Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của hàng may việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.42 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là mục tiêu xuyên suốt thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mục tiêu là năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự nỗ lực
của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Công nghiệp, đặc biệt là công
nghiệp nhẹ là ngành có vai trò quan trọng trong tiến trình này.
Ngành dệt may có thể nói là ngành đi đầu trong các ngành công nghiệp
nhẹ. Từ khi đổi mới, ngành đã có những đóng góp quan trọng trong nền
kinh tế. Thực tế, vài năm gần đây, ngành đã có những bước phát triển vượt
bậc. Thị trường chủ yếu của ngành may hiện nay là xuất khẩu ra nước
ngoài. Song càng ngày, các thị trường càng trở nên khó tính hơn, cạnh
tranh diễn ra gay gắt hơn. Do đó, việc mở rộng thị trường cho ngành dệt
may trở nên không hề dễ dàng. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để có thể
mở rộng và khẳng định tên tuổi của hàng may mặc Việt Nam trên thị
trường thế giới. Tác giả xin đề ra một cách nhìn tổng quát về toàn ngành
dệt may trong những năm qua và mạnh dạn đưa ra kiến nghị về một số giải
pháp để mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu của hàng may mặc Việt
Nam.
Với mục đích như vậy đề án bao gồm các phần sau:
- Phần 1: Tổng quan về ngành may Việt Nam.
- Phần 2: Thực trạng xuất khẩu hàng may Việt Nam.
- Phần 3: Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của hàng may Việt Nam.
Việc xây dựng đề án được sự giúp đỡ chi tiết và nhiệt tình của thầy
Nguyễn Đình Trung.
Em xin chân thành cảm ơn.
1
PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY
1. Lịch sử phát triển ngành dệt may Việt Nam.
Ngành dệt may là một trong nhũng ngành công nghiệp có lịch sử phát
triển lâu dài ở Việt Nam. Đặc biệt, ngành dệt sợi có từ lâu và phát triển
mạnh trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ. Trước khi thực dân Pháp xâm


lược Đông Dương đã tồn tại nhiều nhà sản xuất vải tại Việt Nam sử dụng
sợi nhập khẩu. Khi cai trị, thực dan Pháp đã tăng thuế nhập khẩu sợi làm
cho sản xuất vải tại nước ta gặp nhiều khó khăn.Nhưng trong thời kỳ này
nhiều nhà máy dệt hiện đại do Pháp đầu tư đã được thành lập. Năm 1889,
nhà máy dệt đầu tiên được Pháp xây dựng tại Nam Định, tiếp theo là năm
1894 tại Hàn Nội và sau đó là tại Hải Phòng. Năm 1912, ba nhà máy hợp
nhất thành “ Công ty dệt vải Đông Kinh”. Chín phủ thực dân Pháp thu
được nhiều lợi nhuận nhờ việc kinh doanh độc quyền ngành này.
Sau đại chiến thứ hai, ngành dệt may Việt Nam có những bước phát
triển đáng kể. Vào thời gian đó, các doanh nghiệp ở miền Bắc nhập máy
móc thiết bị dệt sợi từ Trung Quốc, Liên Xôvà các nứoc Đông Âu, trong
khi đó các doanh nghiệp miền Nam nhập máy móc thiết bị từ các nước
phương Tây để đẩy mạnh sản xuất hàng dệt may. Năm 1975 sau khi nước
ta thống nhất, các công ty dệt may quy mô lớn của miền Nam được quốc
hữu hóa và đưa vào hệ thống kinh doanh bao cấp. Ủy ban Kế Hoạch nhà
nước giao chỉ tiêu sản xuất cho các doanh nghiệp dệt nhuộm, may nên hoạt
động sản xuất lưu thông hoàn toàn dựa vào kế hoạch. Kế hoạc và việc sản
xuất hàng dệt may được sản xuất theo quá trình: trước tiên. Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước giao chỉ tiêu cho cácn doanh nghiệp may về kế hoạch sản
xuất, lượng và giá. Các doanh nghiệp may căn cứ vào đó để tính số lượng
nguyên vật liệu đầu vào rồi trình lên ban Ủy ban Kế hoạchvề các doanh
nghiệp dệt có thể đáp ứng yêu cầu. Sau đó căn cứ vào các đề nghị này, Ủy
2
ban Kế hoạch lại giao các chỉ tiêu sản lượng cho các doanh nghiệp dệt
nhuộm ấn trình về giá và ngày giao hàng. Dụa vào giá cả và ngày giao
hàng, các daonh nghiệp nhuộm lại tính lượng sợi cần thiết rồi trình lên ban
Kế hoạch về nhà sản xuất sợi có thể đáp ứng yêu cầu. Cuối cùng, Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước giao chỉ thị cho doanh nghiệp sợi sản xuất lượng sợi
cần thiết như kế hoạch được trình bày ở trên.
Trong nền kinh tế kế hoạch, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt,

nhuộm, may rất mật thiết. Các doanh nghiệp may tiến hành sản xuất theo
thiết kế, số lượng và giá đã được Ủy ban Kế hoạch nhà nước quy định. Các
doanh nghiệp này thường xuyên nắm bắt những thông tin như loại vải nào
thì sản xuất ở doanh nghiệp nào và giữ mối quan hệ mật thiết với các doanh
nghiệp nhuộm. Đơn giá, mẫu mã,… của vải sử dụng ở các doanh nghiệp
may do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước quy định, nhưng nhà cung cấp vải lại
do các doanh nghiệp may trình lên Ủy ban Kế hoạch Nhà nước nên thực
chất quyết định cuối cùng là do các doanh nghiệp này đưa ra.Đồng thời cá
doanh nghiệp nhuộm cũng giữ mối quan hệ khăng khít với các doanh
nghiệp dệt. Xét trên toàn ngành, mối quan hệ khăng khít cùng chia sẻ thông
tin giữa các doanh nghiệp được duy trì khá tốt.Tuynhiên, mối quan hệ
khăng khít này đã có sự thay đổi lớn từ khi có Hiệp định thương mại gia
công ủy thác được ký kết giữa chính phủ Liên Xô cũ và Chính phủ
ViệtNam vào năm 1986. Theo hiệp định này, Chính phủ Việt Nam nhập
khẩu nguyên liệu từ Liên Xô để tiến hành sản xuất hàng may măcc tại các
doanh nghiệp nhà nứớc, sau đó xuất khẩu trở lại Liên Xô.Quy định này đã
làm giảm hẳn nhu cầu đối với các sản phẩm của các doanh nghiệp nhuộm
và dệt trong nước và mối quan hệ mật thiết giữa các doanh nghiệp cũng bị
rạn nứt. Viếc các doanh nghiệp dệt, nhuộm đầu tư vào ngành may đã đẩy
nhanh rạn nứt này.Các nhà doanh nghiệp dệt nhuộm cùng hoạt động trong
cả lĩnh vực may và để tồn tại họ cần nhận được những đơn đặt hàng gia
3
công ủy thác từ Liên Xô. Các doanh nghiệp trong các lĩnh vực dệt, nhuộm,
may từ mối quan hệ hợp tác đã trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau.
Người ta cho rằng đó là nguyên nhân lịch sử chủ yếu cho sụ phân ngành
trong ngành dệt may Việt Nam chưa phát triển.
2. Khái quát về ngành dệt may Viêt Nam hiện nay.
Từ sau khi thực hiện chính sách đổi mới, đặc biệt vào thập kỷ 90 của thế
kỷ 20, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Vào
đầu những năm 90, các nước Đông Á như Hàn Quốc, Đầi Loan, Nhập Bản

trở thành những nước nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam, và
từ năm 1993 khi hiệp định thương mại giữa EU và Việt Nam được ký kết,
quy định hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may mặc sang EU thì xuất khẩu
hàng dệt may tăng nhanh.Xem xét sự thay đổi tổng sản lượng hàng dệt may
từ năm 1995 đến năm 1999 cho thấy, trong 5 năm tổng giá trị sản lượng
tăng khoảng 57%, nhủ vậy tỷ lệ tăng trưởng thực tế bình quân khoảng
12%/năm.
So với các ngành khác về lĩnh vực xuất khẩu, ngành dệt may cũng đã
phát triển rất nhanh và được coi là ngành xuất khẩu mũi nhọn trong thập kỷ
90. Bảng 1 thể hiện sự thay đổi danh mục hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt
Nam giai đoạn 1994-1998. Cho đến trứơc năm 94, kim ngạch xuất khẩu
dầu thô, thủy sản vẫn cao hơn hàng dệt may, nhưng sang năm 1995 mặt
hàng dệt may đã vượt lên mặt hàng thủy sản, tiếp đến vượt dầu thô vào
năm1997 và đang chiếm giữ vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực xuất khẩu.Như
vậy so với các ngành khác thì dệt may vẫn là ngành xuất khẩu chủ yếu có
tốc độ tăng trưởng cao.
Xét theo cơ cấu sở hữu, ngành dệt may Việt Nam gồm 3 bộ phân: (1) sở
hữu nhà nước, (2) ngoài nhà nước, (3) vốn đầu tư nước ngoài.Từ năm 1995
đến năm 1999 vị trí giũa các khu vực sở hữu này cũng có những sự thay
đổi đáng kể.Năm 1995, giá trị sản lượng của khu vực nhà nước đạt 4.532 tỷ
4
đồng; khu ngoài nhà nước đạt 2.986 tỷ đồng, tức tương đương khoảng 2/3
khu vực nhà nước; còn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1.606 tỷ
đồng, chỉ bằng 1.3 khu vực nhà nước.
Bảng 1: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam.
1994 1995 1996 1997 1998
Hàng dệt may 550 800 1.150 1.349 1.531
13.6% 14,7% 15,8% 14,7% 16,4%
Dầu thô 866 1.024 1.346 1.413 1.232
21,4% 18,8% 18,6% 15,4% 13,2%

Gạo 425 549 855 870 1.024
10.5% 10,1% 11,8% 9,5% 10,9%
Thủy sản 551 620 661 781 818
13,6% 11,4% 9,1% 8,5% 8,7%
Cà phê 95 495 337 491 594
2,3% 9,1% 4,6% 5,3% 6,3%
Tổng cộng ( gồm cả các
mặt hàng khác)
4.501 5.449 7.256 9.185 9.361
Nguồn: Lập từ The Economít Intelligence Unit Country Profile 2000
Chú thích : dòng trên: kim ngạch xuất khẩu( triệu USD); dòng dưới: tỷ lệ trong
tổng kim ngạch xuất khẩu.
Đến năm 1999, trong khi tổng già trị sản lượng của khu vực nhà nước
đạt khoảng 5.973 tỷ đồng thì khu ngoài nhà nước và đầu tư nước ngoài đạt
tương ứng 4.323 tỷ đồng và 4.103 tỷ đồng, thu hẹp khoảng cách so với khu
vực nhà nước.
3. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành dệt may VIệt Nam.
3.!. Các lĩnh vực trong ngành dệt may.
Ngành công nghiệp dệt may được chia thành ba lĩnh vực dệt , nhuộm và
may.
3.1.1. Lĩnh vực dệt sợi(sợi tự nhiên sợi hóa học).
Hoạt động cụ thể của lĩnh vực này là sản xuất sợi và chỉ.Sợi có thể chia
làm sợi tự nhiên và sợi hóa học.Sợi tự nhiên gồm sợi thực vật , sợi động
vật,sợi khoáng vật còn sợi hóa học gồm sợi tái sinh sợi tổng hợp , sợi vô
5
cơ. Sản xuất sợi tự nhiên có liên quan mật thiêt với lĩnh vực nông nghiệp,
khoang sản. Sản xuất sợi hóa học thì lại liên quan nhiều tới lĩnh vực công
nghiệp hóa học.
Sợi tùy theo độ dài có thể chia làm sợi loại ngán và sợi loại dài.Sợi ngắn
(Staple) la sợi có độ dài ngắn, được chế biếnthành chỉ, bao gồm nhiều loại

sợi tự nhiên như bong, lông cừu, đay. Nhưng lụa la một loại sợi tự nhiên
được xếp vào loại sợi dài (trừ tơ lụa đã dệt). Trái với sợi ngắn, loại sợi có
nguyên liệu dài gọi là sợi dài(filament- sợi nhân tạo).Đặc trưng của sợi dài
là không gồm sợi trong công đoạn làm chỉ. Rất nhiều sợi nhân tạo là sợi
tổng hợp như là polieste, nilon hay sợi tái sinh như la leon, axetat. Nhưng
cũng có khi người ta cắt ngắn các sợi dài như là polieste, nilon để làm sợi
ngắn. Ví dụ như loại sợi pha giữa bong và polieste(T/C) được tổng hợp từ
sợi dài nhân tạo và sợi bong ngắn.Trong gia công dệt có nhiều công đoạn
quan trọng không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng của chỉ mà còn quyết định
khả năng cung cấp. Trong ngành dệt may, đây là lĩnh vực cần ưu tiên tập
trung vốn, đặc biệt lĩnh vực sản xuất sợi dài. Lĩnh vục này có tính quy mô
nên đòi hỏi đầu tư cho thiết bị lớn hơn so với các lĩnh vực khác.
3.1.2. Lĩnh vực nhuộm: dệt vải, dệt kim.
So với lĩnh vực dệt thì lĩnh vực này tốn niều nhân công hơnvà có đặc
trưng về kỹ thuật và sản xuất đa dạng nhất. Trong sản xuất sợi tổng hợp để
chế biến vải, lĩnh vực này cũng đòi hỏi đầu tư nhiều vốn để hoạt động
mang tính quy mô về kinh tế. Nhưng đối với sợi tư nhiên như bông thì
không liên quan nhiều tới quy mô, nhất là sản xuất dệt kim với quy mô nhỏ
cũng có thẻ triển khai được. Ở đây ta gộp dệt vải và dệt kimvào lĩnh vực
nhuộm. lĩnh vực nhuộm ngòai đặc điểm tập trung nhiều nhân lục so với
lĩnh vực dệt còn có đặc điểm về tỏ chức sản suât mang tính quy mô hóa.
Việc chuyên môn hóa được thực hiện thông qua các công đoạn nhuộm,
hiêu chỉnh, gia công in và hoàn thiện sản phẩm.
3.1.3. Lĩnh vực may.
6
Lĩnh vực may yêu cầu nhân lực ít nhất và tinh quy mô về kinh tế thấp
nhất nên thu hút nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sản xuất trong lĩnh vực
nàyđòi hỏi vốn đầu tư ban đầu nhỏ, không bị ứ đọng nên được đầu tư nhiều
ở các nước đang phát triển. Nội dung hoạt động chủ yếu của lĩnh vực này là
sản xuất hang dệt may với công đoạn: Cắt vải, may, hoàn thiện sản

phẩm( giặt là).
3.2. Vốn và công nghệ sử dụng trong ngành dệt may.
Ngành công nghiệp dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ, phát triển
lên từ ngành dệt may truyền thống. Do đặc thù của ngành là thủ công nên
cần nhiều lao động trong các khâu sản xuất, công nghệ cũng không đòi hỏi
quá phức tạp. Nên có thể thấy, đầu tư vào ngành này không cần quá nhiều
vốn. Hơn nữa ngành dệt may có một ưu thế là thu hồi vốn nhanh, suất đầu
tư thấp, rất phù hợp với quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3.3. Rủi ro thường gặp trong sản xuất và lưu thông hàng dệt may.
Có rất nhiều rủi ro trong sản xuất và lưu thông hang dệt may. Những rủi
ro đó phát sinh từ hai nguyên nhân chin là tính hay thay đổi của thị trường
và việc thiếu trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp. Tính hay thay đổi
của thị trường phát sinh do sự thay đổi thị hiếu nhanh chóng của người tiêu
dùng về màu sắc, hất liệu kiểu dáng, mẫu mã. Bên cạnh đó, ngành dệt may
với hình thức sản xuất lưu thông phức tạp và tốn thời gian nên thiếu thông
tin trao đổi giúa các doanh nghiệp. Từ hai nguyên nhân này vấn đề điều tiết
rủi ro phải được đặt lên thành vấn đề lớn đối với các công ty. Duới đây là
một ví dụ về vấn đề điều phối rủi ro thường được áp dụng trong ngành dệt
may.
Việc tiêu thụ hàng dệt may chịu ảnh hưởng rất lớn của thời trang và thị
hiếu của người tiêu dùng. Do vậy, các nhà điều phối dựa vào hoạt động
marketing để tiến hành lập ké hoach sản xuất và thiết kế mẫu mã theo cácn
có thể được thị trường chấp nhận. Nếu sản phẩm đó không phù hợp với thị
trường thì sẽ không tiêu thụ được nên các nhà điều phối phải luôn lường
7
được những rủi ro nay.Mặt khác, một số vấn đề kỹ thuật trong quá trình sản
xuất nguyên phụ liệu thường làm phát sinh yêu cầu về lô hàng tối thiểu. Do
đó, đối với các doanh nghiệp cung cấp như doanh nghiệp dệt, nguộm dể
nhân được đơn đặt hàng từ các nhà điều phối phải yêu cầu các nhà điều
phối mua toàn bộ số lượng tối thiểu với mức giá quy định trong hợp đồng.

Do thiết kế của các nhà điều phối thường khác nhau, nói cách khác là việc
sản xuất vải và các phụ liệ mang tính quan hệ đặc thù nên nếu yêu cầu này
không được thỏa mãn thì các doang nghiệp sản xuất khó bán sản phẩm của
mình cho các nhà điều phối khác. Như vậy, nếu các điều khỏan trong hợp
đồng không chặt chẽ thì các doanh nghiệp cung cấp sẽ gặp nhiều khó khăn.
Trên đây chỉ là một ví dụ về rủi ro phát sinh trong sản xuất dệt may. Để
nâng cao giá trị gia tăng hàng dệt may cần giải quyết được vấn đề điều phối
giữa các doanh nghiệp trong sản xuất và lưu thông. Nói cách khác , việc
phân phối hợp lý các rủi ro phát sinh trong sản xuất và lưu thông hàng dệt
may là chìa khóa quan trọng để nâng cao giá trị gia tăng của ngành.
8
PHẦN II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY
VIỆT NAM
1. Thực trạng xuất khẩu của ngành may Việt Nam.
1.1. Về kim ngạch xuất khẩu.
Theo hiệp hội dệt may Việt Nam, cả nước hiện có trên 1000 doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng dệt may trong đó phần lớn là các
doanh nghiệp chuyên ngành may. Trong 3 năm trở lại đây, ngành may có
những bước phát triển đáng kể. Nếu năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu
của ngành mới đạt 500 triệu sản phẩm thì đến năm 2003 tổng kim ngạch
xuất khẩu đã đạt 600 triệu sản phẩm. Kim ngạch xuất khẩu hàng may luôn
giữ vị trí áp đảo trong cơ cấu xuất khẩu của ngành và chiếm khoảng 70%
tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt may.
1.2. Về sản phẩm.
Trong thời gian qua, ngành may Việt Nam đã đạt được một số kết qủ
đáng khích lệ. Mặt hàng xuất khẩu đa dạng hơn trước như: sơ mi nam nữ,
áo jacket. Áo khoác nam nư, quần jean, bộ quần áo nam nũ. Nhiều sản
phẩm mới ra đời đặc biệt là một số mặt hàng chất lượng cao có tiêu chuẩn
quốc tế như: sơ mi cao cấp, áo jacket, quần jeans. Nhiều sản phẩm đã
khặng định được chỗ đứng trên một số thị trường khó tính như Pari,

London, Amstecdam, Berlin, Tokyo, NewYork.
Nhưng, điều kiện kỹ thuật và công nghệ còn hạn chế nên phần nhiều sản
phẩm của ngành thuộc nhóm sản phẩm trung bình chất lượng còn ở mức
khiêm tốn( mặc dù cũng có một số sản phẩm có chất lượng cao). Nhìn
chung các doanh nghiệp may chưa đáp ứng được những yêu cầu đối với
hàng may như mốt, mẫu mã, đường nét, chất liệu, màu sắc…của thị trường
xuất khẩu. Sản phẩm của ngành có nhiều đặc điểm riêng biệt khiến thị hiếu
khách hàng thay đổi nhanh chóng phụ thuộc vào mốt, thời vụ. Công nghệ
sảm xuất thời trang lại khá đơn giản dễ bắt chước, vì vậy dù công tác mẫu
9
mốt đã có những bướcphát triển đáng kể nhưng chủ yếu các doanh nghiệp
vẫn sử dụng mẫu mốt của người thuê gia công. Do đó công tác sản phẩm
thường phụ thuộc vào khách hàng.
Tóm lại, xét về sản phẩm, tuy chất lượng và cơ cấu sản phẩm của ngành
đa dạng và phong phú hơn trước song so với nhu cầu và thị hiếu khách
hàng tì còn nhiều khoảng trống chưa đáp ứng được, nhất là đối vợi thị
trường của các nước Tư Bản phát triển. Hàng may xuất khẩu của ngành
chưa có nhãn mác thương mại riêng, đó là lí do làm giảm khả năng cạnh
tranh của snr phẩm may trên thị trường xuất khẩu.
1.3. Về giá bán sản phẩm.
Ngàng may có đặc điểm là có hàm lượng lao động cao, yêu cầu công
nghệ không quá hiện đại mà phụ thuộc nhiều vào kỹ năng của người lao
động. Đặc điểm này làm cho ngành may được đánh giá là có tính phù hợp
cao trong giai đoạn phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay. Nước ta có nguồn
lao động dồi dào, cần cù sáng tạo, đặc biệt là giá lao động thấp hơn hẳn so
với các nước trong hku vực đã tạo ra lợi thế cạnh tranh của sane phẩm may
Việt Nam.
Bảng 2: Tiền công lao động theo giờ ở một số nước.
TT Nước
Tiền

công(USD/giờ)
TT Nước
Tiền
công(USD/giờ)
1
2
3
4
5
6
7
8
Nhật
Pháp
Mỹ
Anh
Đài Loan
Hàn Quốc
Hồng kông
Singapo
16,31
12,63
16,93
10,16
5
3,6
3,39
3,16
9
10

11
12
13
14
15
Malaixia
Thái Lan
Philipin
Ấn Độ
Trung Quốc
Inđônêxia
Việt Nam
0,95
0,87
0,67
0,54
0,34
0,23
0,18
Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam
10
Tuy nhiên giá lao động rẻ chỉ là lợi thế nhất thời, không ổn định trong
cạnh tranh. Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển mạnh, các qua trình
sản xuất được tự dộng hóathì giá gia công rẻ không còn là thế mạnh như
trước nữa. Mặt khác, phần lớn lượng nguyên vật liệu và đôi khi cả phụ liệu
đầu vào của các doanh nghiệp may là nhập khẩu theo dạng tạm nhập tái
xuất do khách hàng đặt gia công cung cấp. Cũng có nhiều khách hàng mua
vải và phụ liệu của các doanh nghiệp Việt Nam để đưa đến các doanh
nghiệp gia công, nhưng giá cả của nguyên phụ liệu sản xuât trong nước
thường cao hơn giá nhập khẩu, mẫu mã lại nghèo nàn, kếm hấp dẫn, chất

lượng các lô hàng thường không đồng đều, thủ tục mua bán phức tạp, tiến
độ giao sai hợp đồng thương xuyên xải ra… Chính vì vậy các doanh nghiệp
may thường xuyên nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, đẩy giá sản xuất
và giá bán sản hàng may lên rất cao. Cho nên dù có lợi thế về giá nhân
công như đã nói ở trên song mức giá của các doanh nghiệp may ViệtNam
thường cao hơn giá sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN. Ví dụ mức
giá của TCT Dệt May Việt Nam thường cao hơn giá sản phảm cùng loại
của các nước ASEAN từ 10-12%, cao hơn hàng Trung Quốc hơn 20%( số
liệu năm 2001). Cũng do việc nhập khẩu đầu vàodẫn đến quá trình sản xuất
của các doanh nghiệp khoong ổn định, phụ thuộc vào nhà cung cấp, việc
thực hiện hợp đồng nhiều khi không theo tiến độ thời gian đã định trước,
làm ảnh hưởng không tốt đến uy tín của doanh nghiệp với bạn hàng.
Ngoài ra, việc nhiều doanh nghiệp thiếu vốn kinh doanh phải vay vốn
ngắn hạn để đầu tư phát triển và trả lãi xuất vay cao cũng làm giảm khả
năng cạnh tranh về giá của sản phẩm may. Nói tóm lại , giá bán sản phẩm
vẫn chưa phải là lợi thế cạnh tranh của hà may Việt Nam.
1.4. Hệ thống phân phối sản phẩm và các chính sách liên quan.
“ Poscelin, một công ty Hồng Kông thương mang đến những hợp đồng
gia công 2-3 triẹu áo jacket mỗi năm, nay gần như không còn làm ăn với
ngành may Việt Nam nữa. Một khách hàng lón khác đến từ Israel, trước
11
đây mua của Việt Nam đến 5 triệu áo sơ mi để xuất khẩu đi hàng chục
nước trên thế giới, nay cũng cắt giảm đến nửa đơn đặt hàng ở Việt Nam để
chuyển sang gia công ở Myanma…”
Đây chỉ là một vài ví dụ mà Hiệp hội Dẹt May Việt Nam đã đưa ra để
cho thấy nhiều khách hàng lớn của ngành may đang dần rời bỏ Việt Nam
để tìm đến những nguồn cung ứng mới ở Trung Quốc, Bắc Mỹ, Đong Âu,
Bắc Phi… Theo một số chuyên gia nghiên cức ngành dệt may thì ngành
may Việt Nam đang mất dần lợi thế cạnh tranh do nhiều nguyên nhân,
trong đó có các nguyên nhân liên quan đến hệ thống phân phối và các chính

sách của nhà nước.
Hiện tại, hình thức phân phối sản phẩm của ngành may chủ yếu dựa trên
phương thức gia công xuất khẩu trong đó các doanh nghiệp may Viẹt Nam
hầu như không chịu rủi ro về việc tiêu thụ hàng hóa. Vai trò của các doanh
nghiệp may Việt Nam trong quá trình sản xuất và lưu thông sản phẩmcòn
rất hạn chế nên tỷ lệ giá trị gia tăng được hưởng cũng rất thấp. Kênh lưu
thông hàng may mặc còn chưa hoàn thiện, các doanh nghiệp thiếu thông tin
về thị trường, tự mình phát triển thị trường tiêu thụ dẫn đến không hiệu quả
và buộc phải dựa vào khách hàng nước ngoài.
Trong khi đó, trước khi quyết định dặt gia công hay mua hàng may ở
một nước nào, khách hàng thường cân nhắc các yếu tố như: hệ thống chính
trị ở nước bán hàng ổn định và đẩm bảo làm ăn lâu dài với mức rủi ro thấp;
chi phí gia công và các chi phí khác; thời gian sản xuât và giao hàng;các ưu
đãi thưong mại và thuế ở các nước nhập khẩu. Trong các yếu tố đó, Việt
Nam có ưu thế là có hệ thống chính trị ổn định, đảm bảo làm ăn lâu dài,
nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều yếu tố không thuận lợi như môi trương
kinh doanh chưa thực sự thông suốt, đổi mới chậm chạp, thủ tục hành
chính rươmg rà, phức tạp; các chi phí khác ngoại trù chi phí gia công như
chi phí thông tin liên lạc, vận chuyển khá cao; Việt Nam chưa được nhiều
ưu đãi thương mại vàthuế của thị trường nhập khẩu chính,hàng may xuất
12
khẩu sang các nước vẫn bị khống chế bằng hạn ngạch và bị đánh thuế nhập
khẩu cao. Do vậy nhiều khách hàng ở Nhập, EU và nhiều nước khác đang
có xu hướng chuyển đơn đặt hàng sang các nước Trung Quốc, Đông Âu…
để hưởng các ưu đãi về thương mại, thuế quan và tận dụng các chi phí vận
chuyể và liên lạc rẻ.
1.5. Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Có thể nói khi xâm nhập các thị trường may thế giới đặc biệt là thị
trường EU, Nhập Bản, Mỹ bằng con đường xuất khẩuthì đối thủ cạnh tranh
khổng lồ và đáng gờm nhất đối với các doanh nghiệp may Việt Nam là

Trung Quốc.
Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới lại nằm trên con đường tơ
lụa nên ngành may Trung Quốc phát triển hàng ngàn năm nay, vừa đảm
bảo nhu cầu tiêu thụ trong nước, vừa đảm bảo giao thương quốc tế. Trung
quốc giữ vị trí hàng đầu trong ngành dệt may thế giới về sản lương bong,
vải bông và san phẩm may mặc và đứng thứ hai thế giới về xơ hóa học.
Công nghiệp dệt may Trung Quốc luôn giư vị trí tiên phong trong nền kinh
té quốc dân, giá trị sản lượng của ngành dệt may chiếm xấp xỉ 20% tổng
giá trị sản lượng công nghiệp toàn quốc và là ngành công nghiệp lớn nhất
nước. Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc chiíem tỉ
trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch buôn bán hàng dệt may toàn cầu,
trung bình kim ngạch xuất khẩu hàng may chiếm khoảng 20% kim ngạch
xuất khẩu toàn cầu, trong đó các thị trường truyền thống của Trung Quốc là
Hồng Kông, Nhập Bản, Mỹ, EU và Australia. Năm 2002, những thị trường
này chiếm khoảng 80% tổng giá trị xuất khẩu của Trung Quốc. Theo dự
đoán của các chuyên gia nghiên cứu của ngân hàng Thế giới, sau khi gia
nhập WTO, đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của ngành may Trung
Quốc sẽ chiếm đến 47% thị trường may mặc của thế giới.
13
Hiện nay nhiệm vụ chiến lược của Trung Quốc là tăng khả năng cạnh
tranh thông qua việc cơ cấu lại ngành dệt may, điều chỉnh quy mô sản xuất,
hiệ đại hóa thiệt bị và nâng cao gia trị gia tăng của san phẩm nhằm mục
đích chuyển từ một quốc gia có ngành công nghiệp dệt may lớn thành nước
có ngành công nghiệp dệt maymạnh. Chiến lựoc này được thực hiện dựa
trên một số ưu thế của ngành dệt may Trung Quốc như: Đội ngũ nhân viên
kỹ thuật giỏi, giá hàng may thấp( chỉ khoảng 80% giá hàng cùng loại của
Việt Nam); công tán marketting có hiệu quả, cơ cấu ngành dệt may đã phát
trển ở mức nhất định và đặc biẹt là hệ thống chính sách hỗ trợvà khuyến
khích của chính phủ Trung Quốc.
Bên cạnh Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapo đều là

các nước xuất khẩu hàng may với kim ngạch xuất khẩu cao hơn Việt Nam
bởi họ tạo được nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với các sản phâme của Việt
Nam. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng may của Thái Lan bằng 4 lần,
Trung Quốc bằng 25 lần của Việt Nam. Có thể nói, mức độ cạnh trnah trên
thị trường may trong khu vực Châu Á hiện đang rất gay gắt.
2. Các phương thức xuất khẩu gia công của ngành may Việt Nam.
Hiện nay dệt may là một trong những ngàn xuất khẩu chủ yếu của Việt
Nam. Tuy nhiên, sức cạnh tranh quốc tế của ngành dệt may Việt Nam lại bị
hạn chế cả về mặt hàng và quy chế sản xuất.Hầu hết hàng dệt may Việt
Nam được sản xuất từ vải cotton hoặc vải pha cotton polyester(T/C). Đât là
những sản phẩm được sản xuất hàng loạt với chất lượng vừa và thấp. Việc
sản xuất các sản phẩm chất lượng cao như comle nam, váy phụ nữ gặp
nhiều kho khăn về kỹ thuật may và nguyên vật liệu nên khối lượng xuất
khẩu các mặt hàng này rất thấp. Ngòai mặt hàng may mặc, Việt Nam
khôgn xuất khẩu được các sản phẩm khác như tơ, sợi, vải…
14
2.1. Gia công ủy thác theo hình thức CMT.
Phần lớn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc được thực hiện dưới dạng
sản xuất, lưu thông theo hợp đông gia công ủy thác( dưới đây sẽ gọi là gia
công ). Do các doanh nghiệp Việt Nam chỉ thực hiên ba công đoạn là cắt
(cut) , may( make), hoàn thiện (trim) nên hình thức sản xuât kưu thông này
gọi là gia công CMT. Trong sản xuất lưu thông hàng may mặc dực trên
hình thức này, toàn bộ nguyên phụ liệu đều do khách hàng nước ngoài cung
cấp cho các doanh nghiệp may Việt Nam. Cụ thể, khách hàng nước ngoài
sẽ cung cấp các nguyên liệu như vải và các phụ liêuj như khóa kéo, vải
độn, vải lót, khuy… còn các doanh nghiệp may Việt Nam chỉ tiến hành
may. Khách hàng nước ngoàicòn cung cấp cả các thiết bị máy móc loại tốt
để đo đạc những kích thước nhỏ nhấtcần thiết khi làm mẫu cứng và cắt trên
vải. Sản phẩm may hoàn thiện sẽ được khách hàng nước ngoài mua lại. Khi
đó, khách hàng nước ngoài sẽ thanh toand chi phí gia công (phí CMT) cho

các doanh nghiệp may Việt Nam. Diều đó có nghĩa là gia công CMT là
hinh thức sản xuất lưu thông mang tích chất “ chế độ bao tiêu”.
Hầu hết các nguyên phụ liệu sử dụng trong hình thức gia công CMT đều
phải nhập khẩu. Các nguyên phụ liệu do Việt Nam sản xuất thường gặp
phải các vấn đè về chất lượng cạnh tranh giá và thời hạn giao hàng không
thể đáp ứng yêu cầu sản xuất may mặc xuất khẩu. Hơn nữa, qua điều tra
phỏng vấn các doanh nghiệp Việt Nam có liên quan đến ngành dệt may thì
toàn bộ bên thuê gia công đều là nhà điều phối, công ty thượng mại hay
công ty bắn lẻ của nước ngoài.
2.1.1. Các doanh nghiệp may Việt Nam không phải chịu rủi ro trong
qua trình sản xuất lưu thông theo hinh thức gia công CMT.
Trong xuất khẩu hàngmay mặc theo hình thức gia công CMT, các doanh
nghiệp may Việt Nam chỉ nhận được một phần giạ trị rất nhỏ trong đơn giá
sản phẩm. Theo điều tra của các doanh nghiệp may Việt Nam, giá trị bình
quân về tỷ lệ CMT trong đơn giá thành phẩm là 0,153 nghĩa là các doanh
nghiệp may Việt Nam chỉ đóng góp khoang 15% giá trị thành phẩm. Nếu
doanh nghiệp may Việt Nam tự mua nguyên vật liệu hoặc tự tạo ra những
15
sản phẩm theo thiết kế của mình thì về mặt lý thuyết họ có thể đạt được giá
trị gia tăng cao hơn.
Tỷ lệ giá trị gia tăng phụ thuộc vào vị trí của doanh nghiệp trong sản
xuất lưu thông. Hiện nay, do vai trò cảu các doanh nghiệp Việt Nam trong
quá trình sản xuất và lưu thông hàng may mặc còn han chế nên tỷ lệ gia trị
gia tăng được hưởng còn thấp. Hình 4 sẽ khái quát quá trình sản xuất lưu
thông hàng may mặc.
Bảng 3: Sơ đồ tự sản xuất, lưu thông hàng may mặc.





Nguồn: Nhóm nghiên cứu Trường ĐHKTQD xây dựng.
Nhìn chung, để tạo ra sản phẩm, ngành may phải bắt đầu từ việc xây
dựng kế hoạch sản phẩm. Ở giai đoạn này, các doanh nghiệp may quyết
định quy cách sản phẩm như máu sắc, loại vải sửu dụng và chiế lược tiêu
thụ bao gồm cơ cấu sản phẩm, thiết kế thương hiệu… Trong giai đoạn lụa
chọn nhà cung ứng, doanh nghiệp xây dựng hêh thống các nhà cung cấp
đầu vào dựa trên kế hoạch về sản phẩm. Việc bảo đảm chất lượng, đàm
phán giá cũng được thực hiện trong giai đoạn này. Trong giai đoạn mua
nguyên phụ liệu, các doanh nhgiệp sẽ mua vải và phụ liệu và phụ liệu tù
các nhà cung ứng đã được quyết định ở giai đoạn trước với những bước
chủ yếu là: quản lý thời hạn giao hàng và quản lý vốn. Tiếp theo là khâu
cắt, may và hoàn thiện sản phẩm. Giai đoạn cuối cùng là xuất khẩu hàng
may mặc thành phẩm, đưa sản phẩm ra lưu thông ở trên thị trường.
Nếu không tích lũy được kinh nghiệm và thông tin về thị trường thì các
doanh nghiệp may sẽ gặp nhiều khó khăn khi hoặt động và có thể chịu
nhiều rủi ro ở các công đoạn đặc biệt là công đoạn xuất khẩu. Nhưng trong
16
Thiết
kế sản
phẩm
Lựa
chọn
nhà
cung
ứng
Mua
nguyên
phụ liệu
Cắt
May

Hoàn
thiện
(CMT)
Xuất
khẩu
quá trình sản xuất lưu thông, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng
may mặc theo hinh thức gia công CMT chỉ được khách hàng nước ngoài ủy
thác gia công ở các công đoạn cắt, may, hoàn thiện( CMT) tức là khâu thứ
tư, còn các khâu khác do nước ngoài đảm nhiệm. Điều này có nghĩa là,
những khó khăn, khúc mắc nếu đặt hàng các doanh nghiệp dệt nhuộm sản
xuất gia công nguyên phụ liệu sẽ không xảy ra đối với các doanh nghiêp
may Việt Nam. Về sản xuất, các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện gia
công CMT cũng không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào về khiếu nại do
chất lượng nguyên phụ liệu kém hay chậm xuất hàng thành phẩm do giao
vại muộn. Hàng may mặc được sản xuất theo bản thiết kếcó sẵn cũng
không phải chịu những rủi ro do sự thay đổi chóng mặt của thời gian mốt
trên thịu trừong hàng may sẵn bởi khách nước ngoài đã nhận tiêu thụ toàn
bộ sản phẩm sản xuất ra. Ngay cả trên lĩnh vực lưu thông, doanh nghiệp
may VIệt Nam không cần phát triển hay giữ vững các kênh tiêu thụ hàng
may mặc. Tức là các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện gia công CMT
không phải hứng chịu bất kỳ rủi ro nào kể trên.
Giả sử, các doanh nghiệp may Việt Nam có thể huy động nguyên phụ
liệu và tự thiết kế sản phẩm, quản lý chất lượng thì doanh nghiệp phía Việt
Nam sẽ được hưởng lợi nhuận lưu thông liên quan đến khâu chuẩn bị
nguyên phụ liệu như vải. Hơn nữa, do các chi phí quản lý về thiết kế, sản
xuất và chất lượng được chuyển sang phía Việt Nam nên trên lý thuyết
phần giá trị gia tăng đó cũng thuộc về phía doanh nghiệp may Việt Nam.
Mặc dù vậy, việt nâng cao tỷ lệ giá trị gia tăng cuối cùng lại tương ứng với
với việc các doanh nghiệp may Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều rủi ro
phát sinh trong năm khâu sản xuất lưu thông của ngành may.

2.1.2. Gia công CMT còn là hình thức sản xuất và phân phối phù hợp
với Việt Nam.
Trong gia công ủy thác theo hình thức CMT, khách hàng nước ngoài
không chỉ cung cấp cho các doanh nghiệp may Việt Nam những yếu tố cần
17
thiết trực tiếp cho sản xuất như nguyên vật liệu gồm nguyên liệu, phụ liệu;
bản thiết kế, bản thuyết minh, mẫu thiết kế… mà còn chuyển giao cả kỹ
thuật sản xuất và quản lý. Khách hàng nước ngoài cử các chuyên gia kỹ
thuật và nhà quản lý sản xuất đến tận dây chuyền may ở các nhà máy may
Việt Nam, từ việc lắp rắp dây chuyền may dựa trên phân tích các công
đoạn may ghi trong bản thuyết minh, hướng dẫn kỹ thuật trong công đoạn
may, hướng dẫn hoàn thiện, là ép và hướng dẫn kiểm tra sản phẩm. Việc
chuyển giao kỹ thuật một cách trực tiếp cho các doanh nghiệp may Việt
Nam thông qua chuyên gia kỹ thuật và các nhà quản lý của phía khách
hàng nứoc ngoài được thực hiện đặc biệt thường xuyên trong giai đoạn đầu
đặt quan hệ giao dịch giữa khách hàng nước ngoài và doanh nghiệp may
Việt Nam. Nếu quan hệ giao dịch kéo dài và việc chuyển giao kỹ thuật sản
xuất, quản lý tiến triển tốt thì việc hướng dẫn kỹ thuật trực tiếp của khách
hàng nước ngoài cho doanh nghiệp Việt Nam sẽ dần ít đi. Theo đièu tra đối
với các doanh nghiệp may Việt Nam, hiên nay hầu hết các doanh nghiệp
đang thực hiện gia công ủy thác xuất khẩu đều nhận được hướng dẫn trực
tiếp về kỹ thuật từ phía khách hàng nước ngoài thông qua các chuyên gia
kỹ thuật, nhà quản lý được khách hàng cử đến với thời hạn dài( khoảng vài
tháng đến một năm) cũng là cơ hội tốt để học hỏi về quản lý. Có nhiều
trường hợp nhờ sự hướng dẫn kỹ thuật mà trình độ sản xuất được nâng cao
rõ rệt. số lượng đơn đặt hàng gia công xuất khẩu tăng đáng kể.
Việc cử chuyên gia hướng dẫn kỹ thuật sẽ tốn kém chi phí nên đói với
các khách hàng nước ngoài, chi phí này được tính vào khoản đầu tư để xây
dựng những mối quan hệ giao dịch đặc biệt. Để bù đắp chi phí đầu tư này,
khách hàng nước ngoài phải giữ mối quan hệ giao dich lâu dài. Hơn nữa,

trong trường hợp khách hàng nước ngoài cung cấp máy móc thiết bị không
hoàn lại thì họ lại càng mong muôn quan hệ giao dịch lâu dài. Điều này rất
quan trọng đối với các doanh nghiệp may Việt Nam bơi khi doanh nghiệp
may Việt Nam đã thành công trong việc nhận đơn đặt hàng theo hinh thưc
18
gia công CMT và nếu khôgn phát sinh các trục trăc nhu chiến dụng nguyên
vật liệu để sản xuất gia công ủy thác thì có thể xây dựng được quan hệ giao
dịch tương đối bền vững.
Như vậy, tuy gia công CMT đem lại phần giá trị gia tăng tương đối nhỏ
so với giá thành sản phẩm, song khá ổn định và có thể góp phần nâng cao
trình độ kỹ thuật cũng như quản lý cho các doanh nghiệp may Viêt Nam.
Hiên nay việc duy trì hình thức gia công này vẫn đem lại những lợi ích nhất
định. Nhưng trong tương lai nếu muốn gia tăng thị trường xuất khẩu và
khặng định vị thế của ngành may thì việc duy trì hinh thức này sẽ không
còn phù hợp.
2.2. Xuất khẩu hàng hóa theo điều kiện FOB.
Trái với hình thức xuất khẩu theo theo phương thức gia công quốc tế,
trong hình thức xuất khẩu trực tiếp FOB( Free On Board), các doanh
nhgiệp may Viêt Nam tự mua nguyên phụ liệu rồi bána nr phẩm cho các
doanh nghiệp nước ngoài. Hiện tại, trong sản xuất lưu thông hàng dệt may
đang tồn tại ba hình thức xuất khẩu FOB được gọi là FOB kiểu I, FOB kiểu
II và FOB kiể III.
FOB kiểu I: khách hàng nước ngoài chỉ định nhà sản xuất vải, quy
cách, màu vải, từ đó nhà may mua vải, sản xuất xà xuất khẩu hàng theo đơn
đặt hang. Điểm khác biệt của doanh nghiệp may thực hiện xuất khẩu FOB
kiểu I và doanh nghiệp may thực hiện xuất khẩu theo hình thức gia công uỷ
thác là phía Việt Nam phải chịu trách nhiệm trong việc thanh toán tiền mua
vải. Khi tiến hành thanh toán tiền mua vải, các doanh nghiệp may Việt
Nam có thể có thể thu được lợi nhuận lưu thông. Trên thực tế, chuyên lệch
về lợi nhuận giữa hình thức này và hình thức gia công ủy thác CMT là

không đáng kể.
FOB kiểu II: Trong hình thức này, khách hàng đưa ra mẫu hàng hóa
cho doanh nghiệ may Việt Nam báo giá và nhận đơn đặt hàng. Ở đây,
19
doanh nghiệp tự chuẩn bị vải bằng cách tìm mua trongnội bộ công ty hoặc
treen thị trường. Do tự chuẩn bị vải nên các doanh nghiệp này có thể chủ
động đưa phần lợi nhuận của khâu mua vải vào báo giá sản phẩm của công
ty mình, do đó lợi nhận được tăng lên.
FOB kiểu III: Với hình thức này, doanh nghiệp may Việt Nam tự thiết
kế mẫu mã hàng hóa, tìm mua nguyên vật liệu và xuất khẩu với nhãn hiệu
riêng của mình. Doanh nghiệp may Việt Nam phải đảm trách toàn bộ quá
trinh sản xuất từ khâu lập kế hoạch, thiết kế sản phẩm, tìm mua nguyên vật
liệu, cắt may hoàn thiện sản phẩm và phân phối. Phạm vi hoạt động của họ
lớn hơn nhiều, bao trùm toàn bộ quá trình như đã trình bày ở hình 4, mức
độ rủi ro của thị trường mà doanh nghiệp may phải gánh chịu cũng lớn hơn
và do đó lợi nhuận mà họ nhận được cũng cao hơn. Có thể nói rằng trong
ba hình thức xuất khẩu trực tiếp thì FOB kiêu III là loại có nhiều rủi ro nhất
nhưng cũng có khả năng đem lại nhiều lợi nhuận nhất.
Việc phát triển công nghiệp may phải phát huy được những lợi thế cơ
bản vốn có, nhưng cũng phải tính đến những khó khăn và yếu kém của
ngành may như đã đè cập ở trên để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
Trong quan hệ thượng mại quốc tếcủa các doanh nghiệp may, việc xuất
khẩu trực tiếp dưới hình thức mua nguyên vật liệu sản xuất sản
phẩm(FOB), về lý thuyết, có lợi hơn là xuất khẩu dưới hình thức gia công
(CMT) do bên Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhuận lưu thông liên quan đến
khâu thiết kế, chuẩn bị nguyên phụ liệu, phân phối. Song vơi nhưng khó
khăn và yếu thế hiện nay, các doanh nghiệp may Viêt Nam vẫn cần thiết
duy trì một mức độ nhất định việc xuất khẩu bằng hình thức gia công.Về
lâu dài, xuát khẩu trực tiếp phải trở thành phương thức xuất khẩu chủ yếu
của các doanh nghiệp Việt Nam nhưng gia công là bước đi quan trọng để

tạo lập uy tín của sản hẩm dệt may Việt Nam trên thị truêòng thế giói.
Thông qua gia công, các doanh nghiệp may có thể học hỏi kinh nghiệm
Marketting quốc tế, tổ chức quản lý sản xuất, tiếp thu công nghệ mới, từng
20
bước đổi mới công nghệ, tích luỹ nguồn lực tài chính, chuẩn nị các điều
kiên càn thiết để thực hiện xuất khẩu trực tiếp một cách có hiệu quả. Như
vậy, trong những năm tới, phương thức gia công vẫn phải được tiếp tục
thực hiệnvới các doanh nghiệp may Việt Nam và thực hiện gia công xuất
khẩu phải được xem như là một bước chuẩn bị cho việc chuyển sang hình
thức xuất khẩu trược tiếp.
2.3. Tình hình thực hiện gia công xuất khẩu của các doanh nghiệp
may Việt Nam
Thực trang gia công xuất khẩu hàng may mạc hiên nay ở Việt Nam hiện
nay thể hiện trên hai mặt chủ yếu là quy mô sản xuất và quy mô xuất khẩu.
Về quy mô sản xuất:Theo thống kê của hiệp hội gia dày Việt Nam
(VITAS), các cở sở man mặc là thành viên của VITAS với 392 cở sở thuộc
các thành phần kinh tế ở 35/61 tỉnh thành, thành phố trong cả nước, trong
đó chủ yếu là các cơ sở may gia công xuất khẩu. các cơ sở này đã thu hút
gần một triệu lao động thường xuyên. Năng lực sản xuất của toàn ngành đã
lên tới 400 triệu sản phẩm sơ mi quy chuẩn /năm và được tập trung chủ
cyếu ở một số thành phố như Hà Nội, Đà Nẵng, Quảng Nam, thành phố Hò
Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ… Quy mô của các doanh
nghiệp nói trên cũng khác nhau. Có các doanh nghiệp có năng lực sản suất
lên đến 10 triệu sản phẩm/ năm, nhưng cũng có nhiều cơ sở, năng lực sản
xuất chỉ đạt 1 triệu sản phẩm/ năm. Nhìn chung, mỗi cơ sở chỉ tập trung
một sản xuất một số sản phẩm nhất định. Điều này có lý dotử sự đầu tư
chuyên môn hoá của các cơ sở gia công, nhưng cũng có lý do từ các cơ sở
đặt gia công, vì hầu hết khách hàng nước ngoài cũng có thế mạnh ở một số
mặt hàng nhất định. Do năng lực sản xuất hạn chếnên hầu hết các doanh
nghiệp chị nhận được các đơn đặt hàng với số lượng nhỏ.

Về quy mô xuất khẩu:Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đã
tăng mạnh trong các năm qua. Bình quân giai đoạn 1992-2001 tăng gần
21
29%/năm, riêng giai đoạn 1991-1999, tăng binh quân 35%/năm. Năm
2001, kim ngach xuất khẩu đạt 2.15 tỷ USD. Hàng dệt may của Việt Nam
đã được xuất khẩu đi 174 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, và đã có mật
ở hầu hết các thị trường lớn của thế giới, nhue thị trường Nhật Bản, EU,
Bắc Mỹ, các nước SNG, Đong Âu, Trung Đông… Trong cơ caaus thị
trường xuất khẩu. khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu thu được tà các thị
trường phi hạn ngạch. chứng tỏ hàng dệt may Việt Nam bước đầu đã có
khả năng cạnh tranh về giá cả và chất lượng trên thị trường thế giới.
2.4. Thực trạng chuyển đổi từ CMT sang FOB.
Phỏng vấn các doanh nghiệp Việt Nam cho thấy khác nhiều doanh
nghiệp đang đi theo con đườn hoạt động sản xuất lưu thông hàng may mặc
dựa vào hình thức xuất khẩu FOB. Theo số liệu điều tra của tù 23 doanh
nghiệp may. Có tới 20 doanh nghiệp được phỏng vấn đang thực hiện xuất
khẩu hàng may theo hình thức FOB. Tuy nhiên, ở các doanh nghiệp đang
thực hiện xuất khẩu theo điều kiện FOB thì tỷ trọng của xuất khẩu hàng
hoá theo điều kiện FOB trong hoạt đọng sản xuất hiện nay còn thấp. Theo
điều tra này, hầu hết các doanh ngiệp may Việt Nam xuất khẩu hang hoá
theo điều kiện FOB đều thực hiện dưới hình thức FOB kiẻu I, chiếm đên
93,6%, còn 6.4% còn lại là kiểu II và kiểu III thì không tồn tại.
Trong số các doanh nghiệp được điêu tra, chỉ có một số ít, doanh nghiệp
cho biết họ đang tập trung vào việc tăng xuất khẩu hàng hoá theo điều kiện
FOB. Các doanh nghiệp hiểu rằng việ đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức
FOB, đặc biệt là kiểu III là rất khó thực hiện. Thậm chí có một vài doanh
nghiệp cho biết họ tập trung vào hình thức CMT hơn là xuất khẩu hàng
hoán theo hình thức FOB vốn phải chịu nhiều rủi ro. Câu hỏi đặt ra ở đây là
tại sao ở Việt Nam việc chấp nhận rủi ro để “ hiện đại hoá” hình thức sản
xuất lưu thông hàng may mặc bằng cách chuyển từ gia công uỷ thác theo

hình thức xuất khẩu CMT sang xuất khẩu hàng hoá theo FOB kiểu II, III lại
22
gặp nhiều khó khăn. Từ nhiều ý kiến của các doanh nghiệp may, có thể đưa
ra 3 nguyên nhân chủ yếu sau:
1.Thiếu thông tinvề thị trường vải và tình hình sản xuất vải.
2. Thiếu nền tảng giao dich ổn định với các doanh nghiệp cung ứng
nguyên phụ liệu như các doanh nghiệp nhuộm…
3. Chưa hoàn thiện kênh lưu thông hàng may mặc
Ba nguên nhân trên liên quan chặt chẽ với nhau và thể hiện ngành dệt
may Việt Nam chưa có cơ cấu phân tán và xử lý rủi ro trong snr xuất lưu
thông. Ví dụ, khi phỏng vấn nhiều doanh nghiệp đua ra lý do mà họ khó
chuyển đổi sang FOB kiểu II, III là do chi phí thu thập thông tin về vải rất
cao. Trên thực tế, việc thu thập thông tin về vải mất rất nhiều thời gian nên
nhiều khi các doanh nghiệp bỏ mất co hội kinh doanh.
Phải giải quyêt được ba nguyên nhân trên, các doanh nghiệp may Việt
Nam mới có thể chuyển đổi sang hinh thức FOB kiểu II và loại III. Có
như vậy mới thu được nhiều giá trị gia tăng nhờ xuất khẩu, tăng sức cạnh
tranh và khẳng đinh được tên tuổi của ngành may Việt Nam trên thị
truờng quốc tế
.
23
PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
HÀNG MAY VIỆT NAM
1. Về phía các doanh nghiệp.
Đặt trong những cơ hội và thách thức trên, có thể khẳng định rằng trong
những năm trước mắt, các doanh nghiệp may Việt Nam chưa thể từ bỏ việc
xuất khẩu hàng may mặc bằng phương thức gia công để chuyển sang
phương thức mua nguyên vật liệu xuất khẩu sản phẩm. Nhưng để đảm bảo
tính chủ động và tính hiệu quả xuất khẩu bằng phương thức gia công, các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần thiết phải có những đổi mới trong tổ

chức sản xuất và quản lý.
1.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Các thị trường chính của Việt Nam đều là những thị trường đòi hỏi khắt
khe về chất lượng, bợi vạy, việc quan tâm bảo đảm chất lượng phải được
đặt lên hàng đầu với các doanh nghiệ may xuất khẩu. Đẻ đảm bảo chất
lượng theo đúng yêu cầu khách hàng, cần chú ý tới những vấn đề chủ yếu
sau đây:
- Kiểm tra chặt chẽ chất lượng và bảo quản nguyên phụ liệu.
- Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của đối tác nước ngoài đặt gia công về
chủng loại và chất lượng nguyên phụ liệu, quy trình công nghệ sản xuất,
quy cánh kỹ thật, nhãn mác, bao bì dóng gói.
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng từng công đoạn trong qua
trình sản xuất đén khâu thành phẩm cuối cùng.
- Nâng cao trinh độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm của người lao
đọng trong quá trình sản xuất sản phẩm.
- Xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến(ISO
9000, ISO 14000 và SA 8000) ở các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu.
24
1.2. Xác định hợp lý mức độ đa dạng hoá đối tác gia công trên các thị
trường.
Trong quan hệ đối tác gia công, cả hai bên đặt hàng gia công và bên
nhận gia công đều có mối quan hệ tương tác phụ thuộc lẫn nhau, nhưng
trong đó bên nhận gia công ( các doanh nghiệp may Việt Nam) thường phụ
thuộc nhiều hơn. Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ bên nước ngoài quy định
toàn bộ nhiệm vụ sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam, từ chủng loại, sản
lượng, thời gian giao hàng đến hệ thống định mức kinh tế- kỹ thuật sản
phẩm. Việc làm, thu thập và đời sống của người lao động cũng phụ thuộc
vào nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là một thực tế mà
các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận khi trình độ sản xuất và quản lý
còn yếu kém.

Trong điều kiện đó, việc đa dạng hoá đối tác gia công và thị trường gia
công mạng lại những lợi ích nhất định cho các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam như: tăng tính chủ động cho doanh nghiệp may Việt Nam, giảm thiểu
rủi ro khi đối tán nước ngoài cắt hợp đồng, trong nhiều trường hợp, các
doanh nghiệp không sử dụng hết công suất, việc đa dạng hoá các đối tác
gia công nước ngoài cho phép công ty sử dụng đầy đủ thiết bị máy móc
thiết bị hiện có và tăng thêm việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, việc mở rộng các đối tác gia công cũng gây nên những bất
lợi cho doanh nghiệp. Đó là sự phức tạp trong quản lý, tổ chức sản xuất để
đồng thời thực hiện tốt nhiều đơn đặt hàng, sự phân tán manh mún của các
đơn đặt hàng làm giảm hiệu quả của sản xuất. Bởi vậy, vấn đè là giải quyết
mối quan hệ giữa đa dạng hoá và tập trung hoá đối tác nước ngoài đặt gia
công cho doanh nghiệp. Nói chhung, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
nên hướng tới ổn định đối tác nước ngoài đặt gia công, đồng thời giúp các
doanh ngiệp Việt Nam tranh thủ sự giúp đỡ về kỹ thuật và tài chính của đối
tác nước ngoài để đầu tư nâng cao đổi mới công nghệ , nâng cao trình độ
sản xuất và huấn luyện lao động.
25

×