Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.14 KB, 28 trang )

Chủ đề:
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
Lời mở đầu
Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là xu hướng
tất yếu của các nước trên thế giới. Đó không chỉ là đặc quyền của các nước có nền kinh tế
phát triển mà ngay cả đối với các nước có nền kinh tế đang và kém phát triển thì dòng đầu
tư ra cũng đã phát triển một cách mạnh mẽ. Sự tham gia của các nước đang phát triển làm
phong phú, đa dang thêm môi trường hoạt động đầu tư quốc tế. Việt Nam không nằm ngoài
xu thế chung đó, trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển, không chỉ đầu tư sang các nước đang và
kém phát triển như Lào, Campuchia, Malaysia, Mozambique… mà còn đầu tư sang các
quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Anh, Pháp… Hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài giúp doanh nghiệp khai thác được những lợi thế cạnh tranh cũng như có thể
vượt qua các rào cản thương mại của nước nhận đầu tư để có thể mở rộng thị trường sản
xuất, tạo điều kiện thu được nhiều hiệu quả hơn từ hoạt động sản xuất kinh doạnh..
Trong phạm vi đề tài môn học này, em xin tìm hiểu tình hình hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua, cũng như chỉ ra
những giải pháp để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mang lại tối đa lợi ích cho doanh nghiệp
cũng như cho Việt Nam.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
(ĐTTTRNN)
1. Khái niệm đầu tư nước ngoài, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ĐTTTRNN)
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó
người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc
tế hoá và phân công lao động quốc tế.
- 1 -
Theo hiệp hội luật quốc tế (1966) : “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước
của chủ đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh
hoặc dịch vụ”.
Cũng có quan điểm cho rằng “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của


người đầu tư sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng hoá tiêu dùng
của nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam là việc các doanh
nghiệp Việt Nam đưa vốn ra nước ngoài để trực tiếp đầu tư quản lý hoạt động sản xuất kinh
doanh với mong muốn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, hoặc dịch vụ và thu được lợi
nhuận cao hơn so với trong nước.
2. Sự cần thiết của hoạt động ĐTTTRNN
2.1 Tính tất yếu của ĐTTTRNN của các nước đang phát trển
- Như chúng ta đã biết đầu tư ra nước ngoài cần có rất nhiều điều kiện, từ phía bản
thân doanh nghiệp như vấn đề tài chính có đủ mạnh để đầu tư ra không, công nghệ, thiết bị,
trình độ chuyên môn, quản lý, tay nghề của người lao động có đủ đáp ứng yêu cầu sản xuất
kinh doanh tại một thị trường mới không, cũng như giá thành, chất lượng sản phẩm có đáp
ứng được thị hiếu của khách hàng hay không, có đủ sức cạnh tranh với những sản phẩm
tuơng tự và những sản hẩm có tính chất thay thế hay không… Rồi cơ chế chính sách của
Nhà nước có khuyến khích, hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước ngoài hay không nước nhận
đầu tư có tạo điều kiện cho hoật động đầu tư của doanh nghiệp hay không? Các quốc gia
đang phát triển xuất phát điểm thấp, tuy nhiên trong những năm gần đây tình hình đã có
nhiều sự chuyển biến đáng kể, kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc, những điều
kiện cho việc triển khai hoạt động đầu tư trực tiếp tại nước ngoài đã có, và do đó đầu tư ra
nước ngoài là xu hướng tất yếu mà các nước đang phát triển đang hướng tới.
- Sự phát triển của các quốc gia không đồng đều. Mỗi quốc gia có lợi thế riêng, điểm
mạnh riêng mang tính đặc trưng kể cả các quốc gia phát triển hay các quốc gia đang phát
triển khác.
Mặc dầu không có được những lợi thế về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật như các
nước phát triển, tuy nhiên các nước đang phát triển vẫn có những lợi thế riêng, điểm mạnh
riêng, mang tính đặc trưng cần được khai thác. Bên cạnh đó, gần đây các quốc gia đang
- 2 -
phát triển đã có những điều kiện cần thiết để học hỏi các quốc gia phát triển trong lĩnh vực
đầu tư, từ đó thực hiện đầu tư sang các nước kém phát triển hơn, đồng thời cũng có đủ điều
kiện để khai thác thế mạnh của mình ở các quốc gia khác, thậm chí là cả ở quốc phát triển

hàng đầu thế giới. Trên nền tảng những thế mạnh sẵn có của mình, có thể nói thế mạnh cơ
bản mà các quốc gia phát triển có là vốn đầu tư lớn, cũng như trình độ KHCN hiện đại,
phát triển ở mức cao, còn điểm mạnh mà các quốc gia đang phát triển có thể phát huy ở các
quốc gia phát triển là môi trường kinh doanh của các nước này rộng lớn, khiến cho nhiều
lĩnh vực đầu tư còn bị bỏ ngỏ, hoặc chi phí để thực hiện một số lĩnh vực đầu tư đối với họ
còn tương đối cao so với các quốc gia đang phát triển khi các quốc gia này trực tiếp thực
hiện chúng.
2.2 Lợi ích từ ĐTTTRNN của các nước đang phát triển
- Giúp các DN san sẻ rủi ro trong đầu tư và kinh doanh. Khi thực hiện hoạt động đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài thì doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội mới để sản xuất kinh
doanh, đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, từ đó nhà đầu tư có thể san sẻ
rủi ro cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Giúp các DN vượt qua hàng rào bảo hộ thương mại của các nước nhận đầu tư do
đó tiếp cận với thị trường 1 cách ngắn nhất và mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm
hàng hoá, hoặc dịch vụ. Như chúng ta đã biết, các chính sách xuất - nhập khẩu có ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Thông thường để bảo vệ thị
trường sản xuất trong nước, nhà nước sẽ hạn chế nhập khẩu để hang trong nước giảm phải
cạnh tranh với hàng nước ngoài. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập hiện nay thì hàng rào bảo
hộ thương mại sẽ dần dần được dỡ bỏ, sẽ có sự bình đẳng cạnh tranh giữa hàng ngoại nhập
và hàng trong nước. Nhưng các nước ngày càng sử dụng nhiều biện pháp tinh vi hơn để đối
phó với sự xâm nhập của hàng ngoại nhập bằng các biện pháp như: đặt ra tiêu chuẩn kỹ
thuật cho hàng ngoại nhập như kích thước sản phẩm , khối lượng sản phẩm .. phải đạt bao
nhiêu, sản phẩm có ảnh hưởng đến môi trường hay không, ngoài ra còn đặt ra các điều luật
quy định có lợi cho hàng hoá trong nước như thuế chống bán phá giá…. Do đó con đường
xuất khẩu hàng hoá của các nước khác sẽ ngày càng khó khăn. Trong điều kiện đó thì đầu
tư trực tiếp nước ngoài được xem như là gải pháp tối ưu được các nhà đầu tư lựa chọn,
không chỉ vượt qua được hàng rào bảo hộ của nước đó, tiếp cận thị trường một cách trực
- 3 -
tiếp, mà còn được hưởng những điều kiện ưu đãi trong sản xuất kinh doanh của nước nhận
đầu tư giành cho các nhà đầu tư. Nên sẽ có nhiều cơ hội phát triển sản xuất kinh doanh mở

rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, làm tăng thị phần, và tăng doanh thu, do đó có được lợi
nhuận cao hơn.
3. Các hình thức ĐTTTRNN của các DN ở các nước đang phát triển
3.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đây là hình thức mà 2 hay nhiều bên hợp tác kinh doanh với nhau trên cơ sở hợp đồng
hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết giữa 2 bên hoặc nhiều
bên để tiến hành hoạt động đầu tư tại nước sở tại, trong đó quy định trách nhiệm và phân
chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên.
Hình thức này mang những đặc điểm như: Không thành lập pháp nhân mới, hoạt động
dựa trên văn bản kí kết giữa các bên, khi hết thời hạn hiệu lực thì các bên không còn ràng
buộc về mặt pháp lý.
Ở Việt Nam hình thức này chiếm khoảng 6,7% số dự án và 10,3 % số vốn nước ngoài
đầu tư vào trong thời gian qua. Hình thức này thường áp dụng trong lĩnh vực thăm dò và
khai thác dầu khí, dịch vụ bưu chính viễn thông...
3.2. Doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do 1 hoặc nhiều chủ đầu tư
nước ngoài góp chung vốn với doanh nghiệp nước sở tại trên cơ sở hợp đồng hợp tác liên
doanh.
Hình thức này mang những đặc điểm như: Thành lập doanh nghiệp có tư cách pháp
nhân mới. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro
theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Tuỳ theo qui định của mỗi nước mà mức góp có thể là góp
vốn tối đa, hoặc là vốn tối thiểu vào vốn pháp định của chủ đầu tư nước ngoài.Quy định tối
đa nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc và do nước sở tại không ở trong tình trạng
thiếu vốn, còn quy định tối thiểu nhằm mục đích thu hút càng nhiều vốn càng tốt. Theo quy
định của Việt Nam, mức vốn góp tối thiểu của chủ đầu tư nước ngoài là 30% vốn pháp
định của doanh nghiệp liên doanh. Ở Việt Nam hình thức liên doanh chiếm 49,1% số dự án
và 66,1% số vốn đầu tư vào trong thời gian qua.
3.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
- 4 -
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư

toàn bộ vốn để thành lập.
Hình thức này mang những đặc điểm như: Chủ đầu tư nước ngoài có quyền điều hành
toàn bộ doanh nghiệp theo quy định của pháp luật nước sở tại. Doanh nghiệp hoàn toàn
thuộc quyền sở hữu của tổ chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập,
quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là
một pháp nhân của nước nhận đầu tư. Ở Việt Nam loại hình doanh nghiệp này chiếm
45,2% số dự án và 23,65 số vốn đầu tư vào trong thời gian qua.
3.4. Hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh - chuyển giao (BOT)
Là văn bản kí kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của nước sở tại với nhà đầu tư
nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất
định. Hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn hoặc bồi hoàn với
một giá tượng trưng công trình đó cho nước sở tại. Chính phủ nước sở tại cùng với nhà đầu
tư nước ngoài khai thác công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và đảm
bảo có lãi.
3.5. Hình thức hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT).
Đây là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước sở tại và nhà đầu tư nước ngoài về
việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài
sẽ chuyển giao cho nước sở tại. Chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước
ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Mỗi hình thức đều có ưu và nhược điểm riêng. Tuy nhiên để tận dụng được vốn đầu
tư từ nước ngoài thì Việt Nam áp dụng cùng một lúc nhiều hình thức đầu tư khác nhau. Với
Việt Nam cần khuyến khích hình thức liên doanh vì loại hình này đem lại chho Việt Nam
kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến đồng thời cho phép chúng ta tham gia điều
hành doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng vẫn khuyến khích loại hình BOT, để nhằm nâng cao
cơ sở hạ tầng của Việt Nam.
4. Các loại hình DN thực hiện ĐTTTRNN chủ yếu
4.1. Các tập đoàn lớn, các công ty xuyên quốc gia (TNCs) của các nước đang
phát triển
- 5 -
Các TNCs này tuy hầu hết mới thành lập nhưng với khả năng về vốn lớn, trình độ

khoa học, kỹ thuật và công nghệ cao, có lực lượng lao động có trình độ cao, mạng lưới sản
xuất và kinh doanh trải rộng trên địa bàn nhiều quốc gia nên hoàn toàn có thể cạnh tranh
bình đẳng với các TNCs của các nước phát triển trong đầu tư tại nước ngoài trên nhiều lĩnh
vực. Các TNCs này có thể thực hiện đầu tư vào những dự án lớn những lĩnh vực đầu tư đòi
hỏi nhiều thời gian đầu tư và thu hồi vốn lâu dài, những lĩnh vực có rủi ro cao nhưng lại
mang đến lợi nhuận lớn, những lĩnh vực có sự cạnh tranh quyết liệt của các TNCs khác.
Đặc biệt là trong những lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, khai thác dầu khí, điện, nước, tài
chính, ngân hàng, vật liệu mới…Địa bàn đầu tư của các TNCs này rất rộng lớn, bao gồm
những lĩnh vực khác nhau trong thị trường các nước đang phát triển và cả trong thị trường
các nước phát triển. Hình thức đầu tư cũng rất phong phú có thể bao gồm cả hình thức đầu
tư xây dựng mới, đầu tư mở rộng, nâng cấp các doanh nghiệp có sẵn ở nước ngoài. Có thể
dưới hình thức mua lại các doanh nghiệp, có thể dưới hình thức sát nhập các TNCs khác
hay các doanh nghiệp lớn ở nước ngoài, hoặc đầu tư dưới hình thức cho thuê tài chính các
tài sản, thiết bị công nghệ, hoặc mở chi nhánh hay mở văn phòng đại diện ở nước ngoài…
Do mạng lưới rất rộng lớn, mục tiêu đầu tư của các TNCs này có thể chú trọng vào khai
thác thế mạnh của các quốc gia nhận đầu tư về nguồn nguyên vật liệu, về lao động rẻ, thị
trường tiêu thụ rộng lớn, hay vị trí địa lý và ảnh hưởng của các quốc gia đó với nền kinh tế
khu vực và nền kinh tế thế giới.
4.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước đang phát triển.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ này với đặc tính là có vốn đầu tư nhỏ, khả năng thích ứng
cao với biến động của môi trường, có thể tiến hành thử nghiệm và áp dụng một cách nhanh
chóng các tiến bộ của KHCN mới, và đặc biệt là có thể sản xuất những mặt hàng độc đáo,
những sản phẩm truyền thống, đáp ứng những đơn đặt hàng mang tính chất nhóm nhỏ nên
loại hình doanh nghiệp này cũng có những thế mạnh đầu tư ra nước ngoài, thậm chí vào thị
trường các nước đã phát triển.
Loại hình doanh nghiệp này mang nhiều những ưu điểm của đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài đó là tìm được mặt hàng độc đáo, những lĩnh vực mà nhà đầu tư các nước và các
TNCs không chú ý tới bởi số lượng tiêu thụ không lớn, khó sản xuất hàng loạt, hay những
lĩnh vực đòi hỏi những bí quyết kinh doanh và công nghệ đặc biệt.
- 6 -

Trong điều kiện xu thế tiêu dùng và đặt hàng đơn lẻ sản phẩm và ý thức tiêu dùng gắn
với môi trường và bảo vệ môi trường ở các nước công nghiệp phát triển ngày càng tăng cao
thì vị thế và vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đầu tư ra nước ngoài cũng được
mở rộng, không chỉ ở các nước đang phát triển và chậm phát triển mà còn thực hiện ở các
nước đã phát triển. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ là những doanh nghiệp sản
xuất các bán thành phẩm, linh kiện, phụ kiện cung cấp cho các TNCs mà còn là những đơn
vị kinh doanh những mặt hàng độc lập, độc đáo, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của thị
trường tiêu dùng thế giới và có khả năng mang lại lợi nhuận trong đầu tư lớn hơn nhiều so
với hiệu quả đầu tư của các TNCs lớn.
5. Những điều kiện cần thiết để các DN tiến hành hoạt động ĐTTTRNN
5.1. Về phía doanh nghiệp
Khi thực hiện bất kỳ một hoạt động đầu tư nào, nhà đầu tư đều mong muốn thu được
một kết quả kinh doanh tốt nhất, cũng như vậy khi tham gia vào hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài thì nhà đầu tư cần phải xét xem hoạt động đầu tư của mình có thể mang lại
hiệu quả hay không, có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện môi trường kinh doanh mới
hay không, có thể khai thác được những lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp một cách có
lợi nhất nhằm thu được lợi nhuận cao nhất hay không. Như vậy, nhà đầu tư sẽ xem xét xem
doanh nghiệp có đáp ứng đủ những yêu cầu cần thiết sau hay không:
- Trước hết các doanh nghiệp cần có tiềm lực tài chính mạnh:
Như chúng ta đã biết, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thực chất là 1 quá trình di chuyển
vốn từ nước đầu tư tới nước nhận đầu tư. Vốn đầu tư bao gồm các nguồn lực tài chính và
nguồn lực hiện vật để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, xây dựng thêm nhà máy
mới, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.. Vốn là một yếu tố không thể thiếu
đối với bất kì một hoạt động đầu tư nào. Do đó muốn cạnh tranh trên thị trường thì các
doanh nghiệp phải đủ mạnh, nghĩa là phải có một nguồn vốn dồi dào, có đủ năng lực thực
hiện các hoạt động đầu tư nhằm thu được lợi nhuận.
- Các doanh nghiệp cần có KHCN có thể cạnh tranh trên thị trường nước nhận đầu tư
hoặc có bí quyết riêng trong sản xuất sản phẩm.
Cạnh tranh là 1 tất yếu trên thị trường, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện
chủ yếu ở hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh ở hiện tại cũng như trong tương lai,

- 7 -
các sản phẩm của doanh nghiệp tạo ra có khả năng cạnh tranh cao, được người tiêu dùng
chấp nhận và bảo đảm được thị trường tiêu thụ, doanh nghiệp được tổ chức hợp lý, năng
động, áp dụng công nghệ tiên tiến, có đội ngũ cán bộ và công nhân có trình độ chuyên môn
cao, có khả năng tiếp cận với các nguồn vốn cho việc đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu.
Để có thể thắng được đối thủ cạnh trạnh thì việc áp dụng nhiều phương pháp quản lý mới
nhằm rút gọn bộ máy, tái cấu trúc quá trình kinh doanh, giảm chi phí,.. nâng cao hiệu quả
hoạt động là cần thiết để xoá bỏ những bất lợi. Tuy nhiên những cải thiện đó chỉ giúp cho
các doanh nghiệp tồn tại trong cạnh tranh mà chưa đảm bảo chiến thắng trong cạnh tranh.
Muốn có thể đánh bại được đối thủ trong cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải tạo ra được
lợi thế cạnh tranh cho mình và luôn thay đổi để tạo ra thị trường chứ không chỉ tìm cách
nâng cao thị phần, vượt qua những bất lợi. Bấtkỳ một doanh nghiệp nào cũng đều có khả
năng cạnh tranh, chỉ khác nhau là ở mức độ mạnh hay yếu. Theo quy luật tất yếu của thị
trường thì doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh mạnh hơn thì doanh nghiệp đó sẽ
chiến thắng không những ở thị trường trong nước mà cả ở ngoài nước. Năng lực cạnh tranh
mạnh mẽ bảo đảm cho doanh nghiệp có thể tồn tại và chiến thắng ở nơi mà doanh nghiệp
tiến hành đầu tư sản xuất. Như vậy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp chính là điều
kiện cần thiết cho doanh nghiệp tiến hành đầu tư ở bất cứ đâu. Đối với các doanh nghiệp
đến từ các nước đang phát triển, với xuất phát điểm thấp, thiếu vốn, thiếu trình độ tổ chức
quản lý, công nghệ chưa cao,… thì cần có một chiến lược cạnh tranh hợp lý, tạo ra nội lực
từ trong chính doanh nghiệp, như vậy mới có thể tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, trình độ KHCN không cao nên khi
thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài một cách trực tiếp thì việc sản xuất các sản phẩm
truyền thống, các sản phẩm sử dụng bí quyết riêng trong sản xuất là một giải pháp phù hợp
và mang lại hiệu quả cao. Như vậy do đặc điểm riêng có đó mà sản phẩm sẽ có tính cạnh
tranh cao và dễ được chấp nhận trên thị trường bởi vì đó là những sản phẩm mang đậm nét
truyền thống của dân tộc, lạ và độc đáo.
- Doanh nghiệp cần có nguồn nhân lực đủ năng lực quản lý, sản xuất kinh doanh, đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của sản xuất kinh doanh.
Trong bất kỳ một hoạt động đầu tư nào, nhà đầu tư cũng đều mong muốn có một kết

quả kinh doanh tốt nhất. Và để có thể hoạt động đầu tư có hiệu quả thì nhân tố con người
- 8 -
luôn đựoc đánh giá rất quan trọng. Điều đó được thể hiện ở các yếu tố như trình độ chuyên
môn, trình độ tổ chức quản lý, …Trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay thì hoạt động
đầu tư nước ngoài cũng từng bước đi vào chiều sâu trong cơ chế thị trường luôn nhiều biến
động. Vì vậy cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ tiếp nhận và hướng dẫn đầu tư có trình
độ năng lực sâu sát để phân tích tình hình, lựa chọn đối tác đầu tư đúng như mục tiêu đề ra.
Đặc bịêt điều quan trọng nhất trong đội ngũ lao động của doanh nghiệp là những nhà quản
lý và điều hành phải có trình độ hiểu biết, trước hết là ở lĩnh vực mà mình đang kinh doanh,
biết khai thác triệt để mọi nguồn lực trong doanh nghiệp và tận dụng mọi cơ hội đầu tư…
Bên cạnh đó đội ngũ công nhân viên làm việc cho doanh nghiệp cũng phải có trình độ kỹ
thuật cao, tác phong làm việc công nghiệp… các thành viên trong doanh nghiệp phải biết
đoàn kết đưa doanh nghiệp trở thành một lực lượng vững mạnh trên thị trường. Mặt khác
do sự khác biệt về ngôn ngữ, khác biệt về văn hoá, tập quán, luật pháp mà các doanh
nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài phải nhận thức được sâu sắc về nhiều mặt, tính độc lập
cao. Và kỹ năng xử lý các tình huống, nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực.
Trước khi đầu tư ra nước ngoài các doanh nghiệp cần phải xem xét kỹ trình độ của công
nhân viên rồi mới tiến hành hoạt động đưa họ ra nước ngoài, làm sao để họ có thể thích
ứng được với môi trường làm việc mới. Có như vậy thì hoạt động sản xuất kinh doanh mới
có thể thành công, đem lại hiệu quả.
5.2. Về phía nhà nước
- Tăng cường hoạt động thúc đẩy, hỗ trợ đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhà nước
bằng các biện pháp như ban hành các quy chế khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp thực hiện đầu tư ra nước ngoài.
- Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới về mọi mặt để tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện đầu tư ra nước ngoài một cách thuận lợi hơn
bằng việc ký kết các hiệp ước, các thoả thuận , cam kết về hợp tác kinh tế giữa các nước.
Như Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ..
Chương II. THỰC TRẠNG ĐTTTRNN CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
- 9 -

1. Những cơ hội và thách thức đối với DN VN trong hoạt động ĐTTTRNN
1.1. Sự kiện:
- Việc gia nhập WTO
Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành chính thức thứ 150 của tổ chức
WTO qua 11 năm và hơn 200 cuộc đàm phán. Dù lâu nhất, nhiều nhất trong các đàm phán
giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế, nhưng chúng ta vẫn kiên trì cho mục đích gia nhập
tổ chức thương mại này. Bởi đây thực sự là sân chơi lớn mang tính toàn cầu. Sau khi gia
nhập, Việt Nam sẽ tăng vị thế của mình trên trường quốc tế; có điều kiện chủ động tham
gia chính sách thương mại toàn cầu; đồng thời tập trung xây dựng, điều chỉnh hệ thống luật
pháp minh bạch, phù hợp xu thế chung, thu hút các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước...
Việt Nam đang phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Gia nhập WTO, chúng ta sẽ được bình đẳng tham gia thị trường toàn cầu để phát
triển kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư và hàng hóa, dịch vụ sẽ không bị phân biệt đối xử,
sẽ dỡ bỏ được nhiều rào cản và được hưởng những ưu đãi dành cho thành viên WTO. Như
vậy cơ hội đầu tư ra nước ngoài sẽ được mở rộng cửa đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
- Kí kết hiệp định thương mại song phương với Mỹ
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực vào ngày
10/12/2001, đã bình thường hóa quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Hiệp định đã mở ra thị trường Hoa Kỳ khổng lồ cho các nhà xuất khẩu Việt Nam trên cơ sở
cạnh tranh bình đẳng với các nước khác. Các cam kết toàn diện trong hiệp định sẽ không
những thức đẩy thươg mại 2 chiều giữa 2 nước mà còn tăng thêm tính hấp dẫn của môi
trường đầu tư tại Việt Nam đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ và các nước khác.
1.2. Những cơ hội:
Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội lựa chọn địa chỉ đầu tư thích hợp, từ đó nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn.
Trong bối cảnh xu hướng tự do hoá đầu tư đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay các quốc
gia trên thế giới hầu hết đều thực thi những biện pháp khuyến khích nhằm kêu gọi vốn đầu
tư từ bên ngoài. Điều kiện đó đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn bằng việc đầu tư vào những nơi có khả năng mang lại tỷ suất lợi
- 10 -

nhuận cao. Điểm đến của đầu tư không bị bó hẹp trong khuôn khổ địa lý một quốc gia mà
được mở rộng ra các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới .
- Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ.
Hoạt động thương mại là một trong những bước cơ bản đầu tiên trong lộ trình xâm nhập
thị trường nước ngoài, nhưng để thực sự tồn tại lâu dài tại thị trường các nước trên thế giới,
doanh nghiệp nhất thiết phải thành lập các chi nhánh ở nước ngoài thông qua các hình thức
như doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn. Đây chính là kinh nghiệm thành
công và lớn mạnh của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới.
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các sản phẩm của
Việt Nam bước đầu nhận được sự đánh giá khá cao của người tiêu dùng nước ngoài.
Nhưng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, cùng với việc các quốc
gia đặc biệt là các nước phát triển thường sủ dụng những biện pháp thương mại rất tinh vi
để hạn chế khả nâng xâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước họ, thì đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài trở thành hoạt động kinh tế hữu ích giúp cho các doanh nghiệp mở
rộng thị trường tiêu thụ, tạo thế vững chắc và bổ sung cho sự phát triển của các chi nhánh
và công ty mẹ ở trong nước.
- Doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện khai thác các nguồn lực sản xuất của nước
ngoài để từ đó phát huy được lợi thế so sánh của nước mình.
Thực tế cho thấy rằng, mỗi quốc gia đều có những nguồn lực sản xuất nhất định và
tổng nguồn lực là hữu hạn. Đây chính là một nguyên nhân cơ bản khiến cho doanh nghiệp
của quốc gia tìm kiếm cơ hội đầu tư ở quốc gia khác nhằm khai thác nguồn lực của nước
đó để phát triển. Đồng thời cùng với quá trình khai thác là việc phát huy thế mạnh của mỗi
doanh nghiệp. Những lợi thế sẽ không đem lại lơị nhuận một khi chúng không được triển
khai trong thực tiễn.
- Các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với các thị trường quốc tế
về vốn, máy móc thiết bị, KHCN, từ đó có điều kiện tiếp thu công nghệ mới, hiện đại hơn,
có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến,
nâng cao trình độ tổ chức, quản lý sản xuất, nâng cao hiểu biết về luật pháp và ý thức chấp
- 11 -

×