông qua
Luật thuế GTGT, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Kể từ khi ban hành cho đến nay,
thuế GTGT luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của xã hội, của các doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế, tổ chức, cá nhân.
Thuế GTGT là một sắc thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Điểm
nổi bật của thuế GTGT là khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp, chồng chéo qua nhiều
khâu của thuế doanh thu. Khấu trừ là một đặc trưng cơ bản của thuế GTGT, qua cơ chế này
các doanh nghiệp cũng thường lợi dụng để thực hiện những hành vi gian lận để chiếm đoạt
tiền của Nhà nước thông qua việc khấu trừ và hoàn thuế.
Tại Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ có quy định một giải
pháp trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT là: "tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng đầu vào đối
với hàng hóa xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua
ngân hàng và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán".
Những chủ trương này của Nhà nước về hoàn thuế GTGT nhằm tác động và bảo đảm tính
công bằng, bình đẳng cho các chủ thể nộp thuế; kích thích hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch
vụ; kích thích hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế
đất nước nói chung. Hiệu quả tích cực từ thuế GTGT cho thấy: thu ngân sách nhà nước tăng
2
nhiều so với thuế doanh thu; hoạt động sản xuất, kinh doanh nội địa đã ngày càng phát triển
mạnh mẽ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ khi xuất khẩu.
Hoàn thuế GTGT là một chế định hết sức tiến bộ của Luật thuế GTGT. Tuy nhiên thời
gian qua, lợi dụng những chủ trương, chính sách khuyến khích của Nhà nước, hàng loạt các
hành vi vi phạm như: gian lận trong lập hồ sơ hoàn thuế, mua bán hóa đơn, chứng từ, xuất
khẩu khống hàng hóa… nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT diễn ra ngày càng tinh vi,
phức tạp, không ngừng gia tăng về tính chất và mức độ vi phạm của các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế và tổ chức, cá nhân đối với các quy định về hoàn thuế GTGT của Nhà nước.
Những vi phạm này, đã hạn chế ưu điểm tích cực từ chính sách hoàn thuế GTGT, gây thiệt hại
không nhỏ đến việc thu ngân sách nhà nước từ thuế. Đồng thời, làm giảm niềm tin của các tổ
chức, cá nhân, doanh nghiệp làm ăn chân chính đối với chính sách thuế của nước ta.
Thực tiễn này đòi hỏi các nhà luật học cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa
pháp luật về hoàn thuế GTGT để chính sách này công bằng, bình đẳng hơn cho xã hội, cho
các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đất nước.
Chính những lý do kể trên, đã giúp học viên mạnh dạn chọn đề tài: "Pháp luật về hoàn
thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ.
Với đề tài này, học viên mong muốn được tiếp tục nghiên cứu pháp luật về hoàn thuế
GTGT, qua đó phân tích, đánh giá thực trạng nhằm tìm ra những hạn chế, bất cập và đưa ra
các giải pháp về hoàn thuế GTGT ở Việt Nam, góp phần làm rõ chính sách thuế GTGT của
Chính phủ.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, đã có nhiều đề tài tập trung tìm hiểu và nghiên cứu các vấn đề xung quanh các
quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT. Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về thuế, Bộ
Tài chính - Tổng Cục thuế cũng đã tiến hành những nghiên cứu các quy định của các nước về
hoàn thuế GTGT trước khi áp dụng chính sách hoàn thuế GTGT ở nước ta, cụ thể nghiên cứu
về:
Thực tiễn tại Pháp khi áp dụng Chỉ thị 2008/9/EC về các phương thức hoàn thuế GTGT
cho các công ty thành lập tại một nước thành viên. Các quy định chính đã được quy định ở
Đạo Luật tài chính 2010 của Pháp (Mục 102), quy định về nguyên tắc nộp đơn và thủ tục
hoàn thuế GTGT.
Báo cáo khảo sát về hoàn thuế GTGT của Đức khi quy định về thủ tục hoàn thuế GTGT
tại Đức áp dụng cho các doanh nhân Đức trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Thực tiễn áp dụng quy chế hoàn lại tiền thuế GTGT cho hàng hóa và dịch vụ đủ tiêu
chuẩn hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp, tổ chức, hay hiệp hội trong hoạt động kinh
doanh tại Đài Loan…
Đồng thời, nhiều hội thảo của Cục Thuế các tỉnh, thành phố ở Việt Nam đã được tổ chức
nhằm tháo gỡ và giải quyết các vướng mắc trong thực tiễn áp dụng hoàn thuế GTGT ở từng
địa phương.
Trong giới luật học, nhiều tác giả lựa chọn pháp luật về hoàn thuế GTGT là đề tài nghiên
cứu ở góc độ lý luận, cũng như nhiều bài viết mang tính nghiên cứu trao đổi của các chuyên
gia pháp lý đăng trên các tạp chí chuyên ngành, cụ thể: Luận văn thạc sỹ luật học năm 2006
của Bùi Công Quang về đề tài "Thực trạng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế giá trị
gia tăng ở Việt Nam"; Bài viết của Nguyễn Văn Tuyến năm 2008 tại Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp điện tử về "Một số ý kiến trao đổi, bình luận về dự án luật thuế thu nhập doanh nghiệp
3
và dự án luật thuế giá trị gia tăng"; Bài viết của Lê Thị Thu Thủy năm 2008 tại Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp điện tử về "Luật thuế giá trị gia tăng nên sửa đổi theo hướng nào" v.v…
Luận văn "Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp"
sẽ là một trong những đề tài tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu chuyên sâu về thực trạng vấn đề
hoàn thuế GTGT ở Việt Nam và pháp luật về vấn đề này.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về hoàn thuế GTGT ở Việt Nam, kết hợp
đối chiếu với các quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT ở một số nước trên thế giới. Luận
văn sẽ đánh giá thực trạng và chỉ ra những hạn chế, bất cập hiện hành trong pháp luật về hoàn
thuế GTGT, trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về
hoàn thuế GTGT ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Mặc dù các quy phạm của Luật thuế GTGT nói chung và hoàn thuế GTGT nói riêng gắn
chặt với các phạm trù kinh tế, nhưng với góc độ của một luận văn thạc sĩ luật học, học viên
chỉ đi sâu nghiên cứu các quy định pháp luật, các quan điểm, chính sách pháp luật có liên
quan đến hoàn thuế GTGT ở Việt Nam.
Các khái niệm xuất hiện trong luận văn tốt nghiệp luật học này được dừng ở mức độ sử
dụng kết quả nghiên cứu của các học giả và các nhà kinh tế học, để phục vụ tốt hơn cho việc
tiếp cận các quy định pháp luật hiện hành về hoàn thuế GTGT.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, so sánh, tổng hợp, đánh giá,
khảo sát, thống kê… để làm rõ các nội dung nghiên cứu trong đề tài.
5. Những đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề liên quan đến pháp luật hoàn thuế
GTGT ở Việt Nam. Luận văn phân tích và làm sáng tỏ thực trạng pháp luật về hoàn thuế
GTGT, trên cơ sở đó nêu ra những điểm hạn chế, bất cập hiện nay trong thực tiễn áp dụng
pháp luật về hoàn thuế GTGT và đưa ra các kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng và pháp luật về hoàn
thuế giá trị gia tăng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam.
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHẤU TRỪ, HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP
LUẬT VỀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng, khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế giá trị gia tăng
4
Tại Điều 2, Luật thuế GTGT của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2009 quy định: "Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng
thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng".
Như vậy, thuế GTGT được coi là một loại thuế tiêu dùng và là thuế gián thu nhằm đánh
vào hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ nhưng được thu ở khâu bán hàng. Nói một cách khác,
thuế GTGT là sắc thuế áp dụng đối với giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ ở tất cả các
khâu từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Đặc biệt, thuế GTGT đánh vào khâu cuối cùng
(khâu tiêu dùng) sẽ bằng tổng giá trị các lần đánh thuế của các khâu trước đó.
Dưới góc độ pháp lý, thuế GTGT là nghĩa vụ tài chính theo đó người chịu thuế phải nộp
một phần thu nhập của mình cho Nhà nước, thông qua hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.
Trong thực tế, phần đông các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế GTGT không tự nguyện nộp thuế
nếu như Nhà nước không ràng buộc họ bằng các nghĩa vụ pháp lý bắt buộc. Vì vậy, những nội
dung cơ bản về thuế GTGT đã được quy định trong luật thuế GTGT năm 2008, gồm 4
chương, 12 điều.
Đặc điểm thuế GTGT
Đặc điểm của thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào giá trị tăng thêm của hàng
hóa, dịch vụ trên bình diện rộng. Tính gián thu của thuế GTGT được thể hiện qua đối tượng
chịu thuế và đối tượng nộp thuế là hai chủ thể hoàn toàn khác nhau. Mặt khác sắc thuế này
cũng mang bản chất liên hoàn và có tính trung lập kinh tế cao, mang những đặc tính cơ bản,
đặc trưng của một sắc thuế khoa học, tiên tiến như: tính lũy thoái, điều tiết hành vi tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, đặc điểm chính, chủ yếu của thuế GTGT là: Thuế GTGT là sắc
thuế gián thu đánh trên bình diện rộng, thuế GTGT gắn liền với chế độ sở sách kế toán và hóa
đơn, chứng từ.
- Thuế GTGT là sắc thuế gián thu đánh trên bình diện rộng.
- Thuế GTGT gắn liền với chế độ sổ sách kế toán và hóa đơn, chứng từ.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng
Tại Khoản 1, điểm a, Điều 10 luật thuế GTGT quy định: "Số thuế giá trị gia tăng phải
nộp theo phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu ra trừ số thuế giá trị gia tăng đầu
vào được khấu trừ".
Tại chương III, Điều 10, Nghị định số 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày
08/12/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế GTGT
của Việt Nam quy định về hoàn thuế GTGT như sau: "Việc hoàn thuế giá trị gia tăng thực
hiện theo quy định tại Điều 13 luật thuế giá trị gia tăng".
Như vậy, hoàn thuế là việc hoàn trả lại số tiền thuế nộp thừa cho tổ chức, cá nhân nộp
thuế khi:
+ Tổ chức, cá nhân nộp thuế có số tiền thuế đã nộp lớn hơn số tiền thuế phải nộp.
+ Tổ chức, cá nhân nộp thuế có số tiền thuế đã nộp lớn hơn số tiền thuế phải nộp.
Đặc điểm của khấu trừ và hoàn thuế GTGT
Đặc điểm của phương pháp khấu trừ là chỉ áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện
đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
thuế.
Hoàn thuế GTGT có những đặc điểm nổi bật sau:
Chủ thể được hoàn thuế GTGT là đối lượng nộp thuế GTGT theo quy định của pháp luật.
Tại Khoản 1, Điều 2, Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 8/12/2008 của Chính phủ quy định
5
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT quy định: "Người nộp thuế
giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị
gia tăng và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng".
Căn cứ để được xét và chấp nhận cho hoàn thuế GTGT đó là bộ hồ sơ hoàn thuế GTGT.
Hồ sơ hoàn thuế GTGT phải do chính chủ thể nộp thuế GTGT lập hợp lệ theo quy định của
pháp luật nhằm chứng minh sự thỏa mãn các điều kiện được xét và chấp nhận hoàn thuế.
1.2. Các nguyên tắc hoàn thuế giá trị gia tăng
Nguyên tắc quan trọng trong hoàn thuế GTGT là chỉ hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng
hóa, dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT.
Nguyên tắc chỉ hoàn thuế cho các cơ sở kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT
khi họ đã thực hiện xong nghĩa vụ thuế và có đủ các điều kiện luật định về hoàn thuế GTGT.
1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoàn thuế giá trị gia tăng
Hoàn thuế là một chế định pháp luật của Luật thuế GTGT. Thông qua việc thực hiện pháp
luật thuế GTGT thì hoàn thuế GTGT đã thể hiện được những vai trò và ý nghĩa như sau:
Thứ nhất: Hoàn thuế GTGT thể hiện tính ưu việt, vượt trội của thuế GTGT so với thuế
doanh thu. Hoàn thuế GTGT đã khắc phục nhược điểm đánh thuế trùng lặp giữa các khâu, đối
với cùng một hàng hóa, dịch vụ hay cùng một chủ thể nộp thuế, từ khâu sản xuất, lưu thông
đến tiêu dùng của thuế doanh thu.
Thứ hai: Hoàn thuế GTGT giữ vai trò và ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm tính công
bằng, bình đẳng cho các chủ thể nộp thuế.
Thứ ba: Hoàn thuế GTGT đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích, đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
Thứ tư: Hoàn thuế GTGT là động lực để doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu
thuế thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hóa đơn, chứng từ, chế độ kế toán.
1.4. Nội dung của pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng
Pháp luật về hoàn thuế GTGT điều chỉnh mối quan hệ giữa một bên là nhà nước (đại diện
là cơ quan thuế) và một bên là chủ thể yêu cầu hoàn thuế. Quan hệ pháp luật này xuất hiện khi
có sự kiện pháp lý là đơn yêu cầu hoàn thuế cả cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp có quyền này.
Quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành trong lĩnh vực thuế nói chung và hoàn thuế GTGT nói riêng, quy định về hoàn thuế GTGT,
cụ thể về: Đối tượng, điều kiện, các trường hợp được hoàn thuế, trình tự, thủ tục, thẩm quyền ra
quyết định hoàn thuế GTGT như:
Hoàn thuế GTGT được thực hiện khi có quyết định hành chính của cơ quan thuế có thẩm
quyền. Cơ quan thuế ra quyết định hoàn trả lại cho chủ thể nộp thuế GTGT một khoản tiền
thuế nhất định. Quyết định hoàn thuế được ban hành khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và căn cứ
thực tiễn.
Như vậy, pháp luật về hoàn thuế GTGT được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các mối quan hệ phát sinh giữa một bên chủ thể là nhà nước (đại diện là các cơ quan thuế có
thẩm quyền) và một bên chủ thể là các tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu hoàn thuế GTGT có
liên quan đến việc hoàn lại số tiền thuế nộp thừa hoặc chưa được khấu trừ hết cho chủ thể được
hoàn thuế GTGT khi đã thực hiện các quy định của pháp luật về thuế. Cụ thể, pháp luật về hoàn
thuế GTGT bao gồm các quan hệ pháp luật điều chỉnh về đối tượng và các trường hợp hoàn
thuế GTGT bao gồm các quan hệ pháp luật điều chỉnh về đối tượng và các trường hợp hoàn
6
thuế GTGT, điều kiện khấu trừ, hoàn thuế GTGT, quy trình, thời hạn giải quyết hoàn thuế
GTGT, hồ sơ, hóa đơn hoàn thuế GTGT và giải quyết tranh chấp về hoàn thuế GTGT.
Tóm lại, thông qua hoàn thuế GTGT, Nhà nước mong muốn bảo đảm tính công bằng,
bình đẳng cho các chủ thể nộp thuế, góp phần kích thích hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp; thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ. Như vậy, hoàn thuế GTGT cũng sẽ tạo động lực cần thiết để kích thích xuất khẩu
hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp, nhằm tăng kim ngạch hàng xuất khẩu của đất nước.
Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là, cơ quan thuế nhà nước có thẩm quyền và ngay cả các
doanh nghiệp khi thực hiện chính sách về hoàn thuế GTGT thì đều phải nghiêm chỉnh và đảm
bảo tính pháp chế đối với luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn nói riêng và hệ thống về
thuế của nhà nước nói chung.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
VỀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM
2.1. Đối tượng và các trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng
2.1.1. Đối tượng được hoàn thuế giá trị gia tăng
Hoàn thuế GTGT chỉ áp dụng cho các chủ thể chịu thuế, nộp thuế GTGT. Tại Điều 3, Luật
thuế GTGT năm 2008 quy định về đối tượng chịu thuế "Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản
xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ 25 loại
hàng hóa, dịch vụ quy định tại Điều 5 của Luật này".
Trường hợp đối tượng nộp thuế có phát sinh số thuế đầu vào nhưng lại không có thuế đầu
ra (hàng hóa, dịch vụ bán ra không thuộc diện chịu thuế GTGT) thì đối tượng nộp thuế cũng
được hoàn thuế.
2.1.2. Các trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng
Pháp luật về thuế GTGT không quy định cho từng đối tượng cụ thể được hoàn thuế mà chỉ
quy định các trường hợp hoàn thuế. Các trường hợp hoàn thuế đã được quy định tại mục C,
Thông tư 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT và hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/NĐ-
CP ngày 08/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
luật thuế GTGT.
Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều doanh nghiệp hoạt động với quy mô nhỏ nên lũy kế số thuế
đầu vào trong thời gian ba tháng cũng không đáng kể. Các cơ sở kinh doanh không có hoạt động
xuất khẩu hoặc có nhưng giá trị thấp, thì dù số thuế đầu vào trong tháng phát sinh cao đến mấy
vẫn không được hoàn thuế theo tháng mà phải chờ đủ ba tháng. Điều này sẽ làm cho vốn của các
doanh nghiệp bị lưu lại khá lâu, gây ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh tiếp theo của họ.
Đây là một hạn chế rất lớn của quy định về hoàn thuế GTGT.
2.2. Điều kiện khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng
Luật thuế GTGT hiện hành không quy định cụ thể điều kiện khấu trừ, hoàn thuế GTGT
chung cho mọi trường hợp, mà chỉ quy định điều kiện riêng cho từng trường hợp hoàn thuế.
Tuy nhiên, qua các quy định hiện hành về hoàn thuế GTGT và thực tiễn áp dụng, có thể thấy
điều kiện hoàn thuế GTGT bao gồm các điểm sau đây.
2.2.1. Hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế
Doanh nghiệp xin hoàn thuế phải hoàn thành nghĩa vụ thuế của mình, đồng thời có số
thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT đầu ra. Hàng hóa, dịch vụ bán ra phải là những hàng
7
hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT. Điều đó có nghĩa rằng những hàng hóa, dịch vụ này phải không
rơi vào một trong các trường hợp được quy định tại Điều 5 luật thuế GTGT năm 2008.
Hàng hóa, dịch vụ bán ra phải là những hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và phải gắn
liền với quá trình tạo nên hàng hóa, dịch vụ bán ra.
2.2.2. Thanh toán qua ngân hàng
Chủ thể xin hoàn thuế phải xuất trình đầy đủ hóa đơn, chứng từ kê khai thuế phát sinh đầu
ra và thuế GTGT đầu vào phát sinh trong tháng hoặc hóa đơn, chứng từ chứng minh đã xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ ra nước ngoài, kèm theo tờ khai với cơ quan hải quan. Đối với các hóa
đơn GTGT có tổng giá trị thanh toán một lần (hoặc nhiều lần cộng lại) từ hai mươi triệu đồng
trở lên thì phải kèm theo chứng từ chứng minh đã thanh toán qua ngân hàng.
Bất cập đầu tiên là việc áp dụng quy định "thanh toán qua ngân hàng" ở mỗi nơi một
khác nhau và không thống nhất.
Bất cập tiếp theo là việc thanh toán qua ngân hàng làm mất nhiều thời gian của các doanh
nghiệp.
Những bất cập về điều kiện hoàn thuế GTGT kể trên đã khiến nhiều doanh nghiệp rơi vào
tình trạng "nhiều tỷ đồng tiền hoàn thuế của các doanh nghiệp" vẫn đang tồn đọng tại cơ quan
thuế, thay vì việc họ được hưởng hỗ trợ cần thiết của nhà nước thì doanh nghiệp lại phải gồng
mình trả lãi ngân hàng hàng ngày.
2.3. Quy trình, thời hạn giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng
2.3.1. Quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng
Nhằm thống nhất thủ tục hành chính trong các quy định của pháp luật thuế, Luật quản lý
thuế về hoàn thuế, ngày 14/10/2009, Tổng cục Thuế đã ban hành Quyết định số 1458/QĐ-
TCT về Quy trình hoàn thuế áp dụng giải quyết đối với hoàn thuế GTGT theo quy định của
Luật thuế GTGT bao gồm năm bước công việc cụ thể gồm: Tiếp nhận hồ sơ; phân loại hồ sơ;
giải quyết hồ sơ hoàn thuế; thẩm định pháp chế; quyết định hoàn thuế.
Trong khi số lượng hồ sơ hoàn thuế theo hướng ngày càng nhiều lên, mà lực lượng cán bộ
thuế làm về công tác giải quyết hồ sơ hoàn thuế ở các tỉnh, thành phố vẫn còn hạn chế. Hệ thống
cơ sở vật chất, máy móc thiết bị mà cụ thể là hệ thống máy tính lưu trữ, tác nghiệp về thuế chưa
được kết nối trong phạm vi cả nước đã ảnh hưởng không nhỏ trong công tác kiểm tra, xác minh
hóa đơn, chứng từ trong bộ hồ sơ xin hoàn thuế của cán bộ làm công tác giải quyết các thủ tục về
hoàn thuế GTGT. Chính những vướng mắc, tồn tại kể trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ trong
việc giải quyết hoàn thuế của các cơ quan chức năng.
2.3.2. Thời hạn giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng
Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 quy định thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn
thuế thuộc diện kiểm tra trước, hoàn thuế tối đa là sau 60 ngày. Tuy nhiên, trong trường hợp
ngành thuế nghi ngờ doanh nghiệp gian lận thuế GTGT, cần có thời gian để xác minh thì thời
hạn 15 ngày là không đủ, bởi vì việc xác minh các hóa đơn mất nhiều thời gian, thậm chí hồ
sơ gửi đi xác minh còn không được cơ quan thuế các địa phương phản hồi.
Với cơ chế chính sách "tiền thoái, hậu kiểm" thực sự tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp,
giải phóng nguồn vốn, quay vòng vốn nhanh, bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp là đối
tượng nộp thuế GTGT. Qui định về thời hạn xem xét hồ sơ hoàn thuế rất chặt, trung bình là
trong 15 ngày, nhưng không quá 30 ngày. Do vậy, một số doanh nghiệp đã gian lận hồ sơ
chứng từ giả mạo để chiếm đoạt hàng tỷ đồng tiền hoàn thuế. Việc kiểm tra đối chiếu các
8
chứng từ không thể thực hiện ngày một, ngày hai, đặc biệt trong trường hợp người bán, người
mua ở địa bàn khác nhau.
2.4. Hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng
2.4.1. Hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng
Hồ sơ hoàn thuế GTGT được quy định cụ thể cho 8 trường hợp tại Điểm 2, Mục I phần G
Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều của Luật quản lý thuế và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày
25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quản lý thuế.
Qua thực tế áp dụng, phần lớn các vi phạm trong hoàn thuế đã bị phát hiện rơi vào trường
hợp xuất khẩu do chính sách ưu đãi của nhà nước trong khuyến khích hàng hóa xuất khẩu.
Hình thức gian lận phổ biến để xin hoàn thuế nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT của Nhà
nước tập trung chủ yếu ở hai trường hợp: Thứ nhất, ngụy tạo hồ sơ xuất khẩu. Nhiều doanh
nghiệp đã lợi dụng chính sách hoàn thuế GTGT, tạo dựng hồ sơ giả xin hoàn thuế đến nhiều tỷ
đồng; thứ hai, ngụy tạo hồ sơ nộp thuế GTGT đầu vào trong trường hợp có hàng hóa thực để
xuất khẩu nhưng không nộp thuế GTGT đầu vào.
Trong hai trường hợp này đều nảy sinh vấn đề mua, bán hóa đơn, chứng từ nhằm hợp
thức hồ sơ hoàn thuế GTGT.
2.4.2. Hóa đơn, chứng từ hoàn thuế giá trị gia tăng
Theo quy định tại các Điểm 1, 2, 3, 4, 5 và 6 của Điều 15, Nghị định số 51/2010/NĐ-CP
ngày 14/5/2010 quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ quy định:
"1. Khi bán hàng hóa, dịch vụ người bán phải lập hóa đơn. Khi lập hóa đơn phải ghi đầy
đủ nội dung theo quy định tại Nghị định này.
2. Hóa đơn phải được lập theo thứ tự số nhỏ đến số lớn. Bộ Tài chính quy định thứ tự lập
hóa đơn đối với trường hợp nhiều cơ sở của cùng đơn vị kế toán sử dụng chung một loại hóa
đơn có cùng tên, cùng ký hiệu.
3. Ngày lập hóa đơn là ngày người bán và người mua làm thủ tục ghi nhận hàng hóa,
dịch vụ đã được chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng. Các trường hợp pháp luật quy định
chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thì ngày lập hóa đơn
là ngày bàn giao hàng hóa.
Trường hợp giao hàng nhiều lần hoặc bàn giao từng hạng mục, công trình dịch vụ thì
mỗi lần giao hàng hoặc bàn giao đều phải lập hóa đơn cho khối lượng, giá trị hàng hóa, dịch
vụ được giao tương ứng.
4. Trường hợp bán hàng qua điện thoại, qua mạng; bán hàng hóa, dịch vụ cùng lúc cho
nhiều người tiêu dùng, khi lập hóa đơn người bán hoặc người mua không phải ký tên theo quy
định của Bộ Tài chính.
5. Hóa đơn điện tử được lập xong sau khi người bán và người mua đã ký xác nhận giao
dịch đã được thực hiện theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
6. Bộ Tài chính quy định việc lập hóa đơn đối với các trường hợp cụ thể khác".
Qua thực tế cho thấy, những hình thức gian lận chủ yếu mà doanh nghiệp thường lợi dụng
thông qua hóa đơn, chứng từ hoàn thuế như:
Sử dụng hóa đơn không do Bộ Tài chính phát hành, thực chất là hóa đơn giả; Sử dụng hóa
đơn do Bộ Tài chính phát hành nhưng nội dung ghi không đúng quy định; Các doanh nghiệp
liên kết nhau hình thành đường dây "kinh doanh hóa đơn khống" như: làm hồ sơ xuất khẩu
khống…
9
Một doanh nghiệp cho ra đời nhiều công ty có đăng ký kinh doanh, có mã số thuế nhưng
không có địa chỉ, nhiều tháng không khai báo thuế, để đi mau hóa đơn nhằm xuất bán khống
hóa đơn GTGT.
2.5. Giải quyết tranh chấp về hoàn thuế giá trị gia tăng
Tranh chấp liên quan đến hoàn thuế GTGT là tình trạng mâu thuẫn, bất đồng và xung đột
quan điểm, lợi ích giữa đối tượng có yêu cầu hoàn thuế và cơ quan thuế trong quá trình hoàn
thuế GTGT.
Thứ nhất: Tranh chấp liên quan đến hoàn thuế GTGT phát sinh giữa các chủ thể tham gia
hoàn thuế GTGT, bao gồm đối tượng có quyền hoàn thuế GTGT, các chủ thể này thường có
các quyền và lợi ích đối lập nhau.
Thứ hai: Đối tượng tranh chấp về hoàn thuế chính là những lợi ích liên quan đến số thuế
được hoàn. Khoản tiền này phản ánh mối quan hệ lợi ích giữa các bên tranh chấp và thường là
căn nguyên chủ yếu dẫn đến tranh chấp giữa họ.
Khiếu nại và khởi kiện liên quan đến hoàn thuế GTGT
Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ thừa nhận các trường hợp khiếu nại, khởi kiện liên
quan đến hoàn thuế GTGT mà tranh chấp phát sinh giữa các bên chủ thể yêu cầu hoàn thuế và
một bên là cơ quan thuế ra quyết định xử lý vi phạm trong lĩnh vực hoàn thuế của các cơ sở
kinh doanh thì không được coi là tranh chấp liên quan đến hoàn thuế GTGT. Giải thích cho
hiện tượng này là bởi lẽ cơ quan thuế đại diện cho quyền lực chính trị. Vì vậy, Nhà nước
không phải là chủ thể ngang hàng, bình đẳng đối với các chủ thể nộp thuế.
Giải quyết tranh chấp liên quan đến hoàn thuế GTGT theo thủ tục khiếu nại hành chính
mà thực chất là việc giải quyết tranh chấp bằng con đường tự thương lượng giữa các bên.
Giải quyết tranh chấp liên quan đến hoàn thuế GTGT theo thủ tục tố tụng tại tòa hành
chính.
Tóm lại, hoàn thuế GTGT là một chế định hết sức tiến bộ của luật thuế GTGT. Hoàn thuế
GTGT giữ vai trò, ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm tính công bằng, bình đẳng cho các chủ
thể nộp thuế; kích thích, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp
nói riêng, của nền kinh tế đất nước nói chung.
Bên cạnh những ưu điểm trên, việc áp dụng luật thuế mới trong hai năm qua cũng bộc lộ
một số vấn đề bất cập, cần tiếp tục khắc phục, tập trung chủ yếu là vấn đề hoàn thuế và sự lợi
dụng cơ chế này.
Những bất cập trong các quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT, cụ thể là:
Các trường hợp hoàn thuế GTGT quá nhiều; Văn bản hướng dẫn về điều kiện phải thanh
toán qua ngân hàng để được hoàn thuế GTGT chưa thống nhất; Quy định về phân loại hồ sơ
hoàn thuế GTGT chưa rõ ràng; Thời hạn giải quyết hoàn thuế GTGT chưa hợp lý.
Cũng trong quá trình thực hiện pháp luật về hoàn thuế GTGT, nhiều đối tượng đã lợi
dụng những bất cập của pháp luật hoàn thuế GTGT kể trên, cũng như việc lợi dụng những kẽ
hở của luật pháp đã trục lợi cho bản thân, "rút ruột" ngân sách nhà nước. Các sai phạm, gian
lận về hoàn thuế GTGT tập trung chủ yếu ở các trường hợp sau:
Lập hồ sơ giả/công ty "ma" để xin hoàn thuế; Làm hồ sơ xuất khẩu khống; Mua/bán hóa
đơn GTGT khống; Việc gian lận để hoàn thuế GTGT là một căn bệnh khó chữa. Để giải thích
lý do, ngành Thuế cho rằng doanh nghiệp trốn lậu thuế, khai man để được hoàn thuế GTGT là
do một số qui định chủ quan về việc hoàn thuế làm sai lệch bản chất của thuế GTGT. Còn về
phía các doanh nghiệp, họ đánh giá cơ chế hoàn thuế hiện nay còn quá nhiều bất cập, từ khi
kê khai cho đến khi khi chính thức nhận nhận được văn bản hoàn thuế của cơ quan thuế thì
10
một phần không nhỏ lượng vốn của doanh nghiệp đã bị Nhà nước chiếm dụng được ngụy biện
bằng cách "chờ hoàn thuế". Chính vì vậy, các tranh chấp về hoàn thuế GTGT có xu hướng
ngày càng tăng.
Thực tế chế định hoàn thuế GTGT ở nước ta hiện vẫn còn một số tồn tại, vướng mắc như
đã nêu ở những phần trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, kinh tế, vật chất của các doanh
nghiệp, thâm hụt ngân sách nhà nước, đồng thời ảnh hưởng đến niềm tin của các doanh
nghiệp làm ăn chân chính đối với chính sách hoàn thuế GTGT của Nhà nước.
Vì vậy, pháp luật về hoàn thuế GTGT ở nước ta cần phải được tiếp tục nghiên cứu, chỉnh
lý kịp thời để phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng được tính năng
động của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập.
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
Hoàn thiện các nội dung pháp luật về hoàn thuế GTGT là một trong những vấn đề khó, rất
mới và mang tính thời sự, nhạy cảm hiện nay, vì vậy, khi đề xuất, xây dựng và thực hiện các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế GTGT cần thiết phải có những quan điểm hợp lý, khả thi
và nhất quán trong chính sách hoàn thuế để đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình đẳng của các
chủ thể trong việc áp dụng và thực hiện chính sách về hoàn thuế GTGT ở Việt Nam. Mặt khác,
quá trình hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế GTGT cũng phải tuân thủ theo các định hướng, chỉ
đạo cải cách về Thuế của Đảng và Chính phủ. Xuất phát từ những quan điểm này để đề xuất sửa
đổi, bổ sung các quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT hiện hành theo một trật tự khoa học
mới, sẽ hạn chế được tối đa những rủi ro phát sinh trong quá trình áp dụng và thực hiện các quy
định pháp luật về hoàn thuế GTGT trong đời sống kinh tế - xã hội.
Trước hết, hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế GTGT phải đảm bảo tính hiệu quả và khả
thi. Yêu cầu này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập pháp và giới luật học
trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế GTGT cần tính đến tính khả thi của
mỗi quy định, tính hiệu quả, lợi ích thu được khi đặt ra các quy định đó.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế GTGT phải bảo đảm tính thống nhất phù hợp
với pháp luật thuế GTGT và pháp luật về hệ thống thuế, đồng thời, đồng bộ với pháp luật kinh
tế, tài chính của đất nước. Pháp luật hoàn thuế GTGT ở Việt Nam có phạm vi đối tượng điều
chỉnh rộng nên có tác động và liên quan đến một số luật khác như: Luật doanh nghiệp, Luật
quản lý thuế, Luật ngân hàng… Ngoài ra, để triển khai có hiệu quả các văn bản chính sách,
pháp luật về hoàn thuế GTGT trên thực tế đòi hỏi các văn bản điều chỉnh về nghiệp vụ quản lý
thuế, nghiệp vụ tài chính ngân hàng phải đồng bộ, giúp cho các giao dịch kinh tế thể hiện tính
minh bạch, chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ được thực hiện một cách tự giác trong quần
chúng nhân dân. Thuận tiện cho các doanh nghiệp, các chủ thể thuộc diện hoàn thuế và thuận
lợi ngay cả với cơ quan thuế có thẩm quyền khi xét duyệt, giải quyết hoàn thuế GTGT.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế GTGT phải đảm bảo được quyền lợi chính đáng
của người nộp thuế, có ảnh hưởng tích cực cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi trong
sản xuất, lưu thông và xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ. Với đặc thù là một nước đang phát triển như
nước ta thì những vấn đề phát sinh về thuế GTGT cần phải được các cơ quan Nhà nước quan
tâm để dần hoàn thiện nhằm phản ánh đúng thực tiễn hoàn thuế GTGT ở nước ta.
11
Thứ tư, dựa vào những bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật về hoàn thuế GTGT ở Việt
Nam và phù hợp với yêu cầu của hội nhập, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài chính, thuế hiện nay.
Các giải pháp mới về pháp luật hoàn thuế GTGT cần phải đảm bảo tính mở trong suốt quá trình hoàn
thiện pháp luật về hoàn thuế GTGT.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
Hoàn thuế là một vấn đề lớn trong việc thực hiện Luật thuế GTGT. Cơ chế hoàn thuế
GTGT thời gian qua đã có những tác động tích cực, góp phần là cho sản xuất kinh doanh ổn
định và phát triển. Tuy nhiên, nó chỉ tiếp tục phát huy tác dụng khi Luật thuế GTGT được tiếp
tục sửa đổi một cách căn bản. Trước mắt, cần thiết phải áp dụng các giải pháp có hiệu quả
nhằm ngăn chặn các hành vi chiếm đoạt tiền hoàn thuế ngày càng tinh vi.
3.2.1. Thu hẹp đối tượng hoàn thuế giá trị gia tăng
Hoàn thuế GTGT là một chính sách ưu việt của Luật thuế GTGT nhằm hỗ trợ các cơ sở
kinh doanh, số tiền hoàn thuế được trích từ "quỹ hoàn thuế giá trị gia tăng" là số tiền thuế
GTGT mà các doanh nghiệp đã nộp trước đó. Hoàn thuế GTGT mang tính chất ưu đãi, tài trợ
của nhà nước. Vì vậy, không phải bất cứ đối tượng nào cũng có quyền hoàn thuế, quyền này
chỉ xuất hiện ở những đối tượng Nhà nước cần khuyến khích.
* Đối với các dự án sử dụng nguồn vốn ODA: các tổ chức sử dụng tiền viện trợ nhân đạo,
viện trợ không hoàn lại của tổ chức, cá nhân nước ngoài để mua hàng hóa dịch vụ tại Việt
Nam nên đưa ra khỏi diện được hoàn thuế bởi chế định hoàn thuế trong thuế GTGT không
kiêm nhiệm chức năng thực hiện chính sách xã hội, chức năng này được thực hiện thông qua
các quy định về thuế suất và các hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT.
* Trường hợp đối tượng nộp thuế là tổ chức, đơn vị sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải
thể, phá sản: có số thuế GTGT nộp thừa, thì cơ quan thuế thực hiện việc thoái thu khi quyết
toán thuế và được quy định trong các điều kiện về quyết toán thuế, mà không nên nằm trong
điều khoản về hoàn thuế.
* "Hoàn thuế trong trường hợp có quyết định xử lý hoàn thuế của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền" là một quy định thừa, không khả thi, mơ hồ và nên loại bỏ nếu không sẽ dẫn đến trường
hợp tùy tiện và lạm dụng quy định này.
3.2.2. Về hóa đơn hoàn thuế giá trị gia tăng
Hóa đơn, chứng từ là vấn đề cốt lõi đặc biệt quan trọng trong hồ sơ hoàn thuế GTGT, là
công cụ chủ yếu để kiểm soát hoạt động giao dịch của kinh doanh trên thị trường. Ngoài tác
dụng là một chứng từ kế toán, hóa đơn lại giữ một vai trò rất quan trọng chi phối mọi hoạt
động của doanh nghiệp, nó luân chuyển cùng với hàng hóa, dịch vụ…
Cần tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, chặt chẽ và khả thi về việc phát hành, sử
dụng, lưu thông hóa đơn vừa đáp ứng yêu cầu quản lý, đồng thời tạo quyền tự chủ cho các doanh
nghiệp trong việc sử dụng hóa đơn, cụ thể:
Cục thuế địa phương chỉ bán hóa đơn cho một số đối tượng là tổ chức không phải là
doanh nghiệp nhưng có hoạt động kinh doanh, hộ gia đình và cá nhân kinh doanh có cơ sở tại
địa phương hoặc các tổ chức không phải là doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân không đăng
ký kinh doanh nhưng có phát sinh hoạt động bán hàng, dịch vụ cần có hóa đơn để giao cho
khách hàng.
Tại Khoản 1, Điều 33; Khoản 1, Điều 29; Khoản 1, Điều 28; Khoản 6, Điều 29 của Nghị định
số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 quy định xử phạt về các hành vi: Đặt in hóa đơn mà không ký
hợp đồng in bằng văn bản; tự in hóa đơn, khởi tạo hóa đơn điện tử mà không đủ các nội dung quy
định tại Khoản 3, Điều 4 Nghị định; đặt in hóa đơn giả… Việc quy định xử phạt vi phạm hành
12
chính về vi phạm trên về hóa đơn là cần thiết. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các lỗi vi phạm cần
phải quy định các mức xử phạt mạnh tay hơn đối với các vi phạm, cụ thể:
+ Các hành vi vi phạm hành chính về hóa đơn áp dụng đối với hành vi không ghi đủ hoặc
ghi không ghi đúng các nội dung in sẵn khi lập hóa đơn sẽ bị xử phạt với mức thấp nhất là 5
triệu đồng và mức cao nhất là 10 triệu đồng.
+ Các hành vi như đặt in hóa đơn mà không ký hợp đồng in bằng văn bản; vi phạm chế độ
báo cáo việc in hóa đơn theo quy định của Bộ Tài chính; hành vi khai không đúng điều kiện
để được mua hóa đơn do cơ quan thuế phát hành hành hay hành vi lập hóa đơn nhưng không
giao cho người mua sẽ bị phạt từ 10 - 20 triệu đồng.
+ Hành vi tự in hóa đơn hoặc khởi tạo hóa đơn điện tử khi không đủ các điều kiện quy
định sẽ bị phạt tiền từ 15 - 50 triệu đồng.
+ Đặc biệt, nếu tự in hóa đơn giả của doanh nghiệp sẽ bị phạt gấp hai lần số tiền ghi trên
hóa đơn, đồng thời bị phạt đình chỉ quyền tự in hóa đơn trong thời hạn 36 tháng, kể từ khi
hành vi bị phát hiện.
Mức phạt cao nhất này cũng được áp dụng đối với các hành vi: Đặt in hóa đơn giả, in hóa
đơn giả, lập hóa đơn khống, sử dụng hóa đơn lập khống.
Đồng thời, đề nghị Quốc hội bổ sung vào Bộ luật hình sự tội phạm về:
- Hành vi in ấn hóa đơn giả (hóa đơn không hợp pháp), giúp cho doanh nghiệp khác lập
hồ sơ tờ khai gian lận để làm tăng thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn thuế là hành vi giúp
sức cho việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải bị xử lý phù hợp với hành vi.
- Hành vi lập hồ sơ kờ khai gian lận để làm tăng thuế GTGT được khấu trừ hoặc tăng thuế
GTGT được hoàn là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của Nhà nước phải bị xử lý như hành vi
lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
- Qui định doanh nghiệp phải ứng dụng công nghệ tin học trong công tác quản lý kinh
doanh, hạch toán kế toán, qui định nguyên tắc khai thác dữ liệu của các doanh nghiệp đối với
các cơ quan quản lý nhà nước.
3.2.3. Thanh toán qua ngân hàng
Phương thức thanh toán qua ngân hàng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Việc
lựa chọn hình thức thanh toán là quyền của các doanh nghiệp nhưng để được khấu trừ, hoàn
thuế GTGT từ ngân sách nhà nước thì nhất thiết doanh nghiệp phải thực hiện thanh toán qua
ngân hàng.
Như vậy, để thực hiện chủ trương của Nhà nước thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và
giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp trong công tác hoàn thuế GTGT vì chứng từ thanh
toán, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước cần thiết phải ban hành các văn bản hướng dẫn đồng
bộ, nhất quán và hoàn chỉnh về phương thức thanh toán hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ
thông tin, cụ thể:
* Ban hành các quy định về các giao dịch thanh toán giữa các loại hình doanh nghiệp và doanh
nghiệp phải thực hiện qua ngân hàng trên phạm vi toàn quốc.
Quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của nhân viên cơ quan thuế theo quy trình trách nhiệm
của nhân viên ngân hàng khi kiểm tra chứng từ trong thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng.
* Giảm thiểu thời gian thanh toán qua ngân hàng trong trường hợp tài khoản của người
mua và người bán mở ở hai hệ thống ngân hàng khác nhau và khác địa bàn.
Đầu tư hạ tầng cơ sở và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ hệ thống thanh toán cốt lõi là
thanh toán liên ngân hàng vì đây là hệ thống thanh toán xương sống trong nền kinh tế.
13
Hoàn thiện các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt truyền thống như séc, lệnh thu,
nhờ chi theo hướng thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, đơn giản hóa thủ tục sử dụng, đảm bảo
tính an toàn và bảo mật trên cơ sở ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại trong khâu xử lý giao
dịch.
3.2.4. Về quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng
Phân loại hồ sơ hoàn thuế:
Bộ Tài chính cần phải có văn bản quy định rõ ràng, cụ thể trường hợp nào thuộc diện "hoàn
thuế trước, kiểm tra sau" và "kiểm tra trước, hoàn thuế sau". Trên cơ sở đó, người nộp thuế sau
khi tính thuế, khai thuế, khai quyết toán thuế mà thấy số tiền thuế đầu vào lớn hơn đầu ra trong
ba tháng liền thuộc diện được hoàn thuế GTGT thì chỉ cần đánh vào ô đề nghị hoàn thuế. Nếu
số liệu khai thuế không sai sót thì việc hoàn thuế được thực hiện ngay. Còn đối với các trường
hợp hoàn thuế mà cần phải đối chiếu chứng từ, hồ sơ tài liệu như hoàn thuế trong trường hợp
sáp nhập, giải thể, chuyển đổi sở hữu thì sẽ áp dụng trường hợp kiểm tra trước, hoàn thuế sau.
Loại bỏ 3 loại giấy tờ sau trong thành phần hồ sơ đề nghị hoàn thuế của trường hợp "hoàn thuế
trước, kiểm tra sau", đó là: Chứng từ nộp thuế; các tài liệu khác liên quan đến chứng từ hoàn
thuế; bảng kê các hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở.
Tiếp tục thực hiện về cải cách thủ tục hành chính (theo Đề án 30 của Chính phủ), Tổng cục
Thuế nên sớm ban hành văn bản cho phép bỏ qua khâu thẩm định pháp lý đối với hồ sơ hoàn thuế,
qua đó giảm được hai chữ ký và rút ngắn thêm hai ngày trong quy trình hoàn thuế nhằm đơn giản
hóa thủ tục về hoàn thuế GTGT.
Giải quyết hồ sơ hoàn thuế:
Luật Quản lý thuế cần phải sửa theo hướng "phân loại đối tượng nộp/hoàn thuế theo quy
mô để có biện pháp quản lý phù hợp và áp dụng phương pháp quản lý rủi ro, vừa tránh thất
thu cho ngân sách, vừa đơn giản hóa thủ tục". Ngoài ra, Bộ Tài chính cần có các văn bản
hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 60/2007/TT-BTC, trong đó có quy định cụ thể
trường hợp "hoàn trước, kiểm tra sau" và "kiểm tra trước, hoàn thuế sau" trình tự thực hiện
theo hướng công khai các tiêu chí phân loại rủi ro để các doanh nghiệp xác định được mình là
đối tượng được "hoàn thuế trước, kiểm tra sau" hay "kiểm tra trước, hoàn thuế sau" khi làm
thủ tục hoàn thuế.
3.2.5. Phương thức giải quyết tranh chấp về hoàn thuế giá trị gia tăng
Tranh chấp liên quan đến hoàn thuế GTGT hiện nay ở nước ta, chủ yếu được giải quyết
bằng đơn khiếu nại tới cơ quan thuế có thẩm quyền hoặc bằng đơn khiếu nại tới cơ quan thuế
có thẩm quyền hoặc bằng đơn khởi kiện của chủ thể có quyền hoàn thuế gửi đến tòa hành
chính kiện cơ quan thuế có liên quan đến hoàn thuế GTGT.
Để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp liên quan đến hoàn thuế GTGT qua giải quyết
bằng đơn khiếu nại thì cán bộ thuế trực tiếp làm công tác hoàn thuế GTGT phải nắm vững chính
sách pháp luật của Nhà nước nói chung, nắm vững pháp luật về hoàn thuế GTGT nói riêng.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ khi giải quyết hoàn thuế GTGT theo hướng thuận lợi, đơn giản hóa
thủ tục hành chính nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi cho chủ thể có quyền hoàn thuế GTGT.
Cơ quan thuế cần giảm thiểu tối đa những sai phạm trong quá trình hoàn thuế GTGT, nếu
cán bộ thuế nào có sai phạm trong hoàn thuế GTGT thì phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với
quyết định của mình và phải chịu trách nhiệm đền, bù vật chất đối với nhà nước và các chủ thể
có quyền hoàn thuế GTGT.
Bên cạnh việc quy định các chế tài quy định cho các tổ chức, cá nhân khi vi phạm pháp
luật về hoàn thuế GTGT, cần phải có các quy định kèm theo chế tài phạt tiền hoặc áp dụng biện
14
pháp hành chính khác như: tịch thu tài sản; cấm hành nghề trong lĩnh vực kinh doanh đó trong
một thời gian nhất định…
Với những đánh giá về những bất cập nêu trên trong quá trình áp dụng pháp luật về hoàn thuế
GTGT hiện nay và một số kiến nghị nhằm giải quyết những bất cập đó, tôi hy vọng pháp luật về
hoàn thuế GTGT ở Việt Nam sẽ sát với thực tế hơn, được hoàn thiện hơn trong thời gian tới bảo
đảm pháp luật thuế GTGT nói chung và hoàn thuế GTGT nói riêng sẽ là công cụ pháp lý hữu
hiệu trong việc đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và công bằng cho các chủ thể, các
tổ chức cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
KÕt luËn
Pháp luật về hoàn thuế GTGT giữ vị trí quan trọng trong hệ thống các văn bản pháp luật
về thuế ở nước ta hiện nay. Qua phân tích cho thấy, pháp luật về hoàn thuế GTGT là những
quy định pháp luật về thuế mới và tiến bộ. Cơ chế hoàn thuế GTGT có tác động rất lớn và tích
cực đến các đối tượng thuộc diện hoàn thuế. Cụ thể, thông qua việc hoàn thuế GTGT, nhà
nước đã ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp, tận dụng các nguồn lực tái đầu tư mở rộng, tăng khả
năng cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì những cơ hội và thách thức đặt ra đối với
các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn. Hơn bao giờ hết, việc hỗ trợ các doanh nghiệp một cách
hiệu quả sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể đứng vững trên thương trường, nâng cao
được năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, các sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp nội địa sẽ được người tiêu dùng yêu thích, ưa chuộng.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế đất nước vẫn còn chịu nhiều tác động,
ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Các doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó
khăn về tài chính trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nếu đồng tiền hoàn thuế GTGT được
nhà nước chi trả kịp thời, đúng đối tượng, phù hợp với từng trường hợp hoàn thuế thì sẽ có tác
dụng hỗ trợ tích cực và có ý nghĩa rất lớn với các doanh nghiệp. Vì vậy, chính sách thuế
GTGT nói chung, pháp luật về hoàn thuế GTGT nói riêng của Việt Nam cần phải có những
chỉnh lý, sửa đổi kịp thời, hướng tới các mục tiêu minh bạch, hiệu quả, công bằng, đáp ứng và
đảm bảo phù hợp với các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Việc thực hiện các giải pháp về pháp luật hoàn thuế GTGT ở Việt Nam giúp Nhà nước
khắc phục được những lỗ hổng, tồn tại trong chính sách hoàn thuế, gây dựng niềm tin cho các
doanh nghiệp làm ăn chân chính vào chính sách hoàn thuế GTGT của nhà nước, góp phần
ngăn ngừa có hiệu quả đối với những doanh nghiệp có hành vi lợi dụng chính sách hoàn thuế
GTGT để chiếm đoạt tiền hoàn thuế, làm thâm hụt ngân sách nhà nước như thời gian qua. Mặt
khác, các cơ quan thuế nhà nước có thẩm quyền giải quyết về hoàn thuế GTGT cũng cần phải
đẩy mạnh và tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với các chủ thể thuộc diện hoàn thuế trong
việc chấp hành và thực hiện các quy định pháp luật về hoàn thuế GTGT, tránh tình trạng thực
hiện không đúng quy định pháp luật, gây thiệt hại và ảnh hưởng đến các doanh nghiệp.
Nếu các doanh nghiệp đều có ý thức chấp hành và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về hoàn
thuế GTGT ở Việt Nam thì sẽ tạo dựng được môi trường sản xuất, kinh doanh lành mạnh, góp
phần ổn định ngân sách nhà nước. Ngược lại, nhà nước cũng có thể hỗ trợ tích cực, hiệu quả trở
lại đối với các doanh nghiệp thuộc diện hoàn thuế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Có như
vậy, cơ chế hoàn thuế mới thực sự phát huy được các ưu điểm nổi trội của hoàn thuế GTGT, góp
15
phần kích thích, tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ để phát triển kinh tế đất nước theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
References
TIẾNG VIỆT
1. Bộ Tài chính (2007), Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/6 hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật quản lý thuế 2006 và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP
ngày ngày 22/5/2007 của Chính phủ, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (2008), Thông tư số 129/2008/TT-BTC ngày 26/12 hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-
CP ngày ngày 08/12/2008 của Chính phủ, Hà Nội.
3. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 79/2009/TT-BTC ngày 20/4 hướng dẫn thủ tục hải
quan, kiểm tra, giám sát hải quan, quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,
Hà Nội.
4. Bộ Tài chính (2009), Thông tư 205/2009/TT-BTC ngày 26/10 hướng dẫn thủ tục hoàn
thuế giá trị gia tăng đối với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, vật tư
xây dựng, nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm, Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 94/2010/TT-BTC ngày 30/6 hướng dẫn thực hiện hoàn
thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa xuất khẩu, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2010), "Hệ thống văn bản", .
7. "Cả giám đốc và phó giám đốc vào tù" (2010),
newsdetail/phap_luat/320496, ngày 10/4.
8. Chính phủ (2007), Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 22/5 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật quản lý thuế, Hà Nội.
9. Chính phủ (2007), Đề án đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà
nước giai đoạn 2007-2010 (Đề án 30), Hà Nội.
10. Chính phủ (2007), Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 07/6 quy định xử lý vi phạm pháp
luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, Hà Nội.
11. Chính phủ (2008), Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Hà Nội.
16
12. Chính phủ (2008), Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12 về những giải pháp cấp
bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã
hội, Hà Nội.
13. Chính phủ (2010), Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5 quy định về hóa đơn bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, Hà Nội.
14. "Doanh nghiệp ma móc túi Nhà nước" (2006), http://www. hanoimoi.com.vn/
newsdetail/kinh_te/80871, ngày 26/3.
15. "Gia tăng tình trạng doanh nghiệp lừa đảo hoàn thuế" (2008), http://www.
tapchiketoan.com/tin -tuc/tin-tuc-thue-phi, ngày 29/7.
16. Phan Mỹ Hạnh (2009), "Gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng thông qua
chứng từ, hoá đơn khống và nguy cơ thất thoát ngân sách nhà nước",
nghien-cuu-trao-doi/kinh-te-thuong-mai/2009/8552, ngày
30/8.
17. Trần Đình Hảo (2003), Pháp luật thuế giá trị gia tăng những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Tài chính, Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Thương Huyền (2002), Những vấn đề pháp lý về việc áp dụng thuế giá trị
gia tăng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học.
19. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2002), Giáo trình Luật tài chính Việt Nam, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
20. Hoài Lương (2010), "Thuế VAT sau 13 năm vẫn nhiều bất cập", http://dantri.
com.vn/c76/s76-377216, ngày 03/02.
21. Ngân hàng Nhà nước (2002), Quyết định số 1092/2002/QĐ-NHNN ngày 8/10 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng
dich vụ thanh toán, Hà Nội.
22. "Nghề đại lý thuế vướng vì … thiếu hướng dẫn" (2010),
TabId/70/ArticleId/1868/ PreTabId/95/Default.aspx, ngày 13/12.
23. Bùi Công Quang (2006), Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia
tăng ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
17
24. Đức Quang (2009), "Lập công ty bán hoá đơn khống hơn 33 tỷ đồng",
/2009/03/3BA0CDA6, ngày 13/3.
25. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
26. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội
27. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.
28. Quốc hội (2006), Luật quản lý thuế, Hà Nội.
29. Quốc hội (2008) Luật thuế giá trị gia tăng, Hà Nội.
30. Thành Sơn (2010), "Một cửa đến đâu, hoàn thuế có kẽ hở", http://www.
baobinhduong.org.vn/newsdetails.aspx?newsid=15210, ngày 16/8.
31. Nguyễn Trần Tâm (2010), "Kiện cơ quan thuế",
Pages/20101003/kien-co-quan-thue.aspx, ngày 03/10.
32. "Thanh toán qua ngân hàng, doanh nghiệp khổ vì vướng hoàn thuế" (2009),
ngày 13/5.
33. Lê Thị Thu Thủy (2008), "Luật thuế giá trị gia tăng nên sửa đổi theo hướng nào",
vibonline.com.vn/viVN/forum/TopicDetail.aspx?TopicID=1967.
34. Lưu Thủy (2010), "Doanh nghiệp đã đỡ bị hành!", ngày 17/6.
35. Tổng Cục Thuế (2009), Công văn số 10220/BTC-TCT ngày 20/7 hướng dẫn điều kiện
chứng từ thanh toán qua ngân hàng để hoàn thuế giá trị gia tăng, Hà Nội.
36. Tổng Cục Thuế (2009), Quyết định số 1458/QĐ-TCT ngày 14/10 về việc ban hành Quy
trình hoàn thuế, Hà Nội.
37. Trường Đại học luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật tài chính ngân hàng, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
38. Trường Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
40. Trương Anh Tuấn (2005), "Giải quyết như thế nào cho thoả đáng những vụ án về hoàn
thuế giá trị gia tăng", Toà án nhân dân, (12).
18
41. Trần Anh Tuấn (2009), "Những bất cập trong phương pháp tính thuế và qui trình hoàn
thuế giá trị gia tăng", http:// www.luatviet.org/Home/ nghien-cuu-trao-doi/kinh-te-
thuong-mai/2009/8567, ngày 30/8.
42. Nguyễn Văn Tuyến (2008), "Một số ý kiến trao đổi, bình luận về dự án luật thuế thu nhập
doanh nghiệp và dự án luật thuế giá trị gia tăng",
vibonline.com.vn/viVN/Forum/TopicDetail.aspx?TopicID=1882, Hà Nội.
43. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, NXb
Khoa học và Xã hội, Hà Nội.
44. "Xét xử vụ Phạm Công luận và đồng bọn lừa đảo chiếm đoạt tài sản" (2009),
ngày 28/9.
45. Hải Yến (2011), "Hoãn xử vụ Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh bị kiện",
794p1063c1016, ngày 02/3.
TIẾNG ANH
46. David Fitzgerald (2009), "PwC Corporate Income Tax and Value Added Tax updates for
Vietnam", /Downloads/
EuroCham%20Newsletter_ENQ108_pg4&5.pdf, date 01/01.
47. "Law on value-added tax" (2006), /Laws%20
in%20English/64.%20Law%20on%20Value%20Added%20Tax%20, date 26/12.
48. Martin Brune (2009), "How to get foreign VAT refund", http://www.
justlanded.com/english/Germany/Articles/Business/VAT-refund, date 15/01.
49. "Request for refund of VAT in another Member State" (2010), http://impots-
service.net/french-tax-french-taxation-vat-help-france/french-vat/request-for-refund-of-vat-
in-another-member-state, date 01/01.
50. T.M. Rybczynski (Edited) (1969), The Value-Added Tax - the UK position and the
European experience, Basil Blackwell, Oxford.
51. "Value added tax law" (2004),
0added%20tax%20law,%202004.pdf.