Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 175 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
K



NGUYỄN HỮU HUY NHỰT


CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG
TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính ngân hàng
Mã số:60.31.12.01




LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THANH TUYỀN





THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010




PHẦN MỞ ĐẦU

Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu, rộng vào đời sống kinh tế quốc tế,
nhất là sau khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới -
WTO. Việc hội nhập đã giúp cho doanh nghiệp Việt Nam được đối xử bình đẳng
trên sân chơi quốc tế. Các nước sẽ không còn phân biệt mức thuế áp dụng cho
doanh nghiệp Việt Nam như trước đây. Sau một thời gian gia nhập WTO, các doanh
nghiệp Việt Nam đã bắt đầu nhìn thấy rất nhiều cơ hội đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài và chính họ đã và đang góp phần làm thay đổi dần quan niệm về đầu tư ra
nước ngoài từ phía nhà nước Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hình thức thâm nhập thị trường phát triển
gần đây tại các doanh nghiệp Việt Nam. Thực tiễn thế giới đã chứng tỏ rằng một
quốc gia mà có dòng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài càng mạnh thì càng có nhiều
khả năng mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất, tận dụng nguồn nguyên
liệu tại chỗ, tăng việc làm và tăng động lực phát triển kinh tế đất nước; đồng thời,
tăng cường khoa học công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và trình độ tiếp thị với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn là cách
để doanh nghiệp bảo toàn vốn hữu hiệu.

i. Đặt vấn đề
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp có thể chọn
các hình thức thâm nhập thị trường quốc tế như: xuất khẩu (Exporting), dự án trao
tay (Turnkey Projects), chuyển nhượng giấy phép (Licensing), nhượng quyền
thương mại (Franchising), sản xuất theo hợp đồng (Contract Manufacturing), hợp
đồng quản trị (Management Contracting), liên doanh (Joint Ventures), công ty con
sở hữu toàn bộ (Wholly Owned Subsidiaries), liên minh chiến lược (Strategic
Alliances)…; hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thông qua liên doanh hoặc
công ty con sở hữu toàn bộ là một trong những phương cách tốt nhất giúp doanh
nghiệp mở rộng thị trường, nâng cao vị thế của mình trên thế giới.

Song song với việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là phương thức không thể thiếu được ở một quốc gia thực hiện chính sách mở


2

cửa để hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thực chất
là việc chuyển các nguồn lực có lợi thế so sánh hoặc sản xuất dư thừa ở trong nước
như vốn, lao động, công nghệ ra bên ngoài để tạo thế cạnh tranh, nâng cao năng
lực sản xuất, tìm nguồn tài nguyên thay thế, hạn chế ô nhiễm môi trường ở trong
nước và mở rộng thị trường tiêu thụ, nhằm thu được lợi ích cao nhất trong kinh tế.
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài dù còn mới mẻ đối với Việt Nam
nhưng từ lâu đã không còn xa lạ với các quốc gia phát triển trên thế giới. Đây chính
là một hướng đi mới, mang tính hấp dẫn cao đối với Việt Nam. Mặc dù có không ít
rủi ro, nhưng đó là một tiềm năng to lớn trong việc giúp doanh nghiệp mở rộng thị
trường, nâng vị thế của doanh nghiệp nói riêng và hình ảnh của Việt Nam nói chung
trên trường quốc tế. Thời gian vừa qua, các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam tuy vốn không lớn nhưng bước đầu đã đem lại những hiệu
quả nhất định. Trong xu thế hội nhập sâu rộng, chắc chắn, số dự án đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của Việt Nam sẽ không chỉ dừng lại ở ba con số. Do đó, cơ hội đẩy
mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vào
thời điểm này là rất lớn và rõ ràng đang có chiều hướng thuận lợi cho các doanh
nghiệp Việt Nam.
Mặt khác, tuy đã có một số doanh nghiệp thành công bước đầu khi đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài, nhưng đại đa số doanh nghiệp vẫn còn lúng túng trên nhiều
phương diện để thực hiện các dự án đầu tư ra ngoài. Có thể nói đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài là cơ hội đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp hay quốc gia; nhưng để
biến cơ hội thành thực tiễn hành động là một con đường rất dài, đòi hỏi một thế và
lực tương xứng để có thể đi trọn con đường “gian nan” ấy. Trong xu hướng phát
triển sắp tới, nhiều chuyên gia nhận định hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

tại Việt Nam sẽ phát triển nhanh chóng. Như vậy, Việt Nam cần phải làm gì trong
giai đoạn hiện nay và sắp tới để nâng cao thế và lực cho mình, làm như thế nào để
có thể nắm bắt và biến cơ hội thành hành động hiệu quả? Ngay lúc này, nhu cầu
thực tiễn đòi hỏi phải có chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam với
những giải pháp thích hợp, nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động này từng bước phát
triển như các nước trong khu vực và thế giới. Xuất phát từ ý nghĩa và bối cảnh đó,
tác giả đã chọn đề tài “Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam


3

trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” để nghiên cứu thực hiện luận án tiến sĩ
kinh tế của mình.

ii. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là (1) Phân tích thực trạng tình hình hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong thời gian qua về phía cơ
quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp nhằm tìm ra những khó khăn và hạn chế
đang cản trở sự phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; và (2)
Nghiên cứu xây dựng các quan điểm đẩy mạnh hoạt động này, đồng thời dự báo về
khả năng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong quá trình hội nhập; từ
đó, đề xuất hệ thống giải pháp (nhóm giải pháp về chiến lược, chính sách của nhà
nước và nhóm giải pháp xuất phát từ doanh nghiệp) để đẩy mạnh hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam.
Từ mục tiêu nghiên cứu trên, các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra bao gồm:
 Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam thời gian qua?
 Những thành công và khó khăn, hạn chế của hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài ở Việt Nam?
 Giải pháp nào để đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam

trong tương lai?

iii. Phương pháp, thông tin và thiết kế nghiên cứu
 Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp định tính: Nghiên cứu tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã xuất bản trong các tạp chí khoa học trong và
ngoài nước, các bài báo, tài liệu hội thảo, hội nghị, các tài liệu nghe nhìn; kết quả từ
thảo luận nhóm mục tiêu;… để làm cơ sở cho việc nghiên cứu định lượng tiếp sau.
Nghiên cứu định tính thông qua phỏng vấn tay đôi các doanh nghiệp đã đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài.
 Phương pháp định lượng: Thông qua tiến hành khảo sát các doanh nghiệp
dự định đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.


4

 Ngoài ra, tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp truyền thống gồm:
phân tích, tổng hợp, thống kê, mô tả và so sánh.

 Thông tin nghiên cứu
 Thông tin thứ cấp: Thu thập từ Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Tổng cục Thống kê, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, báo chí,
tạp chí chuyên ngành, internet và thông tin của các tổ chức nghiên cứu liên quan.
 Thông tin sơ cấp: Thu thập ý kiến từ các doanh nghiệp đã và chưa (dự
định) đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành theo 2 giai đoạn chính: giai đoạn 1 nghiên cứu
định tính, giai đoạn 2 nghiên cứu định lượng. Dữ liệu thu thập trong nghiên cứu
được xử lý bằng phần mềm SPSS for Windows 15.0 để phân tích các yếu tố thống

kê cơ bản (Phụ lục IV).

 Giai đoạn 1: Nghiên cứu định tính
Dựa vào các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài, tác giả xây dựng và
hoàn thiện thang đo lường các khái niệm nghiên cứu; nghiên cứu lý thuyết dựa trên
nguồn thông tin thứ cấp thông qua các nghiên cứu đã xuất bản trong các tạp chí
khoa học trong và ngoài nước, các bài báo, tài liệu hội thảo, hội nghị, các tài liệu
nghe nhìn v.v…
Tác giả đã tiến hành trao đổi, thảo luận, phỏng vấn tay đôi dựa trên những
câu hỏi được chuẩn bị trước (Phụ lục I) với các doanh nghiệp đã đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài. Ngoài ra, nghiên cứu định tính còn được thực hiện thông qua kỹ thuật
thảo luận nhóm nhằm điều chỉnh, bổ sung thang đo các khái niệm nghiên cứu.
Giai đoạn này được xem là nghiên cứu sơ bộ nhằm khám phá, điều chỉnh và
bổ sung các yếu tố trong bảng câu hỏi phù hợp với thang đo. Kết quả của giai đoạn
nghiên cứu này sẽ được ghi nhận, tổng hợp và là cơ sở cho việc thiết kế bảng câu
hỏi sử dụng chính thức trong nghiên cứu định lượng.



5

 Giai đoạn 2: Nghiên cứu định lượng
Phương pháp định lượng thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn được thiết kế để
trực tiếp điều tra khảo sát ý kiến của các doanh nghiệp dự định đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài (Phụ lục II), nhằm đánh giá thực trạng tình hình hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong thời gian qua cả về phía cơ quan quản lý nhà
nước, lẫn phía doanh nghiệp; tìm ra những khó khăn và hạn chế mà hoạt động này
đang gặp phải.
Trước khi phỏng vấn chính thức sẽ tiến hành phỏng vấn thử nhằm bổ sung
thêm một số tiêu chí cho phù hợp và hiệu chỉnh lại bảng câu hỏi nhằm tránh hiểu sai

nội dung cần phỏng vấn.

iv. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có chú trọng nghiên cứu thể chế
chính sách tác động đến hoạt động này để xây dựng chiến lược phát triển.
Các hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
được nghiên cứu mang tính tổng quát, không phân tích chi tiết từng ngành cụ thể.
Số liệu thứ cấp được thu thập từ năm 1989 (năm bắt đầu có dự án đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài) đến hết tháng 7 năm 2008 ở Việt Nam.
Các thông tin và dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra các doanh
nghiệp tại Việt Nam.

v. Những vấn đề nghiên cứu có liên quan
Ở Việt Nam từ trước đến nay hầu như rất ít sách cũng như đề tài nghiên cứu
về lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hiện tại chỉ có duy nhất 1 quyển sách
“Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài” của PGS.TS.
Đinh Trọng Thịnh, Học viện Tài chính, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, 2006. Tuy
nhiên, những số liệu trong quyển sách này đã cũ. Mặt khác, quyển sách không đi
sâu nghiên cứu bằng phương pháp định lượng để có thể đánh giá khách quan hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, xác định nhân tố ảnh hưởng, dự báo xu hướng
phát triển và đề xuất hệ thống giải pháp. Từ đó, càng thôi thúc tác giả - trên cơ sở


6

các nghiên cứu của chính tác giả trước đây - chọn đề tài này để nghiên cứu nhằm
tìm ra giải pháp đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.
Có 5 bài viết của tác giả (và đồng tác giả) đã được công bố trên Tạp chí Phát

triển kinh tế (tạp chí khoa học kinh tế của Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo) liên quan đến đề tài nghiên cứu, cụ thể gồm:
1. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2005), “Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt
Nam: Khó khăn và thách thức”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 173, trang 16-19;
2. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2005), “On Possibility of Investing Abroad by
Local Companies”, Economic development Review, Number 130, pp. 12-13;
3. Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2007), “Overseas
Investment from Vietnam under the Trend of International Integration”, Economic
development Review, Number 150, pp. 14-16;
4. Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2008), “Thâm nhập thị
trường thế giới bằng hoạt động nhượng quyền kinh doanh của doanh nghiệp Việt
Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 208, trang 9-12;
5. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2009), “Kinh nghiệm đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các nước Đông Á và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế,
số 220, trang 45-51.
Tất cả các nghiên cứu đã công bố nói trên chỉ là những lát cắt từ nhiều góc
độ về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, chúng
chưa phải là một nghiên cứu toàn diện - bằng kết quả khảo sát và các luận cứ khoa
học - để đi đến xây dựng chiến lược về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho Việt
Nam, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

vi. Những điểm mới của luận án
Một là, chọn nghiên cứu kinh nghiệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
nước Đông Á - do điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có nhiều nét tương
đồng - để rút ra những bài học kinh nghiệm hữu dụng cho Việt Nam;


7

Hai là, trình bày một bức tranh toàn cảnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của

Việt Nam gần 20 năm qua bằng những lát cắt: (1) phân theo thời gian, (2) phân theo
ngành kinh tế và (3) phân theo đối tác;
Ba là, chỉ ra những hạn chế thuộc về chính sách, pháp luật, công tác quản lý
nhà nước; và những khó khăn từ phía doanh nghiệp cần phải nhanh chóng khắc phục;
Bốn là, thông qua thảo luận với các doanh nghiệp có dự án đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài, cũng như kết quả điều tra những doanh nghiệp có dự định đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài; luận án khắc họa sự sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
cộng đồng doanh nghiệp, đây cũng chính là cơ sở cho việc đề xuất hệ thống giải
pháp thúc đẩy hoạt động này;
Năm là, đề ra hệ thống giải pháp (nhóm giải pháp về chiến lược, chính sách
của nhà nước và nhóm giải pháp xuất phát từ doanh nghiệp) có tính khả thi để đẩy
mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong tương lai.

vii. Kết cấu của luận án
Kết cấu chính của luận án gồm phần mở đầu, kết luận và 3 chương. Ngoài ra
còn có bảng thuật ngữ viết tắt, danh mục bảng, danh mục hình, tài liệu tham khảo
và phần phụ lục. Cụ thể như sau:

 Phần mở đầu
Phần này trước tiên sẽ xác định vấn đề nghiên cứu từ đó hình thành mục tiêu
và câu hỏi nghiên cứu; giới thiệu phương pháp, thông tin và thiết kế nghiên cứu.
Phần này cũng chỉ rõ phạm vi nghiên cứu, những vấn đề nghiên cứu có liên quan,
những điểm mới cũng như kết cấu của luận án.

 Chương 1. Cơ sở khoa học về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nội dung chính của chương 1 này đề cập đến những vấn đề mang tính lý
luận liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, kinh nghiệm đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của các nước Đông Á và bài học cho Việt Nam.





8

 Chương 2. Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
Chương 2 đề cập đến tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Việt Nam trong thời gian qua về phía cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp,
những thuận lợi và khó khăn, hạn chế đang cản trở sự phát triển của hoạt động đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài. Chương này còn phân tích kết quả khảo sát tình hình
thực tế để đưa ra những cơ sở xây dựng thang đo, kiểm định các giả thuyết nhằm
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài Việt Nam.

 Chương 3. Giải pháp đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Dựa trên kết quả phân tích từ chương 2, chương này sẽ xây dựng các quan
điểm, đồng thời dự báo về khả năng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế. Từ đó, đề xuất hệ thống giải pháp (nhóm giải pháp
về chiến lược, chính sách của nhà nước và nhóm giải pháp xuất phát từ doanh
nghiệp) nhằm đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam.

 Kết luận.
















9




























Hình i.i. Tóm lược quy trình nghiên cứu (của tác giả)






Xác định
thông tin
cần
thu thập
Thiết kế
nghiên cứu
Đề xuất
hệ thống
giải pháp và
kết luận
Thu thập
dữ liệu
Xử lý
dữ liệu và
phân tích
thông tin
Xác định
mục tiêu

và câu hỏi
nghiên cứu
QUY

TRÌNH
NGHIÊN

CỨU


10

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Nội dung chính của chương 1 này đề cập đến những vấn đề mang tính lý
luận liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đồng thời, do điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có nhiều nét tương đồng nên tác giả quyết định
chọn nghiên cứu kinh nghiệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước Đông Á
[27], nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

1.1. Lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hoạt động đầu tư trên thế giới ngày càng phong phú và đa dạng, bao gồm
nhiều loại hình đầu tư khác nhau. Bên cạnh hoạt động đầu tư từ nguồn lực trong
nước, hoạt động đầu tư phát sinh từ một chủ đầu tư nằm bên ngoài phạm vi quốc gia
được đầu tư ngày càng trở nên một động lực to lớn nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh
tế thế giới. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn gắn liền với sự phát triển địa
bàn hoạt động của các công ty đa quốc gia.
Nguyên nhân hình thành đầu tư trực tiếp nước ngoài là do các công ty đa

quốc gia có những ưu thế riêng mà các đối thủ địa phương không có. Các ưu thế
này tập trung ở các phương pháp quản lý và công nghệ tiên tiến. Do đó, đầu tư trực
tiếp nước ngoài đẩy mạnh sự phổ biến quốc tế các công nghệ mới và tài sản vô
hình, đồng thời làm tăng hiệu quả công tác quản lý hay tổ chức sản xuất. Mặt khác,
khi nắm giữ chặt chẽ những ưu thế trên, các công ty đa quốc gia sẽ tác động lên các
yếu tố thiên phú riêng của các quốc gia, nhờ đó làm tăng thu nhập từ mậu dịch.
Cuối cùng, đầu tư nước ngoài trực tiếp ở nhiều quốc gia sẽ kích thích cạnh tranh
giữa các công ty.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi công dân của một nước (nước đầu tư)
nắm giữ quyền kiểm soát các hoạt động kinh tế ở một nước khác (nước chủ nhà hay
nước nhận đầu tư). Trong khái niệm này, thật sự không có sự đầu tư gia tăng về
kinh tế hay một sự chuyển giao ròng giữa các quốc gia mà đơn thuần chỉ là một sự
di chuyển tư bản từ quốc gia này sang quốc gia khác. Các công ty nắm quyền kiểm


11

soát hoạt động ở nhiều quốc gia được xem như các công ty đa quốc gia, các công ty
xuyên quốc gia hay các công ty toàn cầu. Sự phát triển hoạt động của các công ty
này chính là động lực thúc đẩy sự phát triển trong thương mại quốc tế thông qua
hình thức đầu tư trực tiếp vào các quốc gia khác trên thế giới [19].
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu
tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành
quyền điều hành hay tham gia điều hành đối với các doanh nghiệp sản xuất hoặc
kinh doanh dịch vụ thương mại [53].
Tổ chức Thương mại thế giới định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra
khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước
khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý
là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp,
cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.

Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là “công ty mẹ” và các
tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được hiểu đủ cả hai chiều, nghĩa là bao gồm
đầu tư vào và đầu tư ra ngoài biên giới một quốc gia. Vì vậy đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là một trong hai bộ phận của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cách hiểu đầu tư
trực tiếp nước ngoài tức là đầu tư trực tiếp của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
là chưa đầy đủ.
Theo Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 của Chính phủ quy định
về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam thì đầu tư ra nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam là việc doanh nghiệp Việt Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản
khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở nước ngoài [23].
Kế tiếp, Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ quy
định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giải thích từ ngữ đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động
đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài [24].
Tóm lại, theo tác giả, đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm hai bộ phận là đầu tư
trực tiếp vào trong nước do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện và đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài do các nhà đầu tư Việt Nam thực hiện. Trong đó, đầu tư trực tiếp ra


12

nước ngoài được xem là việc các nhà đầu tư Việt Nam đưa vốn đầu tư từ Việt Nam
ra nước ngoài để đầu tư dưới các hình thức theo quy định của pháp luật và trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài.

1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp số vốn tối thiểu, tùy quy định
luật đầu tư từng nước. Các chủ đầu tư có thể bỏ vốn 100% hoặc liên doanh để thành
lập doanh nghiệp;

- Quyền điều hành quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn, nếu
đóng góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ nước ngoài điều hành;
- Lợi nhuận của chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Lời và lỗ được chia theo tỷ lệ góp vốn pháp
định sau khi đã nộp thuế lợi tức cho nước chủ nhà;
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường kèm theo chuyển giao công nghệ.

1.1.3. Bản chất và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thực tế phát triển của quan hệ quốc tế trong đầu tư những thập niên qua của
các nước trên thế giới cho thấy không chỉ các nước giàu đầu tư sang các nước
nghèo, mà bản thân các nước giàu cũng đầu tư sang nhau với tỷ trọng khá lớn,
chiếm tới ¾ vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước này. Các nước giàu đầu tư sang
các nước khác không chỉ vì mục tiêu kinh tế tìm lợi nhuận mà cả vì mục tiêu chính
trị. Các nước chậm phát triển không chỉ tiếp nhận đầu tư của các nước phát triển mà
cũng đầu tư sang các nước khác, mặc dù vẫn thiếu vốn cho sự phát triển kinh tế - xã
hội trong nước [40]. Nguồn gốc sâu xa của xu thế này là do sự tác động đồng thời
của bản thân hoạt động đầu tư đối với cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.

1.1.3.1. Đối với nước đi đầu tư
Bằng cách đầu tư ra nước ngoài, các nước đi đầu tư này tận dụng được lợi
thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (do giá lao động rẻ, chi phí khai
thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận
chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư, nhờ đó


13

mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các
công ty kéo dài chu kỳ sống của các sản phẩm mới được tạo ra trong nước, đồng
thời giúp cho công ty tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu dồi dào, ổn

định với giá rẻ (các nước nhận đầu tư là các nước đang phát triển thường có nguồn
tài nguyên phong phú, nhưng do hạn chế về vốn và công nghệ nên chưa được khai
thác, tiềm năng còn rất lớn).
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về
kinh tế, tăng cường ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế nhờ mở rộng được
thị trường tiêu thụ sản phẩm; đồng thời tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của
nước nhận đầu tư khi xuất khẩu sản phẩm là máy móc thiết bị sang nước nhận đầu
tư (để góp vốn) và xuất khẩu sản phẩm sản xuất tại đây sang các nước khác (do
chính sách xuất nhập khẩu ưu đãi của các nước nhận đầu tư nhằm khuyến khích
FDI, chuyển giao công nghệ và sản xuất hàng xuất khẩu của các cơ sở có vốn đầu tư
nước ngoài), nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với
hàng nhập từ các nước khác. Như vậy, đối với việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để
khai thác lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư, các chủ đầu tư trực tiếp sản xuất
được sản phẩm với giá thành hạ hơn so với sản xuất trong nước, nhờ đó các chủ đầu
tư có được ưu thế trong việc tiêu thụ sản phẩm này trên thị trường thế giới.
Xét cho cùng thì mục tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư ra nước ngoài là làm
cho đồng vốn được sử dụng với hiệu quả cao nhất. Cũng chính vì thế, ngay cả khi ở
quốc gia họ tình trạng thất nghiệp tăng mạnh nhưng họ vẫn tìm kiếm lao động ở
nước ngoài, vẫn đem vốn đi đầu tư trong khi lại thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.

1.1.3.2. Đối với nước nhận đầu tư
Đầu tư nước ngoài giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế - xã
hội do tích lũy nội bộ thấp. Cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài, các công ty (chủ yếu là các công ty đa quốc gia) đã chuyển
giao công nghệ từ nước mình hoặc các nước khác sang nước nhận đầu tư. Mặc dù
còn nhiều hạn chế do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối, song điều
không thể phủ nhận được là chính nhờ sự chuyển giao này mà các nước chủ nhà
nhận được kỹ thuật tiên tiến (trong đó có những công nghệ không thể mua được



14

bằng quan hệ thương mại đơn thuần), kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội
ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về nhiều mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp
làm việc, kỷ luật lao động…).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào làm cho các hoạt động đầu tư trong nước
phát triển, tính năng động và khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước ngày
càng được tăng cường (để tồn tại và phát triển), các tiềm năng cho phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước có điều kiện để khai thác và được khai thác. Điều đó có tác
động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu công
nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ theo chiều hướng ngày càng
đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với xu
thế chung của thời đại; nước chủ nhà có thêm điều kiện để mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế, xác lập chỗ đứng trên thị trường quốc tế.

1.1.4. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển của
thương mại quốc tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những tác động to lớn đến sự phát triển
thương mại quốc tế. Những tác động này ảnh hưởng không chỉ đến nước nhận đầu
tư mà ngay cả những nước xuất khẩu tư bản [19]. Những tác động đó bao gồm:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện thu hút nguồn nhu cầu mới. Các
công ty đa quốc gia (MNC) thường đạt tới một giai đoạn mà sự phát triển bị hạn chế
tại xứ sở của họ. Điều này có thể do sự cạnh tranh mãnh liệt đối với những sản
phẩm mà họ bán ra trên thị trường.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp các MNC thâm nhập vào những thị trường
có thể đạt được lợi nhuận cao. Nếu những công ty khác trong cùng một lĩnh vực
công nghệ đã chứng minh được rằng những nguồn thu nhập cao có thể thực hiện
được ở những thị trường khác thì một MNC nào đó cũng có thể quyết định thâm
nhập vào thị trường đó.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tăng năng suất. Một công ty có nỗ lực

muốn bán sản phẩm ban đầu của mình tại các thị trường mới có thể làm tăng mức
thu nhập cổ phần của mình do tăng năng suất. Điều này làm giảm chi phí bình quân


15

từng đơn vị sản phẩm. Công ty càng sử dụng nhiều máy móc thiết bị thì khả năng
này càng có điều kiện thuận lợi để thực hiện.
- Sử dụng yếu tố nước ngoài trong sản xuất. Các chi phí sử dụng đất đai và
lao động có thể khác biệt nhau rất xa giữa các quốc gia. Các MNC thường cố gắng
thiết lập việc sản xuất tại địa điểm có giá lao động và đất đai rẻ.
- Sử dụng nguyên vật liệu nước ngoài. Do các chi phí vận chuyển, các công
ty cố gắng tránh nhập khẩu nguyên vật liệu từ một đất nước khác, một giải pháp khả
thi hơn là phát triển việc sản xuất sản phẩm tại một nước mà nguyên vật liệu có sẵn.
- Sử dụng công nghệ nước ngoài. Các MNC thiết lập ngày càng nhiều các
nhà máy ở nước ngoài hay mua lại các nhà máy hiện hữu của nước ngoài để học hỏi
thêm về công nghệ.
- Khai thác các thuận lợi về độc quyền. Các công ty có thể trở nên quốc tế
hóa nếu như họ sở hữu các tiềm lực hay kỹ năng mà các đối thủ cạnh tranh không
bao giờ có.
- Đa dạng hóa ở tầm cỡ quốc tế. Nếu tất cả tài sản của một công ty được tổ
chức nhằm điều tiết việc kinh doanh một loại sản phẩm nào đó trong một quốc gia,
nguồn tiền mặt của công ty đó rất có khả năng trở nên bất ổn định, đó là kết quả của
những tình thế thay đổi trong phạm vi công nghệ của công ty hay trong phạm vi nền
kinh tế. Công ty có thể giảm bớt sự thay đổi nguồn tiền mặt bằng cách đa dạng hóa
nguyên liệu sản xuất.
- Phản ứng với giá trị thay đổi của ngoại tệ. Khi một công ty cho rằng ngoại
tệ của một quốc gia nào đó bị hạ giá, công ty đó có thể tính đến khả năng đầu tư
trực tiếp vào đất nước đó. Do sự giảm giá ngoại tệ, mức phí tổn ban đầu có thể khá
thấp. Nếu đồng ngoại tệ đó mạnh lên theo thời gian, thu nhập được chuyển về công

ty mẹ sẽ tăng lên.
- Phản ứng với các kiềm hãm thương mại. Trong một số trường hợp, một
MNC sử dụng việc đầu tư trực tiếp như là một chiến lược dự phòng hơn là tấn công.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại những thuận lợi về mặt chính trị. Một
số MNC đóng tại những nước có nền chính trị không ổn định đang cố gắng phát
triển sang những nước ổn định hơn.



16

1.1.5. Hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Chủ đầu tư nước ngoài dễ mất vốn nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định
về kinh tế và chính trị;
- Nếu nước chủ nhà không có quy hoạch đầu tư khoa học, sẽ dẫn tới sự đầu
tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột và ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng xảy ra. Hiện nay, các nước phát triển thực hiện sự kiểm soát gắt gao
những dự án gây ô nhiễm môi trường, nên xu thế nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã và
đang chuyển giao những công nghệ độc hại sang các nước kém phát triển;
- Hoạt động FDI cũng tạo ra điều kiện để dẫn tới sự phân hóa sự giàu nghèo,
sự di dân ồ ạt ra các trung tâm đô thị lớn; gây ra sự xáo trộn xã hội, bất bình đẳng
gia tăng, cụ thể bất bình đẳng giữa các vùng kinh tế, các ngành kinh tế và giữa các
tầng lớp dân cư;
- Hoạt động FDI là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự pha trộn về văn
hóa và nguy cơ bản sắc dân tộc bị mai một.

1.2. Các vấn đề về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.2.1. Sự cần thiết đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Trong lịch sử đầu tư trực tiếp nước ngoài của thế giới, các nước đang phát
triển thường đóng vai trò thụ động. Các nước này chỉ thường tiếp nhận chứ không

chủ động đầu tư ra nước ngoài. Cho tới thập niên 1980, các nhà đầu tư từ nhóm
nước “bốn con rồng châu Á” mới bắt đầu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, cụ thể là
đầu tư qua các nước láng giềng trong khu vực. Do xu hướng toàn cầu hóa và đặc
biệt là chính phủ các nước đang phát triển đã dần nhận ra được tầm quan trọng của
hoạt động đầu tư ra nước ngoài nên hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nước
đang phát triển không chỉ còn giới hạn ở Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng
Kông và một số nước Mỹ Latinh như Chile, Achentina nữa mà đã lan rộng qua các
nước khác như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ. Đây không phải là hiện
tượng nhất thời mà theo báo cáo về tình hình đầu tư thế giới của UNCTAD năm
2006 thì đây là một xu hướng khách quan và sẽ chi phối hoạt động đầu tư trực tiếp
thế giới trong những năm tiếp theo [44].


17

Sự phân hóa trình độ phát triển về thu nhập bình quân đầu người, trình độ
khoa học - công nghệ, mức độ công nghiệp hóa… trong nội bộ các nước đang phát
triển là rất lớn. Chính điều này đã tạo ra điều kiện áp dụng mô hình “đàn sếu bay”
trong chuyển giao công nghệ giữa các nước đang phát triển với nhau cũng như nhu
cầu tiếp cận nguồn lao động rẻ. Từ đó đầu tư trực tiếp giữa nước đang phát triển có
trình độ phát triển cao hơn với nước có trình độ phát triển thấp hơn được thúc đẩy.
Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, kinh tế thế giới đã chứng kiến sự trỗi
dậy của các nền kinh tế Đông Á, Ấn Độ và một số nước Mỹ Latinh. Do đó, nhiều
người dự báo thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của châu Á. Hiện tại, đóng góp của các nước
đang phát triển Đông Á (bao gồm cả ASEAN) vào vốn FDI ra của tất cả các nước
đang phát triển là 72,27% [42]. Vì vậy, nếu các nước Đông Á tiếp tục duy trì được
tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay và tăng cường đầu tư ra nước ngoài thì trong
tương lai vốn FDI ra từ các nước đang phát triển sẽ là một trong những nguồn vốn
FDI chính trong đầu tư thế giới.
Hiện tại ở một số nước đang phát triển, sự cạnh tranh diễn ra rất gay gắt giữa

các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ưu thế hơn sẽ dần thu tóm thị trường trong
nước. Tuy nhiên, lượng cầu trong nước là giới hạn, nên các doanh nghiệp này
không còn cách nào khác là phải xuất khẩu hay đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để
tiếp cận thị trường nước ngoài. Trong đó phương án đầu tư được lựa chọn nhiều
hơn. Mặt khác, các doanh nghiệp yếu thế trong cạnh tranh muốn tồn tại thì phải
chuyển hướng hoạt động ra thị trường các nước phát triển kém hơn, cụ thể là ở
những thị trường ngách.

1.2.2. Những nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
- Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước: Helpman và
Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên của vốn giữa các
nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước
thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di
chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
- Chu kỳ sản phẩm: Akamatsu Kaname cho rằng sản phẩm mới đầu được
phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước


18

ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường
nội địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm
nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thuật của nước ngoài. Khi nhu
cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất
khẩu lại xuất hiện. Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình
thành FDI [1]. Raymond Vernon lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai
đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm
này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên sự
cạnh tranh giữa các nhà cung cấp sẽ dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới
quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản

xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn [46].
- Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia: Stephen H. Hymer, John H.
Dunning và Rugman A. M. cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc
thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi
phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm
đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất
đai, chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên [10, 11, 17, 33].
- Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại: Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. Ví dụ, Nhật
Bản hay bị Hoa Kỳ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư thương
mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Để đối
phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và
bán ô tô, máy tính ngay tại Hoa Kỳ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm
này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, từ đó xuất khẩu
sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu.
- Khai thác chuyên gia và công nghệ: Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ
nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn
mạnh mẽ hơn nữa. Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Hoa Kỳ để khai
thác đội ngũ chuyên gia ở Hoa Kỳ. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Hoa Kỳ, các
nước công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây
cũng đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào Hoa Kỳ.


19

- Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên: Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều
công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong
phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bản vào thập
niên 1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích
tương tự như vậy.


1.2.3. Hình thức của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
- Loại hình quyền sở hữu: Để thực hiện FDI, một doanh nghiệp có nhiều lựa
chọn quyền sở hữu, từ sở hữu 100% đến mức tối thiểu. Các mức quyền sở hữu khác
nhau sẽ dẫn đến mức độ linh động cho tập đoàn, khả năng thay đổi để kiểm soát kế
hoạch và chiến lược kinh doanh, tạo sự khác biệt về mức độ rủi ro giả định. Trong
một số trường hợp, dường như các công ty chọn cấu trúc quyền sở hữu nước ngoài
đặc thù, dựa trên kinh nghiệm của mình với cơ cấu tương tự trước kia. Nói cách
khác, những công ty này mang xu hướng duy trì sử dụng cùng một mô hình quyền
sở hữu. Tuy nhiên, tốt hơn là, nên quyết định quyền chủ sở hữu có sự ứng phó chiến
lược để kết hợp các khả năng và nhu cầu.
- Quyền sở hữu trọn vẹn: Với nhiều công ty, ít ra ở thời kỳ đầu, quyết định
FDI được xem xét ở phạm vi nắm giữ 100% quyền sở hữu. Đôi khi, điều này là kết
quả của xét đoán mang tính vị chủng, dựa trên niềm tin rằng, không một thực thể
bên ngoài nào có tác động đối với vấn đề quản trị doanh nghiệp. Ở một thời điểm
khác, vấn đề còn là một nguyên tắc. Ngoài áp lực từ chính phủ nước chủ nhà, sự bất
ổn chung về thị trường cũng là một nhân tố để nắm quyền sở hữu trọn vẹn của FDI.
Sự bất ổn có thể đến từ rối loạn chính trị hoặc từ sự thay đổi chế độ. Thông thường
hơn, nó đến từ mối đe dọa về hoạt động chính trị, thủ tục hành chính phức tạp, mất
thời gian và quan liêu, viễn cảnh phải đưa ra trọng tài phân xử và những thay đổi
không thể lường trước về các điều lệ sau khi đã đưa ra quyết định đầu tư.
- Liên doanh: Liên doanh là sự cộng tác của từ hai tổ chức trở lên trong một
giai đoạn lâu dài. Trong mối quan hệ hợp tác này, các bên đối tác cùng chia sẻ tài
sản, rủi ro và lợi nhuận. Không nhất thiết phải có sự bình đẳng giữa các đối tác.
Trong một số liên doanh, mỗi bên đối tác nắm giữ một lượng cổ phần như nhau. Ở
một số liên doanh khác, đa số cổ phần thuộc về một bên đối tác. Đóng góp của các


20


bên đối tác cho liên doanh có thể rất khác nhau, nó có thể bao gồm ngân quỹ, công
nghệ, bí quyết, tổ chức bán hàng hoặc nhà máy và trang thiết bị.
- Liên minh chiến lược: Một dạng liên doanh đặc biệt bao gồm liên minh
chiến lược hoặc hợp danh. Kết quả của việc gia tăng cạnh tranh toàn cầu và gia tăng
nhanh chóng về đầu tư đòi hỏi tiến bộ công nghệ và rủi ro thất bại cũng tăng, thì
liên minh chiến lược là sự dàn xếp chính thức hoặc không chính thức giữa hai hay
nhiều công ty với một mục tiêu kinh doanh chung. Chúng cao hơn mối quan hệ
truyền thống giữa khách hàng và nhà cung cấp nhưng thấp hơn sự sáp nhập trực
tiếp. Thuận lợi to lớn của mối quan hệ liên minh như vậy là tính linh động liên tục
vì nó có thể được hình thành, điều chỉnh và giải thể nhanh chóng để ứng phó với
điều kiện đổi thay. Về cơ bản, liên minh chiến lược là mạng lưới các công ty cùng
hợp tác để đạt được một dự án hay mục tiêu sẵn có.
- Các hình thức khác: Đầu tư vào các khu chế xuất, khu phát triển kinh tế
thực hiện những hợp đồng xây dựng-vận hành-chuyển giao. Những dự án B.O.T
thường được chính phủ các nước đang phát triển tạo mọi điều kiện để thực hiện
nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế.

1.2.4. Lợi ích của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các
nước đang phát triển
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một xu hướng tất yếu khi mà các nền kinh
tế hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không
chỉ có các nước phát triển đóng vai trò là chủ đầu tư mà trong những giai đoạn gần
đây đã có sự tham gia của các nước đang phát triển vào hoạt động này [6]. Lợi ích
của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các nước đang phát triển có thể
nhìn thấy sau đây:
- Một, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp cho nước đầu tư sử dụng có hiệu
quả nguồn lực “dư thừa” tương đối trong nước, nâng cao tỷ suất đầu tư, khai thác có
hiệu quả lợi thế của quốc gia. Khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, các quốc gia này
sẽ đem các nguồn lực có lợi thế của mình để tiến hành đầu tư và có thể sẽ thu được
lợi nhuận lớn hơn khi tiến hành đầu tư trong nước, bởi trong môi trường mới, nguồn



21

lực mà nhà đầu tư đem đi đầu tư sẽ được khai thác, sử dụng có hiệu quả hơn, các
nguồn lực được khai thác tối đa.
- Hai, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp cho nước đầu tư tìm kiếm và tận
dụng được các nguồn lực ở nước ngoài một cách có hiệu quả hơn ở trong nước, xây
dựng được thị trường cung cấp đầu vào ổn định với giá cả hợp lý. Nguồn lực và khả
năng khai thác các nguồn lực này tại mỗi quốc gia khác nhau là khác nhau. Do vậy,
mới dẫn đến tình trạng là có những nơi “thừa” tương đối và “thiếu” tương đối các
nguồn lực. Khi tiến hành sản xuất kinh doanh, mỗi nhà quản lý đều phải luôn tìm
cách tối thiểu chi phí và tối đa lợi nhuận nên họ cố gắng sử dụng các nguồn lực sao
cho có hiệu quả nhất và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một giải pháp.
- Ba, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp mở rộng thị trường xuất khẩu. Đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài là một cách để thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
Thâm nhập thị trường theo cách này sẽ giúp người tiêu dùng nước sở tại làm quen
với sản phẩm của nước đầu tư do vậy góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu cho
sản phẩm, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Bốn, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các nhà đầu tư tránh được hàng rào
thương mại. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng thuế quan, hạn ngạch và
các hình thức phi thuế quan khác để kiểm soát việc xuất nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ. Thông thường chính phủ của các nước kiểm soát thương mại quốc tế nhằm
mục đích tăng thu ngân sách, bảo hộ các ngành công nghiệp và thực hiện các mục
tiêu chính sách kinh tế của mình. Ngoài thuế quan và hạn ngạch, chi phí vận tải
cũng là một bộ phận cấu thành hàng rào thương mại. Các loại sản phẩm như khoáng
sản, xi măng, vật liệu xây dựng có hàm lượng giá trị tương đối thấp lại cồng kềnh
nên chi phí vận chuyển chúng đã thực sự làm giảm lợi nhuận biên của nhà sản xuất
và là trở ngại thực sự cho việc xuất khẩu. Trong các trường hợp như vậy, các nhà
sản xuất thay vì xuất khẩu hàng hóa, họ xuất khẩu tư bản hay đầu tư trực tiếp nước

ngoài để giảm chi phí và tránh được hàng rào bảo hộ thương mại của các nước.
- Năm, thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ giúp cho các nhà đầu tư
kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, đổi mới công nghệ thông qua việc di chuyển
công nghệ cũ, đã hao mòn về vô hình sang các nước nhận đầu tư.


22

- Sáu, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp nước đầu tư có thể nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, qua đó nâng cao được năng lực quản lý thông qua việc học
tập kinh nghiệm quản lý kinh tế tiên tiến và chuyên nghiệp.
- Bảy, bối cảnh nền kinh tế hiện nay là các quốc gia vừa hợp tác vừa cạnh
tranh. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thể hiện rất rõ thực trạng này. Khi
các quốc gia tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, mỗi quốc gia đảm nhiệm một vai
trò mà mình có thế mạnh và để tận dụng được tối đa lợi thế của các nước thì họ liên
kết lại. Và, trong quá trình phát triển, các quốc gia cũng cạnh tranh với nhau để sao
cho nước mình thu được nhiều lợi ích nhất.

1.2.5. Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.2.5.1. Từ nước nhận đầu tư
- Thuận lợi: FDI có thể đóng vai trò tích cực cho nước sở tại bằng cách cung
cấp vốn, nguồn lực và đặc biệt là công nghệ mà quốc gia không sẵn có. Như ta biết
công nghệ có thể kích thích tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa. Công nghệ có
thể thực hiện theo hai hình thức và cả hai đều có giá trị, nó có thể kết hợp với quy
trình sản xuất hoặc có thể kết hợp trong sản phẩm. Tuy nhiên, nhiều quốc gia thiếu
nguồn nghiên cứu và kỹ năng để phát triển những sản phẩm bản xứ của chính họ và
xử lý công nghệ. Điều này là sự thật đối với các quốc gia đang phát triển. Những
quốc gia như vậy phụ thuộc vào quốc gia công nghiệp hiện đại đối với những công
nghệ yêu cầu kích thích tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, kỹ năng quản lý nước ngoài
mang đến thông qua FDI có thể cung cấp các lợi ích quan trọng cho nước nhận đầu

tư. Tác động quay vòng lợi ích xuất hiện khi nhân viên bản địa được huấn luyện kỹ
năng quản lý và duy trì kỹ thuật trong công ty con của MNC. Lợi ích tương tự cũng
có thể gia tăng nếu kỹ năng của ban quản trị cấp cao của MNC nước ngoài khuyến
khích nhà cung cấp phân phối và đối thủ địa phương cạnh tranh để cải thiện năng
lực quản lý của họ. Tỷ lệ phần trăm quản lý và lao động cấp cao cho công dân nước
sở tại có thể được thương lượng giữa MNC mong muốn thực hiện FDI và nước sở
tại. Trong những năm gần đây, hầu hết các MNC đã đáp ứng áp lực của chính phủ
nước sở tại bằng sự đồng ý giữ lại một tỷ lệ lớn quản lý lao động kỹ thuật cao cho
công dân của nước sở tại. Ảnh hưởng có lợi của FDI còn là mang đến việc làm cho


23

nước sở tại mà các loại hình khác không làm được. Ảnh hưởng trực tiếp xuất hiện
khi MNC nước ngoài trực tiếp thuê công dân của nước sở tại. Tác động gián tiếp
tăng khi việc làm được tạo ra cho các nhà cung cấp địa phương là kết quả của đầu
tư vì có sự gia tăng trong chi tiêu ở kinh tế địa phương từ nhân viên của MNC. Tác
động đến tài khoản thanh toán của quốc gia cũng là chính sách quan trọng cho hầu
hết các quốc gia nhận đầu tư. Thông thường thì chính phủ luôn mong muốn tài
khoản vãng lai thặng dư; vì vậy, cách duy nhất mà tài khoản vãng lai thâm hụt có
thể được bù đắp dài hạn là bán tài sản cho người nước ngoài. Điều này có vẻ không
được chờ đợi lắm. FDI có thể giúp quốc gia đạt được điều này, đầu tiên nếu FDI
thay thế nhập khẩu và dịch vụ, nó cải thiện tình trạng tài khoản vãng lai của một
quốc gia sở tại; thứ hai, MNC sử dụng tài trợ nước ngoài để xuất khẩu sản phẩm và
dịch vụ đến nước khác.
- Bất lợi: Tác động ngược lên cạnh tranh đôi khi chính phủ nước sở tại lo
lắng vì sự hoạt động của các cơ sở nước ngoài của MNC ở quốc gia của họ có tiềm
lực cạnh tranh hơn các công ty bản xứ, bởi họ là một phần của các tập đoàn đa quốc
gia. Như vậy công ty có thể rút quỹ từ nơi này đến nơi khác để tài trợ chi phí cho thị
trường nước sở tại, có thể sẽ làm triệt tiêu các doanh nghiệp bản xứ và hình thành

các công ty độc quyền nước ngoài. Điều này hoàn toàn có hại cho kinh tế quốc gia.
Tác động bất lợi có thể của FDI lên cán cân thanh toán của nước chủ nhà hai lần.
Thứ nhất, so sánh với vốn thu hút FDI ban đầu phải là thu nhập chuyển ra sau này
khi cơ sở nước ngoài chuyển thu nhập về cho công ty mẹ. Những khoản tiền chuyển
như vậy được xem như là khoản nợ trên tài khoản vãng lai. Thứ hai, là khi các công
ty nước ngoài nhập khẩu một số nguyên liệu từ nước ngoài cũng tạo ra khoản nợ
trên tài khoản vãng lai. Về chủ quyền quốc gia và tự trị, nhiều chính phủ sở tại lo
ngại FDI dẫn đến sự phụ thuộc kinh tế. Yếu tố quyết định có thể ảnh hưởng đến
kinh tế nước sở tại sẽ được tạo ra bởi các công ty mẹ nước ngoài mà không có sự
cam kết thực sự với nước sở tại và vượt quá sự kiểm soát của nước sở tại.

1.2.5.2. Từ nước đầu tư
- Thuận lợi: Những tác động tích cực của FDI đến từ 3 nguồn: (1) Tài khoản
vãng lai của nước nhận đầu tư sẽ có lợi từ các khoản thu nhập đến từ nước ngoài;


24

(2) Lợi ích cho nước đầu tư vốn FDI ra tăng từ tác động việc làm. Cũng như với cán
cân thanh toán tác động tích cực của FDI tăng lên khi cơ sở nước ngoài tạo nhu cầu
cho xuất khẩu trang thiết bị sản phẩm trung gian và sản phẩm thay thế; và (3) Lợi
ích tăng lên khi MNC của nước đầu tư học hỏi kỹ năng có giá trị từ nước nhận đầu
tư và chuyển ngược về nước.
- Bất lợi: Nhìn chung các nước đầu tư cũng có những thiệt hại của mình. Vấn
đề quan trọng nhất xoay quanh vấn đề cán cân thanh toán và việc làm do đầu tư ra
nước ngoài. Vị thế thương mại của quốc gia đầu tư có thể giảm sút nếu mục đích
của FDI là để phục vụ cho nước nhà từ thị trường sản xuất có chi phí thấp. Tài
khoản cán cân có thể bị lệch nếu đầu tư trực tiếp thay thế cho xuất khẩu trực tiếp.
Thứ hai là những quan tâm đặc biệt về việc làm tăng khi FDI thay thế sản xuất trong
nước. Nếu thị trường lao động ở quốc gia đầu tư rất hẹp, điều này không là vấn đề

lớn. Tuy nhiên nếu quốc gia đầu tư bị thiệt hại từ thất nghiệp thì quan tâm về xuất
khẩu công việc có thể gia tăng trong tương lai.

1.2.6. Cơ sở cho đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong điều kiện hội nhập
kinh tế toàn cầu
Đa số các nước đang phát triển - trong đó có Việt Nam - đang tiến hành xây
dựng nền kinh tế thị trường với mục tiêu hướng vào xuất khẩu. Trong quá trình vận
động kinh tế thị trường bản thân nó cũng đã bộc lộ khá nhiều những nhân tố không
hoàn hảo, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Sự
tồn tại của các yếu tố này có thể tác động lên toàn bộ hay riêng lẻ từng ngành, từng
lĩnh vực trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia. Có thể thấy sự khác biệt về
tính không hoàn hảo giữa các thị trường khác nhau, giữa các quốc gia khác nhau.
Chính vì vậy, ngay trong nội tại các nước đang phát triển, các doanh nghiệp gánh
chịu sự tác động của tính không hoàn hảo của thị trường sẽ tìm cách chuyển hướng
đầu tư sang thị trường hoàn hảo hơn và ít bị tác động hơn.

1.2.6.1. Hàng rào thương mại
Những quy định thương mại tự do được ký kết song phương hay đa phương
giữa các quốc gia đang phát triển với các thị trường lớn đã tạo điều kiện cho các sản

×