Mục lục
Mở Đầu
Chương I : Cơ Sở Pháp Lý Hợp ĐồngXuất Nhập
Khẩu Tại Việt Nam .
I. Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu Tại Việt Nam.
II. Hợp Đồng Xuất Nhập Khẩu.
III. Hợp Đồng Xuất Nhập Khẩu Theo Quy Định Của Công Ước
Viên và Pháp Luật Việt Nam.
IV. Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu.
Chương II : Thực Tiễn Ký Kết Và Thực Hiện Hợp Đồng Nhập Khẩu
Thiễt Bị Tại Công Ty gạch ốp Lát Hà Nội.
I. Khái Quát Về Công Ty Gạch ốp Lát Hà Nội.
II. Thực Tiễn Ký Kết Thực Hiện Tại Công Ty Gạch ốp Lát Hà
Nội.
ChươngIII : Đánh giá KIến Nghị Góp Phần Nâng Cao Hiệu Quả Của
Việc Ký Kết Và THực Hiện Hợp Đồng NHập Thiết Bị Tậi Công Ty
gạch ốp Lát Hà Nội.
I. Đánh Giá Về Pháp Luật Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu của
Việt Nam.
II. Đánh Giá Về Hoạt Động Ký Kết Thực Hiện Hợp Đồng
Nhập Khẩu Thiết Bị Tại Công Ty Gạch Ốp Lát Hà Nội
III. Kiến Nghị Đối Với Việc Ký Kết Và Thực Hiện Hợp Đồng
Nhập Khẩu Tại Việt Nam. .
LỜI NÓI ĐẦU
Trang 1
Kể từ khi Đảng và nhà nước thực hiện chủ trương chính sách xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, mở cửa nền kinh tế, đẩy
mạnh quan hệ thương mại với các nước. Nền kinh tế nước ta đã có chuyển biến tích
cực, vượt qua những khó khăn, thử thách để ổn định và tạo đà cho sự phát triển mọi
mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Cùng với trào lưu phát triển của đất nước, công ty gạch ốp lát Hà Nội trong
những năm qua đã đạt được những kết quả đáng kể. Với ngành nghề đăng kí kinh
doanh là sản xuất gạch ốp và lát nền tráng men cao cấp, công ty đã cung cấp cho thị
trường những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã và hìng thức phù hợp với thị
hiếu của người tiêu dùng. Sản phẩm của công ty đã và đang đứng vững trên thị
trường trong nước cũng như quốc tế. Để có được kết quả đó , hoạt động nhập khẩu
thiết bị, nhập khẩu dây chuyền sản xuất gạch men hiện đại góp phần không nhỏ.
Trong quá trình nhập khẩu thiết bị cũng như các hoạt động mua bán ngoại thương
khác, công ty gạch ốp lát Hà Nội đều phải tiến hành đàm phán, kí kết và thực hiện
hợp đồng. Đó là một khía cạnh pháp lí quan trọng của hoạt độnh xuất nhập khẩu.
Xuất phát từ thực tế trên, sau một thời gian thực tập tại công ty gạch ốp lát
Hà Nội, qua tìm hiểu, nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nói
chung và lĩnh vực nhập khẩu thiết bị nói riêng, nhằm góp phầnlàm rõ thực tiễn kí kết
và thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị, em chọn đề tài :
‘‘ Cơ sở pháp lý và thực tiễn kí kết, thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết
bị tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội ’’.
Với mục đích của đề tài là :
Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định pháp lý của việc kí kết và
thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu nói chung và hợp đồng nhập khẩu thiết bị nói
riêng.
Tìm hiểu thực tiễn kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu thiết bị tại công ty
Gạch ốp lát Hà Nội.
Trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn thực hiện hợp đồng tại doanh nghiệp để rút
ra những kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của việc kí kết và thực hiện hợp
đồng nhập khẩu thiết bị tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội.
Trang 2
Đối tượng nghiên cứu của đề tài :
Đó là những vấn đề pháp lý cơ bản trong việc đàm phán, kí kết và thực hiện
hợp đồng xuất nhập khẩu nói chung, hợp đồng nhập khẩu thiết bị tại công ty Gạch
ốp lát Hà Nội nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu :
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu biện chứng và lịch sử, gắn lí luận với
thực tiễn đặc biệt là phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Hợp Toàn, thầy Nguyễn Hữu Mạnh,
các thầy cô giáo trong bộ môn Luật, trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội
cùng các cán bộ phòng kế hoạch sản xuất, phòng hành chính – Công ty Gạch ốp lát
Hà Nội đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành đề tài này.
Trang 3
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ PHÁP LÝ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI
VIỆT NAM
I-Hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam:
Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động buôn bán của một quốc gia này với
các quốc gia khác, là việc trao đổi dưới hình thức mua bán hàng hoá và dịch vụ kèm
theo như bảo hành, sửa chữa, lắp ráp máy móc thiết bị. Hoạt động xuất nhập khẩu
tạo ra sự lưu thông hàng hoá giữa thị; bảo hiểm hàng hoá, thanh toán quốc tế, vận
chuyển hàng hoá trường trong nước với thị trường nước ngoài, là cầu nối giữa thị
trường các nước với nhau .
Với Việt Nam, nhiệm vụ của xuất nhập khẩu là góp phần thực hiện đường lối
,xây dựng nền kinh tế theo đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.Sự phát
triển của quan hệ này trong những năm qua đã thúc đấỵ phát triển của đất nước, cải
thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối
ngoại khác của đất nước như dịch vụ tín dụng quốc tế, thông tin liên lạc, bảo
hiểmvà đặc biệt có liên quan tới sự mở rộng hợp tác quốc tế về sản xuất khoa học
công nghệ .
1. Hoạt động xuất nhập khẩu trước 1986.
Năm 1975 nước ta hoàn toàn giải phóng , cả nước bước vào công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Được sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nhgiã cùng nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân chúng ta đã khắc phục được hậu quả
chiến tranh và nền kinh tế dần dần đựơc phục hồi. Trong những năm đó hoạt động
xuất nhập khẩu thu được kết quả như sau:
Trang 4
Bảng 1: Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1975-
1985.
Đơn vị : Triệu Rup-USD
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Chênh lệch
1975 129,7 784,0 -654,3
1976 222,7 1024,0 -801,3
1977 322,5 1119 -796,5
1978 326,9 1165 -838,1
1979 320,5 1364 -1043,5
1980 336,0 1234 -898,0
1981 401,2 1382,2 -981,0
1982 526,6 1472,2 -945,6
1983 616,5 1526,7 910,2
1984 649,6 1745,0 -1095,4
1985 698,5 1857,4 -1158,9
trong thời kỳ này kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng song nhập siêu vẫn
lớn. Hội nghị lần VI Ban chấp hành trung ương Đảng (khoáIV) 9/79 đã nhận định về
tình hình xuất nhập khẩu như sau: ”Hàng xuất khẩu ít chưa cân đối được phần nhập
nguyên vật liệu thiết bị cho bản thân công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng công
nghiệp địa phương”. Vì vậy, trong giai đoạn từ 1975-1985 Đảng và nhà nước đưa ra
chủ trương :Đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu để bảo đảm nhập đủ nguyên vật liệu
và thiết bị cần thiết cho công nghiệp hàng tiêu dùng ,công nghiệp địa phương, bảo
đảm một phần nhu cầu nhập khẩu cho nền kinh tế .
Với chủ trương đó từ 1981-1985 kim ngạch xuất nhậo khẩu đã tăng lên đáng
kể nhưng nhập siêu vẫn lớn. Từ 1983-1985 nước ta tiến hành mở rộng hợp tác hợp
doanh, gia công xuất khẩu với nước ngoài ,phát triển du lịch, vận tải đường biển
cùng các dịch vụ khác có liên quan để tăng nguồn thu ngoại tệ. Trung ương tiến
hành quản lý ngoại hối, chính sách hối đoái và vận tải xuất nhập khẩu .
Từ 1975-1985 tuy hoạt động xuất nhập khẩu đã được chú trọng ,Đảng và Nhà
nước có những chủ trương chính sách nâng cao hiệu quả kinh tế từ hoạt động xuất
Trang 5
nhập khẩu nhưng kết quả thực sự chưa cao. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên
nhân như Việt Nam mới giải phóng bạn hàng chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa,
cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn tới sự trì trệ trong sản xuất các
ngành hàng xuất khẩu chưa đáp ứng được yêu cầu của các nước nhập khẩu, việc
nhập khẩu chủ yếu từ các nước xã hội chủ nghĩa dưới hình thức nửa hỗ trợ nửa bán
nên hiệu qủa của việc nhập khẩu chưa cao,các chính sách về xuất nhập khẩu còn
nhiều mặt chưa hợp lý.
2.Hoạt động xuất nhập khẩu từ 1986- 2000:
Sau đại hội lần thứ VI tháng 12/1986 của Đảng, cùng với sự chuyển đổi cơ
chế từ tập trug quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường là chính sách mở cửa nền
kinh tế để hội nhập với nền kinh tế thế giới . Chính sách đó đã tạo nên bộ mặt mới
cho nền kinh tế Việt Nam, tạo ra những chuyển biến tích cực trong mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh. Vì vậy, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô sụp đổ
nhưng các hoạt động kinh tế đối ngoại đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu của ta
vẫn được giữ vững.
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là :Mở rộng đa dạng hoá đa phương hoá
thị trường. Hoạt động theo phương thức mở cửa, từng bước gắn kết nền kinh tế Việt
Nam với nền kinh tế thế giới, thị trường trong nước với thị trường nước ngoài trên
nguyên tắc bảo đảm độc lập chủ quyền dân tộc an ninh quốc gia, bảo đảm đôi bên
cùng có lợi, phát huy lợi thế so sánh từng nước từng địa phương từng khu vực.
Với các doanh nghiệp được mở rộng quyền tiếp xúc với thế giới bên ngoài,
được tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu phù hợp với đăng ký kinh doanh. Xoá
bỏ cơ chế tập trung bao cấp vầ chuyển hoạt động thương mại quốc tế sang hạch
toán độc lập ,Nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập khẩu ở tầm vĩ mô với chính
sách thống nhất từ trung ương đến địa phương
Chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thị trường được
mở rộng sang các nước như Nhật Bản, Hồng Kông, các nước Châu Âu, ASEAN,
với nhiều bạn hàng mới. Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu Đạt được như sau:
Trang 6
Bảng 2 : kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam Giai đoạn 1990-
1998.
Đơn vị :Triệu USD
Năm Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Chênh
lệch
1990 2402 2752,4 -350.4
1995 5300 7500 -2200
1998 9356 11390 -2034
Xuất khẩu đã tăng lên rất nhiều so với những năm 1975-1985 nhưng thực sự chưa
cao. Các hàng xuất khẩu của ta chủ yếu là :
- Hàng công nghiệp nặng ,khoáng sản .
- Hàng nông lâm thuỷ sản .
- Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp.
Nguyên nhân chính của sự hạn chế trong xuất khẩu là chất lượng hàng xuất
khẩu thấp và không ổn định, thiếu sức cạnh tranh do hàm lượng khoa học thấp.
Hàng của ta chưa có chỗ đứng trên thị trường thế giới, xuất khẩu thường phải qua
trung gian nên gặp rất nhiều khó khăn. Để tăng kim ngạch xuất khẩu trong thời gian
tới ta cần thay đổi cơ cấu hàng xuất, nâng cao chất lượng hàng hoá đáp ứng đòi hỏi
của thị trường thế giới.
Nhập khẩu đã tăng cả về qui mô và nhịp độ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu
của nền kinh tế,chưa bảo đảm mục tiêu kinh kế xã hội đặc biệt là nhu cầu về máy
móc thiết bị. Hàng nhập khẩu bao gồm:
Hàng tiêu dùng chiếm 15%
- Tư liệu sản xuất chiếm 85% trong đó :
- Nguyên nhiên vật liệu chiếm 40-45%
- Thiết bị toàn bộ 25%.
- Phương tiện vận tải,dịch vụ phụ tùng và máy lẻ 10-20%.
Nhập khẩu tư liệu sản xuất góp phần tác động tích cực đến việc phát triển sản
xuất trong nước. Tuy nhiên khâu nhập khẩu cũng còn những tồn tại như nhập khẩu
Trang 7
còn mất cân đối ,có nhiều lãng phí, máy móc nhập về chưa baỏ đảm nguyên tắc
nhập thiết bị hiện đại, sản phẩm tạo ra chưa có sức cạnh tranh ở ngay thị trường
trong nước. Để không rơi vào tình trạng tụt hậu kỹ thuật so với các nước trong khu
vực và nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu Nhà nước cần đưa ra những qui
định pháp lý để quản lý hoạt động này .
3. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu:
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó
không phải là một hoạt động buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống mua bán phức
tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất
hàng hoá phát triển. Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển lâu dài mà
thiếu sự phát triển của hoạt động này. Đối với Việt Nam thì hoạt động này có tầm
quan trọng chiến lược phục vụ cho quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Hoạt động nhập khẩu tác động trực tiếp và quyết định đến quá trình sản xuất
và đời sống nhân dân. Nhập khẩu tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho
sản xuất, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá
hiện đại hoá,hắc phục những mặt mất cân đối của nền kinh tế, khai thác tối đa tiềm
năng của đất nước, bảo đảm sản xuất ổn định, tạo công ăn việc làm cho nền kinh
tế ,cải thiện nâng ca đời sống nhân dân. Nhập khẩu góp phần nâng cao chất lượng
sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Xuất khẩu có vai trò tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu ,cùng hoạt động
nhập khẩu tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng đối ngoại, tạo công ăn
việc làm và cải thiện đời sống nhân dân .Hoạt động xuất khẩu là cơ sở để mở rộng,
thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta .
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên hoạt động xuất nhập khẩu cũng dễ đem
lại những hậu quả nguy hại lớn nếu ta không biết khống chế quản lý tốt. Nhập khẩu
nếu tràn lan sẽ bóp chết những ngành sản xuất trong nước, biến nước ta thành bãi
thải công nghiệp. Khi nhập khẩu những máy móc lạc hậu của nước ngoài, gây lãng
phí nguồn ngoại tệ còn đang khan hiếm. Xuất khẩu nếu không kiểm soát sẽ tạo ra
Trang 8
tình trạng khai thác làm cạn kiệt tài nguyên, thất thu ngoại tệ, mất cân đối giữa các
ngành sản xuất.
II- Hợp đồng xuất nhập khẩu :
1. Khái niệm ,đặc điểm hợp đồng xuất nhập
a,Khái niệm:
Trong thời đại ngày nay mua bán giữa các quốc gia trở thành trở thành mục tiêu
hàng đầu trong bang giao quốc tế. Đây là một tất yếu khách quan do sự phát triển
không đồng đều giữa các quốc gia. Cơ sở pháp lý của quan hệ mua bán này là hợp
đồng xuất nhập khẩu. Hợp đồng xuất nhập khẩu trước hết là hợp đồng mua bán nói
chung nên nó mang những đặc tính của hợp đồng mua bán. Ngoài ra hợp đồng này
còn có những đặc tính riêng của nó .
Thuật ngữ ” hợp đồng mua bán “ được hiểu là sự thoả thuận về việc chuyển
quyền sở hữu đối với hàng hoá từ người bán sang người mua và người mua thực
hiện nghĩa vụ đã cam kết với người bán. Thuật ngữ này giúp chúng ta phân biệt hợp
đồng mua bán với các loại hợp đồng khác như hợp đồng cho thuê, hợp đồng vận
tải ,hợp đồng bảo hiểm. Trong các hợp đồng đó không có sự chuyển quyền sở hữu
hàng hoá mà chỉ có sự chuyển quyền sử dụng các hàng hoá, dịch vụ trong hợp đồng
Các yếu tố cơ bản để lập nên hợp đồng một cách hợp lệ là:
Hợp đồng được hình thành trên cơ sở thoả thuận của các bên. Thoả thuận này có
thể bằng miệng hoặc văn bản. Hợp đồng lập nên không trên cơ sở thoả thuận sẽ
không có hiệu lực .
Chủ thể của hợp đồng phải là người có năng lực ký kết hợp đồng. Người có
năng lực ký kết hợp đồng do pháp luật qui định. Theo qui định của pháp luật Việt
Nam.
Đối tượng hàng hoá trong hợp đồng phải là đối tượng xác thực .Điều này có
nghĩa là đối tượng đố phải được chỉ định rõ rệt, có thể thực hiện được và hợp pháp.
Xét về khía cạnh pháp lý, hợp đồng mua bán là một loại hợp đồng song vụ, hợp
đồng ước hẹn, hợp đồng dịch chuyển quỳên sở hữu .
Trang 9
Ngoài những đặc trưng chung của hợp đồng mua bán như trên hợp đồng xuất
nhập khẩu còn có đặc tính riêng là có yếu tố nước ngoài .
Yếu tố nước ngoài của hợp đồng xuất nhập khẩu được xác định trên cơ sở chủ
thể ký kết hợp đồng, đối tượng của hợp đồng hoặc có thể kết hợp cả chủ thể và đối
tượng của hợp đồng. Điều này tuỳ thuộc vào quan điểm luật pháp của từng nước .
Theo quan điểm của các nước có nền kinh tế thị trường: yếu tố nước ngoài là
cơ sở kinh doanh của người bán, người mua ở các nước khác nhau. Quốc tịch không
phải là cơ sở phân biệt yếu tố nước ngoài của hợp đồng xuất nhập khẩu vì:
Khi người bán ,người mua thực hiện hành vi mua bán trên một quốc gia thì họ
phải tuân thủ mọi qui định luật pháp của quốc gia đó dù cho họ có cùng hoặc khác
quốc tịch và như vậy hợp đồng không mang tính quốc tế .
Khi cá nhân ,tổ chức nước ngoài thành lập một pháp nhân trên lãnh thổ của một
quốc gia nào bắt buộc họ phải tuân theo pháp luật của quốc gia đó và hợp đồng mà
họ ký kết với cá nhân tổ chức khác trên quốc gia đó không có yếu tố nước ngoài.
Theo công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế những bất động sản hữu hình
tại điều 1 có qui định như sau:”Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng
mua bán hàng hoá trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở những nước khác,
hàng hoá được di chuyển từ nước này sang nước khác hoặc việc trao đổi ý chí ký kết
hợp đồng giữa các bên ký kết được thiết lập ở các nước khác nhau .
Yếu tố nước ngoài sẽ được xác lập căn cứ vào cả hai yếu tố là chủ thể ký kết
hợp đồng và đối tượng của hợp đồng. Về chủ thể ký kết hợp đồng là các bên có trụ
sở thương mại ở các nước khác nhau. Về đối tượng là hàng hoá có sự chuyển dịch
từ nước này sang nước khác hoặc có thể dựa vào chào hàng và chấp nhận chào
hàng được thiết lập ở các nước khác nhau .
Theo công ước viên 1980 của liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế tại điều 1có qui định: “ áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hoá
được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại đặt tại những nước khác nhau ”.
Tính chất quốc tế ở đây chỉ là các bên có trụ sở thương mại đặt tại những nước
khác nhau, vấn đề quốc tịch không được xét tới khi xác địng tính chất quốc tế này.
Quan điểm trên rất đơn giản, rõ ràng khi xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng
xuất nhập khẩu. Hơn nữa nó loại trừ khó khăn do sự khác biệt giữa các quan điểm
Trang 10
trong luật pháp mỗi quốc gia, giảm bớt trở ngại khi thiết lập hợp đồng. Hiện nay mọi
quốc gia đều mong muốn thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế nên rất cần và
đang cố gắng đi tới thống nhất một quan điểm chung về chế định pháp luật điều
chỉnh các quan hệ đó tạo ra thuận lợi và nâng cao hiệu quả hoạt động này.
Công ước Viên cho đến nay đã có trên 50 quốc gia ký kết, tham gia hoặc tuyên
bố thừa nhận. Điều này thể hiện tính thông dụng hiệu quả của công ước Viên trong
việc ký kết, thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu.
Theo quan điểm của Việt Nam:
Khái niệm hợp đồng xuất nhập khẩu có những thay đổi nhất định theo từng thời
kỳ, tuỳ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ đó.
Trong qui chế tạm thời của Bộ thương mại số 4794/TN-XNK ngày 31/07/1991
qui định điều kiện để một hợp đồng mua bán là hợp đồng xuất nhập khẩu khi hội tụ
đủ những điều kiện sau :
- Chủ thể của hợp đồng là những bên có quốc tịch khác nhau
- Hàng hoá được di chhuyển từ nước này sang nước khác .
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng phải là ngoại tệ đối với một hoặc hai bên
ký kết.
Quan điểm trên đã được thừa nhận trong thực tiễn hoạt động xuất nhập khẩu
của Việt Nam trước khi ban hànhLuật thương mại. Qua thực tiễn áp dụng quan điểm
trên tồn tại những bất hợp lý không phù hợp với thương mại quốc tế hiện nay. Điều
này được thể hiện qua những điểm sau
Thứ nhất: trong phạm vi nước ta có rất nhiều cá nhân tổ chức đến Việt Nam và
tiến hành kinh doanh hình thức như doanh nghiệp liên doanh, công ty có100%vốn
nước ngoài, các hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong những trường hợp đó mặc dù
không có quốc tịch Việt Nam song mọi hoạt động của họ hoàn toàn phải tuân thủ
theo qui định của pháp luật Việt Nam; cá nhân, pháp nhân khác ở Việt Nam kí kết
hợp đồng với các chủ thể trên thì hợp đồng đó chỉ có thể là hợp đồng kinh tế hoặc
hợp đồng dân sự chứ không thể là hợp đồng xuất nhập khẩu .
Thứ hai: việc hàng hoá chuyển qua biên giới cũng chỉ là tương đối. Không
phải mọi hợp đồng xuất nhập khẩu đều có hàng hoá chuyển dịch từ nước này sang
nước khác như khi cá nhân, pháp nhân ở Việt Nam mua hàng từ khu chế xuất .Mặc
Trang 11
dù hàng đó không chuyển qua biên giới song trong qui định khu của khu chế xuất
thì đó là hợp đồng xuất nhập khẩu.
Trong phạm vi quốc gia, qui định trên đã tồn tại những điểm không phù hợp.
Để khắc phục những điểm không phù hợp trong qui chế đó Quốc Hội ban hành Luật
thương mại Việt Nam (10/5/1997). Tại điều 80-Luật thương mại qui định: ”Hợp
đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hoá
được ký kết gữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước
ngoài “.
b/.Đặc điểm:
Từ những khái nệm trên hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mâng những đặc
điểm sau :
+ Chủ thể hợp đồng là các thương nhân có quốc tịch khác nhau và có trụ sở
thương mại ở những nước khác nhau .
+ Hàng hoá (đối tượng của hợp đồng ) được dịch chuyển từ nước này sang
nước khác hoặc chào hàng và chấp nhận chào hàng được thiết lập ở các nước khác
nhau.
+ Nội dung của hợp đồng bao gồm quyền và nghĩa vụ mỗi bên phát sinh từ
việc chuyển quyền sở hữu hàng hoá từ người bán sang người mua ở các nước khác
nhau.
+ Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng phải là ngoại tệ đối với ít nhất một bên
trong quan hệ hợp đồng .
2- Vai trò của hợp đồng xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường
Trong thời đại ngày nay việc mua bán giữa các quốc gia trở thành mục tiêu
hàng đầu trong quan hệ quốc tế. Hợp đồng xuất nhập khẩu là công cụ pháp lý trung
tâm để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, bảo đảm cho hoạt
động xuất nhập khẩu được thực hiện. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại hợp đồng
xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với các doanh nghiệp các cơ
quan nhà nước mà còn quan trọng đối với cả nền kinh tế.
a. Vai trò của hợp đồng xuất nhập khẩu với các doanh nghiệp:
Trang 12
Với doanh nghiệp, hợp đồng xuất nhập khẩu là cơ sở để kiểm tra và thực hiẹn
kế hoạch xuất nhập khẩu của đơn vị.
Trước năm 1986 mọi hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh tế đều được
thực hiện theo kế hoạch do nhà nước đặt ra. Kế hoạch này không xuất phát từ thực
tế của từng doanh nghiệp nên việc lấy hợp đồng xuất nhập khẩu làm cơ sở để thực
hiện và kiểm tra kế hoạch nhập khẩu của đợn vị chỉ là hình thức.
Trong cơ chế kinh tế hiện nay, mọi cá nhân tổ chức được quyền cgủ động trong
sản xuất kinh doanh và được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp. Hàng năm, trên cơ sở
thực tế của đơn vị mình các doanh nghiệp lập ra kế hoạch xuất nhập khẩu trongnăm
và kế hoạch này được thực hiện thông qua các hợp đồng xuất nhập khẩu đã ký kết.
Vì vậy, hợp đồng xuất nhập khẩu là cơ sở để thực hiện và kiểm tra kế hoạch xuất
nhập khẩu từng doanh nghiệp.
b. Vai trò của hợp đồng xuất nhập khẩu đối với cơ quan Nhà nước quản lý hoạt
động xuất nhập khẩu:
Trong cơ chế quản lý kinh tế mới, Nhà nước trao quyền tự chủ kinh doanh cho
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp này được phép
xuất nhập khẩu hàng hoá theo đúng ngành nghề đã đăng ký trong giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh. Các doang nghiệp tự do xác lập hợp đồng xuất nhập khẩu trong
khuân khổ pháp luật. Nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập khẩu ở tầm vĩ mô,
không can thiệp vào hoạt động cụ thể của từng đơn vị kinh tế. Để kiểm tra hoạt động
xuất nhập khẩu, các cơ quan quản lý chỉ cần quản lý chặt chẽ các hợp đồng nhập
khẩu thực hiện trong năm. Hàng năm Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục về
hàng xuất nhập khẩu, hàng xuất nhập khẩu có hạn nghạch, có giấy phép; trên cở sở
đó Bộ thương mại trực tiếpcấp giấy phép hàngxuất nhập khẩu trực tiếp cho doanh
nghiệp. Thông qua việc thực hiện hợp đồng, Tổng cục hải quan tổng hợp số liệu
cung cấp do Bộ thượng mại và các cơ quan quản lý để theo dõi và quản lý. Như vậy,
hợp đồng xuất nhập khẩu trở thành công cụ để Nhà nước quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu trong nền kinh tế. Với biện pháp quản lý đó các cơ quan quản lý vẫn
Trang 13
kiểm tra theo dõi chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu của từng doanh nghiệp và vẫn
bảo đảm quyền tự chủ của các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
c. Đối với nền kinh tế:
Hoạt động xuất nhập khẩu có tầm quan trọng chiến lược phục vụ cho quá trình
phát triển nền kinh tế quốc gia, là cầu nối giữa thị trường trong nước với thị trường
quốc tế. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tham
gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, khai thác có hiệu quả tiềm năng của
đất nước. Các hoạt động này được thực hiện thông qua các hợp đồng xuất nhập
khẩu. Để thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu lại phụ thuộc vào khả năng của nền
kinh tế như việc cung cấp nguồn hàng cho xuất khẩu, tiêu thụ hàng cho nhập khẩu,
các tổ chức liên quan tạo điều kiện cho hợp đồng được thực hiện như hệ thống ngân
hàng, bảo hiểm, vận chuyển, các cơ quan tài phán chứ không chỉ phụ thuộc vào
bản thân mỗi doanh nghiệp. Như vậy quan hệ giữa hợp đồng xuất nhập khẩu với nền
kinh tế là mối quan hệ giữa bộ phận với tổng thể có tác động qua lại lẫn nhau để
cùng phát triển. Việc thực hiện hợp đồng sẽ mang lại lợi ích không chỉ cho các bên
tham gia thực hiện hợp đồng mà còn mang lại lợi ích chung cho nền kinh tế. Khi có
ngày càng nhiều những hợp đồng xuất nhập khẩu được thực hiện thì hệ thống các cơ
quan dịch vụ trong nền kinh tế cũng phát triển theo như ngân hàng, các tổ chức tín
dụng, tổ chức giám định hàng hoá, bảo hiểm
Hợp đồng xuất nhập khẩu đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích các bên với lợi ích
chung của nền kinh tế.
3.Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng:
Hoạt động xuất nhập khẩu không phải là một hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả
một hệ thống mua bán phức tạp. Các bên khi ký kết hợp đồng khó có thể dự liệu
được mọi trường hợp xảy ra trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Để bổ
sung cho những trường hợp đó các bên phải lựa chọn nguồn luật áp dụng cho hợp
đồng. Nguồn luật này đặc biệt quan trọng khi xảy ra mẫu thuẫn tranh chấp trong quá
trìng thực hiện hợp đồng, nó làm cơ sở để cơ quan tài phán giải quyết các tranh chấp
đó. Khi lựa chọn nguồn luật các bên ký kết hợp đồng phải tìm hiểu, nghiên cứu để
lựa chọn nguồn luật phù hợp nhất với hoạt động của mình.
Trang 14
Theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế trong hoạt động mua bán quốc tế
các bên được tự do thoả thuận , lựa chọn nguồn luật điều chỉnh hợp đồng. Nguồn
luật đó có thể là điều ước quốc tế , tập quán thương mại quốc tế, luật quốc gia và các
tiền lệ pháp trong thương mại.
a. Điều ước quốc tế:
Điều ước quốc tế là một danh từ chung chỉ các văn kiện pháp lý ghi nhận sự
thoả thuận giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế và các chủ thể khác của luật quốc
tế. Có rất nhiều điều ước quốc tế để điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau trong quan hệ
quốc tế. Khi ký kết hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu các bên có thể lựa
chọn điều ước quốc tế trong lĩnh vực thương mại quốc tế có lên quan đến hoạt động
sản xuất kinh doanh để làm nguồn luật điều chỉnh cho hợp đồng đó. Có thể chia
điều ước thương mại quốc tế làm hai loại sau:
Thứ nhất: Điều ước quy định những nguyên tắc chung mang tímh chỉ đạo dối
với hành vi thương mại như hiệp định của GATT/WTO quy định về quy chế tối huệ
quốc, quy chế đãi ngộ quốc gia
Thứ hai: là các điều ước quốc tế quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các
bên trong quan hệ thương mại quốc tế. Điển hình cho loại điều ước này là Công ước
Viên 1980 của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Trong công
ước quy định thủ tục ký kết quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng, trách
nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Các điều ước
thương mại quốc tế được áp dụng cho hoạt động của thương nhan một quốc gia nếu
Chính Phủ quốc gia đó đã tham gia ký kết phê chuẩn hoặc dẫn chiếu tới điều ước đó.
Điều ước quốc tế chưa được quốc giá ký kết công nhận thì các bên cũng có thể lựa
chọn bằng cách dẫn chiếu trực tiếp vào hợp đồng của mình.
Theo pháp luật Việt Nam tại điều 11.6 Pháp lệnh ký kết và thực hiện điều ước
quốc tế của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ngày 17/10/1989) và điều 51
luật phá sản doanh nghiệp (ngày 30/12/1993) có 2 phương thức áp dụng điều
ướcthương mại quốc tế như sau:
Thứ nhất: Đối với điều ước quốc tế về thương mại mà Nhà nước ta đã tham
gia ký kết, phê chuẩn thì áp dụng điều ước quốc tế.
Trang 15
Thứ hai: Đối với các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta chưa tham gia hoặc
chưa công nhận thì các bên chỉ có thể áp dụng các điều khoản không trái với pháp
luật Việt Nam và có quyền bảo lưu không áp dụng những quy định nào trái với pháp
luật Việt Nam.
Trong xu thế thương mại quốc tế hiện nay các quốc gia đều có xu hướng chọn
những điều ước quốc tế làm luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán quốc tế của
mình để tạo ra một sự hiểu biết thống nhất và giải quyết hiệu quả các vấn đề phát
sinh trong hợp đồng, tiết kiệm thời gian chi phí và bảo đảm quyền lợi ích của các
bên tham gia.
Nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới nên rất cần tham
gia vào các điều ước quốc tế lớn như Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hoá
quốc tế để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của ta với
thương nhân nước ngoài.
b. Tập quán thương mại quốc tế:
Tập quán thương mại quốc tế là một trong những nguồn luật để điều chỉnh hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Tập quán thương mại quốc tế là những thói quen
thương mại phổ biến được áp dụng thường xuyên trên phạm vi toàn cầu hoặc từng
địa phương.
Tập quán thương mại quốc tế được chia làm ba nhóm sau:
+Các tập quán có tính nguyên tắc: Đó là tập quán cơ bản, bao trùm được hình
thành trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, bình đẳng giữa các dân
tộc. Ví dụ như tập quán ”luật quốc tịch “quy định pháp nhân thuộc quốc tịch nước
nào thì địa vị pháp lý của pháp nhân do luật nước đó quy định.
+ Các tập quán thương mại quốc tế: Đó là các tập quán được nhiều nơi, nhiều
khu vực công nhận và áp dụng. Ví dụ như Incoterms, UCP.
+ Các tập quán thương mại khu vực (địa phương): Đó là các tập quán chỉ được
áp dụng ở từng nước từng địa phương và chúng có nhiều khác biệt.
Giống như điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế cũng chỉ được áp
dụng trong hợp đồng mua bán quốc tế khi các bên ký kết lựa chọn, các điều ước
quốc tế có liên quan quy định hoặc luật quốc gia không quy định, quy định không
Trang 16
đầy đủ các chế định cần thiết để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng thương mại quốc
tế.
Khi lựa chọn các tập quán thương mại quốc tế các bên ký kết hợp đồng phải
ghi rõ trong hợp đồng loai tập quán nào và giá trị pháp lý của tập quán đó. Trên thực
tế có quy định khác nhau về giá trị pháp lý của tập quán trong luật của các quốc gia.
ở các nước XHCN tập quán thương mại quốc tế trở thành nguồn luật áp dụng cho
hợp đồng khi tập quán được chỉ rõ thành nguồn luật điều chỉnh hợp đồng có ghi
trong văn kiện luật quốc gia hoặc được chọn cụ thể trong hợp đồng. Ơ các nước kinh
tế thị trường phát triển, tập quán thương mại quốc tế được coi là nguồn luật điều
chỉnh hợp đồng, khi giải quyết tranh chấp hợp đồng được áp dụng như một quy
phạm pháp luật.
Trong số những tập quán thương mại quốc tế thì Incoterms do phòng thương
mại quốc tế biên soạn và ban hành có vai trò quan trọng đối với thương mại quốc tế.
Incoterms là công cụ trợ giúp cho các thương nhân tiến hành các hoạt động thương
mại quốc tế. Khi sử dụng Incoterms cần chú ý những điểm sau:
Incoterms không có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể hợp đồng mua bán
quốc tế mà nó chỉ có giá trị bổ sung cho hợp đồng, nó chỉ được áp dụng khi có sự
lựa chọn cụ thể của các bên trong hợp đồng.
Incoterms từ khi ban hành đến nay đã sửa đổi nhiều lần, lần đầu tiên ban hành
năm 1936, các lần tiếp theo là năm 1953, 1967,1976,1980,1990.2000. Vĩ vậy khi lựa
chọn phải ghi rõ là theo Incoterms nào.
Incoterms không phải là cơ sở pháp lý điều chính mọi hoạt động mua bán hàng
hoá giữa các bên mà chỉ giải quyết bốn vấn đề sau:
- Xác định người mua cước phí chuyên chở
- Xác định người làm thủ tục hải quan
- Xác định người mua bảo hiểm
- Xác định thời điểm chuyển rủi ro từ người bán sang người mua
Khi sử dụng Incoterms các bên có quyền lựa chọn bất kỳ điều kiện giao hàng
nào trong Incoterms. Trong Incoterms các điều kiện thương mại cần được sử dụng ở
tất cả các ngành buôn bán và tất cả các vùng nên không thể quy định một cách chính
xác tất cả các nghĩa vụ của 2 bên. Vì vậy khi đàm phán ký kết hợp đồng các bên có
Trang 17
thể đưa ra những điều khoản thích hợp trong hợp đồng và điều khoản đó có giá trị
hơn mọi giải thích trong Incoterms.
2. Luật quốc gia:
Cộng đồng các nhà buôn bán quốc tế đã tạo ra đời sống pháp lý riêng biệt cho
công cuộc kinh doanh của họ với một quy chế biệp lập đã được hình thành và được
mọi người chấp nhận. Mặc dầu vậy, tính độc lập này không hoàn toàn vì mọi hoạt
động buôn bán đó còn liên quan tới lợi ích pháp lý và lợi ích kinh tế của mỗi quốc
gia, phải đảm bảo thực hiện đúng các chính sách kinh tế của Nhà nước Trong thực
tiễn thương mại quốc tế bên cạnh điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế,
luật quốc gia đóng vai trò quan trọng và trong nhiều trường hợp là nguồn luật điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng.
Luật quốc gia điều chỉnh hợp đồng có thể là luật của nước người bán, luật
nước ngươì mua, luật của nước thứ ba, luật nơi ký hợp đồng, luật quốc tịch, luật nơi
thự hiện hợp đồng Luật quốc gia chỉ trở thành nguồn luật áp dụng cho hợp đồng
khi: Các bên ký kết hợp đồng thoả thuận trong điều khoản luật áp dụng của hợp
đồng về việc chọn luật của một quốc gia cụ thể nào đó.
Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán quốc tế được quy định
trong điều ước quốc tế liên quan.
Việc lựa chọn luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là
một vấn đề phức tạp. Các bên ký kết khi lựa chọn luật quốc gia nào thì có sự nghiên
cứa, tìm hiểu kỹ để đảm bảo quyền lợi của mình tránh những thiệt thòi do thiếu hiểu
biết gây ra. KHi lựa chọn luật quốc gia phải ghi rõ trong hợp đồng để tránh tình
trạng khó xác định luật khi điều chỉnh quan hệ trong hợp đồng .
Nước ta đang trong quá trình hoàn chỉnh hệ thống luật. Các cơ quan quản lý
tiếp tục sửa đổi bổ sung và ban hành các văn bản pháp quy tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam. Một số văn bản liên quan đến hoạt
động xuất nhập khẩu như sau:
Hiến pháp 1992 là văn bản pháp lý cao nhất trong hệ thống luật quốc gia.
Trang 18
Bộ luật dân sự 1995 đây là bộ luật gốc trong pháp luật Việt NAm. Trong bộ
luật dân sự quy định năng lực pháp luật, năng lực hành vi của cá nhân, tư cách pháp
nhân của doanh nghiệp.
- Luật thương mại 1997
- Luật sửa đổi luật thuế xuất nhập khẩu 1998.
- Các văn bản dưới luật khác như:
Nghị định số 57/1998/NĐ - CP( 31/7/1998)quy định chi tiết thi hành luật
thương mại về họat động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với
nước ngoài.
Nghị định số 15/1999/NĐ - CP ( 27/3/1999) quy định về hải quan giám sát và
lệ phí hải quan.
Thông tư số 01/1999/TT-TCHQ (10/5/1999) hướng dẫn về thủ tục hải quan quy
định tại nghị định số 15/1999/NĐ - CP (27/3/1999)
d. Tiền lệ pháp (án lệ):
Tiền lệ pháp là các quy tắc pháp luật được hình thành từ thực tiễn xét xử của
toà án
Trong hoạt động mua bán quốc tế các nước ,theo hệ thống luật Anh Mỹ thừa
nhận tiền lệ pháp là một trong những nguồn luật để áp dụng cho hợp đồng.Ơ các
nước này ,thực tiễn tư pháp có vị trí quan trọng nên mỗi khi xẩy ra tranh chấp các
bên thường viện dẫn các bản án trước đây và coi như chuẩn mực để giải quyết các
tranh chấp tương tự
Ơ Việt Nam tiền lệ pháp không được thừa nhận là các nguồn luật điều chỉnh
hợp đồng. Tuy nhiên do thiếu một số qui phạm pháp luật trong các văn bản luật và
dưới luật việc xét xử tranh chấp về kinh tế thương mại thường dựa vào thông tư
hướng dẫn của toà án tối cao , làm cơ sở giải quyết tranh chấp.
Xu thế công nhận và sử dụng các phán quyết của toà án ,cũng như vai trò tích
cực của tiền lệ pháp trong thương mại quốc tế đang gia tăng tại các nước có hệ
thống luật khác nhau . Khi thực hiện giao dịch buôn bán với thương nhân nước
ngoài , các thương nhân Việt Nam cần nhận thức được vai trò của tiền lệ pháp ,
Trang 19
trong trường hợp cơ quan xét xử hoặc bên nước ngoài có thể vận dụng án lệ thì cần
phải tìm hiểu , xem xét và chấp nhận án lệ đó trên tinh thần pháp luật
III. Hợp đồng suất nhập khẩu theo quy định của Công ước viên 1980 và theo
pháp luật Việt Nam.
1. Nguyên tắc kí kết hợp đồng
Để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các bên tham gia hợp đồng, việc
kí kết hợp đồng xuất nhập khẩu phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện bình đẳng
về quyền và nghĩa vụ, cùng có lợi, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình và
không trái pháp luật. Hợp đồng được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Tự nguyện chính
là sự tự do thoả thuận dựa trên các ý kiến của các bên trong hợp đồng. Các bên có
quyền tự do lựa chọn thời điểm giao kết hợp đồng. Mọi sự tác động làm mất tính tự
nguyện của các bên trong quá trình đàm phán, kí kết như cưỡng bức, lừa đảo,áp đặt
ý chí của mình cho bạn hàng đều dẫn tới kết quả hợp đồng không phát sinh hiệu lực.
Quan hệ hợp đồng chỉ được thiết lập khi có sự bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ của mỗi bên. Trên cơ sở thoả thuận hai bên sẽ đi đến thống nhất về quyền và
nghĩa vụ của mình.
Hợp đồng xác lập khi hai bên cùng có lợi .Khi kí kết hợp đồng các bên phải
tự mình chịu trách nhiệm về tài sản, phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại,
Cũng như các loại hợp đồng khác,việc xác lập hợp đồng xuất nhập khẩu phải
phù hợp với qui định của pháp luật. Các nội dung trong hợp đồng không được vi
phạm điều cấm của pháp luật. Các bên không được lợi dụng quyền tự do ký kết hợp
đồng để thực hiện những hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho xã hội và các chủ
thể khác của nền kinh tế.
2. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu
a.Phương thức ký kết
Trong thương mại quốc tế hiện nay có 2 phương thức để ký kết hợp đồng xuất
nhập khẩu là phương pháp ký kết trực tiếp và phương pháp ký kết gián tiếp
Trang 20
+ Phương pháp ký kết trực tiếp là phương pháp hai bên trực tiếp gặp nhau để
trực tiếp đàm phán, thương lượng thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng
Trên thực tế phương pháp này được sử dụng khi các bên mới xác định quan
hệ bạn hàng với nhau, hoặc các hợp đồng có giá trị lớn và quá trình thực hiện phức
tạp.
+ Phương pháp kí kết gián tiếp hiện nay rất hay được sử dụng trong thương
mại quốc tế vì các bên có vị trí địa lý khác nhau và hiện nay khoa học phát triển các
phương tiện liên lạc đa dạng, phong phú ,có thể truyền tin nhanh và rất thuận tiện.
Theo phương thức này các bên sẽ gửi tài liệu giao dịch cho nhau theo hai bước
Bước 1: Một bên gửi chào hàng tới bên đối tác. Theo Công ước Viên chào
hàng “đề nghị về việc ký kết hợp đồng được gửi đích danh cho một hoặc một vài
người “, chào hàng đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hoá ,ấn định số lượng và giá cả
một cách trực tiếp, gián tiếp hoặc quy định thể thức xác định thể thức đó. Theo pháp
luật Việt Nam chào hàng phải đưa ra những điều khoản chủ yếu của hợp đồng.
Bước 2: Chấp nhận chào hàng.
Trong thời hạn đặt ra khi chào hàng, hợp đồng coi như đã ký kết kể từ thời
điểm chào hàng được chấp nhận .
Theo Công ước Viên “ một lời công bố hay một hành vi khác của người được
chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng cấu thành chấp nhận chào hàng”.
Theo luật Việt Nam bên được đề nghị trả lời bằng văn bản cho bên đề nghị
bằng một thông báo chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng.
Nếu chấp nhận chào hàng ngoài thời hạn đã nêu trong chào hàng thì chấp
nhận sẽ mất hiệu lực nếu như không có sự thông báo và khẳng định của người đề
nghị.
Như vậy các chủ thể khi tiến hành ký kết hợp đồng có thể sử dụng phương
pháp trực tiếp hoặc gián tiếp như trên.
b. Hình thức hợp đồng.
Hầu hết các nước theo hệ thống luật án lệ chấp nhận nguyên tắc tự do kí kết
hợp đồng .Một nguyên tắc được coi là căn bản trong luật hợp đồng. Theo nguyên tắc
này sự thoả hiệp ý trí của các đương sự đủ tạo hợp đồng, hình thức văn bản không
phải là một điều kiện tất yếu cho việc kết lập hợp đồng. Quan điểm này về phương
Trang 21
diện đạo đức phù hợp với chữ tín trong kinh doanh: đã cam kết thì phải tôn trọng ,
không thể từ chối thi hành bằng cách là viện lẽ sự cam kết đó không được lập thành
văn bản. Nhờ đó trên thực tế loại bỏ được các trường hợp hợp đồng vô hiệu về hình
thức
Trong thương mại quốc tế hiện nay đa số các hợp đồng mua bán đều lập thành
văn bản. Hình thức văn bản của hợp đồng là một yếu tố cần thiết vì nhịp độ thương
mại quốc tế buộc họ phải kí kết một cách nhanh chóng nhất nên có thể sử dụng qua
điện thoại, điện tín, Fax song sự nhanh chóng có nhược điểm không để lại dấu
tích, hơn nữa quan hệ thương mại quốc tế rất phức tạp, vượt ra ngoài phạm vi quốc
gia. Như vậy hình thức văn bản đảm bảo chắc chắn cho những thoả thuận trong hợp
đồng được thực hiện.
Theo Công ước Viên 1980 chấp nhận một giải pháp thoáng về hợp đồng. Hợp
đồng không cần phải thiết lập hoặc ghi nhận bằng văn bản và không bị chi phối bởi
một điều kiện hình thức nào khác. Nó có thể chứng minh bằng mọi cách kể cả nhân
chứng
Hình thức của hợp đồng có sự khác nhau theo quan điểm luật pháp của mỗi
quốc gia và nguồn luật điều chỉnh của hợp đồng. Tuy nhiên Việt Nam chưa tham gia
Công ước Viên 1980 vì vậy khi thương nhân Việt Nam thực hiện ký kết hợp đồng
mua bán hàng hoá với nước ngoài, cần phải tuân thủ theo pháp luật Việt Nam hợp
đồng phải lập thành văn bản.
c. Chủ thể của hợp đồng .
Chủ thể hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các thương nhân. Thương
nhân là các bên tham gia vào các quan hệ thương mại quốc tế để hưởng quyền và
thực hiện những nghĩa vụ nhất định.
Theo luật thương mại Pháp , thương nhân là những người thực hiện những
hành vi thương mại và đó là nghề nghiệp thường xuyêncủa họ .
Theo luật thương mại Hoa Kì thương nhân chủ thể tiến hành các hoạt động
thương mại.
Theo luật thương mại Việt Nam thì thương nhân có thể là các cá nhân, pháp
nhân,tổ hợp tác hộ gia đình có đăng kí kinh doanh hoạt động thương mại một cách
độc lập thường xuyên.
Trang 22
Trong thương mại quốc tế thương nhân gồm có hai nhóm chính là cá nhân và
các công ty thương mại.
+ Cá nhân muốn trở thành thương nhân phải thoả mãn những điều kiện nhất
định.
Mỗi nước có quy định khác nhau song điều kiện chung là cá nhân phải có
năng lực pháp luật, năng lực hành vi và thực hiện các giao dịch thương mại thường
xuyên.
Theo luật thương mại Việt Nam quy định cá nhân đủ 18 tuổi trở lên có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ và có yêu cầu hoạt động thương mại , đã được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh
+ Các công ty thương mại :
Các công ty thương mại là chủ thể quan trọng trong hoạt động thương mại .
Ơ các nước tư bản các công ty thương mại được chia làm hai nhóm công ty
đối nhân và công ty đối vốn .
Các công ty đối nhân có sự liên kết dựa trên sự tin cậy giữa các cá nhân thành
lập công ty và sự góp vốn là thứ yếu . Các công ty này không phải là pháp nhân .
Các công ty đối vốn được hình thành trên cơ sở góp vốn của các thành viên
Ơ Việt Nam có các loại hình doanh nghiệp cụ thể sau: Doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh
nghiệp liên doanh, công ty hợp danh Trong luật thương mại thương nhân là các
pháp nhân, nên không bao gồm công ty hợp danh. Trong nghị định 57/1998/NĐ-CP
của chính phủ ban hành 31/7/98 quy định Thương nhân là các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế được thành lập theo các quy định của pháp luật, được phép
xuất khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng kí trong giấy đăng kí kinh doanh thì
công ty hợp danh cũng có thể là thương nhân.
c. Đối tượng của hợp đồng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam đối tượng của hợp đồng là hàng hoá,
được phép mua bán theo pháp luật, nước bên mua và nước bên bán.
d. Những nội dung chủ yếu củ hợp đồng
+ Tên hàng: hàng hoá trong hợp đồng thương mại quốc tế rất đa dạng và ngôn
ngữ sử dụng ở mỗi nước khác nhau. Vì vậy trong thực tiễn kí kết hợp đồng phải đưa
Trang 23
ra điều khoản tên hàng một cách cụ thể .Tên hàng phải ghi rõ tên thông dụng, tên
thương mại và tên khoa học (nếucó )
+ Số lượng: cần ghi số lượng hàng hoá chính xác hoạc quy định số lượng
hàng hoá kèm theo độ dung sai .Trong thương mại quốc tế hệ hống đo lường rất
phức tạp, do đó cần ghi rõ đơn vị đo lường được hai bên lựa chọn
+ Phẩm chất: Tuỳ theo loại hàng mà các bên thoả thuận lựa chọn tiêu chuẩn
xác định phẩm chất hàng hoá, các tiêu chuẩn như Iso 9000 TCVN hợp đồng phải ghi
rõ tiêu chuẩn để quy định phẩm chất của hàng hoá, có thể căn cứ vào mẫu hàng hay
tiêu chuẩn đựơc công nhận trong tập quán thương mại quốc tế. Đối với những hàng
hoá theo catologue thì cotologue được giữ làm cơ sở để so sánh chất lượng.
Hàng hoá theo mẫu thì các mẫu được chọn sẽ được niêm phong để làm tiêu
chuẩn so sánh khi giao nhận hàng.
+ Giá cả: phải ghi rõ đồng tiền tính giá, đồng tiền thanh toán trong hợp đồng.
Xác định cụ thể cách tính giá trong hợp đồng biểu thị rõ đơn giá , tổng giá
hợp đồng. Hiện nay đồng tiền có thể lên giá, xuống giá trong thời gian ngắn vì vậy
cần đề phòng sự mất giá của đồng tiền thanh toán cần phải quy định điều khoản đẩm
bảo đồng tiền, trong thời hạn giao hàng nhất định.
+ Phương thức thanh toán
Các bên có thể lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp để bảo vệ quyền lợi
của mình có thể là: phương thức nhờ thu trả chậm, trả tiền trước, tín dụng chứng
từ
+ Địa điểm và thời gian giao nhận hàng:
Trong thương mại quốc tế ,thời gian giao nhận hàng rất quan trọng, các bên
thường đưa ra một thời hạn nhất định để tiến hành giao nhận hàng, có thể giao ngay
một lần trong một thời hạn xác định, giao theo từng chuyến, thời hạn giao hàng
chậm nhất là vào ngày nào thời gian giao nhận hai bên sẽ thoả thuận để đi đến kết
luận cụ thể. Địa điểm giao nhận hàng được xác định rõ và nó tuỳ thuộc vào điều
kiện cở sở như FOB, CIF,DDU để xác định được thời điểm chuyển giao hàng,
tránh rủi ro.
Trang 24
Bất kì một hợp đồng xuất nhập khẩu nào cũng phải có những nội dung chủ
yếu trên nếu thiếu một trong những nội dung đó thì hợp đồng sẽ không phát sinh
hiệu lực.
3. : Thực hiện Hợp đồng
Sau khi hợp đồng được xác lập ,các bên cần phải thực thi những cam kết về
nội dung và thường phải tiến hành các bước sau :
Bên bán: chuẩn bị hàng hoá theo hợp đồng ,giao hàng đúng hạn, làm các
chuyên trở cần thiết theo hợp đồng để gửi hàng.
Xin giấy phép xuất nhập khẩu.
Tuỳ theo việc lựa chọn điều kiện cơ sở mà xác định ai phải xin giấy phép
xuất nhập khẩu cho hàng hoá VD Theo điều kiện EXW (Incoterms 90) thì người
mua phải xin giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá. Theo điều kiện FOB thì người bán
phải xin giấy phép nhập khẩu. Theo điều kiện DDP người bán phải làm thủ tục xin
giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá đó. Người nào phải xin giấy phép thì phải tiến
hành thủ tục để có được giấy phép đó trước ngày giao hàng.
+ Nếu lựa chọn phương thức thanh toán tín dụng thì bên mua phải mở L/C
trong thời hạn nhất định theo thoả thuận của hai bên trong hợp đồng tại ngân hàng
đã chọn
+ Thuê tàu mua bảo hiểm : trên cơ sở hợp đồng bên nào có nghĩa vụ thuê tàu,
mua bảo hiểm thì phải thực hiện cam kết đó. Tàu loại nào ,thuê theo phương thức gì
đều phải dựa trên hợp đồng và phải có mặt tại cảng theo đúng thời gian quy định.
Mua bảo hiểm cũng phải đúng như hợp đồng theo điều kiện A,B,C với giá 110%
theo hợp đồng .Hợp đồng bảo hiểm phải giao cho người mua hàng, cùng với quá
trình giao nhận hàng hoá.
+ Giao nhận hàng hoá : tại thời điểm và thời gian xác định. Người bán tiến
hành giao hàng hoá cho người mua và hàng hoá giao phải đảm bảo theo đúng quy
định trong hợp đồng. Người bán phải giao hàng đúng hẹn đúng địa điểm và người
mua cũng phải tiến hành nhận hàng hoá tại địa điểm và thời gian đó.
+ Thủ tục hải quan: trên các điều kiện cơ sở như EXW, FDB, DDU như xin
giấy phép xuất nhập khẩu thì việc làm thủ tục hải quan và nhập hàng qua biên giới,
cũng quy định rõ ai có .
Trang 25