Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

giải pháp nhằm đẩy mạnh hoat động kinh doanh nhập khẩu ở công ty máy và phụ tùng _ machinoimport

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.1 KB, 79 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với toàn thế giới tiến vào thiên niên kỷ mới, Việt Nam đã và đang
chuyển mình trong công cuộc đổi mới toàn diện và đến nay cũng đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Vị thế của Việt Nam trên trường Quốc tế ngày càng
được khẳng định. Tuy nhiên, để sánh vai với các cường quốc năm châu thì tốc
độ tăng trưởng GDP của nước ta phải đạt từ 8-10%/năm liên tục trong vòng từ
10 đến 20 năm. Để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng như vậy, cùng với mục
tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phải thực hiện hàng
loạt các biện pháp tổng hợp, trong đó nâng cao hiệu quả của công tác xuất
nhập khẩu là một trong những biện pháp quan trọng nhất. Chính vì vậy, một
lần nữa Đại hội Đảng IX lại khẳng định chiến lược ngoại thương trong thời
gian tới là hướng về xuất khẩu, từng bước thay thế nhập khẩu.
Trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, các công ty xuất
nhập khẩu đã có nhiều cố gắng đổi mới để đáp ứng nhu cầu phát triển liên tục
của nền kinh tế trong nước và hội nhập với thương mại trong khu vực cũng
như trên thế giới.
Trong suốt 50 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Machinoimport
là một trong những doanh nghiệp lớn thuộc Bộ Thương mại, liên tục hoạt
động kinh doanh có hiệu quả. Với đặc thù kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị
toàn bộ, máy móc, thiết bị lẻ, nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế và công nghệ
trong nhiều lĩnh vực như: xây dựng cơ bản, cung cấp năng lượng, giao thông
vận tải, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng…Machinoimport đã trở
nên quen thuộc với các bộ, các ngành các địa phương và chủ đầu tư trong cả
nước.
Trong thời gian thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu Máy và Phụ tùng
(Machinoimport), với sự giúp đỡ của PGS. TS Phan Huy Đường các cô chú
và các anh chị ở Công ty em đã chọn đề tài:
1
Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoat động kinh doanh Nhập khẩu ở Công
ty Máy và phụ tùng _ Machinoimport. Bài viết bao gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận chung về kinh doanh nhập khẩu.


Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công
ty máy & phụ tùng_Machinoimport .
Chương 3: Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhập
khẩu ở tổng Công ty máy & phụ tùng.
Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Phan Huy Đường đã giúp đỡ em
nhiệt tình và cho em những ý kiến hết sức có ý nghĩa trong quá trình em thực
hiện đề tài này.
Em cũng xin cảm ơn các cô các chú, các anh chị ở phòng Kinh doanh
trong Công ty Machinoimport đã hướng dẫn nghiệp vụ và cung cấp tài liệu.
Cho dù em đã hết sức cố gắng song do điều kiện thời gian cũng như
kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết khó tránh khỏi những thiếu
sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến
đóng góp của thầy cô và các bạn.

2
CHƯƠNG I :
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH NHẬP KHẨU.
I>.KINH DOANH NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH KINH
DOANH NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ.
1.Khái niệm.
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh tế được hình thành từ rất sớm,
khoảng cuối thế kỷ 16. Trong các xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, do
kinh tế tự nhiên còn chiếm vị trí thống trị, nên ngoại thương mới chỉ phát
triển với quy mô nhỏ bé. Lưu thông hàng hoá mới chỉ dừng lại ở một phần
nhỏ sản phẩm sản xuất ra và chủ yếu là để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của
giai cấp thống trị. Cho đến những năm 90 của thế kỷ XX, cùng với sự ra đời
và phát triển của chủ nghĩa tư bản, lĩnh vực kinh doanh này mới có sự phát
triển mạnh và lan toả trên toàn cầu.
Trong những thập niên trước chỉ có các MNC (Multinational Company)
đầu tư hàng tỷ USD để mua hoặc xây dựng công ty. Hầu hết đầu tư nước ngoài

được thực hiện giữa các nước: Mỹ, EU, Nhật Bản với nhau. Ngày nay, dưới sự
tác động mạnh mẽ của các xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới đặc biệt
là sự tác động ngày càng tăng của xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá đối với
nền kinh tế của từng quốc gia và thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng
đa dạng và trở thành một trong những nội dung cực kỳ quan trọng trong quan hệ
kinh tế hiện đại. Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh rất hấp dẫn, nó thể
hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa nghệ thuật kinh doanh và các yếu tố khác của từng
quốc gia như: yếu tố luật pháp, kinh tế, chính trị, văn hoá…
Xuất nhập khẩu là những hoạt động cơ bản và quan trọng trong ngoại
thương. Theo giáo trình "Kinh tế Ngoại thương" của GS.TS. Bùi Xuân Lưu,
xét về đặc trưng thì ngoại thương được định nghĩa là việc mua, bán hàng hoá
và dịch vụ qua biên giới quốc gia. Trong hoạt động ngoại thương: xuất khẩu
3
là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài, nhập khẩu là việc mua hàng
hoá và dịch vụ của nước ngoài.
Theo giáo trình "Kinh doanh quốc tế" của tập thể tác giả trường Kinh tế
Quốc dân (Nhà xuất bản Bưu điện 10/2002) thì nhập khẩu là việc mua hàng
hoá và dịch vụ qua biên giới quốc gia, nhằm thoả mãn mục tiêu kinh doanh
của các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức đồng thời thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội của đất nước.
Các nhà kinh tế học còn dùng định nghĩa ngoại thương như là một công
nghệ khác để sản xuất hàng hoá và dịch vụ (thậm chí cả các yếu tố sản xuất).
Như vậy, ngoại thương được hiểu như là một quá trình sản xuất gián tiếp.
Hoạt động nhập khẩu nói trên bao gồm các lĩnh vực chính như: thương mại
hàng hoá, thương mại dịch vụ ( nhập khẩu dịch vụ: tài chính, bảo hiểm, vận tải, bưu
chính viễn thông…), đầu tư nước ngoài ( nhập khẩu vốn, công nghệ…),…
Hoạt động xuất nhập khẩu giúp các quốc gia khai thác được lợi thế so
sánh của mình, làm động lực cho sự phát triển góp phần cải thiện đời sống
nhân dân, gia tăng tiến bộ xã hội và góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của
các nền kinh tế quốc gia. Trong những điều kiện lịch sử mới, vấn đề "mở

cửa"nền kinh tế đang trở nên cấp bách và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho
các quốc gia trong quá trình đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội. Tuy nhiên, trong điều kiện này, các quốc gia cũng đang phải đứng trước
những thách thức mới như: phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt
hơn diễn ra trên khu vực và toàn cầu thậm chí ngay cả trên thị trường nội địa,
các rủi ro trong nền kinh tế thế giới đang là những sức ép rất lớn đối với từng
quốc gia và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Đứng trên góc độ một doanh nghiệp mà xét, để đạt được bất kì mục
đích nào của mình doanh nghiệp cần phải cân nhắc lựa chọn hoạt động kinh
doanh nhập khẩu nào cho phù hợp. Sự lựa chọn này phụ thuộc vào mục tiêu
và thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động hoặc muốn thâm nhập vào.
Các điều kiện môi trường kinh doanh quốc tế không chỉ ảnh hưởng đến các
4
hình thức nhập khẩu, mà còn ảnh hưởng đến các chức năng hoạt động của
doanh nghiệp như các chức năng: sản xuất, marketing, tài chính, kế toán…,
ngược lại hoạt động của những doanh nghiệp này cũng có những tác động tích
cực đến môi trường nhằm thích ứng với sự thay đổi của môi trường.
2>.Vai trò của nhập khẩu.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu tác
động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.
Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất được,
hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là
nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng
nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực
hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân,
trong đó cân đối trực tiếp ba yếu tố của sản xuất: công cụ lao động, đối tượng
lao động và lao động. Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, vai trò quan
trọng của nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
 Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.

 Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo
phát triển kinh tế cân đối và ổn định.
 Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. ở
đây, nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu
dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, vừa tạo việc làm ổn định cho
người lao động.
 Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động
này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho quá trình sản xuất hàng xuất
khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước
ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu.
3>. Sự cần thiết đẩy mạnh kinh doanh nhập khẩu hàng hoá.
5
Loài người đã trải qua những ngày tháng cuối của thế kỷ XX và bước
vào thế kỷ XXI đầy hứa hẹn. Đối với Việt Nam giai đoạn này có ý nghĩa
quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm
đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, đồng thời tạo điều kiện cho sự
phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng,dân chủ, văn minh đúng như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã
khẳng định.
Từ năm 1986 đến nay, chính sách đổi mới đã thực sự thổi một luồng
gió mới vào kinh tế Việt Nam. Và sau gần 20 năm kinh tế Việt Nam đã đạt
được những thành tưụ vô cùng to lớn. Việt Nam đã nhập được một số lượng
đáng kể máy móc, thiết bị, phụ tùng cho các nghành công nghiệp nặng, năng
lượng, hoá chất, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông Tuy nhiên nhập
khẩu chỉ phát huy tác dụng khi chiến lược nhập khẩu phù hợp với chiến lược
công nghiệp hoá - hiện đại hoá sao cho các máy móc thiết bị, các công trình
khoa học công nghệ vừa thích ứng với điều kiện kinh tế xã hội đất nước vừa
phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Việt Nam hiện nay cần nhập khẩu
máy móc thiết bị với công nghệ ở nhiều trình độ khác nhau, kiên quyết không
nhập công nghệ lạc hậu, không để Việt Nam trở thành bãi rác công nghiệp.

Nhập khẩu máy và phụ tùng là một trong những phương tiện để phát
triển khoa học kỹ thuật. Nhập khẩu máy và phụ tùng giúp ta tranh thủ được
các thành tựu khoa học kỹ thuật tiến của thế giới mà ta chưa nghiên cứu được
nhờ đó tiết kiệm được chi phí về vốn, thời gian và chất xám của đội ngũ cán
bộ khoa học kỹ thuật mà nhiều khi chi phí bỏ ra cho hoạt động này rất lớn
nhưng không mang lại hiệu quả.
Bên cạnh đó, nhập khẩu máy và phụ tùng cũng góp phần vào việc
chuyên môn hoá nghiên cứu khoa học cho những lĩnh vực mà nước ta có thế
mạnh. Với mục đích là đạt đựơc trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại, nhập
khẩu máy và phụ tùng tiên tiến sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng năng suất
lao động, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Ngoài ra, nhập
6
khẩu máy và phụ tùng còn góp phần phát triển các nhà máy lắp ráp, nâng cao
hạ tầng cơ sở vật chất cho ngành công nghiệp, tạo công ăn việc làm cho người
lao động giải quyết nạn thất nghiệp.
Song song với việc nhập khẩu máy và phụ tùng hiện đại, đội ngũ cán
bộ kỹ thuật và công nhân nước ta sẽ tiếp thu được những kiến thức kỹ thuật
mới. Điều này góp phần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật trong nước, dần đưa họ tiếp cận với thế giới khoa học hiện đại.
Tuy mới chỉ trong một thời gian ngắn nhưng hoạt động nhập khẩu
máy và phụ tùng đã phát huy được vai trò to lớn, đổi mới trang thiêt bị máy
móc, tạo ra một thị trường hàng hoá phong phú, đa dạng từng bước đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước và đã xuất khẩu được một số hàng hoá, nâng
cao đời sống nhân dân. Điều này thúc đẩy Việt Nam nhập khẩu những máy
móc thiết bị hiện đại hơn, giúp nền kinh tế còn bỡ ngỡ trước làn sóng đổi mới,
hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Chính việc nhập khẩu này quay trở lại tác
động đến nền sản xuất trong nước sản xuất ra hàng hoá có chất lượng tốt hơn,
có tính cạnh tranh cao hơn và khả năng xuất khẩu hàng Việt nam được nâng
cao. Thực tế đã chứng minh rõ ràng tính ưu việt cũng như khẳng định vai trò
của hoạt động nhập khẩu máy và phụ tùng trong quá trình công nghiệp hoá -

hiện đại hoá của nước ta.
II>.CÁC PHƯƠNG THỨC NHẬP KHẨU CHỦ YẾU.
1>.Nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp
trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu muốn nhập khẩu một số loại
hàng hoá nhưng lại không có quyền tham gia các hoạt động nhập khẩu trực
tiếp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác làm nhiệm vụ giao dịch trực tiếp
và tiến hành nhập khẩu hàng hóa theo yêu cầu của mình. Bên uỷ thác phải
tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài và làm thủ tục nhập hàng hoá theo
7
yêu cầu của bên uỷ thác. Bên nhận ủy thác sẽ được hưởng một phần thù lao
được gọi là phí uỷ thác.
2>. Nhập khẩu trực tiếp.
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một
doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong
nước và quốc tế, tính toán chính xác các chi phí, đảm bảo hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu, tuân thủ đúng chính sách, luật pháp quốc gia và luật pháp
quốc tế. Trong hình thức này, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải trực
tiếp làm các hoạt động tìm kiếm đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng và phải
bỏ vốn để tổ chức kinh doanh hàng nhập khẩu.
3>. Nhập khẩu liên doanh.
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá trên
cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó ít
nhất một bên là doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp nhằm phối hợp
kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan
đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu, hướng hoạt động này sao cho có lợi
nhất cho tất cả các bên, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu lỗ.
4>.Nhập khẩu hàng đổi hàng.
Nhập khẩu đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu
của buôn bán đối lưu, đó là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu. Thanh

toán cho hoạt động này không dùng tiền mà là hàng hóa. Mục đích của nhập
khẩu hàng đổi hàng là vừa thu lãi từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu và vừa
xuất khẩu được hàng hoá trong nước ra nước ngoài.
5>. Nhập khẩu tái xuất.
Hoạt động nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào
trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một
nước thứ ba để thu lợi nhuận, những mặt hàng này không được qua chế biến ở
nơi tái xuất. Như vậy trong hình thức này có sự tham gia của ít nhất ba quốc
8
gia: nước xuất khẩu hàng hóa, nước nhập khẩu hàng hoá để tái xuất, nước
nhập khẩu hàng đã được tái xuất.
6>.Nhập khẩu hàng hoá.
Nói đến thương mại quốc tế không thể không nói đến xuất nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ vì đây là nội dung quan trọng và cốt lõi của nó. Kinh
doanh nhập khẩu là một bộ phận cấu thành của kinh doanh xuất nhập khẩu
nói chung. Nếu như trong kinh doanh xuất nhập khẩu, hành vi mua bán trao
đổi hàng hoá-tiền tệ diễn ra theo hai chiều thì trong nhập khẩu sự vận động
của hàng hóa-tiền tệ chỉ diễn ra theo một chiều: hàng vào-tiền ra. Tuy vậy, nó
là hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế, không phải là hành vi mua bán
riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp, có tổ chức.
Những quy định và luật lệ ràng buộc người mua và kẻ bán nhằm mục tiêu lợi
nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế bằng
cách thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong nước, nhất
là những loại hàng hoá mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu
người tịêu dùng.
7>.Nhập khẩu vật tư thiết bị.
Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công nghệ, kể cả
thiết bị theo con đường đầu tư hay viện trợ đều phải nắm vững phương thức
đón đầu. Nhập phảỉ có chọn lọc, tránh nhập những loại thiết bị, công nghệ lạc
hậu các nước đang tìm cách thảI ra. Nhất thiết không vì mục tiêu tiết kiệm mà

nhập các thiết bị cũ, chưa dùng được bao lâu, chưa đủ sinh lợi đã phải thay
thế.
III>. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU.
1>.Nghiên cứu thị trường.
1.1>. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
Nhận biết mặt hàng để nhập khẩu trước tiên phải dựa vào nhu cầu của
sản xuất và tiêu dùng về quy cách, chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và các
9
thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất.
Phải hiểu rõ giá trị, công dụng các đặc tính của hàng hoá, từ đó xem xét các
khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thế giới về quy cách, phẩm chất, mẫu
mã. Đối với các doanh nghiệp sản xuất vật tư phục vụ sản xuất, điểm đầu tiên
để xác định mặt hàng là dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật, dựa trên chất lượng
sản phẩm hàng hoá. Nắm bắt đầy đủ các mức giá cho từng điều kiện mua bán,
kả năng sản xuất và nguồn cung ứng dịch vụ đi kèm bảo đảm cho hàng hóa
như: bảo hành, sửa chữa, cung ứng các thiết bị phụ tùng thay thế
Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, một số nhân tố quan trọng là
phải tinh đợc tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu của mặt hàng đó. Nếu tỷ suất ngoại tệ
nhập khẩu cao hơn tỷ giấ hối đoái trên thị trường thế giới thì việc lựa chọn
mặt hàng là có hiệu quả. Ngoài ra nhà nhập khẩu còn phải dựa vào những
kinh nghiệm ngoài thị trường để có thể dự đoán được các biến động trong thị
trường nước ngoài cũng như trong nước và khả năng thương lượng để đạt
được các điều kiện mua bán có ưu thế hơn.
1.2>. Nghiên cứu dung lượng thị trường
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên
phạm vi một thị trường nhất định trong một phạm vi nhất định. Nghiên cứu
dung lượng thị trường cần phải xác định nhu cầu thật của khách hàng, kể cả
lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm, các
vùng, các khu vực có nhu cầu lớn và đặc điểm nhu cầu trong từng thời điểm,
từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng. Cùng với việc nắm bắt nhu cầu, việc nắm

bắt khả năng cung cấp cho thị trường phải xét đến đặc điểm, tính chất, khả
năng sản xuất hàng hoá thay thế, khả năng lựa chọn trong việc mua sắm để
thoả mãn nhu cầu.
Một vấn đề cũng được quan tâm trong khâu này là tính thời vụ của sản
xuất(cung) và tiêu dùng(cầu) hàng hoá đó trên thị trường thế giới để có biện
pháp thích hợp cho từng giai đoạn, bảo đảm nhập khẩu có hiệu quả. Dung
lượng thị trường không cố định, nó thay đổi do tác động tổng hợp của nhiều
10
nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố làm cho dung lượng thị
trường thay đổi có thể chia làm 3 loại căn cứ vào thời gian ảnh hưởng của
chúng đối với thị trường.
1.3>. Lựa chọn đối tác.
Xét về tính chất và mục đích hoạt động, khách hàng trong thương mại
quốc tế được chia làm 3 loại:
- Các hãng hay công ty.
- Các liên đoàn kinh doanh.
- Các cơ quan nhà nước.
Đối tượng giao dịch rất quan trọng trong kinh doanh nhập khẩu, việc
lưa chọn phải tiến hành một cách cẩn thận, kỹ lưỡng nhất là trong điều kiện
giao lưu quốc tế mở rộng, thông tin nhanh nhạy từ nhiều nguồn Thường khi
lựa chọn đối tác giao dịch, người ta dựa trên những cơ sở sau:
- Tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, lĩnh vực và phạm vi kinh
doanh, khả năng cung cấp hàng hoá lâu dài, thường xuyên, kịp thời.
- Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
- Thái độ và quan điểm kinh doanh của doanh nghiệp( chiếm lĩnh thị
trường hay độc quyền, những quan điểm về mua bán với bạn hàng).
- Uy tín của doanh nghiệp đó trong kinh doanh.
Trong lựa chọn đối tác giao dịch tốt hơn hết là nên chọn đối tác trực
tiếp, tránh những đối tác trung gian trừ khi doanh nghiệp muốn thâm nhập
vào thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm. Việc lựa chọn đối tác giao

dịch có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các
hoạt động kinh doanh trong thương mại quốc tế.
1.4>. Xác định nhu cầu cụ thể về lượng hàng hoá cần nhập.
Doanh nghiệp thường xác định lượng hàng hoá nhập tối ưu dựa trên cơ
sở tối ưu hoá về giá trị sử dụng và gía trị tức là hàng hoá vừa có chất lượng tốt
vừa có giá phải chăng.
11
Như đã biết nếu xét về chi phí vận chuyển, lượng hàng đặt mua một lần
lớn thì chi phí thu mua vận chuyển tính cho một đơn vị hàng càng ít và ngược
lại. Nhưng lượng hàng đặt mua một lần càng lớn thì chi phí bảo quản lô hàng
đó càng cao. Vì thế, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là đặt mua bao nhiêu
hàng một lần để tối ưu chi phí vận chuyển và chi phí bảo quản lô hàng đó?
Để trả lời câu hỏi này, các nhà kinh tế đã đưa ra công thức tính lượng
đặt hàng tối ưu như sau:
Gọi N là nhu cầu nhập khẩu hàng hoá hàng năm.
D là lượng đặt hàng của mỗi đơn hàng.
C là toàn bộ chi phí cho lô hàng.
C
1
là phần chi phí vận chuyển cố định cho lô hàng đặt mua.
C
2
là chi phí bảo quản một đơn vị hàng lưu kho trong một năm.
Ta có:
N D
C = C
1
* + C
2
*

D 2
Tối thiểu hoá chi phí ta tính được lượng hàng của mỗi đơn hàng:

D = 2 ∗ C
1
∗ N
C
2
2>. Nghiên cứu giá cả hàng nhập khẩu.
Gía cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, đồng thời biểu hiện
một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ trong nền kinh tế
quốc dân như quan hệ cung cầu về hàng hóa. Gía cả luôn gắn liền với thị
trường, nó biến động và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Đặc biệt trong
buôn bán quốc tế, giá cả hàng hóa bao gồm giá vốn hàng hoá, bao bì, chi phí
vận chuyển, chi phí bảo hiểm, xếp dỡ, các chi phí khác tuỳ theo thoả thuận
của các bên tham gia. Giá cả thị trường càng trở nên phức tạp trong thương
12
mại quốc tế vì việc mua bán diễn ra giữa các nước khác nhau, trong thời gian
dài, hàng phải vận chuyển qua nhiều nước Gía quốc tế do quan hệ cung cầu
thế giới quyết định không kèm theo điều kiện. Người ta chia cách xác định giá
hàng theo 3 nhóm:
Đối với những sản phẩm trên thị trường quốc tế có những trung tâm
buôn bán lớn như cà phê hạt ở New York, London, cao su nguyên liệu, lông
thú, kim loại màu khi nghiên cứu gía ta có thể tham khảo giá của các trung
tâm này.
Đối với những sản phẩm không có trung tâm buôn bán lớn như gạo,
bông nên căn cứ vào giá của các nước sản xuất.
Đối với những hàng hoá là thiết bị nên lấy gía của các nước sản xuất để
tham khảo.
Do vậy, để đạt được hiệu quả trong kinh doanh thương mại quốc tế, các

nước nhập khẩu phải nẵm được giá cả và xu hướng vận động của nó trên thị
trường quốc tế để có biện pháp tính toán một cách khoa học, chính xác. Muốn
vậy, người nhập khẩu phải nắm được các nhân tố ảnh hưởng đến gía cả và xu
hướng vận động của chúng.
3>.Xác định mức giá nhập khẩu.
Việc xác định mức giá là điều kiện tối quan trọng quyết định đến hiệu
quả kinh doanh. Xác định mức giá nhập khẩu phải thông qua việc xác định
đồng tiền tính giá, cơ sở tính giá, phương pháp quy định giá và việc giảm giá.
- Đồng tiền tính giá: có thể dùng đồng tiền nước xuất khẩu hoặc đồng tiền
nước nhập khẩu hoặc đồng tiền nước thứ ba nhưng điều căn bản là đồng
tiền đó phải là đồng tiền mạnh, ổn định và có thể tự do chuyển đổi. Nó
được lựa chọn theo sự thoả thuận của hai bên và được ghi vào hợp
đồng.
- Cơ sở định giá: Tuỳ theo điều kiện giao hàng và phương thức giao hàng
trong hợp đồng mua bán mà giá có thể được tính theo các mức khác
nhau: EXW, FOB, CIF
13
- Phương pháp quy định giá: gía có thể được xác định ngay khi ký hợp
đồng, cũng có thể xác định trong thời gian hợp đồng có hiệu lực. Thông
thường có 4 phương pháp định giá. Đó là:
+ Giá cố định: là giá quy định lúc ký kết hợp đồng và không
được sửa đổi trong quá trình thực hiện hợp đồng, thường được sử dụng
trong các hợp đồng có thời hạn giao hàng ngắn( phổ biến trong các hợp
đồng nhập khẩu của nước ta hiện nay).
+ Giá qui định sau: là giá được quy định trong quá trình thực
hiện hợp đồng. Loại này áp dụng cho các hợp đồng dài hạn.
+ Giá có thể điều chỉnh: là gía xác định trong lúc ký hợp đồng
nhưng có thể được điều chỉnh lại nếu giá có biến động đến mức đã định
trước. Gía này áp dụng nhằm giảm bớt thiệt hại cho các nhà kinh doanh
khi có biến động lớn về giá trên thị trường.

+ Giá di động hay trượt giá: Giá được tính toán dứt khoát vào
lúc thực hiện hợp đồng trên cơ sở định gía ban đầu có đề cập tới những
biến động của chi phí sản xuất trong thời gian thực hiện hợp đồng. Loại
giá này được áp dụng trong hợp đồng dài hạn đối với hàng hoá là máy
móc thiết bị, dây chuyền sản xuất
+ Giảm giá: Thường được áp dụng trong buôn bán quốc tế nhằm
khuyến khích hoạt động bán hàng, người mua cần nắm vững và khai
thác triệt để yếu tố này. Doanh nghiệp có thể thực hiện giảm giá cho các
khách hàng mua với khối lượng lớn hoặc trả tiền sớm hoặc khách hàng
đã có quan hệ công tác lâu dài với doanh nghiệp hoặc theo thời vụ
4>.Lập phương án kinh doanh nhập khẩu hàng hoá.
Từ kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường, tiếp cận đối
tượng giao dịch, mặt hàng, giá cả trong nước và quốc tế, đơn vị kinh doanh sẽ
lập phương án kinh doanh. Phương án kinh doanh giúp đơn vị kinh doanh đạt
được mục tiêu đã đề ra trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, gồm các bước
sau:
14
4.1>.Đánh giá thị trường và khách hàng.
Người lập phương án phải rút ra những kết luận cụ thể về khách hàng, về thị
trường trong và ngoài nước, từ đó xây dựng chiến lược, phương hướng kinh
doanh phù hợp.
4.2>.Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh
doanh.
Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình
về mặt hàng, nguồn hàng, thời cơ, thời điểm tập trung mua hàng và bán hàng,
đồng thời lựa chọn phương thức kinh doanh hợp lý nhất( uỷ thác, trực tiếp,
liên doanh ) và đặc biệt chú ý đến tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu.
4.3>. Mục đích phương án và sơ bộ đánh giá kết quả kinh doanh.
Những mục tiêu đề ra cho một phương án là những mục tiêu cụ thể
như: sẽ bán được bao nhiêu hàng? gía bao nhiêu? bán cho ai? trong thời gian

bao lâu? Sau khi đã xác định được các mục tiêu cụ thể trên, ta có thể đánh
gía sơ bộ hiệu quả kinh doanh thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu là:
- Thời gian hoà vốn.
- Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ.
- Chỉ tiêu điểm hoà vốn.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.
4.4>.Biện pháp thực hiện.
Sau khi đánh gía các chỉ tiêu trên thấy phương án kinh doanh có tính khả
thi, nhà kinh doanh đưa ra các biện pháp thực hịên phương án kinh doanh
này. Nó gồm các khâu:
- Đầu tư vốn cho kinh doanh.
- Ký kết hợp đồng.
- Tiến hành quảng cáo.
- Mở rộng hệ thống bán hàng
5>. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu
5.1>. Giao dịch: Gồm các bước.
15
- Hỏi giá: Bên mua đề nghị bên bán cho biết những điều kiện bán loại
hàng mình cần như giá cả, thời gian giao hàng, chất lượng, số lượng, phương
thức giao hàng Hỏi gía thực chất là thăm dò để giao dịch. Do vậy, trên
cương vị là nhà nhập khẩu, khi tiến hành hỏi giá ta cần tìm hiểu kỹ về hàng
mà mình dự định hỏi giá. Câu hỏi cần chi tiết để chứng tỏ mình thực sự có
nhu cầu giao dịch mua bán.
- Hoàn giá: Bên mua sau khi nhận được các thông tin cần thiết từ bên bán
sẽ xem xét, cân nhắc và có thể đề nghị một mức gía mới về hàng hoá đó với
bên bán. Thực chất đây là bước “mặc cả”.
- Chấp nhận: là bước cuối cùng sau khi hai bên đồng ý với những điều
kiện thoả thuận ở các bước trên. Chấp nhận là khẳng định sự thoả thuận mua
bán bằng văn bản xác nhận của bên mua hoặc bên bán hoặc cả hai bên.
5.2>.Đàm phán.

Là việc trao đổi bàn bạc các điều kiện mua bán để đi đến ký kết hợp
đồng. Có nhiều hình thức đàm phán.
- Đàm phán qua thư: là phương thức các bên gửi cho nhau những văn bản
để thoả thuận những điều kiện mua bán. Đây là hình thức đàm phán phổ biến
trong điều kiện hiện nay. Nó có ưu điểm là tiết kiệm được chi phí lại có thể
giao dịch với nhiều khách hàng cùng một lúc. Tuy nhiên hình thức đàm phán
này mất nhiều thời gian chờ đợi, dễ mất cơ hội kinh doanh.
- Đàm phán qua điện thoại: là phương thức đàm phán nhanh nhất giúp hai
bên nhanh chóng nắm bắt thời cơ cần thiết, rút ngắn quá trình kinh doanh
nhưng chi phí cao, ảnh hưởng tới chi phí của quá trình mua bán. Tất cả nội
dung đàm phán trên điện thoại đều được hai bên ghi thành văn bản và có giá
trị pháp lý. Loại hình này rất ít sử dụng ở Việt Nam vì rất dễ nhầm lẫn trong
kinh doanh do bất đồng ngôn ngữ.
- Đàm phán gặp mặt trực tiếp: là hình thức đàm phán tối ưu giúp đẩy
nhanh quá trình giải quyết mọi quan hệ trong giao dịch. Hình thức đàm phán
này thể hiện được thiện chí của các bên, tạo sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau
16
nên dễ đi đến thành công và duy trì được mối quan hệ lâu dài giữa các bên.
Tuy nhiên, hình thức đàm phán này rất tốn kém vì chi phí cho cuộc đàm phán
đôi khi là một chuyến công du nước ngoài. Đây là phương thức khà phổ biến
trong nhập khẩu những lô hàng lớn hoặc lần làm ăn buôn bán đầu tiên.
5.3>.Ký kết hợp đồng.
Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên. Bên bán hoặc người xuất
khẩu có nhiệm vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua
còn gọi là người nhập khẩu. Bên mua có nhiệm vụ thanh toán toàn bộ số tiền
theo hợp đồng.
Hợp đồng có thể coi như đã ký kết chỉ trong trường hợp các bên ký
vào hợp đồng. Các bên đó phải có địa chỉ pháp lý ghi rõ trong hợp đồng. Hợp
đồng được như đã ký kết chỉ khi người tham gia có đủ thẩm quyền ký vào các
văn bản đó, nếu không thì hợp đồng không được công nhận là văn bản có cơ

sở pháp lý. Nhiều trường hợp ký kết hợp đồng ba trở lên có thể thực hiện
bằng tất cả các bên cùng ký vào một văn bản thống nhất hoặc bằng một văn
bản hợp đồng tay đôi có trích dẫn trong từng hợp đồng đó với hai hợp đồng
khác( trích dẫn chéo).
Khi soạn thảo hợp đồng cần tuân theo quy tắc 5 “C”, đó là:
Clear : rõ ràng
Complete : đầy đủ, hoàn chỉnh.
Concise : ngắn gọn, xúc tích.
Correct : chính xác về chính tả và thông tin.
Courteous : lịch sự.
Nội dung hợp đồng nhập khẩu:
- Số hợp đồng, ký hiệu(nếu có).
- Ngày, tháng, năm, nơi ký kết.
- Những căn cứ để ký kết.
- Những thông tin liên quan đến các bên: tên, địa chỉ, số điện thoại, số tài
khoản, người đại diện(nếu có) của các bên.
17
- Những điều khoản của hợp đồng:
+ Điều khoản tên hàng, ký mã hiệu.
+ Điều khoản phẩm chất.
+ Điều khoản số lượng: kích thước, dung tích, trọng lượng, chiều
dài, đơn vị.
+ Điều khoản bao bì.
+ Điều khoản cơ sở giao hànag
+Điều khoản thanh toán.
+ Điều khoản xử lý tranh chấp.
+ Điều khoản khác.
- Phần kết thúc: nêu rõ số bản hợp đồng, ngôn ngữ sử dụng để ký kết
hợp, giá trị pháp lý của bản hợp đồng, thời hạn có hiệu lực của hợp đồng.
- Chữ ký và dấu của các bên tham gia hợp đồng.

6>.Thực hiện hợp đồng.
Sau khi ký kết hợp đồng cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung, trình
tự công việc phải làm, cố gắng không xảy ra sai sót, tránh gây thiệt hại. Tất
cả các sai sót là cơ sở phát sinh khiếu nại. Để tiến hành thực hiện hợp đồng
nhập khẩu, doanh nghiệp cần thực hiện theo trình tự sau. Tuy nhiên, trình tự
này mang tính tương đối, có những việc tât yếu phải làm trước, có những việc
có thể đổi chỗ cho nhau hoặc làm đồng thời.
Xin Đôn Mua Làm
giấy L/C đốc bảo thủ
phép khi bên Thuê hiểm tục
nhập bên bán tàu hàng Hải
khẩu bán giao hoá quan
báo hàng
Khiếu Làm Nhận
nại về thủ tục hàng
hàng thanh nhập
18
hoá toán khẩu

7>.Tổ chức bán hàng ở doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu hàng hoá.
Đây là khâu cuối cùng trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu nhưng
lại là khâu quyết định cho thành công của thương vụ nhập khẩu. Có nhiều
hình thức bán hàng được áp dụng.
Bán buôn: bán với số lượng lớn cho các doanh nghiệp khác, các cửa
hàng, các thương nhân bán lẻ mà không trực tiếp bán đến tay người tiêu dùng.
Đây là hình thức phổ biến cho các hợp đồng nhập khẩu với khối lượng lớn, có
tác dụng thu hồi vốn nhanh, giải phóng hàng hoá nhanh để kịp thực hiện một
thương vụ khác.
Bán qua đại lý: các đơn vị, tổ chức, cá nhân bán hàng cho doanh
nghiệp, giá bán doanh nghiệp nhập khẩu ấn định và cho họ hưởng phần trăm

hoa hồng trên doanh số hàng hoá bán ra.
Dù bán theo hình thức nào thì yêu cầu đầu tiên của công tác bán hàng
là phải thu hồi vốn nhanh, an toàn và giảm đến mức tối đa chi phí bán hàng.
Đây có thể coi là một cách gián tiếp giảm chi phí lưu thông, tăng hiệu quả
kinh doanh.
Để hỗ trợ cho hoạt động bán hàng, doanh nghiệp cần thực hiện các hoạt
động như xúc tiến bán hàng hay các dịch vụ sau bán hàng. Xúc tiến bán hàng
là những kỹ thuật đặc thù nhằm làm cho hoạt động bán hàng tăng lên nhanh
chóng nhưng tạm thời do việc cung cấp một lợi ích ngoại lệ cho người phân
phối, người tiêu thụ hay người tiêu dùng cuối cùng. Tuỳ theo điều kiện cụ thể
của hàng hoá kinh doanh mà doanh nghiệp có thể sử dụng một trong những
kỹ thuật xúc tiến sau hoặc kết hợp những kỹ thuật đó với nhau như quảng cáo,
khuếch trương, bán trả góp, bán có thưởng, khuyến khích mua thử. Dịch vụ
sau bán hàng cũng là một trong những công cụ thúc đẩy bán hàng, đặc biệt là
các hàng hoá nhập khẩu có giá trị cao. Các doanh nghiệp cần chú ý đến các
hoạt động hỗ trợ này để nâng cao hoạt động bán hàng.
19
IV>.ĐẨY MẠNH KINH DOANH NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ.
1>. Phát triển thị trường.

Đối với thị trường nhập khẩu:
- Xác định thị trường mục tiêu.
- Xác định thị trường tiềm năng.
- Xác định diểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh.
- Xác định thời cơ mình, nguy cơ thị trường.

Đối với thị trường tiêu thụ.
- Xác định nhu cầu tiêu thụ.
- Thực hiện chính sách xúc tiến, khuyếch trương.
- Xây dựng hoàn thiện mạng lưới kinh doanh.

2>.Mở rộng quan hệ với đối tác.
- Thực hiện chiến lược định hướng dịch vụ.
- Chiến lược định hướng khách hàng.
- Duy trì quan hệ với khách hàng cũ, phát triển quan hệ với khách hàng mới.
3>. Nâng cao doanh thu.
- Xây dựng cơ cấu mặt hàng cho phù hợp.
- Tổ chức tốt công tác bán hàng nhập khẩu.
- Giảm chi phí kinh doanh.
4>. Tăng tốc độ vòng quay của vốn.
Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường việc kinh doanh mua
bán giữa các nước đều tính theo thời giá quốc rế và thanh toán với nhau bằng
ngoại tệ tự do. Trong điều kiện nhu cầu nhập khẩu để công nghiệp hoá và
phát triển kinh tế ngày càng lớn.Vốn để nhập khẩu lại eo hẹp thì việc tăng tốc
độ vòng quay của vốn là vấn đề rất cơ bản của quốc gia cũng như của mỗi
20
doanh nghiệp, đòi hỏi các cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp phải
thực hiện một số biện pháp sau:
_ Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh
tế- xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Trước tiên phải ưu tiên nhập khẩu Kỹ thuật – Công nghệ tiên tiến và phù hợp.
_ Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp, với giá
cả có lợi.
_ Có kế hoạch nhập khẩu với số lượng và cơ cấu mặt hàng phù hợp
nhằm giảm thời gian cũng như số lượng hàng hoá tồn kho.
5>.Tăng thị phần chiếm lĩnh thị trường.
- Xây dựng các chương trình, chiến lược và kế hoạch kinh doanh một
cách phù hợp, cụ thể và hoàn chỉnh.
- Nâng cao năng lực của cán bộ công nhân viên, tăng cường phối hợp
giữa các phòng ban.
6>. Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng trong kinh doanh.

- Quản lý hoạt động nhập khẩu.
- Điều chỉnh lại tổ chức nhân sự.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY MÁY & PHỤ TÙNG
MACHINOIMPORT
I . SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY MÁY VÀ PHỤ TÙNG
MACHINOIMPORT.
1>.Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Công ty Máy &
phụ tùng – Machinoimport.
21
Công ty Máy và Phụ tùng ra đời năm 1956, có trụ sở chính tại số 8
Tràng Thi - Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ thương mại.
Ngày 17/4/1995 theo quyết định 225/TTg của Thủ tướng Chính Phủ Công ty
được tái thành lập lại theo mô hình Tổng Công ty 90 và ngày 22/8/2003 theo
QĐ số 0902/2003/BTM của Bộ thương mại thành lập Công ty máy & phụ
tùng.
Trước những năm 1990, theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Tổng
Công ty Máy và Phụ tùng được Nhà nước giao độc quyền kinh doanh xuất
nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải cho các bộ ngành theo kế
hoạch hàng năm của Nhà nước phục vụ nền kinh tế quốc dân. Từ năm 90 Việt
Nam bắt đầu bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong đó thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, từng bước mở
cửa nền kinh tế, tham gia vào hệ thống thương mại thế giới, hội nhập và mở
rộng hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia khác thì môi trường kinh doanh cũng
có nhiều thay đổi, tình hình cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và quyết
liệt. Đồng thời để hoà nhập được với xu thế phát triển chung này, Công ty đã
có những hình thức đổi mới cả về tư duy và phương pháp hành động để
không ngừng lớn mạnh và góp phần vào quá trình xây dựng phát triển đất
nước.
Tổng Công ty có một bề dày kinh nghiệm, gần 50 năm hoạt động kinh

doanh ngành hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng, có uy tín rộng lớn và có
nhiều bạn hàng trong và ngoài nước.
Tổng Công ty có 10 thành viên hạch toán độc lập, một Tổng Công ty
hạch toán phụ thuộc, một xí nghiệp in trực thuộc, một Tổng Công ty TNHH
liên doanh với nước ngoài, và hàng trăm các xí nghiệp, cửa hàng kho tàng bến
bãi…nằm ở cả ba miền của đất nước, đặc biệt là tập trung ở các thành phố lớn
và các khu vực cửa khẩu quan trọng như: Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố HCM,
Vinh đã tạo nên một mạng lưới kinh doanh và dịch vụ thuận tiện phục vụ các
khách hàng trong cả nước.
22
Cho đến nay Tổng Công ty đã nhập khẩu các hệ thống dây chuyền
đồng bộ cho các nhà máy sản xuất hàng công nghiệp và tiêu dùng như: Trang
thiết bị y tế cho các bệnh viện trên toàn quốc đặc biệt là Bệnh viện 108 và
Bệnh viện Bạch Mai (11 triệu USD), thiết bị y tế Tây Ba Nha cho Sở y tế Hà
Tây (5 triệu USD), dây chuyền sản xuất nước ngọt, dây chuyền sản xuất đá
Granit Huế, dây chuyền sản xuất bánh ngọt cho Công ty thực phẩm miền bắc,
dây chuyền khai thác đá cho mỏ đá ánh Sơn - Hải Hưng, dây chuyền làm bao
bì, dây chuyền sản xuất xi măng của Đức, các trang thiết bị cho công trình
lăng Bác, công trình tu tạo cho nhà Hát lớn Hà Nội, sân vận động Hà Nội,
Thiết bị cho nhà máy đường Lam Sơn (23 triệu USD), thiết bị ngành nước,
thiết bị thí nghiệm cho các viện nghiên cứu, thiết bị đo soi hàng cho ngân cho
sân bay Nội Bài, nhập khẩu kinh doanh ô tô các loại, các loại phụ tùng ô tô
săm lốp ô tô.
Về cơ sở vật chất: từ một trụ sở làm việc ban đầu, đến nay Tổng Công
ty đã xây dựng một toà nhà làm việc 4 tầng: với 2000 m
2
văn phòng cùng đầy
đủ các trang thiết bị tiện nghi hiện đại đáp ứng được yêu cầu của công việc
kinh doanh. Tổng Công ty hiện đang có một nguồn tài sản trị giá hàng trăm tỷ
đồng đó là số đất đai đang được nhà nước giao cho Tổng Công ty quản lý:

3480 m
2
đất đai nhà xưởng. Những văn phòng nhà xưởng không sử dụng đến
Công ty tiến hành cho thuê. Tuy đây không phải là hoạt động kinh doanh
chính của Tổng Công ty nhưng nó góp phần làm tăng doanh thu, đa dạng hoá
các hình thức kinh doanh và quan trọng hơn là Tổng Công ty đã sử dụng
nguồn tải sản Nhà nước giao một cách hợp lý.
Tổng Công ty có một đội ngũ cán bộ công nhân viên khá lớn gần 2000
người được đào tạo cơ bản cả về kỹ năng và nghiệp vụ, trên 90% có trình độ
đại học trong đó hơn 50% cán bộ là kỹ sư kỹ thuật được đào tạo trong và
ngoài nước về các lĩnh vực cơ khí chế tạo, động lực ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ có
trình độ làm việc cả trong thiết kế và công nghệ. Nhiều người đã trở thành
những chuyên viên cao cấp của Bộ thương mại, hoặc giữ cương vị làm tham
23
tán…Chất lượng cán bộ nói chung không ngừng được nâng cao để đáp ứng
những yêu cầu của từng giai đoạn phát triển.
Doanh thu thực hiện trong 5 năm gần đây luôn đạt mức tăng trưởng từ
10 đến 20 %. Công ty đã thực hiện nhập khẩu hàng hoá hàng năm trị giá hàng
trăm triệu USD, doanh thu đạt hàng tỷ đồng và đóng góp một phần quan trọng
vào ngân sách Nhà nước. Cụ thể trong năm 2003 Tổng Công ty đã nhập khẩu
135 triệu USD doanh số đạt 3580 tỷ đồng nộp ngân sách 180 tỷ đồng.
Tổng Công ty rất trú trọng tới việc đầu tư cho tài sản cố định (máy
móc, dây chuyền sản xuất, thay mới bảo trì bảo dưỡng, cải tạo nâng cấp cơ sở
hạ tầng nhà máy văn phòng cho các công ty. Đặc biệt Công ty rất trú trọng
đến cân đối cơ cấu vốn, đảm bảo an toàn trong kinh doanh, hạn chế thiếu vốn
và đảm bảo sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả cao nhất.
Vốn cố định: 65454 tỷ đồng.
Vốn lưu động: 106214 tỷ đồng.
Vốn ĐTXD cơ bản: 858 tỷ đồng.
Hiện nay, do công nghệ thông tin phát triển, việc cập nhật và thu thập

thông tin trở nên dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp và các tổ chức, doanh
nghiệp nào có nhiều thông tin trong tay hơn là doanh nghiệp đó có nhiều lợi
thế hơn. Hơn nữa, vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường cũng không còn giữ được vị trí độc quyền nữa, mà đang dần tiến
theo xu thế bình đẳng, nếu doanh nghiệp Nhà nước nào mà không thay đổi,
không
"vặn mình" chuyển hướng thì khó có thể tồn tại lâu dài. Trong thời gian
này Việt Nam tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA và dự kiến đến năm
2005 gia nhập vào tổ chức thương mại quốc tế WTO, sân chơi Việt Nam sẽ có
nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia hoạt động hơn, các Công ty trong nước
sẽ gặp không ít khó khăn. Do vậy, để có đủ điều kiện cũng như tiềm lực để hoạt
động sản xuất kinh doanh trên các địa bàn quan trọng mà hiện nay Công ty đang
chiếm lĩnh ( Hà Nội , Hải Phòng, Thành phố HCM, Đà Nẵng) và tiếp tục duy trì
24
mở rộng ra thị trường nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Nga,
Ucraina, Mỹ, EU…), Công ty phải có một phương hướng kinh doanh đúng đắn,
bước đi thích hợp, có sự phối hợp hỗ trợ giữa các đơn vị thành viên.
1.1>. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty
Nhìn chung các Công ty đều muốn xây dựng một cơ cấu tổ chức gọn
nhẹ, linh hoạt để vận hành nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Thế nhưng,
tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực, từng ngành kinh doanh, quy mô, địa bàn hoạt
động của từng doanh nghiệp, đặc biệt là từng thời điểm và mục đích riêng mà
mỗi doanh nghiệp có một cơ cấu tổ chức đặc thù.
Trước đây, khi Machinoimport còn là một Tổng công ty, tổ chức bộ
máy bao gồm: 5 Phòng thuộc Cơ quan Văn phòng Công ty (Phòng tổ chức
cán bộ, phòng nhân sự, phòng tài chính kế toán, phòng kế hoạch và đầu tư,
phòng xuất nhập khẩu), 11 đơn vị hạch toán độc lập, 3 đơn vị hạch toán phụ
thuộc, 3 chi nhánh Tổng Công ty. Trong đó có 11 Xí nghiệp, 44 Cửa hàng,10
kho, 4 Trung tâm, 3 chi nhánh thuộc Công ty và 3 đơn vị liên doanh (trong và
ngoài nước) của Tổng Công ty và các Công ty thành viên.

Các Công ty thành viên:
• Công ty thiết bị (Machinco 1)
• Công ty phụ tùng (Machinco 2)
• Công ty thiết bị phụ tùng Hà Nội (Machinco 3)
• Công ty vật tư và dịch vụ kỹ thuật Hà Nội (Machinco 4)
• Công ty thiết bị phụ tùng Hải Phòng (Machinco 5)
• Công ty thiết bị phụ tùng Đà Nẵng (Machinco 6)
• Công ty thiết bị phụ tùng TP Hồ Chí Minh (Machinco 7)
• Công ty vật tư và kỹ thuật TP Hồ Chí Minh (Machinco 8)
• Công ty xuất nhập khẩu máy TP Hồ Chí Minh (Machinco 9)
• Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội (Machinco 10)
• Xí nghiệp in bao bì Machinoc
25

×