Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác theo hướng sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện đan phượng – thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.94 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

TRẦN THỊ NHƯ TRANG
BÁO CÁO TIẾN ĐỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT CANH TÁC
THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HÓA TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN ĐAN PHƯỢNG – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ : 60.62.16
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. HÀ THỊ THANH BÌNH
HÀ NỘI - 2009
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không
thể thay thế của sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bổ các khu dân cư, xây dựng
các cơ sở hạ tầng, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng; có ý nghĩa to lớn
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và bảo vệ Tổ Quốc.
Hiến chương về đất đai được ban các Bộ trưởng Châu Âu biểu quyết tại Nghị
quyết số 19 (1972). “ Ruộng đất là một trong những của cải quý nhất của
loài người, nó tạo điều kiện cho sự sống của thực vật, động vật và con người
trên mặt đất”.
Việt Nam là một đất nước khoảng hơn 70% dân số bằng nông nghiệp,
nên ta càng thấy được tầm quan trọng của đất đai trong sản xuất nông nghiệp.
Với vai trò là tư liệu sản xuất, đất đai tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra
của cải vật chất, đảm bảo nhu cầu của con người như ăn, ở, mặc. Trước hết
đất canh tác cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người tồn tại. Vì vậy,
việc tổ chức sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả là nhiệm vụ quan
trọng hang đầu đảm bảo cho nền nông nghiệp phát triển bền vững.


Cùng với tiến trình Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước ta dân số
ngày càng tăng, diện tích đất sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm sang
các mục đích khác, đặc biệt diện tích đất canh tác trên diện tích đất bằng
cường độ sử dụng ngày càng tăng. Vì thế để sản xuất nông nghiệp mang lại
hiệu quả kinh tế và sử dụng đất bền vững thì phải tiến hành sản xuất hàng
hóa.
Việt Nam gia nhập WTO là một trong những lợi thế của sản xuất nông
nghiệp hàng hóa, tạo đà cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trong điều kiện
các nguồn tài nguyên để sản xuất có hạn, mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng
1
đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa trong cả nước nói chung và
huyện Đan Phượng nói riêng là hết sức cần thiết.
Đan phượng là huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội, địa hình bằng
phẳng, có hệ thống đất phù sa sông Hồng, độ phì khá, sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu, ngoài ra nhân dân có kinh nghiệm sản xuất, đặc biệt là thị trường
tiêu thụ lớn. Nên định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa trên cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác là hết sức cần thiết
trong nền kinh tế thị trường.
Được sự đồng ý của khoa Tài nguyên và Môi trường, bộ môn Thủy
nông canh tác và dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hà Thị Thanh Bình, tiến
hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác theo
hướng sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện Đan Phượng – thành phố Hà
Nội”.
1.2 Mục tiêu
Nhằm mục đích xác định các loại hình sử dụng đất và các kiểu sử dụng
đất có hiệu quả cao trên địa bàn nghiên cứu trên cơ sở sản xuất nông nghiệp
hàng hóa để có thể áp dụng cho những vùng có điều kiện tương tự.
1.3 Yêu cầu
- Phân tích được điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến
sản xuất và tiêu thụ cây trồng nông nghiệp hàng năm;

- Tiến hành điều tra thị trường vùng nghiên cứu và vùng giáp ranh;
- Phân tích các loại hình và các kiểu sử dụng đất của vùng nghiên cứu;
- Đề xuất các loại hình và các kiểu sử dụng đất bền vững cho vùng
nghiên cứu.
2
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Khái quát đất nông nghiệp và tình hình sử dụng đất nông nghiệp
trên thế giới và trong nước
2.1.1. Đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất
nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu
thí nghiệm về nông nghiệp. [37], [38] .
Theo điều 13 Luật đất đai Việt Nam năm 2003, đất đai được chia thành
3 nhóm lớn là: nhóm đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử
dụng.
Đất nông nghiệp bao gồm: Đất sản xuất nông nghiệp (đất trồng cây
hàng năm, đất trồng cây lâu năm), đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất
làm muối và đất nông nghiệp khác. Đất nông nghiệp đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đất nông nghiệp
tham gia vào quá trình sản xuất và làm ra sản phẩm cần thiết nuôi sống xã
hội.
2.1.2.Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Toàn lục địa trừ diện tích đóng băng vĩnh cửu (1.360 triệu ha) chỉ có
13.340 triệu ha. Trong đó phần lớn có nhiều hạn chế cho sản xuất do quá
lạnh, khô, dốc, nghèo dinh dưỡng, hoặc quá mặn, quá phèn, bị ô nhiễm, bị
phá hoại do hoạt động sản xuất hoặc do bom đạn chiến tranh. Diện tích đất có
khả năng canh tác của lục địa chỉ có 3.030 triệu ha. Hiện nhân loại mới khai
thác được 1.500 triệu ha đất canh tác.[18]
Theo Ghassemi và các cộng sự (1995)[33], tổng diện tích đất cũng như
diện tích đất nông nghiệp ở các khu vực khác nhau trên thế giới được thể

hiện:
3
Bảng 2.1. Tài nguyên đất của các khu vực trên thế giới
ĐVT: triệu ha
Khu vực
Tổng diện
tích
Đất NN
Đất canh
tác hiện nay
Đất được
tưới
Châu Phi 2964 734 185 11
Châu Á 2679 627 451 142
Châu Đại Dương 843 153 49 2
Châu Âu 473 174 140 17
Bắc Mỹ 2138 465 274 26
Nam Mỹ 1753 681 142 9
Liên Xô (cũ) 2227 356 233 20
Tổng số 13077 3190 1474 227
Nguồn: Ghassemi và cộng sự ,1995
Đất đồi núi trên thế giới chiếm 50,6%, riêng ở Đông Nam Á và Thái
Bình Dương diện tích đất dốc chiếm 54,5% đất nông nghiệp.[20]
Theo FAO(1993) diện tích đất canh tác chiếm 10,6% tổng diện tích
toàn thế giới. Châu Á, mặc dù chiếm ½ dân số nhưng chỉ có 20% đất nông
nghiệp toàn cầu. Đất đồi núi ở châu Á chiếm khoảng 35% tổng diện tích của
các nước, tiềm năng đất trồng trọt nhờ nước trời nói chung là khá lớn khoảng
407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang được trồng trọt và khoảng 100
triệu ha chủ yếu nằm trong vùng nhiệt đới ẩm của Đông Nam Á, phần lớn
diện tích này là đất dốc, chua nhiệt đới, khoảng 40-60 triệu ha trước đây vốn

là rừng tự nhiên che phủ, nhưng đến nay do hoạt động của con người nên
rừng đã bị phá và thảm thực vật đã chuyển thành cây bụi và cỏ dại.[6]
Châu Á, nhất là khu vực Nam Á, được coi là điểm nóng của thế giới
trong vấn đề thiếu dinh dưỡng và an ninh lương thực. Do dân số tăng và diện
tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp để nhường chỗ cho đô thị và công
nghiệp phát triển, nên theo dự báo diện tích đất canh tác tính trên đầu người ở
châu Á sẽ giảm từ 0,15ha xuống còn 0,08ha vào những năm 2020. Dân số
4
Trung Quốc mỗi năm tăng thêm hơn 17triệu người, trong khi đó đất nông
nghiệp mỗi năm giảm đi 400.000 ha vì công nghiệp hóa và đô thị hóa.[19]
Bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người của thế giới hiện nay
chỉ có 0,23 ha, ở nhiều quốc gia khu vực châu Á, Thái Bình Dương là dưới
0,15 ha, ở Việt Nam chỉ còn 0,11 ha. Theo tính toán của Tổ chức Lương thực
thế giới (FAO), với trình độ sản xuất trung bình hiện nay trên thế giới, để có
đủ lương thực, thực phẩm, mỗi người cần có 0,4 ha đất canh tác.[18]
Ngày nay, vấn đề thoái hóa đất và hoang mạc hóa là một trong những
vấn đề môi trường và tài nguyên thiên nhiên mà nhiều quốc gia đang phải đối
mặt và giải quyết nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp, đảm bảo an ninh
lương thực. Và xói mòn là một trong những nguy cơ quan trọng nhất dẫn đến
suy thoái các vùng đất nông nghiệp của thế giới. Đất khô cằn có ở mọi khu
vực, chiếm hơn 40% bề mặt Trái Đất. Theo ước tính, có khoảng 10 – 20%
diện tích đất khô cằn đã bị thoái hóa.[46]. Trên thế giới hiện có 2.000 triệu ha
đất đã và đang bị thoái hóa, trong đó có 1.260 triệu ha tập trung ở châu Á,
Thái Bình Dương.[18].
Theo viện Nghiên cứu Thế giới (1985) [33], lượng đất mặt mất đi hàng
năm do xói mòn trên các vùng đất trồng trọt của 4 nước sản xuất lương thực
chính của thế giới (chiếm 52% đất nông nghiệp và trên ½ sản lượng lương
thực thế giới) được thể hiện:
5
Bảng 2.2. Lượng đất mặt mất đi hàng năm do xói mòn

Nước
DT đất trồng trọt
(triệu acre)
Lượng đất xói mòn
(triệu tấn)
Mỹ 421 1700
Liên Xô (cũ) 620 2500
Ấn Độ 346 4700
Trung Quốc 245 4300
Tổng số 1635 13200
Phần còn lại của thế giới 1506 12200
Toàn thế giới 3138 25400
Nguồn: Viện Nghiên cứu Thế giới,1985
2.1.3.Tình hình sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam là đất nước dân số chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Trong
quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa như hiện nay đã ảnh hưởng rất sâu
sắc đến nền sản xuất nông nghiệp, quỹ đất nông nghiệp có xu hướng giảm để
nhường chỗ cho các khu công nghiệp, khu kinh tế
Theo số liệu kiểm kê sơ bộ năm 2007, tổng diện tích tự nhiên của cả
nước là 33,121 triệu ha, diện tích đất nông nghiệp 24,696 triệu ha (chiếm
0,75% diện tích tự nhiên). Khu vực đồng bằng Sông Hồng có tổng diện tích là
1,486 triệu ha, diện tích đất sản xuất nông nghiệp 0,756 triệu ha. Bình quân
diện tích đất nông nghiệp trên đầu người 0,29 ha/người.[10]. Diện tích trồng
lúa năm 2007 vẫn đạt 7,2 triệu ha (quy đổi cho 3 vụ trên diện tích thực là 4,2
triệu ha), tuy đã giảm từ 7,5 triệu ha của năm 2002. Năng suất cũng khá ổn
định do có khoảng 80% diện tích là đất trồng lúa tưới, chỉ có 20% là đất phụ
thuộc vào mưa.[51].
Việt Nam thuộc loại đất hẹp người đông, mật độ dân số thuộc loại cao
trong các nước ASEAN và cả trên thế giới. Năm 1996 mật độ dân số trung
bình của các nước ASEAN là 106,7người/km2 thì Việt Nam 227,7người/km2,

chỉ thấp hơn Philippin (239,3 người/km2) và Singapo (483,9người/km2).[54]
6
Trong thời gian từ 1985-2000, diện tích đất nông nghiệp tăng từ gần 7
triệu ha lên hơn 9 triệu ha (từ 21% lên 28% diện tích tự nhiên). Diện tích đất
nông nghiệp tăng thêm chủ yếu thuộc các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ
và đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích đất lâm nghiệp tăng từ hơn 9 triệu ha
năm 1985 lên 11 triệu ha vào năm 2000. [17].
Diện tích đất chuyên dùng tăng từ 972 nghìn ha năm 1990 lên 1,5 triệu
ha năm 2000, diện tích đất chuyên dùng tăng ở tất cả các vùng trong cả nước
cho mục đích xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, khu công nghiệp.
Diện tích đất chuyên dùng tăng lên đã góp phần làm giảm tốc độ tăng diện
tích đất nông nghiệp[17].
Theo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, diện tích đất nông nghiệp tăng từ 8,793 triệu ha (năm 2000) lên 9,363
triệu ha. Tuy nhiên, dân số nước ta cũng tăng từ hơn 77,635 triệu người(năm
2000) lên 86,408 triệu người (năm 2010). Bình quân diện tích đất nông
nghiệp trên đầu người của cả nước lại có xu hướng giảm 50m2/người [18].
Theo ông Nguyễn Hữu Nhơn, Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh
Đồng Tháp, thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong 7 năm qua
(2001-2007) khẳng định: có trên 500.000 ha diện tích đất nông nghiệp đã thu
hồi chuyển sang đất phi nông nghiệp, chiếm 5% diện tích đất nông nghiệp
đang sử dụng, bình quân mỗi năm diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi trên
71.000 ha, theo tính toán trung bình cứ 1ha đất thu hồi, sẽ làm hơn 10 lao
động nông dân thất nghiệp, đặc biệt, đất nông nghiệp bị thu hồi chuyển sang
mục đích đô thị hóa và công nghiệp hóa năm sau luôn tăng hơn năm trước.
Chỉ tính trong năm 2007, diện tích đất trồng lúa của cả nước đã giảm 125.000
ha.[28]
Hệ số sử dụng đất cây trồng hàng năm tăng lên (từ 1,4 năm 1995 tăng
lên 1,6 năm 2000). Trong cơ cấu diện tích đất chuyên lúa, diện tích lúa 2 đến
3 vụ tăng do đẩy mạnh công tác thủy lợi, tiến bộ kỹ thuật về thâm canh, tăng

7
vụ và đa dạng hóa giống lúa. Sản xuất nông nghiệp đã dần biến chuyển theo
hướng bền vững, biểu hiện qua việc tăng diện tích cây lâu năm có hiệu quả
kinh tế cao, giảm diện tích các loại cây hàng năm trồng thuần trên đất dốc.
Tuy nhiên, trong cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp tỷ lệ diện tích đất cây hàng
năm vẫn còn chiếm trên 60%, mặt khác khả năng tăng diện tích đất canh tác
từ diện tích đất chưa sử dụng sẽ khó khăn trong thời gian tới.[17]
Bảng 2.3.Diễn biến tài nguyên đất qua một số năm
ĐVT: 1000 ha
Loại đất Năm 1985 Năm 1990 Năm 1995 Năm 2000
Đất nông nghiệp, trong đó: 6942 6993 7367 9345
- Đất trồng cây hàng năm 5615 5338 5403 5607
- Đất trồng cây lâu năm 804 1045 1418 2182
Đất lâm nghiệp 9641 9395 10795 11580
Đất chuyên dùng 972 1271 1533
Đất chưa sử dụng 14827 14925 12843 10022
Nguồn số liệu: nghiên cứu quản lý và phát triển tài nguyên sinh vật
trong một số hệ sinh thái tiêu biểu ở Việt Nam, đề tài KT 02.08
Những năm vừa qua, trong làn sóng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, nhiều diện tích đất nông nghiệp đã được chuyển đổi thành những khu
công nghệ, các nhà máy, khu chung cư vì lẽ đó mà diện tích đất phục vụ cho
nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Tại các địa phương việc chuyển đổi đất
nông nghiệp sang phục vụ cho công nghiệp diễn ra khá rầm rộ, hàng nghìn ha
đất nông nghiệp màu mỡ bị mất đi.
Tại cuộc Hội thảo Nông dân bị thu hồi đất – thực trạng và giải pháp do
Bộ NN&PTNT tổ chức, theo thống kê 50% số đất nông nghiệp bị thu hồi
trong thời gian qua nằm trong những vùng canh tác trọng điểm, khu vực đông
dân, có tốc độ phát triển nhanh, điển hình là khu vực đồng bằng sông Hồng có
tỷ lệ bị thu hồi nhiều nhất với 4,4%. Trong đó, 80% diện tích này thuộc loại
đất màu mỡ. Nếu làm một phép tính giản đơn với diện tích bị thu hồi thuộc

đất ruộng màu mỡ thì mỗi vụ lúa Việt Nam đã mất hàng nghìn tấn lúa.
8
Tại Bắc Ninh, tổng sản lượng lúa trong vài năm trở lại đây đã giảm
mạnh do đất nông nghiệp giảm, năm 2008, diện tích đất trồng trọt còn hơn
42.000 ha. Tại thành phố Hà Nội bình quân một năm giải phóng mặt bằng gần
1.000 ha, trong đó chiếm tới 80% là đất nông nghiệp. Theo dự kiến năm 2008,
Hà Nội sẽ thu hồi 1.500 ha, trong đó 904 ha đất 2 vụ lúa.[47]
Diện tích đất canh tác của Việt Nam hiện thấp nhất thế giới, chỉ khoảng
0,12 ha/người trong khi của Thái Lan là 0,3 ha/người. Xét bình quân, Việt
Nam chỉ hơn được các nước như Hàn Quốc, Băng-la Đét, Ai Cập…Tuy
nhiên, việc giữ đất lúa không dễ khi Việt Nam vẫn đang thiếu bản quy hoạch
cụ thể về đất nông nghiệp. Do thiếu “cây gậy” đó nên nhiều nơi vẫn điềm
nhiên xà xẻo đất lúa để làm công nghiệp, thậm chí là xây sân golf giữa đồng
bằng với cái nhìn ngắn hạn “ngân sách nhiều hơn nhờ nguồn thuế”. Vì thế,
mà vấn đề an sinh xã hội ở nhiều nơi bị xem nhẹ.[51]
Qua khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 cho thấy, không có giá trị
sản phẩm công nghiệp nào so được với giá trị 1 tấn gạo lúa đó. Hơn lúc nào
hết, đất lúa “kêu cứu” là một thực trạng trong khi diễn biến khí hậu đang làm
cho sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn hơn. Từ đầu năm 2008, giá gạo trên
thị trường thế giới liên tục tăng và đã lâu rồi, vấn đề an ninh lương thực toàn
cầu lại được xới lên. Trên thế giới, ngay các nước giàu còn bỏ tiền ra giữ đất
trồng lúa, huống chi Việt Nam là nước truyền đời, có “phông văn hóa” gắn
với sản xuất nông nghiệp.[51]
Bên cạnh việc giảm diện tích đất nông nghiệp do quá trình đô thị hóa,
thì vấn đề suy thoái chất lượng đất nông nghiệp cũng đang là vấn đề nhức
nhối của toàn cầu. Tình trạng suy giảm chất lượng đất nông nghiệp do rửa
trôi, xói mòn, khô hạn và sa mạc hóa, mặn hóa, phèn hóa, chua hóa, thoái hóa,
lý hóa học đất, ô nhiễm…Những tác động tiêu cực trên ảnh hưởng trực tiếp
đến hơn 50% diện tích đã và đang sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng là
thách thức to lớn đối với sự phát triển nông nghiệp bền vững ở nước ta. Mặt

9
khác, việc sử dụng đất còn lãng phí, chỉ tính riêng ở 68 nông trường quốc
doanh và 33 vùng kinh tế mới và chuyên canh trước đây đã có trên 30.000 ha
sau khi khai hoang lại bị bỏ hóa trở lại, không đưa vào sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp.[18]
Ở Việt Nam hiện có 16,7 triệu ha bị xói mòn, rửa trôi mạnh, chua
nhiều, 9 triệu ha có tầng mỏng và độ phì thấp, 3 triệu ha đất thường bị khô
hạn và sa mạc hóa, 1,9 triệu ha đất bị phèn hóa, mặn hóa mạnh.[18]
Theo số liệu thống kê, các địa phương trong cả nước có khoảng 9,35
triệu ha đất nông nghiệp bị thoái hóa. Các tỉnh thuộc khu vực Nam Trung Bộ
có đến hàng trăm ngàn ha đất khô hạn vĩnh viễn hoặc khô hạn theo mùa và
gần như trở thành hoang hóa. Tại các tỉnh ven biển miền Trung có gần 500
nghìn ha cát tạo thành các đồi cát di động theo sức gió trong các mùa mưa bão
và gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với sản xuất nông lâm nghiệp[55] .
Trong quá trình sử dụng đất, do chưa tìm được các loại hình sử dụng
đất hợp lý hoặc kiểu sử dụng đất hợp lý cũng gây ra hiện tượng thoái hóa đất
như vùng đất dốc mà trồng cây lương thực, đất có hàm lượng dinh dưỡng thấp
lại không luân canh với cây họ đậuv[46].
Vì vậy, vấn đề sử dụng đất nông nghiệp hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm
trở thành một trong những mục tiêu bao trùm nhất của toàn xã hội.
10
2.2.Lịch sử phát triển của đất nông nghiệp và các chủ trương chính sách
của Nhà nước ta về sử dụng và quản lý đất nông nghiệp
2.2.1. Lịch sử phát triển đất nông nghiệp
a) Sơ lược lịch sử phát triển nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cổ nhất, có một lịch sử
cách đây ít nhất 10.000 năm, khi mà các bộ lạc nguyên thủy ở đầu thời kỳ đồ
đá mới. Dân số mới chỉ có gần 1 triệu người sống rải rác trên các lục địa.
Spedding (1979) đã định nghĩa nông nghiệp như sau: “Nông ngiệp là
một loại hoạt động của con người được tiến hành chủ yếu để sản xuất ra

lương thực, sợi, chất đốt cũng như nhiều loại nguyên liệu khác bằng sự cân
nhắc kỹ lưỡng và sử dụng có điều khiển cây trồng và vật nuôi”.
Markov (1972) cho rằng yếu tố quyết định sự phát triển của nông
nghiệp là công cụ lao động, mà trước hết là công cụ làm đất. Căn cứ vào sự
tiến bộ của công cụ làm đất, tác giả đã chia lịch sử phát triển nông nghiệp ra
thành 5 giai đoạn:
- Chọc lỗ bỏ hạt: Con người dùng một cái gậy đầu nhọn để chọc đất
thành lỗ để gieo hạt, xung quanh lỗ, rễ cỏ còn nguyên. Cây trồng ở giai đoạn
này còn hoang dại, quan hệ giữa cây trồng giống như ở đồng cỏ tự nhiên.
- Cuốc đất bằng đá, bằng đồng, bằng sắt: Đất được chuẩn bị kỹ hơn, xới
tơi hơn, rễ cỏ bị phá một phần, quan hệ đồng cỏ bị mất đi, bắt đầu xuất hiện
cây trồng, có sự chọn lọc nhân tạo. Bắt đầu có quan hệ của ruộng cây trồng.
- Giai đoạn cày gỗ: Đất được xới sâu hơn, tơi xốp hơn, rễ cỏ bị phá
nhiều hơn. Một số loại cây trồng thực sự được cải tiến, chọn lọc nhân tạo
chiếm ưu thế, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Quan hệ đồng ruộng được xác lập.
- Giai đoạn cày sắt: Nhờ công cụ cày có lưỡi bằng sắt nên việc làm đất
đạt năng suất lao động cao hơn, kỹ thuật làm đất được cải tiến nhiều hơn,
công tác chọn tạo giống được phát triển tuỳ theo yêu cầu về đất của từng loại
11
cây trồng để sử dụng từng loại công cụ làm đất thích ứng. Quan hệ đồng
ruộng điển hình.
- Cày máy: Khâu làm đất được cơ giới hóa, năng suất lao động tăng lên
rõ rệt. Công tác giống, chọn giống hiện đại được xác lập.
Harrison (1964): Khởi đầu của nông nghiệp là sự săn bắn và hái lượm,
sau đó đến nông nghiệp có tổ chức đi từ thấp đến cao dưới áp lực của sự gia
tăng dân số.
Grigg (1974) cho rằng yếu tố quyết định các kiểu hệ thống nông nghiệp
là sự thay đổi về kinh tế, kỹ thuật, và xã hội. Trước thế kỷ 17 dân số thế giới
tăng chậm, sau đó dân số bắt đầu tăng nhanh ở châu Âu đã thúc đẩy phát triển
nông nghiệp ở lục địa này. Trước năm 1920, tốc độ tăng dân số ở châu Âu và

các vùng do người châu Âu di cư đến như Bắc Mỹ, châu Úc, Nam Phi, Nam
Mỹ cao hơn ở châu Á, châu Phi. Sau năm 1920, tốc độ tăng dân số ở các nước
đang phát triển mới vượt lên. Sự phát triển buôn bán trong thế kỷ 19 cũng đẩy
mạnh sự phát triển nông nghiệp ở các vùng mới di cư đến. Cuộc cách mạng
nông nghiệp bắt đầu ở nước Anh và các nước châu Âu, châu Mỹ (luân canh
cây trồng, bón phân hóa học, sử dụng thuốc trừ sâu bệnh, chọn giống trên cơ
sở khoa học, cơ giới hóa sản xuất )
Các tác giả Đường Hồng Dật (1980); Cao Liêm và Trần Đức Viên
(1990) chia toàn lịch sử phát triển nông nghiệp ra làm 3 giai đoạn dựa trên cơ
sở sự tác động của lao động sống; vật tư, công cụ và trí tuệ của con người vào
thiên nhiên.
- Giai đoạn nông nghiệp thủ công;
- Giai đoạn nông nghiệp với vật tư kỹ thuật phát triển và công cụ cải
tiến;
- Giai đoạn nông nghiệp phát triển cơ sở khoa học (tối ưu hóa sản xuất
nông nghiệp trên cơ sở sinh thái học, trên tư duy hệ thống).[7]
b)Diễn biến của các hệ thống canh tác qua các thời kỳ lịch sử
12
Người Việt cổ đã sớm bắt tay vào trồng trọt để tạo ra thức ăn từ những
ngày các vua Hùng dựng nước. Với các điều kiện tự nhiên và đất đai ở thời kỳ
đó họ đã tạo nên hệ thống canh tác sơ khai tại nơi mình cư trú (hệ canh tác
bản địa). Hệ canh tác này lúc ban đầu được hình thành ở vùng đồi núi. Cây
trồng chủ yếu là lúa cạn, lúa nương. Cùng với quá trình định cư trồng trọt
ngày càng phát triển, hệ thống canh tác lúa lúc đầu được hình thành ở các
thung lũng và ngày càng ổn định và mở rộng địa bàn lên các loại đất cao. Để
sản xuất trên các sườn đồi, cư dân đã tạo nên những hệ thống ruộng bậc thang
để cấy lúa nước.
Cùng với lúa nước nông dân tìm đến những nơi bằng phẳng để gieo
trồng. Họ tìm đến các bãi ven sông, suối, các thung lũng vùng đối núi rồi từ
đó theo các dòng sông, suối mà chuyển về các bình nguyên. Hệ canh tác lúa

nước trên các cánh đồng bằng phẳng ở các vùng châu thổ được hình thành. Từ
hệ canh tác một vụ lúa dựa chủ yếu vào nước trời trong mùa mưa dần dần
nông dân có những công trình thô sơ và biện pháp để lấy nước ở các sông,
suối, ao, hồ tưới cho lúa. Hệ canh tác 2 vụ lúa trong một năm được hình
thành. Hệ canh tác này phát triển dần dần và nhiều loại cây trồng từng bước
được dựa vào cơ cấu, trong đó có nhiều loại cây trồng cạn như khoai lang,
đậu đỗ.
Dưới thời Bắc thuộc, quan lại phong kiến phương Bắc sang cai trị nước
ta trong thời gian dài, đến hàng nghìn năm, vì vậy họ đã đưa sang ta một số
loại cây trồng mới, một số giống lúa, ngô mới và một số kỹ thuật canh tác
mới. Hệ canh tác bản địa của người Việt được tiếp thu thêm những yếu tố
mới: bón phân, trồng dâu nuôi tằm, tưới nước…Hệ canh tác lúa nước được
mở rộng và hình thành những cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện canh tác
ở mỗi nơi: hệ canh tác trên ruộng quanh năm ngập nước, hệ canh tác một vụ
lúa nước, một vụ cây trồng cạn, hệ canh tác đất màu.
13
Từ thế kỷ thứ X trở đi, Việt Nam bước vào thời đại phong kiến độc lập.
Đất đai được mở dần vào phía Nam, tiến dần vào đồng bằng Sông Cửu Long
(thế kỷ XIV). Người nông dân Việt Nam mang theo hệ canh tác của mình đến
những nơi ở mới. Trên con đường di chuyển về phía Nam, hệ canh tác Việt
pha trộn với các hệ canh tác bản địa, với canh tác Chàm ở miền Trung và hệ
canh tác Khơ Me ở đồng bằng sông cửu Long. Sự pha trộn này, cùng với
những cây trồng mới, kỹ thuật gieo trồng cạn từ Ấn Độ đưa sang đã góp phần
tạo nên hệ canh tác cạn trên vùng đất dốc gò đồi phía Đông Trường Sơn. Ở
các vùng đồng bằng nhỏ ven biển miền Trung, sự pha trộn trên đã tạo nên hệ
canh tác đặc trưng trồng lúa nước thích nghi với điều kiện khí hậu và địa hình
tại chỗ phát triển cho đến ngày nay.
Ở thế kỷ XVIII, một số người buôn bán và các cha cố truyền đạo người
nước ngoài lần lượt vào nước ta. Trong quá trình giao lưu làm ăn với người
Việt họ đã mang theo nhiều loại cây mới, đặc biệt là các loại rau, cây cảnh,

cây ăn quả vào Việt Nam. Một số loại giống cây, giống gia súc đã được chọn
lọc ở nước họ, một số công cụ máy móc nông nghiệp và những tập quán canh
tác, cách thức làm ăn ở nước họ mang theo vào Việt Nam, nhất là cách tổ
chức làm ăn ở những trang trại nông nghiệp có diện tích lớn.
Thời kỳ thực dân Pháp hoàn toàn chiếm Việt Nam làm thuộc địa (1884
– 1945), các chủ đồn điền Pháp đã đưa một số loài cây và gia súc từ Pháp và
từ các nước thuộc địa châu Phi, châu Mỹ La tinh vào Việt Nam. Nhiều loại
máy móc, phân bón hóa học, thuốc trừ sâu cũng được đưa vào. Cùng với các
phương tiện, máy móc, vật tư nông nghiệp mới được đưa thêm vào, trình độ
thâm canh nông nghiệp ở Việt Nam được đẩy lên một bước phát triển mới.
Ngoài các hệ canh tác lúa nước và cây trồng cạn hàng năm của cư dân các
vùng ờ Việt Nam, thời gian này có thêm các hệ canh tác trồng cây lâu năm và
trồng xen giữa cây hàng năm và cây lăm năm.
14
Từ sau cách mạng Tháng tám (1945) thành công, trên đất nước Việt
Nam hình thành nhiều vùng kinh tế sinh thái nông nghiệp khác nhau do các
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm tạo nên. Ở những vùng này nhân dân tiến
hành sản xuất nông nghiệp với các hệ canh tác lấy sản xuất lương thực làm
chính để cung cấp cái ăn cho nhân dân và quân đội đánh giặc cứu nước.
Ở các vùng tạm chiến, chính quyền dưới sự kiểm soát của người nước
ngoài, tổ chức áp dụng các hệ canh tác đáp ứng một phần các nhu cầu của
quân đội viễn chinh và của ngụy quân, ngụy quyền, một phần cung cấp cho
các thành phố tiêu thụ. Các hệ canh tác ở các vùng này hướng vào việc sản
xuất thực phẩm và phần lớn là sản xuất hàng hóa nông sản.
Ngoài ra, ở các vùng tranh chấp, sản xuất nông nghiệp thường không
ổn định, các hoạt động sản xuất nông nghiệp của vùng này thường là tranh
thủ, chắp vá nên không theo một hệ canh tác nào rõ ràng.
Từ ngày hoàn toàn giải phóng đất nước (30/4/1975) đến nay, nông
nghiệp có bước phát triển mới mang tính chất toàn diện trên các mặt: mở rộng
diện tích canh tác và diện tích trồng trọt, tăng vụ, tăng năng suất. Các hệ canh

tác được bổ sung và không ngừng phát triển.[7].
c) Các loại hệ thống nông nghiệp
- Hệ thống nông nghiệp du canh:
Nông nghiệp du canh có thể được hiểu là sự thay đổi nơi sản xuất từ
khu đất này sang khu đất khác, từ vùng này sang vùng khác sau khi độ phì của
đất đã bị nghèo kiệt.[4]
Từ xa xưa con người đã tiến hành trồng trọt, kiểu trồng trọt phổ biến
thời ấy là phát rẫy, làm nương. Việc đốt rẫy, làm nương và di chuyển từ vùng
này sang vùng khác được gọi là hệ thống nông nghiệp du canh.
Trong hình thái nông nghiệp này, người nông dân chỉ biết lợi dụng các
điều kiện tự nhiên và tài nguyên sẵn có để làm ra các sản phẩm mà mình
15
mong muốn. Thông thường nông nghiệp du canh có 2 kiểu: thứ nhất là định
cư, du canh; kiểu thứ 2 là du cư, du canh.
Hình thái nông nghiệp du canh thường xảy ra ở những nơi đất dốc,
rừng núi có mật độ dân cư thưa thớt. Do tình trạng du canh nên nông dân hầu
như không quan tâm đến việc bảo vệ và phục hồi dinh dưỡng của đất dẫn đến
đất canh tác bị thoái hóa, nghèo kiệt do xói mòn rửa trôi và kết quả là tạo ra
hàng triệu hécta đất trống, đồi núi trọc. Nạn phá rừng hiện nay xảy ra phổ
biến trên thế giới và nước ta có nguyên nhân chính là hậu quả của nền nông
nghiệp du canh.
Ruthemberg (1971) đã tạm chia vùng nhiệt đới thành những hệ thống
sau:
+ Hệ thống thảm thực vật tự nhiên (cây bụi, rừng, đồng cỏ);
+ Hệ thống di cư ngẫu nhiên theo tuyến hoặc thay đổi theo chu kỳ;
+ Hệ thống du canh quay vòng sau một số năm;
+ Hệ thống phát quang: đốt nương, làm rẫy.
Okybo (1977) đã liệt kê 4 giai đoạn của sự du canh trên vùng đồi núi và
vùng ngập nước, đó là:
+ Giảm thời gian của chu kỳ bỏ hóa;

+ Tăng cường trồng các loại cây họ đậu lấy hạt và cải tạo đất;
+ Di chuyển tới những hệ thống định cư thô sơ;
+ Thiết lập trang trại hoặc vườn định cư.
- Hệ thống nông nghiệp du mục
Du mục là phương thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu gắn với các hệ
thống chăn nuôi được di chuyển liên tục từ vùng này sang vùng khác.Có 2
loại du mục:
+ Du mục hoàn toàn: dân du mục hoàn toàn di chuyển theo đàn gia súc
quanh năm từ vùng này sang vùng khác và không tiến hành các hoạt động
trồng trọt.
16
+ Du mục không hoàn toàn: Họ chỉ nuôi và chăn dắt đàn gia súc theo
mùa của đồng cỏ tự nhiên, hết mùa lại bán gia súc và tiếp tục công việc khác.
Dân du mục loại này có kết hợp trồng trọt và làm nhà cố định.
Du mục hoàn toàn thường diễn ra ở vùng đất khô cằn nơi mà khó chấp
nhận một hình thức sản xuất nào khác. Có thể xem đây là giải pháp tối ưu để
khai thác vùng thảo nguyên khô cằn, tận dụng những nguồn lợi sẵn có của
thiên nhiên.
Ở Việt Nam chỉ tồn tại hình thức bán du mục, đó là những người nuôi
vịt, ngỗng di chuyển từ cánh đồng này sang cánh đồng khác để tận dụng sản
phẩm rơi vãi khi thu hoạch. Loại hình này rất phổ biến ở vùng đồng bằng
châu thổ.
- Hệ thống nông nghiệp chuyên môn hóa
Đây là hệ thống nông nghiệp chuyên sản xuất một hoặc hai loại sản
phẩm nhất định, trên cơ sở của điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý hay tập quán
canh tác. Ví dụ: sản xuất rau, thịt ở quanh các đô thị, cà phê, cao su ở Tây
Nguyên, điều ở miền Đông Nam Bộ, mía ở Tây Ninh,…
Sản xuất chuyên môn hóa dễ tạo ra mất cân bằng sinh học, dẫn đến các
vụ dịch sâu bệnh hại nguy hiểm, khó kiểm soát. Loại hình sản xuất này cũng
gây căng thẳng về lao động khi mùa vụ khẩn trương và dư thừa khi hết thời

vụ nên lãng phí lao động.
Ưu điểm của sản xuất nông nghiệp chuyên môn hóa là dễ dàng tập
trung sản phẩm tạo điều kiện tốt cho việc thu mua nông sản phẩm và chế biến.
Đó cũng là nơi thuận lợi cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và các thí
nghiệm tiên tiến, quy mô.
Nhìn chung, nông nghiệp chuyên môn hóa phù hợp với các nước có
nền kinh tế phát triển, khoa học kỹ thuật tiên tiến như Mỹ, Hà Lan, Pháp…
Ở Việt Nam, loại hình này phát triển mạnh trong thời kỳ xây dựng các
nông trường quốc doanh, sau đó có xu hướng thoái trào chuyển sang đa dạng
17
hóa sản phẩm. Hiện nay lại có xu hướng chuyên môn hóa sản phẩm để đáp
ứng với nhu cầu của thị trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn,
nông nghiệp.
- Hệ thống nông nghiệp kết hợp
Đây là hệ thống sản xuất đa ngành cho ra nhiều loại sản phẩm, bao gồm
cả các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản. Ưu điểm của loại
hình sản xuất này là cho phép ta sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn tài
nguyên và lực lượng lao động sẵn có.
Việc kết hợp giữa hai hệ thống trồng trọt, chăn nuôi sẽ có tác dụng thúc
đẩy, hỗ trợ nhau một cách tích cực, là bước tiến quan trọng của phương thức
sản xuất tiên tiến nhằm tạo ra nhiều sản phẩm với giá thành hạ, bảo vệ được
môi sinh môi trường phát huy được tiềm năng sẵn có của địa phương.
Nông nghiệp kết hợp thường được tiến hành ở vùng gần các đô thị nơi
thuận tiện về giao thông và cơ sở hạ tầng, gần nơi tiêu thụ lớn. Đây cũng là
nơi chịu sức ép tăng dân số lớn và cũng là nơi có điều kiện dễ dàng để đầu tư
phân bón, máy móc và các tiến bộ khoa học.
Do những ưu điểm nổi bật nêu trên mà ngay từ thời trung cổ, nền nông
nghiệp kết hợp đang được hình thành và phát triển mạnh cho tới ngày nay.
Bất cứ nơi đâu ta đều thấy bóng dáng của nền nông nghiệp kết hợp. Các mô
hình nổi tiếng như SALT, VACR, lúa - cá, lúa - lợn, lúa - tôm, nông lâm kết

hợp… chính là sự kết hợp sáng tạo những quan điểm nông nghiệp kết hợp
dựa trên những đặc thù sẵn có của địa phương.
Hệ thống nông nghiệp kết hợp bao gồm:
+ Hệ thống trồng trọt;
+ Hệ thống chăn nuôi;
+ Hệ thống VAC;
+ Hệ thống nông lâm kết hợp ở miền núi;
+ Hệ thống trồng trọt thủy sản;
18
+ Hệ thống trồng trọt – chăn nuôi – thủy sản.[4]
2.2.2. Chủ trương chính sách về sử dụng và quản lý đất nông nghiệp
a) Thực trạng chính sách đất đai ở Việt Nam
Ở nước ta, quan hệ đất đai có lịch sử biến động lớn, thường xuyên và
rất phức tạp.
Dưới thời phong kiến, ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước do nhà vua đại
diện quản lý, sở hữu cộng đồng làng xã và sở hữu tư nhân.
Dưới thời Pháp thuộc ruộng đất tập trung chủ yếu vào tay địa chủ và
thực dân.
Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, Nhà nước tiến hành cải
cách ruộng đất, tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất của địa chủ và thực
dân chia cho nông dân, giao quyền làm chủ thực sự ruộng đất về cho nông
dân và khi tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp thì ruộng đất thuộc sở hữu Nhà
nước và được giao cho hợp tác xã quản lý, sử dụng. Sau nhiều năm cải tạo
nông nghiệp theo con đường kém hiệu quả, các chính sách nông nghiệp và
chính sách ruộng đất đã có những thay đổi cơ bản theo hướng coi hộ nông
dân là đơn vị tự chủ, nông dân được quyền sử dụng và quản lý ruộng đất được
hợp tác xã giao khoán. Ngày 8/1/1988 Quốc hội thông qua Luật đất đai với
các nội dung cơ bản sau:
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà
nước giao ruộng đất cho các đơn vị và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài có thời

hạn hoặc tạm thời;
- Cho phép người được giao quyền sử dụng đất đai được chuyển
nhượng, bán thành quả lao động và kết quả đầu tư trên đất được giao;
- Cấm mua bán đất đai trái phép.
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp
và Hội nghị trung ương 6 (khóa VI) khẳng định hộ nông dân là đơn vị kinh tế
tự chủ đã đưa đến sự thay đổi trong chính sách ruộng đất mà cốt lõi là giao
19
cho các hộ nông dân quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và ổn định thì những
bất hợp lý trong Luật đất đai năm 1988 càng bộc lộ rõ rệt, gây nên tranh chấp
ruộng đất gay gắt và phổ biến.
Trước yêu cầu của đổi mới quản lý nhằm chuyển sang nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần và sự bất cập của Luật đất đai năm 1988, năm 1993
Quốc hội đã thông qua Luật đất đai sửa đổi. Luật đất đai năm 1993 có nhiều
đổi mới cơ bản, đã chú ý đến quan hệ kinh tế và mục tiêu hiệu quả trong sử
dụng và quản lý đất đai.
Trên cơ sở chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
và Luật đất đai năm 1993, Chính phủ và các bộ đã có nhiều Nghị định và
Thông tư hướng dẫn sửa đổi chính sách đất đai nhằm đảm bảo điều chỉnh
quan hệ đất đai phù hợp với quyền tự chủ của hộ nông dân trong cơ chế thị
trường.[54]
b) Cơ sở lý luận về chính sách đất nông nghiệp
* Khái niệm về chính sách và chính sách đất nông nghiệp:
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam thì chính sách được hiểu là những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ.[13]
Theo TS.Lê Chi Mai, chính sách là chương trình, hành động do các nhà
lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi
thẩm quyền của họ.[13]
Chính sách là một khái niệm phức tạp, bao hàm trong nó cả giác độ lý
luận, cả giác độ hành động thực tế, cả giác độ kinh tế, cả giác độ khoa học –

kỹ thuật, cả giác độ xã hội… Do đó, tùy theo mục đích xem xét của các nhà
nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách mà chính sách được xác định
khác nhau.
Như vậy, chính sách đất nông nghiệp là tổng thể các quan điểm, chủ
trương, đường lối, phương pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động
20
lĩnh vực đất nông nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu mà Nhà nước mong
muốn.[13]
Sự phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn chịu sự tác
động của nhiều nhân tố, trong đó chính sách đóng vai trò gần như quyết định.
Đó chính là tác động, can thiệp của Nhà nước đối với sự phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Từ một nền nông nghiệp tự nhiên, tự cung tự cấp chuyển sang nền kinh
tế hàng hóa để hòa nhập vào nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, chính sách nông nghiệp nông thôn có ảnh hưởng mạnh mẽ nhằm tạo
điều kiện và tiền đề cho việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng đa
canh chuyên môn hóa và ứng dụng ngày càng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ
thuật, hướng nền nông nghiệp phát triển đạt đến trình độ năng suất lao động
cao, không chỉ đủ nuôi sống dân cư nông thôn mà còn có dư thừa nông sản
bản đảm tiêu dùng cho toàn xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất
khẩu.[14].
Chính sách nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện cho sự phát triển sản
xuất hàng hóa, phát triển các thành phần kinh tế và xây dựng nông thôn mới,
góp phần cải thiện đời sống của bộ phận dân cư nông thôn.[14].
*Nội dung của chính sách đất nông nghiệp:
Chính sách đất nông nghiệp bao hàm trong nó chủ định của Nhà nước,
mục tiêu của Nhà nước mong muốn đạt tới trong lĩnh vực đất đai nói riêng,
nông nghiệp nói chung, bối cảnh cụ thể của các quan hệ đất đai hiện có cũng
như hệ quan điểm lý thuyết mà Nhà nước tin tưởng. Chính vì thế chính sách
đất nông nghiệp của các quốc gia khác nhau thì khác nhau, cũng như yêu cầu

thực tế của các giai đoạn lịch sử khác nhau cũng đòi hỏi các nội dung của
chính sách đất nông nghiệp khác nhau. Một số nội dung của chính sách đất
nông nghiệp như sau:
- Xác lập và bảo hộ chế độ sở hữu đất đai nông nghiệp;
21
- Chương trình điều tiết của Nhà nước đối với việc sử dụng đất nông
nghiệp và thị trường đất nông nghiệp hướng đến công bằng và hiệu quả;
- Nhà nước tạo môi trường thể chế hướng tới khuyến khích nông dân sử
dụng đất hiệu quả và công bằng;
- Sự hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo dựng nền nông nghiệp hiện đại,
hiệu quả và bảo vệ môi trường;
- Xác lập chế độ quản lý thường xuyên của Nhà nước đối với đất đai
nói chung và đất nông nghiệp nói riêng.
Nhìn chung, chính sách đất nông nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ đến
chính sách tài chính và lập trường, thái độ của Nhà nước đối với nông dân,
nhất là nông dân nghèo. Chính vì thế, nhiều nhà nghiên cứu chính sách
khuyến nghị các chính phủ nên đặt chính sách đất nông nghiệp trong tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội mới có thể giải quyết có kết quả các nội dung và
vấn đề của chính sách đất nông nghiệp.[13]
c) Vai trò của chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam
Ở Việt Nam vai trò của chính sách đất nông nghiệp rất quan trọng vì
cho đến nay nông thôn Việt Nam vẫn là nơi sinh sống của hơn 70% dân số
Việt Nam và nông nghiệp vẫn là ngành cung cấp tỷ trọng khá lớn trong GDP.
- Nhà nước tham gia khuyến khích nông nghiệp phát triển hiệu quả;
- Tạo môi trường thể chế cho kinh doanh nông nghiệp hướng tới tăng
trưởng và hiệu quả;
- Thiết lập sự công bằng có thể trong phân phối và sử dụng đất nông
nghiệp.
Ngoài ra, việc hoạch định và thực hiện tốt chính sách đất nông nghiệp
còn giúp Nhà nước thực thi được các chính sách phát triển kinh tế khác như

chính sách công nghiệp hóa đất nước, chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính
sách phát triển nông thôn hiện đại… Thông qua việc quy hoạch và bảo vệ quỹ
22
đất nông nghiệp, cũng như nhờ khuyến khích nông dân sử dụng đất hiệu quả,
Nhà nước có thể chuyển một phần đất này làm nhà ở và xây dựng các cơ sở
kinh tế phi nông nghiệp. Ngoài ra, chính sách đất nông nghiệp đúng đắn còn
góp phần bản vệ môi trường, gìn giữ vốn rừng và tạo cảnh quan sống có chất
lượng cao.[13]
d) Một số chủ trương chính sách của Nhà nước ta về quản lý và sử dụng đất
nông nghiệp
Giải quyết vấn đề đất đai là một việc làm vô cùng phức tạp của mọi
quốc gia. Đối với nền kinh tế kém phát triển, đại bộ phận những người nghèo
khổ nhất của xã hội là nông dân, đặc biệt là nông dân không ruộng. Vì vậy,
tiến hành cải cách ruộng đất là một chủ trương quan trọng của mọi chính phủ
để thực hiện vấn đề công bằng xã hội. Tuy nhiên, do yêu cầu của quá trình đô
thị hóa nông thôn, đất nông nghiệp ngày một giảm đi, cộng thêm đó là tình
trạng gia tăng dân số nhanh chóng ở khu vực nông thôn làm cho diện tích đất
nông nghiệp bình quân trên một đầu người ngày càng giảm xuống. Đó là một
thách thức mà mọi chính phủ phải đứng đầu khi đưa ra chính sách đất đai.
Trong bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, đất đai
không chỉ là yếu tố cơ bản hàng đầu của sản xuất nông nghiệp nói chung mà
còn là nơi đặt chân của tất cả các loại doanh nghiệp, không chỉ là tư liệu sản
xuất mà còn là vốn của doanh nghiệp và được chuyển dịch theo cơ chế thị
trường.
Nhận thức được vai trò của đất đai đối với nông nghiệp, ngay từ đầu
Đảng ta đã chủ trương thực hiện “người cày có ruộng” và trong từng thời kỳ
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng ta đã có những chủ trương cụ thể
nhằm hoàn thiện chính sách đất đai.
Chính sác đất nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới 1981 đến nay:
* Chính sách khoán sản phẩm tới hộ nông dân trong các hợp tác xã

nông nghiệp
23
Hội nghị lần thứ VI của Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 9 –
1979 đã đưa ra chủ trương nới lỏng quản lý trong các hợp tác xã nông nghiệp,
cho phép xã viên mượn đất để sản xuất, thừa nhận kinh tế hộ gia đình xã viên
như là một bộ phận của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chính sách đất nông nghiệp
của Hội nghị lần thứ VI này, cùng với chủ trương tự do hóa một phần nông sản
hàng hóa đã thổi luống sinh lực mới, tuy còn yếu ớt cho các hộ gia đình nông
dân. Sau một thời gian ngắn sản xuất của các hộ gia đình đã phát triển rất tốt,
góp phần khá lớn trong cải thiện năng suất đất và đời sống của nông dân.
Ngày 13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100 về Cải
tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm” đến nhóm lao động và người
lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp. Chủ trương đổi mới bắt đầu bằng
việc trao quyền quản lý và sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ xã viên hợp
tác xã theo cơ chế khoán sản phẩm trên cơ sở khoán sử dụng đất nông nghiệp
một số vụ sản xuất tiến tới khoán sử dụng đất nhiều vụ.
Chỉ thị số 38 – CT/TW ngày 18/1/1984 về phát triển kinh tế gia đình
nông dân, trong đó cho phép gia đình hộ nông dân tận dụng mọi nguồn đất đai
mà hợp tác xã nông nghiệp và nông, lâm trường quốc doanh chưa sử dụng để
đưa vào sản xuất, không đánh thuế kinh doanh đối với kinh tế hộ gia đình, hộ
nông dân được tiêu thụ sản phẩm làm ra.
Chỉ thị số 29 – CT/TW ngày 21/11/1983 và chỉ thị số 56 – CT/TW
ngày 29/1/1985 về giao đất, giao rừng cho hộ nông dân, trong đó nêu rõ nông
dân được quyền thừa kế tài sản trên đất trồng rừng và cây công nghiệp dài
ngày.
Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10 – NQ/TW ngày 5/4/1988 về đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp (được gọi là khoán 10). Theo cơ chế khoán 10,
diện tích ruộng đất được giao ổn định đến hộ xã viên trong khoảng 15 năm,
sản lượng khoán ổn định trong 5 năm và bảo đảm cho các hộ xã viên nhận đất
khoán được hưởng khoảng trên, dưới 40% sản lượng khoán.

24

×