Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

xuất khẩu hàng dệt may việt nam sang hoa kỳ - những rào cản thương mại khó tránh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.95 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
Nội dung 4
Ch ng Iươ 4
Xu t kh u d t may sang M , v a làm v a…đ m!ấ ẩ ệ ỹ ừ ừ ế 4
I. Các rào cản Hoa Kỳ áp dụng nhằm hạn chế xuất khẩu đối với
hàng dệt may Việt Nam 4
1.H n ng ch và thu quan nh p kh u ạ ạ ế ậ ẩ 4
2. Các quy đ nh cu h i quan Hoa Kị ả ả ỳ 4
2.1> Nh ng quy đ nh v các s n ph m d tữ ị ề ả ẩ ệ 4
2.2>Quy đ nh v th ng hi u,nhãn hi u và b n quy nị ề ươ ệ ệ ả ề 4
3.Tiêu chu n xanh - s ch (Greentrade Barrier)ẩ ạ 5
4.S giám sát ch t ch trong vi c ch ng bán phá giá hàng d t may c a chính ph Hoa Kự ặ ẽ ệ ố ệ ủ ủ ỳ
5
II. Ảnh hưởng của các rào cản này tới tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt
may sang Mỹ 5
Ch ng II ươ 7
Phân tích tình hu ngố 7
I. Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu 7
II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian
qua dưới sức ép của những rào cản 8
1. Đ c đi m và vai trò c a ngành d t may Vi t Namặ ể ủ ệ ệ 8
1.1>Đ c đi m c a ngành d t may Vi t Namặ ể ủ ệ ệ 8
1.2>Vai trò c a ngành d t may Vi t Namủ ệ ệ 8
2.Phân tích các rào c n c a Hoa K áp d ng đ i v i ho t đ ng xu t kh u hàng d t ả ủ ỳ ụ ố ớ ạ ộ ấ ẩ ệ
may Vi t Namệ 8
2.1>H n ng ch nh p kh uạ ạ ậ ẩ 8
2.2>Các quy đ nh c a h i quan Mị ủ ả ỹ 10
2.3>Tiêu chu n xanh - s ch (Greentrade Barrier)ẩ ạ 12
2.4>S giám sát ch t ch ch ng bán phá giá hàng d t may c a chính ph Hoa Kự ặ ẽ ố ệ ủ ủ ỳ 17
3. Th c tr ng xu t kh u hàng d t may Vi t Nam sang M th i gian quaự ạ ấ ẩ ệ ệ ỹ ờ 18


3.1>Gi i thi u s b v th tr ng Mớ ệ ơ ộ ề ị ườ ỹ 18
2.2>Th c tr ng xu t kh u hàng d t may Vi t Nam sang M th i gian quaự ạ ấ ẩ ệ ệ ỹ ờ 19
Ch ng IIIươ 24
M t s gi i pháp nh m thúc đ y ho t đ ng xu t kh u ộ ố ả ằ ẩ ạ ộ ấ ẩ
d t may c a Vi t Nam sang Hoa Kệ ủ ệ ỳ 24
I. Về phía nhà nước 24
1. Chính sách b o h s n xu t trong n cả ộ ả ấ ướ 24
2. Đi u ch nh chính sách thuề ỉ ế 24
3. Thành l p các t ch c t v n v các l nh v c có liên quan đ n xu t kh u d t may Vi t ậ ổ ứ ư ấ ề ĩ ự ế ấ ẩ ệ ệ
Nam 25
4. Chính sách h tr v v nỗ ợ ề ố 25
5. Chính sách pháp lu tậ 25
1
6. M t s chính sách khácộ ố 25
II. Về phía doanh nghiệp 26
1. Xây d ng th ng hi u m nhự ươ ệ ạ 26
2. Marketing 26
3. Tìm ki m và phát tri n th tr ngế ể ị ườ 26
4. Nâng cao trình đ đ i ng cán b ộ ộ ũ ộ 27
5. Th c hi n chính sách liên doanh v i n c ngoàiự ệ ớ ướ 27
6. Chính sách giá h p lýợ 27
7. Gi m tính ch t gia công trong s n xu t d t mayả ấ ả ấ ệ 27
8. M t s chính sách khácộ ố 28
K t Lu nế ậ 29
Tài li u tham kh oệ ả 30
2
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, thị trường Việt Nam được chứng kiến nhiều thành
công phát triển rực rỡ của các sản phẩm trong nước và việc đẩy mạnh xúc tiến
xuất khẩu nhiều loại hàng hoá như : dầu thô, dệt may, nông sản, thuỷ hải sản,

da giày, thủ công mỹ nghệ…sang thị trường Hoa Kỳ, các nước Châu Âu, …
đã đem lại những nguồn lợi to lớn.Một trong những mặt hàng xuất khẩu mang
lại những đóng góp rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu chính là mặt hàng dệt
may. Hiện nay, ngành này có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2 sau dầu thô.
Đồng thời đây cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta giai đoạn 2001
– 2010.
Tuy nhiên, bên cạnh việc hoàn thiện và thúc đẩy thì xuất khẩu dệt may
còn gặp rất nhiều những khó khăn, thách thức do các rào cản thương mại phía
chính phủ Hoa Kỳ đưa ra mà chúng ta còn phải tìm hiểu, nghiên cứu và tìm ra
những giải pháp nhằm hạn chế, khắc phục và giảm thiểu những khó khăn đó.
Chính vì lẽ đó mà em quyết định lựa chọn đề tài : “Xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam sang Hoa Kỳ - những rào cản thương mại khó tránh”.
Em lựa chọn đề tài này với mong muốn được hiểu biết thêm về tình hình
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam nói chung và tình hình xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ nói riêng. Mặc dù em được rất cố gắng hoàn
thành đề án này, nhưng do hạn chế về trình độ và thông tin cùng với thời gian
có hạn nên không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo hướng dẫn TS . Tạ Văn
Lợi đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề án này.

3
Chương I
Xuất khẩu dệt may sang Mỹ, vừa làm vừa…đếm!
I. Các rào cản Hoa Kỳ áp dụng nhằm hạn chế xuất khẩu đối với
hàng dệt may Việt Nam
1.Hạn ngạch và thuế quan nhập khẩu
Mới đây Bộ thương mại Mỹ được dựng lên “rào cản” kỹ thuật mới, đó
chính là cơ chế giám sát nhập khẩu hàng dệt may vào nước này. Trước đây
khi nói đến rào cản thương mại các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết đến thuế

quan và hạn ngạch. Quá trình tự do hoá thương mại mang đến thành quả là
việc dỡ bỏ những biện pháp bảo hộ truyền thống, đặc biệt là khi Việt Nam trở
thành thành viên thứ 150 của WTO và hưởng quy chế thương mại bình
thường vĩnh viễn thì hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, trong đó có dệt
may, sẽ có cơ hội tăng trưởng cao hơn.
Về tính pháp lý của cơ chế này, ông Lê Quốc Ân, chủ tịch hiệp hội dệt
may Việt Nam, chủ tịch tập đoàn dệt may(Vinatex) cho rằng cơ chế này
không phù hợp với WTO. Bởi vì, cơ chế này chỉ nhằm giám sát riêng hàng
dệt may Việt Nam, điều này trái với tinh thần chống phân biệt đối xử của
WTO dành cho tất cả các thành viên của mình.
2. Các quy định cuả hải quan Hoa Kỳ
2.1> Những quy định về các sản phẩm dệt
Tem, mark, mã theo quy định tại "Texxtile Fiber Products Identification
Act", trừ khi được miễn trừ.
2.2>Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền
Hàng hoá mang nhãn hiệu gi hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã
đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc nước ngoài, sẽ bị cấm nhập
4
khẩu vào Mỹ. Một bản sao đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ sẽ phải nộp cho Uỷ ban
Hải quan và được lưu giữ theo quy định.
3.Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier)
Trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt khi đưa hàng ra các thị trường
lớn,đặc biệt la Hoa Kỳ,dệt may Việt Nam cũng đang gặp phải không ít khó
khăn trước những rào cản thương mại, những tiêu chuẩn mà đối tác đặt ra.
Trong số hàng loạt các tiêu chuẩn bắt buộc đặt ra đối với hàng dệt may, các
nhà nhập khẩu hiện quan tâm nhiều đến tiêu chuẩn xanh, sạch đối với sản
phẩm ngay từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm
4.Sự giám sát chặt chẽ trong việc chống bán phá giá hàng dệt may của
chính phủ Hoa Kỳ
Trong bối cảnh tranh chấp thương mại đang trở nên một “đặc trưng” của

hội nhập,việc Hoa Kỳ đưa ra các cơ chế giám sát chống bán phá giá các mặt
hàng nhập khẩu vào nước này trong đó có hàng dệt may của Việt Nam là một
điều dễ hiểu.
Nhưng để đảm bảo cạnh tranh thật công bằng, trong suốt 8 tháng qua,
hầu hết đối với các mã hàng nhạy cảm, sản phẩm Dệt may của Việt Nam vào
Mỹ không những không tăng về số lượng, không hạ giá bán mà còn duy trì
như trước thời điểm quốc gia này áp dụng cơ chế giám sát.
II. Ảnh hưởng của các rào cản này tới tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt
may sang Mỹ
Tuy hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tới 50% tổng số
hàng dệt may của Việt Nam xuất đi các nước, nhưng so với tổng khối lượng
mà Mỹ nhập khẩu từ các nước khác trên thế giới thì hàng dệt may Việt Nam
chỉ chiếm khoảng 3%. Đặc biệt, các nước này lại chưa bị áp đặt cơ chế này.
Rõ ràng đây là 1 điều không hợp lý.
5
Mặc dù phải đến đầu tháng 8, phía Mỹ mới công bố những kết quả đầu
tiên về việc giám sát hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, nhưng từ
mấy tháng trước đó, ngành dệt may Việt Nam được phải hứng chịu nhiều tác
động tiêu cực của cơ chế này. Các đơn đặt hàng cho quý 3 và những tháng
cuối năm 2007 sụt giảm đáng kể. Theo ông Lê Hồng Phoa, Giám đốc công ty
may mặc Bình Dương, đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ hiện được giảm 50%
với cùng kỳ năm trước, do các đối tác lo ngại khả năng hàng dệt may của Việt
Nam sẽ bị đánh thuế cổ phần hoá.
Theo Vinatex, do ảnh hưởng của việc giám sát tăng trưởng xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam từ phía Chính phủ Mỹ, mục tiêu xuất khẩu 7,35
tỷ USD hàng dệt may trong năm 2007 sẽ khó có thể hoàn thành bởi trong 5
tháng đầu năm, kim ngạch chỉ tăng có 24,3%, giá trị bình quân tháng khoảng
537 triệu USD/tháng.
Với mức bình quân như vậy, kim ngạch cả năm chỉ có thể đạt khoảng 6,5
tỷ USD. Hiện, khách hàng Mỹ chưa ký hợp đồng cho quý III do còn theo dõi

diễn biến của Chính phủ Mỹ. Nếu trong tháng 8 tới có những nhận xét bất lợi
từ Bộ Thương mại Mỹ thì các nhà nhập khẩu có thể sẽ rút Việt Nam khỏi
danh sách các nước xuất khẩu. Trong khi chờ đợi kết quả chính thức của đợt
đánh giá đầu tiên, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn phải nỗ lực để duy
trì và tăng trưởng xuất khẩu trên thị trường Mỹ bởi đây là 1 thị trường lớn đầy
tiềm năng. Thêm vào đó hàng hoá được thị trường Mỹ chấp nhận sẽ như được
cấp 1 tấm giấy thông hành để hàng hoá đi vào các thị trường khác 1 cách dễ
dàng hơn.
Với những nỗ lực không ngừng đó, thời gian gần đây đơn hàng được trở
lại với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Tuy nhiên, cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam của Bộ
thương mại Mỹ chưa được gỡ bỏ, do vậy dù hợp đồng đang có xu hướng tăng
lên nhưng các nhà xuất khẩu luôn phải dặn dò nhau vừa làm vừa…đếm.
6
Chương II
Phân tích tình huống
I. Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là động lực tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và
phát triển cơ sở hạ tầng. Xét 1 cách cụ thể, xuất khẩu có vai trò rất lớn trong
nền kinh tế.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, công nghiệp hoá đất
nước…Do đó việc xuất khẩu được càng nhiều hàng hoá sẽ tạo điều kiện thu
được nhiều nguồn vốn nhằm phát triển đất nước. Đồng thời, xuất khẩu quyết
định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế
hướng ngoại. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau : Xuất khẩu các sản
phẩm của nước ta ra nước ngoài, xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho những
ngành liên quan phát triển, xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu
thụ, khai thác tối đa sản xuất trong nước, cung cấp đầu vào cho sản xuất.

Xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế
giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta.
Thông qua xuất khẩu, hành hoá của Việt Nam sẽ được tiếp xúc và tăng
được khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả, chất lượng.
Xuất khẩu còn giúp các doanh nghiệp có động lực tự phấn đấu vươn lên
hoàn thiện chất lượng và hạ giá thành cho các sản phẩm của mình. Từ đó, sản
phẩm của họ có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế đầy khốc liệt, với sức
đào thải lớn đối với những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.
7
II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian
qua dưới sức ép của những rào cản
1. Đặc điểm và vai trò của ngành dệt may Việt Nam
1.1>Đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Ngày nay, khi đời sống con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu
thẩm mỹ ăn mặc cũng được nâng cao theo đó. Và các sản phẩm hàng dệt may
chính là biểu tượng của trình độ và tình trạng tiêu dùng của xã hội.
1.2>Vai trò của ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam cũng như nhiều ngành kinh tế khác đã có
những đóng góp to lớn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, góp phần
tạo công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ…thông qua đẩy mạnh xuất khẩu sang
các nước có nền kinh tế phát triển. Hiện nay, dệt may đứng ở vị trí thứ 2 sau
dầu thô về giá trị xuất khẩu.
Sau Hiệp định thương mại Việt Mỹ, việc xuất khẩu ngành dệt may Việt
Nam sang thị trường Mỹ gặp nhiều thuận lợi hơn. Do đó, hoạt động xuất khẩu
mặt hàng này được thu hút được nhiều ngoại tệ đẩy mạnh phát triển kinh tế
xược hội.
Có thể nói thông qua việc xuất khẩu dệt may sang thị trường thế giới
được và đang đem lại cho chúng ta cơ hội phát triển nền kinh tế, giảm thiểu tỷ

lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân.
2.Phân tích các rào cản của Hoa Kỳ áp dụng đối với hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam
2.1>Hạn ngạch nhập khẩu
Theo quy định của hải quan Hoa Kỳ,phần lớn các quota nhập khẩu do
Cục hải quan Mỹ(US Customs Service) quản lý. Hội đồng hải quan
(Commissioner of Customs) kiểm soát việc nhập khẩu hàng theo quota nhưng
không có quyền cấp, hay thay đổi quota.
8
Quota nhập khẩu của Mỹ có thể chia thành 2 loại:
- Hạn ngạch giảm thuế (Tariff - rate quota): quy định số lượng của mặt
hàng đó được nhập vào với mức thuế giảm trong một thời gian nhất định.
Không có hạn chế về số lượng nhập vào đối với mặt hàng này, nhưng số
lượng nhiều hơn mức quota cho thời gian đó sẽ bị đánh thuế nhập khẩu cao
hơn.
- Hạn ngạch tuyệt đối (Absolute quota) là hạn ngạch về số
lượng, tức là số lượng vượt quá hạn ngạch cho phép sẽ không
được nhập vào Mỹ trong thời hạn của quota. Một số quota là áp dụng chung,
còn một số thì chỉ áp dụng riêng đối với một số nước. Hàng nhập quá số
lượng theo quota sẽ phải tái xuất hoặc lưu kho trong suốt thời hạn của quota.
Các điều khoản vi phạm luật lệ trong thương mại:
- Người vi phạm luật pháp về nhập khẩu hàng hoá, kể cả hàng giả sẽ bị
phạt tù hoặc phạt tiền. Hàng hoá của người vi phạm có thể bị tịch thu, hoặc bị
tạm giữ để đảm bảo việc nộp phạt.
- Luật Mỹ quy định các vi phạm việc kê khai sai lệch với Hải quan Mỹ
có thể bị tù tối đa 2 năm, hoặc 5000 USD hoặc cả hai loại cho mỗi lần vi
phạm hoặc cố tìm cách vi phạm.
-Các vi phạm về nhập khẩu hàng hoá trái phép có thể bị xử tù đến 20
năm hoặc phạt tiền đến 500.000 USD hoặc cả hai, cho mỗi lần vi phạm.
Chính điều này đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may

Việt Nam khi muốn xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.Rất nhiều doanh
nghiệp dệt may vừa và nhỏ Việt Nam mới chỉ chân ướt chân ráo làm quen với
thị trường Hoa Kỳ đã vấp phải những cú sốc về hạn ngạch nhập khẩu và thuế
của nước này.Chính cú sốc đó đã khiến nhiều doanh nghiệp đang hăm hở với
dự định xâm nhập vào thị trường tiềm năng này đành phải rút lui trong luyến
tiếc.Có hiện tượng này là do,các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ của Việt
Nam có lượng vốn thấp,ít kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường quốc tế,nên
chưa kịp thu lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thì đã
9
bị những khó khăn về thuế nhập khẩu quá cao,hạn ngạch nhập khẩu thì quá
chặt chẽ đánh gục.
2.2>Các quy định của hải quan Mỹ
2.2.1>Những quy định về những sản phẩm là hàng dệt
Các sản phẩm sợi dệt nhập khẩu phi có tem, mark, mã theo quy định tại
"Texxtile Fiber Products Identification Act", trừ khi được miễn trừ theo như
điều khoản 12 của luật này:
- Tên và tỷ lệ trọng lượng của các thành phần sợi lớn hơn 5% trong sản
phẩm, các thành phần sợi nhỏ hơn 5% được ghi là "các sợi khác".
- Tên hãng sản xuất và tên hoặc số đăng ký do Federal Trade
Commission (FTC) cấp, của một hoặc nhiều người bán các sản phẩm sợi này.
Tên nhãn hiệu đã được đăng ký tại Mỹ có thể được ghi trên nhãn mark, nếu
nhãn mark này được gửi đến FTC.
- Tên của nước nơi đã gia công hoặc sản xuất.
Chính vì những quy định khắt khe này nên các doanh nghiệp Việt Nam
đôi khi vì thiếu hiểu biết,hay ít cập nhật thông tin,hoặc do đơn đặt hàng của
các đối tác Hoa Kỳ không yêu cầu rõ ràng về mẫu mã,bao gói của sản
phẩm,dẫn đến hàng loạt các sản phẩm dệt may của Việt Nam bị hải quan Mỹ
trả về.Và người chịu mọi thiệt thòi ở đây không ai khác chính là các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam.Đây cũng là những hiện tượng thường thấy,khi các
doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm nói chung và hàng dệt may

nói riêng sang thị trường Hoa Kỳ.
2.2.2>Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền
Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu
đã đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc nước ngoài, sẽ bị cấm nhập
khẩu vào Mỹ. Một bản sao đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ sẽ phảii nộp cho Uỷ ban
Hải quan và được lưu giữ theo quy định.
10
Cục Hải quan Mỹ cũng có những quy định tương tự đối với các chuyến
hàng mang các tên thương mại trái phép. Các thương hiệu phải được đăng ký
tại Hải quan theo quy định.
Việc nhập khẩu hàng hoá có nhãn hiệu thương mại gốc thuộc sở hữu của
một công dân hoặc một công ty Mỹ bị coi là trái phép nếu không được sự
đồng ý của người chủ sở hữu nhãn hiệu đó. Hoặc không phải là công ty chính
hay chi nhánh của công ty đó, hoặc có chung quyền sở hữu nhãn hiệu đó, tuy
nhiên nhãn hiệu này, phải được đăng ký với Hải quan.
"Nhãn hiệu giả" là một nhãn hiệu giống hệt hoặc gần giống hệt với một
nhãn hiệu đã đăng ký. Hàng nhập khẩu có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung
công quỹ liên bang hoặc chính quyền địa phương, hoặc chuyển cho các cơ
quan từ thiện, hoặc bán đấu giá nếu trong vòng một năm không có cơ quan
nào cần sử dụng. Tuy nhiên, luật pháp cũng châm chước cho một số mặt hàng
nhất định đi theo người vào Mỹ là hàng cá nhân sử dụng, không phải hàng để
bán.
Phần 602 (a) thuộc Copyright Act năm 1976 quy định rằng nhập khẩu
vào Mỹ các bản sao chép từ nước ngoài mà không được phép của người có
bản quyền và vi phạm luật bản quyền sẽ bị bắt giữ và tịch thu,các bản sao sẽ
bị huỷ.Tuy nhiên các hàng hoá này có thể được trả lại nước xuất khẩu nếu
chứng minh thích đáng cho cơ quan hải quan là hàng không phải cố tình vi
phạm. Các chủ sở hữu bản quyền muốn được cơ quan hải quan Mỹ (US
Custom Service) bảo vệ quyền phải tới văn phòng bản quyền (US copyright
Offfice) và đăng ký với hải quan theo các quy định hiện hành.

Hiện nay,khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO thì
những vấn đề liên quan đến thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền mới được
các doanh nghiệp quan tâm đến một cách nghiêm túc.
Tuy nhiên,sự chú ý này chỉ thường diễn ra ở các doanh nghiệp lớn có thị
trường xuất khẩu rộng.Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt
Nam những hiểu biết về thương hiệu,về bản quyền vẫn còn là một khái niệm
11
khó hiểu và vẫn còn rất xa vời.Chính những nhận thức sai lệch,chủ quan đó
mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn thường xuyên phải gánh chịu
những thiệt thòi không đáng có.
Rất nhiều các sản phẩm dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường
Hoa Kỳ dưới một cái tên rất Việt Nam.Nhưng khi các sản phẩm ấy được bày
bán trên thị trường lại dưới một cái tên khác hoàn toàn.Như vậy trong trường
hợp này phía Việt Nam sẽ đương nhiên phải chấp nhận cái danh là nhà gia
công,chứ không còn là người sản xuất và cung ứng chính thức của mặt hàng
này.
Nếu các doanh nghiệp Việt Nam muốn lấy lại thương hiệu đó thì trước
hết phải được sự chấp nhận của phía doanh nghiệp Mỹ.Đương nhiên,sau đó
phải kèm sẽ theo là một khoản tiền không nhỏ.Những cái mất không đáng mất
ấy đôi khi cũng khiến nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nhiều phen
khốn đốn.
2.3>Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier)
Bất kỳ một quá trình sản xuất công nghiệp nào đều phát sinh chất thải và
gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng. Mức độ phát
thải, về lượng cũng như mức độ ô nhiễm của một quá trình sản xuất phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như chất lượng nguyên liệu đầu vào, quản lý sản xuất, công
nghệ, thiết bị, mức độ tận dụng và tái sử dụng chất thải…
Từ trước những năm 1980, cách tiếp cận và ứng phó với các vấn đề ô
nhiễm theo hướng chính “kiểm soát ô nhiễm" hay còn gọi là “phản ứng và xử
lý”. Trên thực tế mọi giải pháp xử lý chất thải trên được thực hiện sau khi đã

có chất thải, là hình thức chuyển trạng thái ô nhiễm từ dạng này sang dạng
khác sao cho giảm về lượng cũng như mức độ ô nhiễm và độc hại. Các công
nghệ kiểm soát ô nhiễm (các nhà máy xử lý nước thải, thiết bị xử lý khí thải
như lọc ướt, cyclon lọc bụi, lò đốt, bãi chôn lấp) được triển khai ở các nhà
máy.
12
Trong vòng những năm 80 trở lại đây, “sản xuất sạch hơn” được áp dụng
rộng rãi ở các nước trên thế giới với mục đích giảm phát thải vào môi trường
tại nguồn trong các quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn là cách tiếp cận chủ
động, theo hướng “dự đoán và phòng ngừa” ô nhiễm từ chất thải phát sinh
trong các hoạt động sản xuất công nghiệp.
Ở nước ta, sản xuất sạch hơn được đưa vào áp dụng từ năm 1996 và triển
khai từ năm 1998 tập trung ở một số ngành công nghiệp như giấy, dệt -
nhuộm, thực phẩm (chế biến thuỷ sản và bia), vật liệu xây dựng và gia công
kim loại với trên 130 doanh nghiệp thuộc 28 tỉnh và thành phố và bước đầu
mang lại những lợi ích kinh tế và môi trường thông qua tiết kiệm nguyên liệu,
năng lượng, hoá chất, nước, giảm thiểu chất thải trong sản xuất
Thực chất, tiêu chuẩn Greentrade Barrier - tiêu chuẩn thương mại
“xanh”, cũng chính là một rào cản thương mại xanh. Rào cản thương mại
xanh được áp dụng đối với hàng may mặc là đòi hỏi các sản phẩm phải đáp
ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khỏe đối với người
sử dụng, không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất, bắt buộc các nhà xuất
khẩu phải tuân thủ. Một liên hệ thực tế, tình trạng trên đã xảy ra đối với hàng
dệt may của Trung Quốc, thì tất yếu sẽ xảy ra đối với ngành Dệt May của
Việt Nam và các nước châu Á khác. Như vậy là, trong cuộc cạnh tranh quyết
liệt sau khi hạn ngạch dệt may được rỡ bỏ và một số tiêu chuẩn được các thị
trường EU, Mỹ, Nhật áp dụng, thì rào cản thương mại “xanh” là một thách
thức, trở ngại lớn đối với tất cả các nước xuất khẩu hàng dệt may vào các thị
trường nói trên.
Đối với quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn bao gồm giảm tiêu thụ

nguyên liệu, năng lượng cho 1 đơn vị sản phẩm, loại bỏ tối đa các vật liệu độc
hại, giảm lượng và mức độ độc hại của tất cả các dòng thải trước khi ra khỏi
quá trình. Đối với sản phẩm, sản xuất sạch hơn tập trung làm giảm các tác
13
động tới môi trường trong suốt vòng đời của sản phẩm kể từ khi khai thác
nguyên liệu thô đến khi thải bỏ cuối cùng. sản xuất sạch hơn yêu cầu từng
bước cải tiến công nghệ hiện có và dần thay thế bằng những công nghệ tốt và
công nghệ sạch.
Có thể nói con số 130 doanh nghiệp triển khai sản xuất sạch hơn là quá
nhỏ so với số doanh nghiệp hiện có trong cả nước.Trong khi ấy, tiềm năng
sản xuất sạch hơn trong công nghiệp Việt Nam là rất lớn và tiềm năng giảm
lượng chất thải và chất ô nhiễm môi trường cũng rất cao: tiết kiệm điện năng
20 – 50%, tiết kiệm nước 40 – 70%, giảm hiệu ứng nhà kính 20 – 25%, giảm
các chất độc hại tạo thành chất thải nguy hiểm 50 – 100%…
Một thực tế đặt ra đối với ngành Dệt May Việt Nam là cho đến nay, việc
sản xuất các sản phẩm “xanh” chưa được quan tâm áp dụng đúng mức. Một
số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức
hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt
may xuất khẩu. Ngoài ra, phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền
nhuộm-hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm
và các hóa chất gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khỏe
người lao động và thậm chí đến cả người sử dụng sản phẩm. Có thể nêu lên
vài ví dụ nổi bật sau. Trong hồ sợi, ngày càng sử dụng nhiều hóa chất độc hại
đến nguồn nước, làm tăng tải lượng COD (nhu cầu oxy hóa học) trong nước
thải khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4000-8000 mg/l
COD. Kỹ thuật “giảm trọng” polieste bông kiềm được áp dụng phổ biến làm
sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sau sử dụng 5-6
lần, đưa COD có thể lên tới 80.000 mg/l. Trong thành phần nước thải của các
công ty, nhà máy dệt-nhuộm hiện nay, có khoảng 300-400 mg/l COD (đã
vượt tiêu chuẩn nước thải loại B 3-4 lần) dự đoán sẽ tăng lên mức 700-800

mg/l và có thể còn tăng hơn nữa trong tương lai.
14
Để giải quyết được tình trạng trên, đòi hỏi trước tiên vẫn là ý thức của
nhà sản xuất trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh xanh sạch trong
sản xuất. Các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu cần rà soát một cách kỹ
lưỡng, cẩn thận những hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm đang sử dụng (bao
gồm cả hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước), phải biết rõ nguồn gốc, xuất
xứ của chúng và cần có “hồ sơ” của từng loại hóa chất, chất trợ, từng mẫu
thuốc nhuộm. Đó là “Phiếu các số liệu an toàn” (safety data sheets) mà các
hãng sản xuất hóa chất, thuốc nhuộm đều có. Thay thế vào đó là những hóa
chất , chất phụ trợ thân thiện với môi trường, các thuốc nhuộm biết rõ nguồn
gốc xuất xứ, chất lượng tốt, loại mới, không độc hại và ít ô nhiễm môi trường.
Song song với hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm (dùng cả trong nhuộm và
in hoa) là công nghệ áp dụng và máy móc thiết bị tương ứng.
Mặc dù, trong một vài năm gần đây, trong chiến lược tăng tốc, nâng cao
chất lượng hàng dệt may, tạo vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, ngành
dệt may nước ta đã chú trọng đáng kể đầu tư vào khâu nhuộm-hoàn tất. Nhiều
loại máy móc, thiết bị tốt, mới, hiện đại đã được đầu tư có chiều sâu, như các
máy văng sấy Monforts, máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt
Thắng; các máy in lưới quay Stork, máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty
Dệt May Thắng Lợi và Dệt 8/3; các máy nhuộm khí động lực” (Air-Jet) do
được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và Dệt 8/3; máy làm bóng trục mới của
Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý trước - xử lý hoàn tất vải pha len
của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ Quốc phòng).
Song nhìn một cách tổng thể, phần lớn ngành nhuộm-in hoa-xử lý hoàn
tất của các sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn còn đang áp dụng các công nghệ
và máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, theo lối thủ công -“truyền thống”. Do đó,
năng suất chưa cao, chất lượng chưa thật tốt và sử dụng nhiều hóa chất, thuốc
nhuộm, tốn nhiều nước và năng lượng, giá thành cao đã làm giảm tính cạnh
tranh trên thương trường. Đồng thời, còn để lại hậu quả là lượng nước thải

15
nhiều và bị ô nhiễm nặng nề đến môi trường, gây rất tốn kém về tiền của khi
phải xử lý nước thải.
Để phát triển bền vững, tăng trưởng mạnh, tạo sức mạnh cạnh tranh với
các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường rộng lớn và “khó tính” như:
Mỹ,đã đến lúc ngành dệt may Việt Nam cần chuyển mạnh từ các công nghệ
và thiết bị truyền thống sang loại hình sản xuất “thân thiện với môi trường”,
sản xuất sạch hơn, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao các hóa chất
– chất phụ trợ, thuốc nhuộm, hơi, điện, nước với các máy móc thiết bị phù
hợp, nhất là các loại mới tiên tiến, hiện đại
Ngoài ra, các vấn đề tiêu chuẩn hàng hóa và môi trường cũng cần được
ưu tiên lên hàng đầu trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh không
chỉ của doanh nghiệp mà phải phát động ra toàn ngành, trong tất cả các công
đoạn của quá trình sản xuất. Căn cứ vào các tiêu chuẩn và các yêu cầu sinh
thái của hàng dệt may nhập khẩu vào các thị trường EU, Nhật Bản và Bắc
Mỹ, ngành Dệt May Việt Nam cần xây dựng ngay những tiêu chuẩn cấp nhà
nước, cấp Bộ, cấp ngành để làm cơ sở phấn đấu cho các doanh nghiệp xuất
khẩu, để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của hàng hóa. Những tiêu chuẩn
như thế sẽ tạo ra những sức ép “bên trong” nhằm tạo ra các sản phẩm “xanh”
phù hợp. Việc làm này, nước láng giềng Trung Quốc bắt đầu đặc biệt quan
tâm đến đầu tư chuyển hướng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường sau hàng
loạt các đơn hàng bị từ chối và phải bồi thường gây tốn kém.
Đối với ngành Dệt May Việt Nam, cho đến nay vấn đề này vẫn còn coi
nhẹ, các doanh nghiệp vẫn còn thờ ơ với các tiêu chuẩn mà đối tác nhập khẩu
đặt ra. Vấn đề chất thải gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe
cộng đồng và người tiêu dùng dường như không phải là công việc của các nhà
sản xuất mà là của cơ quan môi trường. Theo phân tích của các chuyên gia,
nhiều chất thải hóa học độc hại ngành Dệt-Nhuộm thải ra môi trường loại
16
nước thải có những đặc tính riêng mà trong tiêu chuẩn về nước thải công

nghiệp nói chung nước ta không đề cập đến
2.4>Sự giám sát chặt chẽ chống bán phá giá hàng dệt may của chính
phủ Hoa Kỳ
Trong những ngày gần đây, các doanh nghiệp và cơ quan quản lý đang
đau đầu trước quyết định mới của phía Mỹ về việc sẽ theo dõi lượng hàng dệt
may nhập khẩu từ VN và tiến hành điều tra nếu thấy có dấu hiệu bán phá giá.
Động thái này nhằm dỡ bỏ đề nghị ngừng đưa ra dự luật về Quy chế
thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với VN ra xem xét của hai
Thượng Nghị sỹ Mỹ Elizabeth Dole và Lindsey Graham.Theo bình luận của
Hiệp hội Dệt may thì “quy định này còn tệ hơn là áp dụng hạn ngạch”.
Nhưng theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam
(VITAS) cho biết: Số liệu 6 tháng do phía Hoa Kỳ ghi nhận cho thấy, hàng
dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ không có đột biến về số lượng và
giá bán. Đây là cơ sở để khẳng định: hàng dệt may không bán phá giá vào thị
trường Hoa Kỳ.
Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn
ngành ước đạt 3.488 triệu USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ, trong đó, theo số
liệu của hải quan Mỹ, hàng dệt may Việt Nam nhập vào nước này đạt trị giá
1.973 triệu USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ. Đơn giá bình quân của sản
phẩm (giá 1m2 quy đổi khi nhập khẩu vào Mỹ) của 6 tháng qua cũng chỉ đạt 3
USD/m2, cao gấp 2 lần so với mức 1,5 USD/m2 từ Trung Quốc và mức 1,8
USD/m2 từ các thị trường còn lại trên thế giới nhập khẩu vào Mỹ. Điều này
phản ánh rằng, doanh nghiệp Việt Nam không giảm giá để bán phá giá.
Vừa qua, Bộ Công thương Việt Nam đã có quyết định không cho tạm
nhập tái xuất hàng để hạn chế tiêu cực về chuyển tải bất hợp pháp. Điều này
chứng tỏ với phía Mỹ rằng, Việt Nam quản lý chặt và đúng đắn, để họ có thể
17
yên tâm. Bộ Công thương cũng cho biết sẽ cùng với VITAS tăng cường tiếp
cận mạnh hơn nữa với các giới chức Mỹ, với Bộ Thương mại Mỹ, nhất là
trong chuyến thăm của Bộ trưởng Bộ Thương mại Mỹ dự kiến vào tháng 10

đây để tiếp tục vận động họ bỏ cơ chế giám sát, hoặc giảm số lượng nhóm
giám sát… đối với hàng dệt may Việt Nam.
3. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian
qua
3.1>Giới thiệu sơ bộ về thị trường Mỹ
Hiện nay và trong nhiều thập kỷ qua, Mỹ vẫn là nước có nền kinh tế và
có sức cạnh tranh lớn nhất thế giới. Đồng thời nước này cũng được coi là
nước cung cấp vốn kỹ thuật, công nghệ và là thị trường quan trọng nhất để
phát triển kinh tế của cả thế giới.
Năm 2002, Mỹ đầu tư ra nước ngoài gần 120 tỷ USD, xuất khẩu 1018, 6
tỷ USD và nhập khẩu từ thế giới 1507, 9 tỷ USD. Các sản phẩm xuất khẩu
chính của Mỹ là máy móc thiết bị, ôtô, linh kiện, vật liệu công nghiệp, hàng
tiêu dùng, nông sản. Các mặt hàng nhập khẩu chính gồm dầu thô và các sản
phẩm dầu tinh chế, máy móc, ôtô, hàng tiêu dùng, vật liệu công nghiệp, thực
phẩm và đồ uống.
Việt Nam và Mỹ bắt đầu đàm phán chính thức về bình thường hoá quan
hệ vào năm 1991. Tháng 2/1994, Mỹ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam.
Song song với quan hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ kinh tế thương mại
giữa Việt Nam và Mỹ cũng không ngừng phát triển. Sau khi Hiệp định
thương mại Việt Nam – Mỹ có hiệu lực (12/2001), kim ngạch buôn bán giữa
Việt Nam và Mỹ được phát triển nhảy vọt.
Năm 2003, Việt Nam được trở thành bạn hàng lớn thứ 40 của Mỹ (tính
theo kim ngạch 2 chiều). Nếu tính riêng xuất khẩu vào Mỹ thì Việt Nam đứng
thứ 35. Các mặt hàng chính của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ năm 2003
gồm : dệt may (56, 2%), thuỷ hải sản (16, 3%), giày dép (7, 2%)…
18
Mỹ là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mỹ là 1 trong
3 nước thành lập ra “Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ” (NAFTA). Mỹ cũng
ký hiệp định thương mại tự do song phương với một số nước, và dành ưu đãi
thương mại đơn phương cho nhiều nước đang và chậm phát triển. Hiện nay,

Mỹ có quan hệ buôn bán với 230 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các bạn
hàng chính của Mỹ là : Canada, Mêhicô, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh,
Hàn Quốc, Đài Loan, Pháp, Italia, Hà Lan, Singapore, Brazil, Việt Nam…
Mỹ là một thị trường với sức mua lớn và có nhiều tiềm năng. Chính vì
vậy, Việt Nam cần phải có những biện pháp cụ thể để tăng kim ngạch xuất
khẩu sang Mỹ trong thời gian tới.
2.2>Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian
qua
2.2.1>Cơ cấu và tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ
Mỹ luôn đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may. Nếu gộp các loại
hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ thì kim ngạch loại hàng này đạt 60 tỷ USD
chiếm 4, 5% kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ. Mỗi năm dân Mỹ tiêu thụ khoảng
90 tỷ USD hàng may mặc các loại. Trong đó, gần 50% được đáp ứng từ các
mặt hàng mang tính phổ thông đến các mặt hàng cao cấp.
Nhưng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam ở các năm
trước chưa cao. Năm 1995, giá trị hàng dệt may sang Mỹ chỉ đạt 16, 867 triệu
USD chiếm tỷ trọng 8, 47%. Các năm tiếp theo : năm 1996 là 19, 74 triệu
USD (6, 4%), năm 1997 đạt 20 triệu USD (5, 3%), năm 1998 đạt 26, 34 triệu
USD (5, 07%), năm 1999 là 34, 5 triệu USD (5, 74%). Giá trị xuất khẩu tăng
qua các năm nhưng tỷ trọng lại giảm và còn thấp. Mức xuất khẩu hàng dệt
may sang Mỹ mới chỉ chiếm 2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam (1999).
Theo Bộ thương mại và công nghiệp, đến nay hầu hết các doanh nghiệp
dệt may xuất khẩu Việt Nam đều chủ động ký kết, thực hiện đơn đặt hàng và
khai thác tốt nguồn hạn ngạch. Ngay tháng 1/2006 hàng dệt may Việt Nam
19
xuất sang Mỹ được đạt 152 triệu USD (tăng 65% so với cùng kỳ là 92 triệu
USD).
Hiện nay,xuất khẩu sang Hoa Kỳ: 25 cat. đều nóng.25 chủng loại hàng
(cat.) có hạn ngạch xuất sang thị trường Mỹ đều đã trở thành cat. “nóng”, kể

cả các cat. thuộc nhóm II cũng có tỷ lệ thực hiện lên tới 60%-70%.
Tuy nhiên, ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may VN lại tỏ ra lo
lắng, bởi đây chỉ là “tăng trưởng nóng”, chủ yếu do cấp visa tự động nên các
hợp đồng xuất khẩu dồn vào đầu năm và do Trung Quốc đang bị áp đặt hạn
ngạch đặc biệt”.
Nếu chủ quan không chuẩn bị lực lượng thì đến năm 2008, Trung Quốc
sẽ được dỡ bỏ hoàn toàn các rào cản, chắc chắn doanh nghiệp dệt may VN sẽ
“sốc” nữa.
Chính phủ Việt Nam và Mỹ vừa ký kết thoả thuận về hệ thống “Thông
tin Visa điện tử (Elvis) cho các sản phẩm sợi và dệt may”. Theo thoả thuận
này, Chính phủ Việt Nam sẽ cấp Visa qua hệ thống Elvis cho mỗi lô hàng dệt
may được sản xuất trong nước mà không phụ thuộc vào giá trị lô hàng. Visa
được cấp qua hệ thống Elvis là một thông điệp củaViệt Nam gửi bằng phương
tiện điện tử cho Cục hải quan Mỹ, trong đó có chứa thông tin về lô hàng xuất
khẩu vào thị trường Mỹ và số hiệu Visa cho hàng hoá đó. Visa cấp qua hệ
thống Elvis xác nhận xuất xứ và chỉ ra hạn chế cho từng loại được áp dụng.
Với hệ thống Elvis, hai bên sẽ quản lý tốt hơn việc thực hiện hạn ngạch
dệt may Và kiểm soát các lô hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ, chống lại
chuyển tải bất hợp pháp. Về phần mình, các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu hàng dệt may vào Mỹ sẽ tiết kiệm được thời gian khi xin Visa theo
phương thức thủ công tại các phòng quản lý xuất nhập khẩu.
Trong tương lai dệt may Việt Nam có thể trở thành mặt hàng chủ lực của
Việt Nam sang Mỹ. Chất lượng sản phẩm hàng dệt may của Việt Nam trong
20
vài năm qua được phát triển đến trình độ nhất định của thế giới với nhiều mẫu
mã đã chiếm được vị trí và ưu thế trên một số thị trường khó tính.
2.2.2>Thuận lợi
Trước hết phải nhận thấy Việt Nam là nước có dân số trẻ, có nguồn lao
động dồi dào, chi phí lao động thấp. Hơn nữa người dân lao động Việt Nam
lại cần cù chăm chỉ, khéo léo, ham học hỏi, rất thích hợp với công việc này.

Bên cạnh đó thì hàng dệt may Việt Nam còn được hưởng chế độ ưu đãi thuế
quan nếu đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về chất lượng và xuất xứ.
Về giá xuất khẩu, do chi phí đầu vào, chi phí sản xuất, chi phí lưu thông
thấp nên giá mặt hàng dệt may của Việt Nam tương đối rẻ, tăng khả năng
cạnh tranh cho mặt hàng này trên thị trường quốc tế.
Ngoài ra, Việt Nam còn có môi trường kinh doanh an toàn, hệ thống
pháp lý thông thoáng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
2.2.3>Khó khăn và thách thức đặt ra với hàng dệt may Việt Nam
2.2.3.1>Về nguyên vật liệu
Đặc điểm của hàng dệt may Việt Nam trong vòng 10 năm qua là các
công ty chủ yếu làm gia công cho công ty nước ngoài, phần lớn nguyên phụ
liệu là do công ty nước ngoài đưa vào. Một phần do nguyên liệu trong nước
chưa sản xuất được hoặc có nhưng chất lượng thấp. Chính vì vậy trong thời
gian tới chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa để tìm ra những nguyên liệu mới
với giá thành rẻ và có chất lượng tốt.
Còn đối với các doanh nghiệp dệt may tự sản xuất và cung ứng sản phẩm
của mình sang thị trường Hoa Kỳ thì nguồn nguyên liệu đầu vào lại chưa đáp
ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật mà quốc gia này quy định.
2.2.3.2>Về vốn
Hiện nay các doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm
nguồn vốn đầu tư để nhập khẩu nguồn nguyên liệu cũng như các máy móc
thiết bị hiện đại nhằm nâng cao chất lượng và năng suất người lao động. Phần
lớn, vốn đầu tư đều phải tự vay trung hạn với lượci suất cao. Phương thức này
21
tạo điều kiện cho khách hàng nước ngoài vào khai thác thị trường lao động,
nhằm cạnh tranh với chúng ta trong việc giảm chi phí sản xuất sản phẩm.
2.2.3.3>Về trình độ nhân lực
Phần lớn cán bộ Việt Nam chưa thể tự mình chủ động độc lập điều hành
sản xuất một cách khoa học, đồng bộ và có chất lượng.Các công nhân Việt
Nam tuy chăm chỉ nhưng lại chưa có cơ hội được tiếp xúc để nắm bắt,học hỏi

cách thức hoạt động của các công nghệ mới,hiện đại trên thế giới.Do đó,chưa
khai thác và phát huy được hết khả năng và năng suất lao động của các cán
bộ,công nhân viên chức của doanh nghiệp.
2.2.3.4>Môi trường cạnh tranh quốc tế
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của ta đang phải cạnh tranh
với rất nhiều nước khác như : Trung Quốc, ấn Độ…là những quốc gia mạnh
trong ngành dệt may, đặc biệt là Trung Quốc. Trong thời gian tới, Trung
Quốc có thể trở thành nguồn cung cấp được hầu hết các công ty kinh doanh
bán lẻ quần áo của Mỹ lựa chọn với nhiều sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu
mã đẹp.
2.2.3.5>Hệ thống pháp luật
- Hệ thống pháp luật của Việt Nam
Hệ thống pháp luật của Việt Nam còn thiếu đồng bộ, chưa ổn định, còn
chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Hệ thống đó đang được rà soát lại để sửa đổi, bổ
sung hoặc bỏ những phần đã lỗi thời.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn thiếu nhiều văn bản pháp luật liên quan đến
nhiều quy định quan trọng trong hiệp định. Chính vì vậy, chính phủ Việt Nam
còn xây dựng một chương trình tổng thể nhằm thực thi hiệp định thương mại
Việt – Mỹ với mục đích nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền
kinh tế Việt Nam.
- Hệ thống pháp luật Mỹ còn nhiều phức tạp.
Bên cạnh hệ thống luật lệ Liên Bang, từng Bang ở Mỹ đều có hệ thống
pháp luật riêng. Chính vì khó khăn phức tạp như vậy nên việc xúc tiến hàng
22
hoá vào thị trường Mỹ thường phải thông qua các nhà môi giới hải quan.Bên
cạnh đó,những quy định,những tiêu chuẩn quá ngặt ngèo của chính phủ Hoa
Kỳ áp dụng đối với hàng dệt may Việt Nam đã gây ra không ít tổn thất cho
các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng này.
2.2.3.6>Về kỹ thuật và công nghệ
Trong thực tế, mặc dù năng lực sản xuất hàng dệt may hiện nay tăng

mạnh. Có nhà máy mở rộng thêm qui mô sản xuất lên 2-3 lần, nhiều nhà máy
mới được thành lập nhưng vẫn chưa đáp ứng được các đơn đặt hàng của Mỹ
cả về mẫu mã, lẫn chất lượng, dẫn đến sự giảm sút về đơn đặt hàng của các
khách hàng Mỹ.Đó là do máy móc công nghệ của các nhà máy này vẫn chưa
đủ hiện đại,để xử lý các vấn đề về rác thải gây ô nhiễm môi trường,các vấn đề
liên quan đến các tiêu chuẩn kỹ thuật về chất lượng sợi vải do bên đối tác Hoa
Kỳ đưa ra.
23
Chương III
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ
Ngày nay,ngành dệt may Việt Nam tiếp tục phải đương đầu với những
khó khăn và biến động của thị trường thế giới nói chung và những biến động
của thị trường Hoa Kỳ nói riêng.Vì vậy để nâng cao xuất khẩu hàng dệt may
thì những giải pháp đặt ra là gì?
I. Về phía nhà nước
1. Chính sách bảo hộ sản xuất trong nước
Khoảng cách chênh lệch quá xa của các doanh nghiệp trong nước so với
nước ngoài về : vốn, công nghệ, trình độ quản lý, …được và đang là 1 vấn đề
khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Do đó nhà nước cần có các chính
sách nhằm bảo hộ sản xuất trong nước để sớm đưa nền công nghiệp dệt may
tiến kịp với các nước trong khu vực, đảm bảo sự phát triển của ngành công
nghiệp thế mạnh này. Nhà nước cần quản lý chặt chẽ sản phẩm dệt may tiểu
ngạch, ngăn chặn các vi phạm, tránh tình trạng nhập lậu, xử phạt nặng các vi
phạm.
2. Điều chỉnh chính sách thuế
Điều chỉnh các chính sách đặc thù nhằm khuyến khích các thành phần
kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, xem xét nhằm miễn giảm thuế đối
với một số nguyên liệu sản xuất trong nước cung cấp cho ngành sản xuất các
mặt hàng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.

Cần có sắc thuế nhập khẩu hợp lý cho từng loại nguyên vật liệu, công cụ
lao độngđể hỗ trợ sản xuất trong nước, nhưng cũng tránh “vô tình” gián tiếp
đánh thuế vào phía gia công của doanh nghiệp Việt Nam như hiện nay.
24
Có chính sách miễn giảm thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp
nghiên cứu và phát triển. Căn cứ năng lực của từng doanh nghiệp để có thể
giúp đỡ về hướng đầu tư, nghiên cứu, hướng hỗ trợ kỹ thuật.
3. Thành lập các tổ chức tư vấn về các lĩnh vực có liên quan đến xuất
khẩu dệt may Việt Nam
Cần tiến hành thành lập các tổ chức tư vấn về lĩnh vực đầu tư, về lựa
chọn và chuyển giao công nghệ…cung cấp thông tin thị trường giúp cho các
doanh nghiệp đầu tư phát triển có hiệu quả, hoà nhập một cách nhanh chóng
vào thị trường dệt may thế giới.
4. Chính sách hỗ trợ về vốn
Chính sách ưu đượci trong việc vay vốn từ các nguồn tín dụng trong
nước, hoặc bảo vệ vay vốn từ các nguồn trong nước hay vốn tài chính của
nước ngoài. Giúp các doanh nghiệp có vốn để mua nguyên liệu, trang thiết bị
hiện đại, để đẩy mạnh số lượng hàng xuất khẩu có chất lượng và mẫu mã đẹp.
5. Chính sách pháp luật
Nhà nước cần tiếp tục xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho các
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập
khẩu phù hợp với tiến độ hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Đồng thời
khuyến khích thành lập các công ty xúc tiến thị trường, cung cấp thêm thông
tin về thị trường và giá cả trên thị trường thế giới một cách nhanh nhất, chính
xác nhất.
6. Một số chính sách khác
Kiểm soát việc đầu tư công nghệ, nhằm tránh tình tranhg nhập phải công
nghệ được quá cũ, quá lạc hậu gây tác hại đến môi trường.Chính vì vậy việc
xây dựng và ban hành tiêu chuẩn quốc gia về nước thải ngành Dệt-Nhuộm với
những chỉ tiêu ô nhiễm phù hợp, khả thi là hết sức cần thiết. Với những tiêu

chuẩn như vậy cùng với các chế tài về thu phí nước thải, đồng thời có biện
25

×