Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp bắc ninh đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.5 KB, 76 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, hoà chung với sự phát triển của cả nước
nhân dân tỉnh Bắc Ninh dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và UBND tỉnh đã biết
phát huy những lợi thế, tranh thủ thời cơ, vượt qua được những khó khăn,
thách thức đã giành được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực.
Kinh tế phát triển với nhịp độ cao (tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 13,78%
trong khi tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước chỉ đạt 7,5%), hiệu quả,
bền vững; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể cả về vật chất lẫn tinh
thần; an ninh chính trị ổn định.
Trong phát triển kinh tế, tỉnh đã chú trọng phát triển nhanh các khu
công nghiệp nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư. Qua đó,
thúc đẩy ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế của tỉnh nói chung (theo
thống kê hiện nay toàn tỉnh đã có 08 khu công nghiệp có quy mô lớn và nhiều
cụm công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ).
Tuy nhiên qua điều tra tôi được biết, mặc dù tốc độ phát triển các khu
công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng nhanh chóng nhưng hiệu quả sử dụng các
khu công nghiệp lại chưa cao. Điều này, tác động xấu đến chất lượng phát
triển lĩnh vực công nghiệp cũng như phát triển nền kinh tế của tỉnh.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển khu công nghiệp
cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Cùng với sự giúp đỡ của các thầy, cô
trong khoa Kinh tế và Phát triển và được sự giúp đỡ tạo mọi điều kiện của
các cô, chú, anh, chị… trong phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Tiên Du đã

1
giúp đỡ, sau thời gian thực tập tôi đã hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp
này.
Nội dung của bản chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 phần:
 Chương I: Hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp và các
nhân tố ảnh hưởng.
 Chương II: Thực trạng sử dụng các khu công nghiệp trên địa


bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2001 đến nay.
 Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng các khu
công nghiệp Bắc Ninh đến năm 2010.

2
CHƯƠNG I
Hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp và các
nhân tố ảnh hưởng
I. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của Khu công nghiệp
1. Khái niệm về Khu công nghiệp
Khu công nghiệp (KCN) là một lãnh địa được phân chia và phát triển có
hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung ứng các thiết bị kỹ thuật cần
thiết, cơ sở hạ tầng, phương tiện công cộng phù hợp với sự phát triển của một
liên hiệp các ngành công nghiệp nhằm đạt hiệu quả trong sản xuất công
nghiệp và kinh doanh.
Ở Việt Nam, theo Điều 2 trong “Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế
xuất, khu công nghệ cao” được Chính phủ ban hành năm 1997 có quy định:
“KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, chuyên sản xuất hàng
công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới
xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có Khu chế xuất (KCX)”.
2. Đặc trưng cơ bản của Khu công nghiệp
KCN là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn gắn liền phát
triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng và hình thành mạng lưới đô thị,
phân bố dân cư hợp lý. KCN có những đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, KCN có vị trí xác định, là nơi tập trung các doanh nghiệp công
nghiệp, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản

3
xuất công nghiệp.

Thứ hai, trong KCN thường có những chính sách kinh tế, chính sách ưu
đãi đặc thù (thông thường mỗi KCN có thể có các chính sách khuyến khích
khác nhau). Tuy nhiên, các chính sách đó phải phù hợp với khuôn khổ chung
của cả nước. Nhằm thu hút vốn đầu tư cả trong và ngoài nước; tạo môi trường
đầu tư thuận lợi, hấp dẫn cho phép các đầu tư sử dụng những phạm vi đất đai
nhất định đã có trong khu quy hoạch để thành lập các nhà máy, xí nghiệp, các
cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi về thủ tục xin cấp phép và thuế đất
(giảm hoặc miễn thuế),…
Thứ ba, nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu thu hút từ các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Thông thường Chính phủ
thường bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng như: san lấp mặt bằng, làm đường giao
thông,…Tuy nhiên, có một số KCN ở Việt Nam thì kinh phí san lấp mặt
bằng, xây dựng đường giao thông, hệ thống điện,… cũng kêu gọi các nhà đầu
tư ở trong và ngoài nước.
Thứ tư, sản phẩm của các nhà máy, xí nghiệp trong KCN thường là các
sản phẩm có chất lượng cao, đối tượng chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu và
thay thế hàng nhập khẩu trong nước.
Thứ năm, KCN là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành
phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song: doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, và cả
doanh nghiệp 100% vốn trong nước.

4
II. Vì sao phải tăng cường hiệu quả sử dụng các Khu công
nghiệp tại địa phương
1. Vai trò của Khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội địa
phương
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình thực hiện CNH- HĐH đất
nước (theo Nghị quyết Trung ương khoá VIII). Để thực hiện được mục tiêu

này, chúng ta cần thực hiện sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế toàn diện phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của đất nước và cơ cấu kinh tế quốc dân trên tất cả các
lĩnh vực. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, khai thác thành công
mô hình KCN sẽ là nhịp cầu nối liền nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với nền
kinh tế công nghiệp hiện đại; thúc đẩy phát triển trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế, xã hội và môi trường.
Đối với lĩnh vực kinh tế, với thuận lợi về vị trí, ưu đãi về chính sách và
cơ chế, KCN khuyến khích thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư
vào các KCN. Sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong
các KCN là một trong những điều kiện mang tính quyết định đến sự phát triển
lĩnh vực công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế địa phương nói chung.
Đối với lĩnh vực xã hội, phát triển KCN sẽ góp phần quan trọng tạo
công ăn việc làm; thu hút lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp;
góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và nâng cao thu nhập cho người
dân. Thực tế đã chứng minh, đối với người lao động có việc làm và thu nhập
ổn định là một trong những điều kiện quan trọng góp phần hạn chế những tệ
nạn xã hội (như: trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, …) do cuộc sống “nhàn rỗi” và
thiếu thốn gây nên. Có thể nói, phát triển KCN đã tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội từ giải quyết tình trạng thất nghiệp, nâng cao thu nhập của

5
người dân đến góp phần ổn định trật tự và an ninh xã hội.
Đối với lĩnh vực môi trường, phát triển KCN tạo điều kiện thuận lợi để
tập trung xử lý nước thải, khói bụi,… do hoạt động sản xuất công nghiệp tạo
ra.
Trước đây, khi chưa phát triển KCN thì các doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hoá chất) “tự do” xả nước
thải, hoá chất, khói bụi,… mà chỉ qua xử lý sơ sài, thậm chí còn chưa qua xử
lý. Điều đó, dẫn tới hậu quả tất yếu là huỷ hoại môi trường, ô nhiễm nguồn
nước,… đã gây tác động xấu đến cuộc sống của người dân.

Mặc dù, hiện nay với việc ban hành các tiêu chuẩn môi trường (như:
tiêu chuẩn về nước thải, khói bụi,…) có thể thải ra môi trường, các doanh
nghiệp đã đầu tư hệ thống xử lý chất thải, làm gia tăng chi phí sản xuất của
các doanh nghiệp. Nếu mỗi doanh nghiệp đều đầu tư một hệ thống xử lý chất
thải riêng rẽ sẽ khiến các doanh nghiệp mất một khoản chi phí rất lớn, thậm
chí hiệu quả xử lý còn không cao. Một trong những giải pháp quan trọng
nhằm khắc phục tình trạng này là phát triển các KCN. Bởi phát triển các KCN
tạo điều kiện tập trung xử lý chất thải, góp phần giảm thiểu chi phí trong quá
trình xử lý chất thải cho các doanh nghiệp. Đồng thời còn góp phần nâng cao
hiệu quả xử lý.
Như vậy, phát triển KCN sẽ ảnh hưởng đến tất cả các mặt từ kinh tế, xã
hội và môi trường. Vì vậy, làm thế nào để có thể xây dựng và sử dụng một
cách có hiệu quả các KCN là điều trăn trở của các nhà quản lý vĩ mô. Thành
công trong lĩnh vực này sẽ nhanh chóng đưa địa phương mở cửa bước ra hoà
nhập một cách bình đẳng với các thành phố khác trong khu vực và trên thế
giới.

6
Phát triển KCN tác động mạnh đến tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Phát triển KCN sẽ góp phần:
1.1 Thu hút đầu tư trong và ngoài nước
KCN với những chính sách ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước
đã trở thành môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
sẽ góp phần giúp địa phương có thêm vốn đầu tư; tiếp cận kỹ thuật và công
nghệ mới; học hỏi được kinh nghiệm, phương cách quản lý tiến tiến, khoa học
của nước ngoài. Theo Ngân hàng Thế giới, các dự án thực hiện trong các
KCN phần lớn do các nhà đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài (
khoảng 40% các dự án do đầu tư trong nước thực hiện, 29% do liên doanh với
nước ngoài và 31% do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện). Do vậy, KCN đã

đóng góp đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với thuận lợi về vị trí, ưu
đãi về chính sách và cơ chế, KCN còn khuyến khích thu hút các nhà đầu tư
trong nước, một nguồn vốn tiềm tàng rất lớn trong dân chúng (theo thống kê
hiện nay nước ta vẫn còn khoảng trên 30% nguồn vốn tiết kiệm trong dân).
Nguồn vốn này có ý nghĩa rất quan trọng và cũng là nguồn vốn rất lớn còn
chưa được khai thác và sử dụng một cách xứng đáng. KCN sẽ tạo môi trường
và cơ hội phát huy năng lực về vốn cũng như sản xuất kinh doanh trong cùng
một điều kiện ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thông qua việc liên
doanh, liên kết các doanh nghiệp trong nước có điều kiện cũng như cơ hội
tiếp thu kinh nghiệm quản lý, trình độ điều hành, sử dụng các trang thiết bị và
công nghệ hiện đại của nước ngoài, bồi dưỡng nhân tài, thử nghiệm các
phương án cải cách nhằm tiến ra trình độ thế giới.

7
Ngoài ra, phát triển KCN góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế nhập
khẩu; thu hút các nhà đầu tư nước ngoài là một trong những điều kiện quan
trong giúp nước chủ nhà tăng nguồn thu ngoại tệ phục vụ phát triển kinh tế
trong nước.
1.2 Tạo công ăn việc làm cho người lao động
Theo thống kê, tình trạng phổ biến của các nước kém phát triển cũng
như các nước đang phát triển là dân số tăng hết sức nhanh chóng, song tốc độ
tăng trưởng kinh tế lại rất chậm, tỉ lệ tích luỹ và đầu tư thấp. Tình trạng đó
dẫn tới hậu quả tất yếu là thiếu việc làm, nạn thất nghiệp ngày càng ra tăng,
trở thành sức ép rất lớn đối với Chính phủ. Để giải quyết vấn đề này, một
trong những giải pháp quan trọng mà các nhà quản lý vĩ mô hướng tới là phát
triển các KCN. Với mong muốn tận dụng sự phát triển của các KCN để giải
quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động.
Điều này hoàn toàn có thể làm được vì các chủ đầu tư cả trong và ngoài
nước đều mong muốn tận dụng nguồn lao động dồi dào và rất rẻ của nước chủ

nhà để tăng lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, cũng
tuỳ thuộc vào từng loại ngành nghề mà có lao động ở các trình độ khác nhau.
Ngành nghề càng đa dạng càng thu hút được nhiều lao động nhàn rỗi. Ngoài
một bộ phận được đào tạo, còn có một tỉ lệ lao động đáng kể là lao động phụ
nữ trẻ chưa lập gia đình, không có tay nghề và một bộ phận lớn lao động
chuyển từ nông thôn ra làm việc (theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế
giới, đến nay trung bình số việc làm trong các KCN của tất cả các nước trên
thế giới chiếm khoảng trên 40% tổng số việc làm).
Hầu hết các nước đang phát triển, đều là các nước có nền kinh tế lạc
hậu, có tỉ lệ bán thất nghiệp cao. Ngoài ra, do sức ép phát triển kinh tế, tại các

8
nước này có tốc độ đô thị hoá nhanh chóng, dẫn tới tình trạng diện tích đất đai
dùng cho phát triển nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp.Thêm vào đó, số người
thất nghiệp ở đô thị ngày càng tăng và chủ yếu là những người vừa đến tuổi
lao động do dân số tăng nhanh.
Chính vì vậy, một trong những vấn đề cấp thiết nhất hiện nay là phải
tạo công ăn việc làm, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và nâng cao
thu nhập cho người dân. Do đó, phát triển các KCN nhằm thu hút lao động từ
khu vực nông nghiệp sang công nghiệp là một trong những biện pháp hữu
hiệu nhất nhằm giải quyết tình trạng trên và phát triển kinh tế theo hướng
công nghiệp - dịch vụ.
1.3 Tiếp nhận kỹ thuật công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý
hiện đại
Theo thống kê, hiện nay hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào
tình trạng phổ biến là thiết bị sản xuất cũ, quy trình công nghệ lạc hậu. Trong
khi những yếu tố này lại đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình CNH-
HĐH đất nước. Do đó, họ coi việc tiếp thu công nghệ và kỹ năng quản lý hiện
đại một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất không chỉ là nhiệm vụ truớc mắt
mà còn là mục tiêu có tính chiến lược.

Kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước đi trước cho thấy, việc ứng
dụng tiến bộ công nghệ của nước ngoài là một trong những bí quyết phát
triển. Sao chép những phương pháp hiệu quả hơn, đưa chúng vào áp dụng
trong nước thường là một giải pháp mang tính truyền thống của các nước phát
triển. Bởi các nước phát triển có nguồn vốn, công nhân và kỹ sư lành nghề,…
thường rất dồi dào.
Nhưng đối với các nước nghèo thì phương pháp trên lại không thể dễ

9
dàng áp dụng được. Bởi cho dù các nước nghèo có thể có các chuyên gia kỹ
thuật được trang bị những tri thức công nghệ tiên tiến nhưng vẫn không thể
thực hiện được vì còn quá nhiều hàng rào ngăn cản như: vốn đầu tư thấp,
công nhân và nhiều kỹ sư lành nghề hầu như rất ít,…không đáp ứng được yêu
cầu. Chính vì vậy, một phương pháp thay thế hữu hiệu phương pháp “sao
chép” mà các nước phát triển vẫn làm là phát triển các KCN. Qua đó, các nhà
đầu tư nước ngoài sẽ đưa vào KCN những thiết bị kỹ thuật tiên tiến, quy trình
công nghệ hiện đại nhằm sản xuất ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế có
đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. Từ đó, góp phần thúc đẩy các doanh
nghiệp của các vùng, các khu vực đổi mới thiết bị và công nghệ, nâng cao
từng bước chất lượng sản phẩm.
Xuất phát từ trang thiết bị hiện đại, công nghệ kỹ thuật tiên tiến, các
cán bộ quản lý, các công nhân kỹ thuật và viên chức làm việc tại các KCN sẽ
được đào tạo lại, đào tạo bổ xung cho thích hợp. Và họ cũng là lực lượng trực
tiếp tiếp thu tác phong công nghiệp, kinh nghiệm quản lý, phương pháp kiểm
tra chất lượng hiện đại,… nhằm thích ứng với cơ chế thị trường và đạt hiệu
quả cao. Những kết quả này không chỉ mang lại tại các KCN mà theo hiệu
ứng lan truyền nó còn tác động mạnh đến sự thay đổi đến các doanh nghiệp
hoạt động bên ngoài KCN, làm cho các doanh nghiệp này cũng thay đổi theo.
1.4 Tăng cường các mối liên kết và tác động ngược trở lại nền kinh
tế

Phát triển KCN là một trong những điều kiện tiền đề để thúc đẩy sự
phát triển toàn diện trong vùng, mở của nền kinh tế trong nước cho hệ thống
mậu dịch và tài chính quốc tế phát triển, hợp tác kinh tế đối ngoại,… nhằm
đẩy mạnh công cuộc CNH - HĐH đất nước. Theo đánh giá của các chuyên
gia kinh tế, các KCN được coi như một bộ phận cầu nối giúp nước chủ nhà

10
mở cửa nhìn ra thế giới bên ngoài; tăng cường mối liên kết trao đổi hàng hoá,
dịch vụ và kỹ thuật với thế giới bên ngoài.
Thực tế đã chứng minh, phát triển KCN còn tạo ra sự tác động ngược
trở lại đối với sự phát triển của các ngành sản xuất trong nước thông qua việc
cung cấp các dịch vụ như: cung cấp nguyên vật liệu; lắp ráp, chế biến sản
phẩm;… cho các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN.
Ảnh hưởng của các KCN đối với phần còn lại của nền kinh tế thông
qua hiệu ứng số nhân của Keynes. Ví dụ, một KCN đi vào hoạt động trực tiếp
đem lại việc làm cho người lao động (làm việc trong KCN) còn gián tiếp tạo
việc làm cho các địa phương xung quanh thông qua việc cung cấp các dịch vụ
phục vụ sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN. Nếu
một năm một KCN trả lương cho công nhân (trong vòng một năm) là 10 triệu
USD. Với tiền mua nguyên vật liệu, mua các dịch vụ ở địa phương sẽ gián
tiếp tạo việc làm cho khoảng 10.000 lao động. Và nếu tỉ lệ tiêu dùng là 2/3
thu nhập thì 10 triệu USD của công nhân sẽ góp phần tăng thu nhập của các
khu vực lân cận lên tới 30 triệu USD.
Như vậy, phát triển KCN là một trong những giải pháp quan trọng
nhằm phát triển công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế của địa phương
nói chung. Đồng thời, phát triển KCN là nhịp cầu nói giúp địa phương mở của
hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
2. Vì sao phải tăng cường hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, việc quy hoạch phát triển
KCN chỉ là điều kiện cần còn vấn đề cốt lõi ảnh hưởng trực tiếp đến chất

lượng phát triển KCN nói riêng và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của địa
phương nói chung chính là hiệu quả sử dụng của chúng. Vì vậy, giải pháp nào

11
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng KCN đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của
các nhà quản lý.
Thứ nhất, nếu khi quy hoạch phát triển các KCN, các nhà quản lý chỉ
chú trọng đến số lượng cũng như diện tích trong quy hoạch. Nhưng khả năng
“lấp chỗ trống” thấp sẽ dẫn đến tình trạng diện tích đất đai quy hoạch thì rất
lớn trong khi khả năng sử dụng thì hạn chế.
Điều này sẽ gây lãng phí nguồn lực đất đai rất lớn trong quá trình phát
triển kinh tế. Bởi vì: đất đã được đưa vào quy hoạch KCN (mặc dù chưa sử
dụng) nhưng người nông dân vẫn không thể tiếp tục sử dụng vào mục đích
canh tác nông nghiệp mà phải để hoang hoá. Đất đai trong các KCN chưa
được sử dụng cũng đồng nghĩa với việc sản xuất kinh doanh trên lĩnh vực
công nghiệp chưa phát triển. Điều này là một trong những nguyên nhân khiến
người nông dân chưa có điều kiện cũng như cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp
khi đã chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang công nghiệp, khiến
cho cuộc sống của người nông dân ngày càng khó khăn.
Thứ hai, một trong những vấn đề mang tính quyết định đến hiệu quả sử
dụng các KCN chính là tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích.
Như đã biết, hệ thống cơ sở hạ tầng trong KCN như: hệ thống giao thông
vận tải, hệ thống cung cấp điện, cấp thoát nước,… là một trong những điều
kiện cần thiết ban đầu khi một doanh nghiệp trong KCN đi vào hoạt động. Vì
vậy, nếu đầu tư một cách “dàn trải” trong khi nguồn kinh phí thì eo hẹp sẽ gây
ra tình trạng cơ sở hạ tầng trong KCN thô sơ, không đáp ứng được yêu cầu
của nhà đầu tư. Điều này sẽ tác động trực tiếp đến hiệu quả sử dụng KCN.
Ngoài ra, trong xu hướng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện
nay. Một doanh nghiệp sản xuất nói riêng và nền kinh tế của một đất nước nói


12
chung chỉ có thể phát triển theo hướng ứng dụng trình độ khoa học kỹ thuật
công nghệ tiên tiến để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được
yêu cầu của người tiêu dùng. Để thực hiện được mục tiêu này thì một trong
những vấn đề mang tính quyết định là nguồn vốn đầu tư phải rất lớn. Điều đó
cho thấy, suất đầu tư cao mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của các doanh nghiệp.
Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, phát triển KCN nói chung
và nâng cao hiệu quả sử dụng KCN nói riêng chính là con đường mở cửa giúp
địa phương hoà nhập bình đẳng vào nền kinh tế, tạo điều kiện tiền đề để thực
hiện thành công công cuộc CNH – HĐH đất nước.
III. Thước đo hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp
1. Các khái niệm cơ bản về hiệu quả sử dụng Khu công nghiệp
Khai thác có hiệu quả mô hình KCN đang là vấn đề được quan tâm hàng
đầu đối với các quốc gia đang trong thời kỳ CNH – HĐH. Có khá nhiều các
quan niệm khác nhau về hiệu quả sử dụng các KCN.
Theo tạp chí kinh tế và phương pháp toán của Viện toán kinh tế viện hàn
lâm khoa học Liên Xô cũ, hiệu quả sử dụng KCN là chỉ tiêu phản ánh mối
quan hệ giữa diện tích đất đai đã sử dụng và tổng diện tích đất đai đã được
đưa vào quy hoạch KCN.
Theo họ, hiệu quả sử dụng KCN được tiếp cận trên phương diện: Xác
định diện tích đất đai đã cho thuê tại các KCN. Ưu điểm của phương pháp
tiếp cận này là so sánh được diện tích có ích (đã được sử dụng) trên tổng diện
tích được cấp phép xây dựng. Qua đó, so sánh được sự thành công trên
phương diện sử dụng đất đai giữa các KCN trong quá trình phát triển.

13
Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp là không thể đánh giá, so sánh
được hiệu quả sử dụng KCN trên các phương diện khác như: suất đầu tư trên
một đơn vị diện tích, hiệu quả đóng góp của các KCN đối với sự phát triển

kinh tế của địa phương,… Từ đó chưa thể đánh giá một cách chính xác tính
hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư, hiệu quả đất đai đã sử dụng,… của các
KCN.
Theo quan điểm của Ban quản lý các KCN, KCX Việt Nam, hiệu quả sử
dụng KCN là chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong một
đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối lượng hữu ích của hoạt động sản
xuất tại KCN trong một thời kỳ nhất định.
Ưu điểm của phương pháp tiếp cận này, gắn kết quả với chi phí, coi hiệu
quả là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí.
Nhược điểm của phương pháp, chưa rõ ràng và thiếu tính khả thi ở
phương diện xác định và tính toán. Bởi vì: Muốn xác định được mức độ tiết
kiệm thì phải có ít nhất hai phương án để so sánh và phải có tiêu chuẩn để so
sánh. Điều này chỉ có trong lĩnh vực kế hoạch khi lựa chọn dự án sản xuất
hoặc dự án đầu tư. Trong thực tế, với từng đối tượng trong một phạm vi thời
gian cụ thể chỉ có một kết quả và một chi phí cụ thể. Như vậy, làm sao biết
được mức độ tiết kiệm chi phí sản xuất. Tính không rõ ràng trong phương
pháp xác định trên là do không phân biệt giữa kế hoạch và thực tế, giữa tương
lai và quá khứ khi đưa ra các yêu cầu lớn nhất và bé nhất trong quá trình phân
tích, đánh giá đối tượng.
Theo các thành viên trong Ban quản lý (BQL) KCN của tỉnh Bắc Ninh,
hiệu quả sử dụng các KCN là chỉ tiêu phản ánh sự đóng góp của các KCN đối
với sự tăng trưởng kinh tế trên địa bàn, tức là tổng giá trị sản lượng của KCN

14
so với tổng GDP của địa phương.
Ưu điểm của cách xác định này là đánh giá được tổng giá trị sản lượng
của các KCN đối với quá trình tăng trưởng kinh tế trên địa bàn. Qua đó, thấy
được tầm quan trọng của phát triển các KCN đối với địa phương.
Nhưng nhược điểm của phương pháp là không thể đánh giá được hiệu
ứng dây truyền của các hoạt động của hệ thống cung cấp dịch vụ đi kèm với

quá trình hoạt động của các KCN. Điều đó được biểu hiện thông qua hiệu ứng
số nhân của Keynes.
Trở lại ví dụ trên, khi một KCN đi vào hoạt động sẽ tạo việc làm gián
tiếp cho các địa phương xung quanh thông qua việc cung cấp các dịch vụ.
Nếu trong một năm một KCN hoạt động trả lương cho công nhân trong KCN
là 10 triệu USD. Với tiền mua các linh kiện và dịch vụ ở địa phương, theo
hiệu ứng số nhân có thể cung cấp việc làm cho hơn 10.000 công nhân bên
ngoài. Và nếu tỉ lệ tiêu dùng là 2/3 thu nhập thì sẽ góp phần tăng thêm thu
nhập cho các khu vực lân cận lên tới 30 triệu USD.
Nhược điểm lớn nhất của ba khái niệm trên là không xác định được tính
hữu ích ở dạng tổng thể gộp lớn. Bởi một KCN khi đi vào hoạt động sẽ góp
phần thu hút nguồn vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng
cường các mối liên kết và tác động ngược trở lại tới các bộ phận còn lại của
nền kinh tế,…
Vì thế, để khắc phục những nhược điểm trên trong chuyên đề này, hiệu
quả sử dụng các KCN được hiểu là chỉ tiêu phản ánh đầy đủ hơn kết quả hoạt
động kinh tế của các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN ở tầm hiệu quả
kinh tế - xã hội. Tức là, hiệu quả sử dụng các KCN là chỉ tiêu phản ánh tổng
hợp không chỉ khả năng “lấp chỗ trống” trong các KCN, hiệu quả đầu tư trên

15
một đơn vị diện tích còn có cả phần đóng góp cho ngân sách nhà nước ở dạng
thuế, tiền lương, tiền thưởng cho người lao động.
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp
Hiện nay, có khá nhiều cách xác định hiệu quả sử dụng các KCN.
Nhưng trong khuôn khổ chuyên đề này, tôi chỉ sử dụng một số chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả sử dụng KCN như sau:
2.1 Tỉ lệ diện tích được lấp đầy
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức:
Tỉ lệ Diện tích đã cho thuê * 100%

lấp đầy Tổng diện tích KCN
Chỉ tiêu này, cho biết phần diện tích có ích trên tổng diện tích được cấp
phép theo quy hoạch KCN. Theo các nhà kinh tế, nếu tỉ lệ lấp đầy khoảng
70% trở lên thì hiệu quả sử dụng KCN trên phương diện sử dụng đất đai đạt
hiệu quả rất cao; còn nếu nhỏ hơn 30% thì hiệu quả sử dụng quá thấp gây lãng
phí nguồn lực đất đai rất lớn.
Chỉ tiêu này còn cho phép đánh giá được hiệu quả sử dụng đất đai tại các
KCN. Đồng thời, so sánh được sự thành công trong lĩnh vực sử dụng đất đai
giữa các KCN.
2.2 Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích
Chỉ tiêu này cho biết, suất đầu tư trên từng đơn vị diện tích. Được xác
định theo công thức sau:

16
Tỉ lệ Tổng vốn đầu tư (triệu USD; triệu đồng)
VĐT Tổng diện tích (ha)
Tỉ lệ VĐT càng cao chứng tỏ doanh nghiệp đã ứng dụng khoa học, kỹ
thuật công nghệ tiến tiến vào sản xuất bởi nguồn vốn đầu tư lớn tạo điều kiện
thuận lợi giúp doanh nghiệp áp dụng những thành tựu khoa học tiến tiến vào
sản xuất.
Suất đầu tư dùng để đánh giá, so sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư trên
một đơn vị diện tích. Từ đó, đánh giá được tính hấp dẫn trong việc thu hút
vốn giữa các KCN với nhau một cách chính xác.
2.3 Tỉ lệ đóng góp cho GDP
% đóng góp Tổng GTSL của KCN * 100%
cho GDP GDP
Chỉ tiêu này cho biết, sự đóng góp của giá trị sản lượng của cả khu công
nghiệp đối với sự tăng trưởng kinh tế của địa phương.
Tỉ lệ này phụ thuộc vào sự phát triển lĩnh vực công nghiệp của địa
phương. Nhưng nếu giá trị sản lượng của KCN chiếm khoảng trên 80% tổng

giá trị sản lượng công nghiệp của địa phương, chứng tỏ tỉ lệ đóng góp của các
KCN đối với sự tăng trưởng kinh tế của địa phương khá cao.
2.4 Số lao động làm việc trong các KCN
Chỉ tiêu này cho biết số lượng lao động làm việc tại KCN, lợi ích trong
việc giải quyết tình trạng thất nghiệp và lao động dôi dư ở các địa phương có
KCN. Đồng thời cho biết khả năng thu hút lao động và giải quyết việc làm
giữa các KCN với nhau.

17
Chỉ tiêu này phụ thuộc vào sự phát triển công nghiệp của địa phương.
Tuy nhiên theo các nhà kinh tế, số lao động càng cao chứng tỏ khả năng thu
hút lao động, giải quyết việc làm của KCN càng lớn. Nếu số lao động chiếm
khoảng trên 40% tổng số lao động của địa phương, chứng tỏ khả năng tạo
việc làm của các KCN là rất lớn.
Các chỉ tiêu trên đây, cho phép nhìn nhận một cách tổng quát nhằm so
sánh, đánh giá một cách chính xác hiệu quả sử dụng các KCN.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng các Khu
công nghiệp
Cũng như bất kỳ mô hình phát triển kinh tế nào, để nâng
cao hiệu quả sử dụng KCN đòi hỏi phải thoả mãn những điều kiện cần thiết.
Đó là những điều kiện cần và đủ để đảm bảo cơ sở cho sự thành công trong
việc sử dụng các KCN. Cũng tuỳ tính chất của từng KCN mà đòi hỏi phải đáp
ứng các yếu tố khác nhau. Nhưng nhìn chung, các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng
đến hiệu quả sử dụng các KCN như sau:
1. Nhóm các vấn đề về khung pháp lý
1.1 Về cơ chế chính sách
Kinh nghiệm cho thấy, các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư nước
ngoài) nhiều khi không coi những ưu đãi về kinh tế là quan trọng hàng đầu
mà cái chính là sự ổn định về chính trị xã hội, chính sách của nhà nước trong
việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia kinh

doanh và đầu tư.
Mục đích của quá trình đầu tư kinh doanh chính là lợi nhuận. Bởi vậy,

18
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cũng như tạo mọi điều kiện cho các nhà
đầu tư trong quá trình sản xuất kinh doanh là một trong những điều kiện hàng
đầu mà các nhà đầu tư quan tâm khi quyết định đầu tư. Bởi chính sách nhất
quán của các văn bản pháp lý ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo vệ quyền sở
hữu hợp pháp của các chủ thể khi tham gia kinh doanh.
Tính nhất quán, rõ ràng của các văn bản pháp lý góp phần quyết định
việc tiến hành các thủ tục hành chính ngay từ khi chủ thể bắt đầu tham gia
kinh doanh. Bởi thủ tục hành chính nhanh chóng, thuận tiện sẽ giúp các nhà
đầu tư giảm được chi phí cả về thời gian và tiền bạc khi đăng ký kinh doanh.
Đặc biệt là hiện nay khi mà cơ hội kinh doanh là một nhân tố mang tính chất
“sống còn” của doanh nghiệp. Thủ tục nhanh chóng sẽ giúp doanh nghiệp
nắm chắc cơ hội kinh doanh của mình.
Một trong những nhân tố cũng góp phần quan trọng đến quyết định đầu
tư của các chủ thể kinh doanh chính là các chính sách ưu đãi. Bởi nếu có các
chính sách ưu đãi như: miễn giảm thuế công ty, thuế xuất nhập khẩu,… thì
các nhà đầu tư sẽ giảm được một phần chi phí sản xuất. Điều này, góp phần
tăng lợi nhuận của các nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh.
Qua phân tích cho thấy, cơ chế chính sách đóng vai trò quan trọng nhằm
thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN nói riêng và đầu tư vào địa
phương nói chung.
1.2 Cơ chế phân cấp và uỷ quyền trong quản lý
Cơ chế phân cấp và uỷ quyền đối với các cơ quan quản lý hành chính
nhà nước là một trong những nguyên nhân chủ yếu quyết định đến các thủ tục
hành chính khi một doanh nghiệp tham gia kinh doanh. Bởi cơ chế phân cấp
khoa học sẽ tránh được thủ tục rườm rà, phức tạp; tránh tình trạng chồng chéo


19
cũng như việc lạm dụng quyền hạn của các cán bộ quản lý trong quá trình xét
duyệt các loại văn bản, hồ sơ của các nhà đầu tư.
Điều này sẽ giúp các nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí cả về thời gian
và tiền bạc ngay từ khi bắt đầu tham gia sản xuất kinh doanh cũng như trong
quá trình mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh của mình.
2. Nhóm các vấn đề liên quan đến bộ máy quản lý của các Khu công
nghiệp
Nhằm tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN để đẩy
nhanh hiệu quả sử dụng thì BQL các KCN cần phải hoạt động có hiệu quả,
thủ tục hành chính phải gọn nhẹ, đơn giản,… Điều này phụ thuộc vào:
Thứ nhất, cơ cấu tổ chức của BQL vì: Cơ cấu tổ chức khoa học sẽ tạo
điều kiện giúp các thành viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Cũng như
tạo điều kiện giúp các nhà đầu tư giảm thiểu chi phi phí cả về thời gian và tiền
bạc khi tham gia sản xuất kinh doanh trong các KCN.
Thú hai, cơ sở vật chất của BQL: Điều kiện vật chất, trang thiết bị phục
vụ quá trình làm việc góp phần rất lớn giúp các nhân viên thực hiện nhanh
chóng, chính xác trong quá trình xét duyệt các loại văn bản, giấy tờ liên quan
đến quá trình sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư.
Thứ ba, năng lực của từng cán bộ là một trong những điệu kiện chủ yếu
quyết định đến khả năng làm việc của BQL. Điều này, ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả trong quá trình quản lý các KCN và tác động đến hiệu quả sử
dụng các KCN trên địa bàn.

20
3. Nhóm vấn đề liên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở của Khu công
nghiệp
3.1 Về đất đai
Giá thuê đất là một khoản chi phí khá lớn mà doanh nghiệp phải trả. Do
đó giá thuê đất tại các KCN có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh

của doanh nghiệp. Như vậy, giá thuê đất thấp là một trong những điều kiện
mang tính chất quyết định đến khả năng thu hút đầu tư tại các KCN nói riêng
và tại địa phương nói chung.
Với mục tiêu “lấp đầy”, các KCN ngoài biện pháp nhằm thu hút các nhà
đầu tư đầu tư vào các KCN thì một trong những biện pháp thúc đẩy nhanh
quá trình sử dụng các KCN chính là biện pháp hỗ trợ đối với các doanh
nghiệp khi họ đã đầu tư sản xuất kinh doanh trong các KCN bởi: Nếu doanh
nghiệp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì biện pháp hỗ trợ về mặt đất đai
sẽ là một trong những giải pháp hữu hiệu khuyến khích các nhà đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong các KCN mới chỉ
được trao cho các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng. Trong khi, doanh
nghiệp đầu tư vào KCN phải trả tiền thuê đất một lần cho thời gian nhiều năm
nhưng không nhận được giấy chứng nhận “con”.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng nhận “con”)
đối với các doanh nghiệp thuê lại đất trong KCN cũng là một trong những
biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào KCN. Bởi hiện
nay, các Ngân hàng đã cho phép các doanh nghiệp thế chấp quyền sử dụng
đất để vay vốn. Do đó, nếu các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong các
KCN được cấp giấy chứng nhận “con” để khi cần họ có thể sử dụng giấy

21
chứng nhận này thế chấp vay vốn.
3.2 Về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN bao gồm: hệ thống điện, nước, giao
thông, hệ thống cấp thoát nước, liên lạc,… Đây là những điều kiện ban đầu
cần thiết để các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh.
Nếu như hệ thống cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN có chất lượng cao,
đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư. Điều đó, sẽ giúp các nhà đầu tư
giảm thiểu được một khoản chi phí đáng kể. Bởi nếu doanh nghiệp phải xây

dựng hệ thống các cơ sở hạ tầng thì doanh nghiệp sẽ phải thanh toán những
khoản chi phí phát sinh không nhỏ. Điều này làm gia tăng chi phí sản xuất của
doanh nghiệp lên khá lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận trong kinh doanh
của doanh nghiệp.
Như vậy, hệ thống cơ sở hạ tầng trong KCN ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng thu hút nhà đầu tư đầu tư vào các KCN.
2. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ
4.1 Dịch vụ trong KCN
Một trong những nhân tố quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư quyết định
đầu tư vào các KCN là hệ thống cung cấp dịch vụ. Việc quy hoạch các khu
dân cư dịch vụ KCN, khu đô thị gắn liền với KCN sẽ đảm bảo sự gắn kết các
hạ tầng trong và ngoài KCN, đảm bảo cho sự phát triển bễn vững của KCN.
Ngoài ra, trong điều kiện có những hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội như:
Nhà ở, trường học, hệ thống ngân hàng,… ở gần các KCN tạo điều kiện thuận
lợi trong việc thu hút các nhà đầu tư đầu tư cũng như thu hút lực lượng lao

22
động có tay nghề cao làm việc trong các KCN.
4.2 Hệ thống cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp
Trong xu hướng hội nhập hiện nay, thông tin ngày càng trở thành một
yếu tố quan trọng trong việc củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, hiện nay thông tin
đã trở thành một trong những điều kiện quyết định đến sự thành hay bại của
một doanh nghiệp.
Cũng chính bởi thông tin có vai trò quan trọng, có khả năng quyết định
đến sự “sống còn” của doanh nghiệp. Chính vì vậy, đã xảy ra hiện tượng một
số người thậm chí cả một số công chức quản lý nhà nước cố tình giữ (hoặc
kìm) thông tin để hưởng lợi một cách bất hợp pháp.
Vì vậy, việc thành lập một hệ thống nhằm cung cấp thông tin cho các
doanh nghiệp hoạt động trong các KCN là một trong những yếu tố quan trọng

thúc đẩy các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN. Bởi nếu có một hệ thống cung
cấp thông tin một cách nhanh chóng, chính xác sẽ giúp các nhà đầu tư tiết
kiệm được chi phí cả về thời gian và tiền bạc trong quá trình tìm kiếm thông
tin để ra quyết định đầu tư.
V. Kinh nghiệm sử dụng các Khu công nghiệp của một số
tỉnh và bài học rút ra
Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền bắc, là cửa ngõ
phía bắc của thành phố Hà Nội (cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 20
km). Đây là một trong những điều kiện quan trọng giúp tỉnh nâng cao hiệu
quả sử dụng các KCN nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Qua tìm hiểu
tôi được biết, mặc dù có những chính sách ưu đãi cũng như điều kiện thuận

23
lợi nhưng hiệu quả sử dụng các KCN trên địa bàn không cao. Trong khi các
tỉnh khác có cùng điều kiện như Bắc Ninh (tỉnh Vĩnh Phúc, tỉnh Bình Dương,
tỉnh Đồng Nai,…), hiệu quả sử dụng các KCN rất cao. Vấn đề đặt ra là
nguyên nhân do đâu mà hiệu quả sử dụng các KCN trên địa bàn Bắc Ninh lại
thấp?
Nghiên cứu tình hình phát triển các KCN ở một số tỉnh, đặc biệt ở
những tỉnh có điều kiện tương tự Bắc Ninh nhằm tổng kết rút ra những ưu,
nhược điểm và xu hướng vận động, phát triển các KCN là hết sức cần thiết.
Trong phạm vi đề tài này sẽ chọn hai tỉnh để nghiên cứu, đó là tỉnh Bình
Dương và tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là hai trong số những tỉnh có cùng điều kiện
phát triển như Bắc Ninh.
1. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương
Cũng giống như Bắc Ninh, tỉnh Bình Dương nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm miền trung, có nhiều thuận lợi để phát triển công nghiệp. KCN là
mô hình phát triển trọng điểm mà địa phương hướng tới trong quá trình phát
triển. Tỉnh chủ trương xây dựng KCN ngay từ khi luật đầu tư nước ngoài
được ban hành có hiệu lực. KCN Sóng Thần lần đầu tiên được thành lập ở

Bình Dương (tháng 9/1995), đến nay trên toàn tỉnh đã có 18 KCN được thành
lập với diện tích quy hoạch 4916 ha (ước tính đến năm 2010 toàn tỉnh có 21
KCN với diện tích quy hoạch là 4.921 ha).
Các KCN Bình Dương đều là các KCN đa ngành, trong KCN lại phân
thành các KCN chuyên ngành riêng (khu cơ khí, điện tử, khu dệt may, khu
chế xuất, khu công nghệ cao,…) nhưng trên thực tế các khu chức năng
chuyên ngành đều chuyển thành KCN tổng hợp, nên phân khu chức năng
không còn lại nữa.

24
Ban đầu khi mới đi vào hoạt động, hiệu quả đóng góp của các KCN đối
với sự phát triển kinh tế trên địa bàn của tỉnh Bình Dương không lớn. Mặc
dù là tỉnh phát triển nhanh các KCN, nhưng vai trò đối với nông nghiệp và
nông thôn còn rất hạn chế. Vì quy hoạch các KCN xây dựng tách rời dân cư,
chủ yếu bám vào các vùng ven đô thị có sẵn; chưa hình thành được mối liên
kết giữa nông nghiệp, nông thôn với công nghiệp thông qua các KCN; chưa
thu hút được nhiều các doanh nghiệp trong nước vào KCN (chỉ chiếm 6%
tổng vốn đăng ký vào KCN); … Điều này đã ảnh hưởng đến chính sách phát
huy nội lực và sự phát triển bền vững; chưa phát triển đồng bộ hệ thống dịch
vụ trong và ngoài KCN nhằm hỗ trợ đẩy nhanh tốc độ sử dụng các KCN.
Để khắc phục các nhược điểm này, Bình Dương đã thực hiện một số
biện pháp sau:
Thứ nhất, thường xuyên nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy
hoạch; tổ chức xây dựng hợp lý và có hiệu quả hệ thống các cơ sở hạ tầng
KCN.
Hệ thống cơ sở hạ tầng (hệ thống giao thông vận tải, hệ thống cung cấp
điện, nước,…) ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh tại các KCN. Chú trọng nâng cao chất lượng
xây dựng, đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư là một trong những điều kiện cần
thiết thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN.

Thứ hai, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, xúc tiến quảng
bá và thu hút các dự án đầu tư hoạt động trong KCN,…
Môi trường đầu tư và kinh doanh trực tiếp quyết định đến lợi nhuận của
doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi góp phần giúp doanh
nghiệp tăng lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này là một

25

×