Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

một số nội dung cơ bản của hợp đồng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.91 KB, 68 trang )

Lời nói đầu
Ngày 15

tháng 4 năm 1992, Quốc hội nớc cộng hoà xă hội chủ nghĩa
Việt nam đã thông qua ban hành Hiến pháp nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (Hiến pháp 1992), để thay thế Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992 thể
hiện một sự thay đổi toàn diện về chế độ kinh tế xã hội của nớc ta, thể hiện
sự đổi mới về đờng lối phát triển của Đảng và Nhà nớc. Trong đó chính sách
kinh tế - đợc xác định là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa,thừa nhận nhiều hình thức sở hữu mới nh sỏ hữu t nhân,t bản đồng thời
Hiến pháp 1992 cũng mở rộng hơn quyền của các cá nhân, công dân trong lĩnh
vực kinh tế, dân sự , dới sự quản lý của Nhà nớc.
Thể chế hoá các qui định của Hiến pháp 1992, Quốc hội Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, ngày 28 tháng 10 năm 1995 đã thông qua Bộ
luật dân sự và Bộ luật có hiệu lực từ ngày 01tháng 07 năm 1996. Đây là một b-
ớc tiến lớn của pháp luật nớc ta, là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm thúc đẩy
giao lu dân sự , tạo môi trờng thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội trong
giai đoạn phát triển mới.
Một trong những quan hệ mà Pháp luật dân sự chú trọng điều chỉnh đó
là hợp đồng dân sự , đây cũng là vấn đề trọng tâm của pháp luật dân sự các nớc
khác trên thế giới. Bởi vì hợp đồng dân sự thể hiện rõ nét nhất các đặc trng cơ
bản của pháp luật dân sự . Trong bộ luật dân sự Việt nam, các quy định về hợp
đồng dân sự chiếm gần 1/2 tổng số điều (838 điều) của Bộ luật, bao gồm
những quy định chung về hợp đồngvà những quy định riêng về từng loại hợp
đồng cụ thể . Việc nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về hợp đồng dân sự có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình đa Bộ luật dân sự vào đời sống xã
hội, thúc đẩy các giao lu dân sự từ đó góp phần hoàn thiện hơn các quy
định của Bộ luật dân sự về hợp đồng .
Chế định hợp đồng dân sự trong Bộ luật dân sự gồm hai phần :
Phần chung bao gồm các qui định, các nguyên tắc chung trong quá trình


xác lập, thực hiên, chấm dứt hợp đồng dân sự. Phần riêng bao gồm các quy
định cụ thể cho từng loại hợp đồng tuỳ thuộc tính chất riêng của mỗi loại. Nh
vậy, hợp đồng dân sự là một vấn đề rất rộng và phức tạp. Do đó trong phạm vi
1
khoá luận này chúng tôi chỉ giới hạn trong việc xem xét một số vấn đề lý luận
thuộc phần chung chế định hợp đồng dân sự.
Phơng pháp tiếp cận của khoá luận là xuất phát từ lý luận và phơng pháp
luận của khoa học lý luận chung Nhà nớc và Pháp luật , khoa học luật dân sự
mà cơ sở là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác
Lênin.
Phơng pháp nghiên cứu đề tài này là nêu ra vấn đề lý luận, phân tích và
so sánh với pháp luật của một số nớc khác và thực tiễn áp dụng, từ đó tổng hợp
và rút ra những nhận xết, kết luận và nêu lên những đề xuất giải quyết nhằm
góp phần làm hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng .
Do giới hạn về khả năng, cũng nh giới hạn của khoá luận, nên chúng
tôi chỉ đề cập trong khoá luận này một số vấn đề sau :

Chơng I : Khái quát chung về hợp đồng dân sự
1.1. Lợc sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật dân sự về hợp
đồng ở Việt Nam.
1. 2. Khái niệm và bản chất pháp lý của hơp đồng dân sự.
1. 3. Một số vấn đề khác biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế.
Chơng II : Một số nội dung cơ bản của hợp đồng dân sự
2. 1. Giao kết hợp đồng dân sự
2. 2. Thực hiện hợp đồng dân sự
2. 3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng dân sự
2. 4. Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó
Chơng III : Một số kiến nghị và kết luận
3.1. Một số nhận xét và kiến nghị về các qui định của hợp đồng dân sự
trong luật dân sự.

3. 2. Kết luận
2
Trong quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp, tôi đã nhận đợc sự
chỉ bảo và giúp đỡ của các thầy cô và một số bạn bè, đặc biệt là sự chỉ bảo giúp
đỡ tận tình của thầy giáo Chu Đức Nhuận đã trực tiếp hớng dẫn tôi trong suốt
thời gian nghiên cứu đề tài. Vì thế tôi xin chân thành cám ơn sự chỉ bảo của
thầy Chu Đức Nhuận và những góp ý chân thành của mọi ngòi đã giúp tôi hoàn
thành khoá luận này.
Chơng 1: khát quát chung về hợp đồng dân sự
1.1. Lợc sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật dân sự về
hợp đồng ở Việt Nam.
Nh n ớc và pháp luật là hai hiện tợng xã hội phức tạp và đa dạng, hai
hiện tợng này có cùng bản chất và gắn bó hết sức mật thiết với nhau. Những
nguyên nhân để hình thành Nh n ớc cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự ra
đời của pháp luật. Pháp luật ra đời và là công cụ của Nh n ớc để thực hiện
quyền lực của mình. Nh n ớc ban hành pháp luật, đảm bảo cho pháp luật đợc
3
thực hiện, và vì vậy pháp luật luôn luôn phản ánh điều kiện kinh tế xã hội
phản ánh lợi ích của Nh n ớc đó. Bác Hồ đã từng nói Nh n ớc nào, pháp luật
ấy. Từ đó cho thấy việc tìm hiểu pháp luật không tách rời khỏi điều kiện kinh
tế xã hội, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của Nh n ớc, cũng nh sự tìm
hiểu chính bản thân Nh n ớc đó.
Thời đại Hùng Vơng An Dơng Vơng với sự phát triển rực rỡ của nền
văn minh Sông Hồng đã xuất hiện một hình thái Nh n ớc sơ khai. Trong thời
kỳ này qua nghiên cứu khảo cổ học cho thấy nền kinh tế cũng đã có bớc phát
triển nhất định ngoài sản xuất nông nghiệp, các ngành nghề thủ công phát triển
phong phú nh: nghề dệt, nghề gốm, nghề mộc, chế tác đá, luyện kim cho nên
các hoạt động tổ chức sản xuất và trao đổi hàng hoá bớc đầu gia tăng. Tuy
nhiên, với sự khởi đầu nh vậy cho thấy pháp luật trong thời kỳ này cha có gì
nhiều có lẽ chủ yếu luật tục. Riêng trong lĩnh vực dân sự, tài liệu có rất ít để

nghiên cứu, chủ yếu dựa vào Tống sử và t liệu khảo cổ học để suy đoán. Tổ
chức xã hội trong thời kỳ này rất đơn giản chủ yếu là mối quan hệ giữa Nh n -
ớc với công xã nông thôn. Toàn bộ đất đai nằm trong phạm vi công xã đều
thuộc sở hữu của công xã, ngời dân chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng, vấn đề t
hữu ruộng đất cha có và đây chính là đặc trng cơ bản của công xã nông thôn
trong giai đoạn này. C. Mác đã khẳng định, đặc trng cơ bản của hình thái sản
xuất Châu á là công xã nông thôn trong đó quyền sở hữu ruộng đất thuộc về
công xã. Trong th gửi ăng ghen, C.Mác viết ; Việc không có chế độ t hữu
ruộng đất là chìa khóa tìm hiểu toàn bộ phơng Đông. Nh n ớc có một số quy
định mang tính chất bắt buộc chung, nhng vấn đề giao lu dân sự thì không có
tài liệu nào đề cập. Với một hình thái Nh n ớc sơ khai tập hợp từ những bộ lạc,
tổ chức còn hết sức đơn giản hơn nữa các hình thái kinh tế của bộ lạc mang
nặng hình thái kinh tế tự cung tự cấp là chủ yếu, điều này có thể cho thấy kỳ
này quan hệ trao đổi giao lu dân sự cha thật phát triển. Nhng quan hệ trao đổi
có lẽ đợc điều chỉnh chủ yếu bằng các tập tục, thói quen đã có trong các bộ lạc
trớc đây mà thôi.
Trong gần 1000 năm đô hộ, chính quyền phong kiến phơng Bắc tìm mọi
cách đồng hóa dân tộc ta. Nh n ớc lúc bấy giờ tổ chức theo thể chế hành chính
của Trung Quốc, pháp luật Trung Quốc cũng đợc du nhập và áp đặt vào Việt
Nam. Đất đai thuộc quyền sở hữu tối cao của các Hoàng đế Trung Hoa, ruộng
đất do chính quyền đô hộ trực tiếp quản lý. Lúc này chế độ sở hữu ruộng đất,
4
đợc áp đặt vào Âu cơ với hai hình thức sở hữu t nhân và sở hữu Nh n ớc. Tuy
nhiên quyền lợi sở hữu t nhân rất hạn hẹp và bị hạn chế về quyền năng. Sau khi
đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trng, Mã Viện đã thi hành chính sách pháp luật Nhà
Hán có lợi cho nền thống trị đô hộ, theo lời Mã Viện tâu với vua Hán là Quang
Vũ thì : Luật Việt khác luật Hán 10 điều. Tuy nhiên trong thời kỳ này pháp
luật đợc áp dụng là pháp luật nhà Hán song có chiếu cố đến tục lệ của ngời
Việt. Sang đến thời nhà Đờng, các chính sách của chế độ phong kiến Trung
Quốc đợc áp dụng rộng rãi hơn nh các chế độ kinh tế khác, tài chính, thuế

khóa, tiền tệ Chính sách thuế: Tô, dung, điệu hay lỡng thuế đợc áp dụng từ
thế kỷ thứ VII đến thế kỷ VIII. Tuy nhiên các vấn đề về dân sự nh hợp đồng,
thừa kế không có tài liệu nào đề cập. Điều chỉnh quan hệ này có lẽ thực hiện
chủ yếu bằng phong tục, tập quán; các quy định về dân sự chủ yếu điều chỉnh
các quan hệ sở hữu ruộng đất, mang tính chất củng cố quyền sở hữu ruộng đất
của chính quyền đô hộ và quan lại ngời Hán. Hiệu lực của những quy định này
mang tính chất áp đặt, tức là duy trì hiệu lực bằng lực lợng của chính quyền đô
hộ.
Sau chiến thắng Bạch Đằng 938, mở đầu thời kỳ độc lập tự chủ của Nh
nớc từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIX. Bắt đầu bằng sự hình thành và củng cố
chính quyền độc lập tự chủ từ họ Khúc đến Ngô - Đinh- Tiền Lê. Thời kỳ này,
lĩnh vực hình sự thể hiện hình bằng phạh hà khắc. Nhng lĩnh vực dân sự ít thấy
có tài liệu đề cập, trong đó vấn đề sở hữu ruộng đất là một vấn đề đợc quan tâm
nhất. Chế độ sở hữu Nh n ớc với ruộng đất đợc xác lập trên danh nghĩa sở hữu
công xã về ruộng đất. Yếu tố t hữu về ruộng đất có thể xuất hiện từ trong thời
kỳ Bắc thuộc nhng chiếm một tỷ lệ nhỏ hẹp không phổ biến. Trong giao lu dân
sự đã có bớc phát triển mới. Yếu tố để khẳng định và liên quan đến điều này là
việc Nh n ớc tiến hành đúc tiền Thái bình thông báo năm 968. Lê Hoàn đúc
tiền Thiên phúc vào năm 984. Việc Nh n ớc đúc tiền ngoài ý nghĩa khẳng đ
Sau chiến thắng Bạch Đằng 938, mở đầu thời kỳ độc lập tự chủ của Nh n ớc từ
thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIX. Bắt đầu bằng sự hình thành và củng cố chính
quyền độc lập tự chủ từ họ Khúc đến Ngô - Đinh- Tiền Lê. Thời kỳ này, lĩnh
vực hình sự thể hiện hình bằng phạh hà khắc. Nhng lĩnh vực dân sự ít thấy có
tài liệu đề cập, trong đó vấn đề sở hữu ruộng đất là một vấn đề đợc quan tâm
nhất. Chế độ sở hữu Nh n ớc với ruộng đất đợc xác lập trên danh nghĩa sở hữu
công xã về ruộng đất. Yếu tố t hữu về ruộng đất có thể xuất hiện từ trong thời
5
kỳ Bắc thuộc nhng chiếm một tỷ lệ nhỏ hẹp không phổ biến. Trong giao lu dân
sự đã có bớc phát triển mới. Yếu tố để khẳng định và liên quan đến điều này là
việc Nh n ớc tiến hành đúc tiền Thái bình thông báo năm 968. ịnh thiết chế

quyền lực nó cũng phản ánh nhu cầu giao lu hàng hoá mở rộng, kinh tế phát
triển đòi hỏi phải có tiền làm vật ngang giá chung trong quan hệ trao đổi hàng
hoá. Sự xuât hiện tiền tệ đã thúc đẩy sự phát triển giao lu dân sự, điều này
chứng minh rằng giao lu dân sự trong thời kỳ này có bớc phát triển về cả lợng
và về chất. Tuy nhiên hiện nay chúng ta không còn tài liệu ghi nhận điều này,
nhng pháp luật cũng chỉ phản ánh tồn tại khách quan của giao lu dân sự đang
diễn ra mà thôi. Tập quán vẫn đợc coi là công cụ chủ yếu để điều chính quan
hệ dân sự và hôn nhân gia đình.
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ thứ XV là thời kỳ phát triển rực rỡ: thời kỳ Lý
Trần- Hồ. Cùng với việc củng cố chế độ và phát triển Nh n ớc phong kiến
Trung ơng tập quyền, chính sách xã hội và hoạt động lập pháp của Nh n ớc
cũng phát triển. Thời kỳ Lý Trần, xã hội phong kiến cũng có bớc phát triển
nhất định về kinh tế văn hóa góp phần ổn định cuộc sống của nhân dân.
Pháp luật thời kỳ này cũng có pháp luật thành văn. Đó là bộ hình th của triều
Lý và triều Trần. Hai bộ hình th đều bị nhà Tống cớp mất, nhng nội dung còn
đợc thể hiện trong sử sách. Với một nền kinh tế nông nghiệp lúa nớc, vấn đề
ruộng đất là vấn đề trọng yếu trong chính sách pháp luật của Nh n ớc phong
kiến. Dới triều đại Lý Trần ruộng đất vẫn thuộc sở hữu Nh n ớc. Chế độ t
hữu ruộng đất đã phát triển, song quyền định đọat tối cao vẫn thuộc Nh n ớc.
Nhà vua với chính sách phong cấp đất đai và những hộ nông dân cho thân v-
ơng, quý tộc, cung phi nên đã hình thành những điền trang thái ấp rộng lớn, do
đó chế độ sở hữu t nhân về ruộng đất thời kỳ này phát triển. Vì có sở hữu t
nhân về ruộng đất nên quan hệ trao đổi, mua bán, cầm cố đất đai phát triển và
do đất đai là tài sản có giá trị, cơ sở cho sự tồn tại của xã hội nông nghiệp nên
mọi quan hệ liên quan đến đất đai đợc pháp luật quan tâm ghi nhận.Vì thế
trong các đạo cụ của nhà vua có những đạo dụ quy định về mua bán đất đai,
điều luật cổ mà ngày nay còn thấy ghi lại trong sử sách về mua bán ruộng đất
đợc ban hành dới triều vua Lý Anh Tông (1138-1175) vào năm 1142 về việc
chuộc ruộng : Phàm điển mại (bán đợ, có thời hạn chuộc) ruộng đất đã cày
cấy, trong hạn 20 năm cho chuộc Phàm đoạn mại (bán đứt) ruộng hoang hay

ruộng đã cấy cầy, đã có văn tự, thì Sau chiến thắng Bạch Đằng 938, mở đầu
6
thời kỳ độc lập tự chủ của Nh n ớc từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIX. Bắt đầu
bằng sự hình thành và củng cố chính quyền độc lập tự chủ từ họ Khúc đến
Ngô - Đinh- Tiền Lê. Thời kỳ này, lĩnh vực hình sự thể hiện hình bằng phạh hà
khắc. Nhng lĩnh vực dân sự ít thấy có tài liệu đề cập, trong đó vấn đề sở hữu
ruộng đất là một vấn đề đợc quan tâm nhất. Chế độ sở hữu Nh n ớc với ruộng
đất đợc xác lập trên danh nghĩa sở hữu công xã về ruộng đất. Yếu tố t hữu về
ruộng đất có thể xuất hiện từ trong thời kỳ Bắc thuộc nhng chiếm một tỷ lệ nhỏ
hẹp không phổ biến. Trong giao lu dân sự đã có bớc phát triển mới. Yếu tố để
khẳng định và liên quan đến điều này là việc Nh n ớc tiến hành đúc tiền Thái
bình thông báo năm 968. Lê Hoàn đúc tiền Thiên phúc vào năm 984. Việc
Nh n ớc đúc tiền ngoài ý nghĩa khẳng đ Sau chiến thắng Bạch Đằng 938, mở
đầu thời kỳ độc lập tự chủ của Nh n ớc từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIX. Bắt
đầu bằng sự hình thành và củng cố chính quyền độc lập tự chủ từ họ Khúc đến
Ngô - Đinh- Tiền Lê. Thời kỳ này, lĩnh vực hình sự thể hiện hình bằng phạh hà
khắc. Nhng lĩnh vực dân sự ít thấy có tài liệu đề cập, trong đó vấn đề sở hữu
ruộng đất là một vấn đề đợc quan tâm nhất. Chế độ sở hữu Nh n ớc với ruộng
đất đợc xác lập trên danh nghĩa sở hữu công xã về ruộng đất. Yếu tố t hữu về
ruộng đất có thể xuất hiện từ trong thời kỳ Bắc thuộc nhng chiếm một tỷ lệ nhỏ
hẹp không phổ biến. Trong giao lu dân sự đã có bớc phát triển mới. Yếu tố để
khẳng định và liên quan đến điều này là việc Nh n ớc tiến hành đúc tiền Thái
bình thông báo năm 968. ịnh thiết chế quyền lực nó cũng phản ánh nhu cầu
giao lu hàng hoá mở rộng, kinh tế phát triển đòi hỏi phải có tiền làm vật ngang
giá chung trong quan hệ trao đổi hàng hoá. Sự xuât hiện tiền tệ đã thúc đẩy sự
phát triển giao lu dân sự, điều này chứng minh rằng giao lu dân sự trong thời
kỳ này có bớc phát triển về cả lợng và về chất. Tuy nhiên hiện nay chúng ta
không còn tài liệu ghi nhận điều này, nhng pháp luật cũng chỉ phản ánh tồn tại
khách quan của giao lu dân sự đang diễn ra mà thôi. Tập quán vẫn đợc coi là
công cụ chủ yếu để điều chính quan hệ dân sự và hôn nhân gia đình.

Từ thế kỷ XI đến thế kỷ thứ XV là thời kỳ phát triển rực rỡ: thời kỳ Lý
Trần- Hồ. Cùng với việc củng cố chế độ và phát triển Nh n ớc phong kiến
Trung ơng tập quyền, chính sách xã hội và hoạt động lập pháp của Nh n ớc
cũng phát triển. Thời kỳ Lý Trần, xã hội phong kiến cũng có bớc phát triển
nhất định về kinh tế văn hóa góp phần ổn định cuộc sống của nhân dân.
Pháp luật thời kỳ này cũng có pháp luật thành văn. Đó là bộ hình th của triều
7
Lý và triều Trần. Hai bộ hình th đều bị nhà Tống cớp mất, nhng nội dung còn
đợc thể hiện trong sử sách. Với một nền kinh tế nông nghiệp lúa nớc, vấn đề
ruộng đất là vấn đề trọng yếu trong chính sách pháp luật của Nh n ớc phong
kiến. Dới triều đại Lý Trần ruộng đất vẫn thuộc sở hữu Nh n ớc. Chế độ t
hữu ruộng đất đã phát triển, song quyền định đọat tối cao vẫn thuộc Nh n ớc.
Nhà vua với chính sách phong cấp đất đai và những hộ nông dân cho thân v-
ơng, quý tộc, cung phi nên đã hình thành những điền trang thái ấp rộng lớn, do
đó chế độ sở hữu t nhân về ruộng đất thời kỳ này phát triển. Vì có sở hữu t
nhân về ruộng đất nên quan hệ trao đổi, mua bán, cầm cố đất đai phát triển và
do đất đai là tài sản có giá trị, cơ sở cho sự tồn tại của xã hội nông nghiệp nên
mọi quan hệ liên quan đến đất đai đợc pháp luật quan tâm ghi nhận.Vì thế
trong các đạo cụ của nhà vua có những đạo dụ quy định về mua bán đất đai,
điều luật cổ mà ngày nay còn thấy ghi lại trong sử sách về mua bán ruộng đất
đợc ban hành dới triều vua Lý Anh Tông (1138-1175) vào năm 1142 về việc
chuộc ruộng : Phàm điển mại (bán đợ, có thời hạn chuộc) ruộng đất đã cày
cấy, trong hạn 20 năm cho chuộc không đợc chuộc lại, ai vi phạm phải phạt
80 trợng (luật cổ thời Lý, đã thất truyền, nhng điều luật trên đợc ghi trong
sách Đại Việt ký và Khâm định Việt sử thông giám cơng mục).
Năm 1135 Lý Trần Tông xuống chiếu: Những ngời bán ruộng ao không
đợc bội tiền nên mà chuộc lại, làm trái thì phải tội. Ngoài ra Lý Anh Tông
cũng xuống chiều quy định rõ về việc cầm đợ nh sau: Ruộng đất đã cày cấy
đem cầm đợ thì đợc phép chuộc lại trong thời hạn 20 năm, quá thời hạn này thì
không đợc phép chuộc nữa, ngời nhận ruộng đem cầm trở thành ngời chủ

ruộng đó. Những quy định này thể hiện những giao lu dân sự liên quan đến
ruộng đất đợc ghi nhận cụ thể và cho thấy trong lĩnh vực hợp đồng dân sự pháp
luật cũng đã có những quy định thành văn . Đó là bớc tiến trong lĩnh vực pháp
luật về hợp đồng dân sự.
Đến đời nhà Trần các giao lu dân sự đối với ruộng đất càng phát triển
hơn. Ruộng đất t hữu trở thành đối tợng trong các quan hệ chuyển nhợng, cầm
đợ, việc mua ruộng cúng cho nhà chùa thể hiện rõ chế độ t hữu ruộng đất phát
triển trong thời kỳ này. Năm 1292 nhà Trần ban hành đạo dụ quy định : Cho
phép lúc đói kém bán con làm nô tỳ, bố mẹ có thể chuộc lại con, Ruộng đất
đã bán đứt (đoạn mại) không đợc đòi chuộc lại. Để ổn định giao lu dân sự,
pháp luật thời kỳ này quy định rõ hình thức, thủ tục của hợp đồng mua bán
8
ruộng đất, đạo dụ năm 1237, tháng 12 đời Trần Thái Tông (Trần Cảnh) bắt
buộc: Phàm làm chúc th văn khế, nếu là giấy tờ về ruộng đất, vay mợn, thì ng-
ời làm chứng in tay ở ba dòng trớc, ngời bán in tay ở bốn dòng sau. Cũng
chính dới triều Trần Thái Tông, Nh n ớc phong kiến đã thực hiện một việc
hiếm có về mặt này là tự đứng ra đem ruộng công (quan điền) bán cho dân làm
của t với giá 5-10 quan/mẫu. Thời kỳ này chắc là có sự tranh chấp liên quan
đến sự dịch chuyển đất đai nên mới có đạo dụ quy định hình thức, thủ tục rõ
ràng vậy. Vấn đề hiệu lực hợp đồng cũng đợc quy định chặt chẽ: Nếu ruộng
đất đã bán đứt, không đợc đòi chuộc lại, nếu cố tình đòi chuộc lại thì bị phạt 80
trợng. Quy định có tính chất hình sự nhằm ổn định giao lu dân sự, sử dụng
trách nhiệm hình sự bảo vệ quan hệ dân sự là nét đặc trng, điển hình của pháp
luật phong kiến Việt Nam và pháp luật phong kiến Trung Quốc.
Các quan hệ khác nh vay mợn, cầm cố cũng đợc pháp luật thời Lý
Trần quy định cụ thể về hình thức và nội dung. Đặc biệt vấn đề thời hạn, đợc
ghi nhận cụ thể. Chiếu chỉ 1237 quy định hạn cầm ruộng là 20 năm, quá 20
năm ngời cầm ruộng không có quyền lấy lại, việc cầm ruộng phải làm văn khế.
Quan hệ vay nợ quy định rõ Nếu con nợ không trả đợc nợ sẽ bắt giam cho đến
khi có tiền chuộc, nếu không có tiền chuộc, thì phải làm nô tỳ để trả nợ.

Năm 1400 nhà Hồ cớp ngôi nhà Trần, triều Hồ đã thực hiện nhiều chính
sách cải tạo táo bạo về kinh tế và chính trị, với chính sách Hạn điền vào năm
1397 và Hạn nô 1401 đợc ban hành đã hạn chế thế lực qúy tộc nhà Trần. Đây
là chính sách làm tiền đề để nhà Lê xóa bỏ chế độ điền trang thái ấp của giai
cấp địa chủ phong kiến quý tộc.
Có thể nói từ thế kỷ thứ XI đến thế kỷ XV xã hội Việt Nam đã có bớc
phát triển nhất định, chính quyền Nh n ớc phong kiến trung ơng tập quyền đợc
củng cố và phát triển vững chắc, tạo điều kiện ổn định và phát triển kinh tế.
Trong hoàn cảnh đó quan hệ giao lu kinh tế có cơ sở để đợc Nh n ớc lu tâm và
có những văn bản pháp luật, thành văn quy định, mặc dù chỉ chú trọng nhiều
đến quan hệ có liên quan đến ruộng đất. Với một nớc nông nghiệp thì ruộng
đất là t liệu sản xuất chủ yếu là nền tảng của chế độ kinh tế, vì vậy chế độ sở
hữu ruộng đất chính là cơ sở để tìm hiểu vấn đề cơ bản của luật dân sự, để đánh
giá chiều hớng phát triển chung của pháp luật dân sự, cũng nh sự phát triển của
chế độ hợp đồng. Với sự hình thành và phát triển sở hữu t nhân về ruộng đất đã
thúc đẩy việc ban hành các quy phạm pháp luật thành văn trong quan hệ giao l-
9
u hàng hóa. Tuy nhiên, chế độ sở hữu Nh n ớc về đất đai vẫn là chủ yếu và
luôn giữ địa vị thống trị so với các hình thức sở hữu khác về ruộng đất và đó
cũng là đặc trng cơ bản hình thái kinh tế xã hội của chế độ phong kiến ph-
ơng Đông. Đây là yếu tố có vai trò quan trọng trong việc tác động đến chế độ
hợp đồng dân sự.
Cùng với lễ đăng quang Hoàng đế của Lê Lợi (năm 1428) là việc ban
hành các chính sách dân sự kinh tế. Trong triều đại nhà Lê, chính sách dân
sự kinh tế có nhiều điểm tiến bộ, trong đó có việc ban hành chế độ lộc điền
tại chiếu chỉ năm 1477. Lộc điền là một thứ lơng bổng đặc biệt đợc cấp bằng
ruộng đất cho các quan lại theo phẩm hàm nhng chỉ cấp ruộng đất, chứ không
cấp các hộ nông dân sống trên ruộng đất ấy. Vì vậy chế độ nông nô, nô tỳ bị
tan rã, ngời dân cày cấy trên ruộng đất đó vẫn là thần dân tự do của chế độ
phong kiến. Chế độ quân điền là chính sách lớn thứ hai về ruộng đất, đợc quy

định trong đạo dụ năm 1477 thời Lê Lợi và đợc hoàn chỉnh vào thời Hồng Đức
(vua Lê Thánh Tông).
Với các chính sách Trọng nông, khuyến nông, thống nhất tiền tệ và
các đơn vị đo lờng chính, quan hệ giao lu dân sự có bớc phát triển cả bề rộng
và chiều sâu. Họat động lập pháp của nhà Lê đợc đẩy mạnh và thể hiện trên
nhiều lĩnh vực xã hội. Những thành tựu lập pháp phải kể đến làm Luật th gồm
6 quyển do Nguyễn Trãi soạn thảo (1400-1442).Quốc triều luật lệnh gồm 6
quyển do Phan Phù biên soạn (1440-1442); Hồng Đức Thiện chính th (1470-
1497) Đặc biệt tiêu biểu là: Bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là bộ luật Hồng
Đức) ra đời 1483. Bộ luật Hông Đức là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng
trong lịch sử pháp luật Việt Nam, là đỉnh cao trong thành tựu lập pháp phong
kiến.
Bộ luật Hồng Đức gồm 722 điều chia thành 6 quyển. Điểm đáng lu ý
trong luật Hồng Đức là vấn đề dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình đã có một vị
trí quan trọng trong bộ luật. Các quy định về : Hộ, hôn, điền sản đều ghi nhận
trong quyển ba đã phản ánh khá chính xác phong tục tập quán của ngời Việt
Nam trong giao lu dân sự. Quan điểm thể hiện trong bộ luật Hồng Đức rất tiến
bộ, nó không phải là bộ luật hớng nho với t tởng tam tòng, tứ đức nh pháp luật
nhà Minh, nhà Đờng, bộ luật Hồng Đức cho phép con cái có quyền tài sản
riêng mặc dù vẫn đang chung sống cùng cha mẹ. Thể hiện mối quan hệ bình
đẳng giữa vợ chồng về tài sản, đây thực sự là điều khó hình dung trong các
10
triều đại phong kiến mà nho giáo vốn là t tởng chính thống trị Quốc. Các quan
hệ trong lĩnh vực hợp đồng đợc quy định đầy đủ và chi tiết hơn pháp luật của
triều đại trớc. Cùng với việc ghi nhận các nguyên tắc cơ bản của giao lu dân c
thì những điều kiện bảo đảm hiệu lực của khế ớc (hợp đồng) cũng đã đợc thể
hiện trong các quy định của pháp luật, đặc biệt vi phạm nguyên tắc ng thuận
(hà tỳ).
Điều 187 luật Hông Đức quy định: Trong các chợ ở kinh thành, thôn
quê những mua bán không theo đúng cân, thớc, thăng, đấu chính thức mà sửa

đổi sai theo ý riêng để mua bán thì bị phạt tội đồ hay tội biếm (giáng hạ).
Theo điều 190 Bộ luật Hồng Đức đoạn cuối Ngời dùng thăng, đấu, cân, thớc
để mua bán lấy lời riêng thì tội cũng những tội trộm. Quan hệ hợp đồng chỉ đ-
ợc coi là hợp pháp khi những tham gia thực sự bình đẳng tự nguyện, điều 355
bộ luật Hồng Đức Ngời nào ức hiếp mua ruộng đất của ngời, thì phải giáng hạ
hai bậc, nhng cho lấy lại tiền. Điều này cũng thể hiện một điểm tiến bộ trong
dân sự là sự khôi phục tình trạng ban đầu cho các bên khi hợp đồng bị vô hiệu.
Hay trong điều 638 bộ luật Hồng Đức quy định. Những ngời có chức quyền
mà nhiễu sách vay mợn của cải đồ vật của dân trong hạt thì khép vào tội uổng
pháp (lạm dụng pháp luật) phải hoàn lại vật cho chủ, nếu đem của cải đồ vật
của mình cho dân vay mợn để lấy lời nhiều thì cũng phải tội nh vậy, những của
cải đồ vật phải tịch thu sung công.
Ngoài ra tính hợp pháp trong quan hệ hợp đồng cũng còn thể hiện ở
những quy định có nội dung bảo vệ lợi ích chung của Nh n ớc nh việc bán
ruộng đất, nô tỳ, voi, ngựa cho ngời nớc ngoài bị khép vào tội chém (điều 73,
74 bộ luật Hồng Đức).
Trong quan hệ cho vay luật cũng quy định mức lãi suất nhất định đảm
bảo công bằng trong giao lu dân sự, điều 587 bộ luật Hồng Đức, dự liệu: cho
dù vay trong bao nhiêu năm chủ nô cũng không đợc tính quá một gốc, một lãi
(Tuế nguyệt tuy đa, bất quá nhất bản, nhất tức), hình thức hợp đồng phải bằng
văn tự, tiền lãi đợc tính 15 đồng lãi trên một quan mỗi tháng. Điều kiện của
hình thức hợp đồng đợc quy định rõ. Trong trờng hợp không đảm bảo về hình
thức, thủ tục của hợp đồng có thể bị vô hiệu.
Điều 336 bộ luật Hồng Đức: Mua bán tài sản là ruộng đất phải lập
thành văn khế thành hai bản giống nhau, có xã trởng, quan trởng chứng kiến.
11
Luật Hồng Đức có quy định cụ thể những giao dịch về ruộng đất nh: bán
đứt (đoạn mại) bán đợ có thời hạn chuộc. Điều 384 bộ luật Hồng Đức quy
định thời hạn chuộc ruộng là 30 năm; quá 30 năm không chuộc thì không đợc
chuộc nữa.

Vấn đề trách nhiệm trong các trờng hợp vi phạm hợp đồng cũng đợc quy
định chặt chẽ trong đó có trách nhiệm hình sự. Điều 588 bộ luật Hồng Đức quy
định : Mắc nợ quá hạn thì phải tội trợng, cố ý không trả bị biếm hai t và trả
gấp đôi, hay điều 579 bộ luật Hồng Đức: ngời thuê súc vật để chăn nuôi mà
đánh mất thì phải phạt 80 trợng và đền tiền theo giá súc vật bị mất. Nguyên
tắc bình đẳng và công bằng đợc thể hiện trong quan hệ thuê mớn ruộng đất.
Luật nhà Lê chú ý bảo vệ quyền lợi cả ngời chủ ruộng và cả tá điền (ngời thuê
mớn). Ví dụ quy định bớt tò suất khi bị mất mùa hoặc thời tiết xấu.
Nhìn chung trong bộ luật Hồng Đức, chế định hợp đồng dân sự đợc quy
định tơng đối đầy đủ, bao quát đợc các hợp đồng chủ yếu nh mua bán, cầm cố,
vay nợ, thuê mớn, bảo lãnh. Đã xử lý các vấn đề liên quan đến hiệu lực pháp lý
của hợp đồng. Có thể nói pháp luật về HĐDS trong luật Hồng Đức đã có sự
phát triển đáng kể, có một vị trí tơng đối độc lập trong hệ thống pháp luật nói
chung, các yêu cầu cơ bản về phơng diện pháp lý của giao dịch dân sự đợc
phản ánh có nhiều nét tơng đồng với các quy định của luật dân sự hiện đại. Tập
hợp hệ thống các quy định trong pháp luật thời Lê cho thấy chế định HĐDS đ-
ợc quy định chi tiết, cụ thể làm cơ sở cho sự ổn định và mở rộng giao lu dân sự.
Cuối thế kỷ XV sang đầu thế kỷ XVI, xã hội Việt Nam có sự mất ổn
định và đi vào cuộc nội chiến phân biệt. Thời kỳ này đất nớc bị phân chia làm
hai miền: Đàng trong- Đàng ngoài, lấy sông Gianh làm giới tuyến.
Năm 1527 Mạc Đăng Dung phế truất nhà Lê lập ra Triều Mạc (1527-
2592) Triều Mạc tồn tại trong một thời gian ngắn, nhng nhìn về góc độ pháp
luật đã ban hành bộ Thiên Chính Th. Trong đó vấn đề giao lu dân sự lại có
những điểm tiến bộ so với luật Hồng Đức. Mạc Đăng Dung cho đúc tiền mới.
Cải cách đặc biệt của Mạc Đăng Dung trong lĩnh vực dân sự là điều chỉnh quan
hệ dân sự bằng biện pháp dân sự. Nội dung chủ yếu của các quy định pháp luật
đã phản ánh đợc tính chất bình đẳng, ngang giá trong giao lu dân sự thông qua
việc quy định những hình phạt tiền nhiều hơn là các biện pháp hình sự và đó
chính là điểm tiến bộ trong pháp luật về HĐDS.
12

Từ những năm 40 của thế kỷ XVI, khi vua Lê chúa Trịnh nắm quyền ở
đàng ngoài, thì pháp luật dân sự không có gì tiến triển. Thời kỳ này chủ yếu áp
dụng luật lệ triều Lê. Vấn đề hơng ớc làng xã nổi lên và rất phát triển. Trong xã
hội vừa tồn tại Phép nớc vừa tồn tại Lệ làng không thể dẹp đợc. Theo đánh
giá của C. Mác về vấn đề này thì Đây là con đẻ của nền pháp luật thiếu hoàn
chỉnh, những quy tắc cộng đồng này đợc xuất hiện để duy trì trật tự chung của
cộng đồng đó.
ở Đàng trong chúa Nguyễn cũng vẫn sử dụng pháp luật của nhà Lê. Sau
khi nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn đánh bại thì nền kinh tế nớc nhà bớc vào giai
đoạn trì trệ với chính sách kinh tế ức thơng lạc hậu, với chế độ thuế khóa
nặng nề làm cho quan hệ giao lu hàng hoá kém phát triển. Nền kinh tế bị kìm
hãm bằng nhiều chính sách pháp luật lạc hậu trong đó có đạo dụ 1834 ra lệnh
cấm họp chợ ở nhiều nơi. Quan hệ buôn bán thông thơng với nớc ngoài bị bóp
nghẹt bởi chính sách Bế quan tỏa cảng. Có thể đánh giá chung cho thời kỳ
này là pháp luật dân sự kém phát triển do ảnh hởng của chính sách kinh tế lạc
hậu. Trong thời kỳ này sản phẩm lập pháp cao nhất là bộ Hoàng Việt luật lệ
do chính Gia Long phê chuẩn vào năm 1815 còn đợc gọi là luật Gia Long.
Trong đó vấn đề HĐDS đợc quy định rất hạn chế. Tuy nhiên có một số vấn đề
cơ bản về hợp đồng đợc ghi nhận ở một số điều luật cụ thể; Ví dụ nh quy định
về điều kiện vô hiệu của khế ớc tại điều 87 luật Gia Long về Đạo mại điền
sản. Tức là những trờng hợp lừa dối trong quan hệ mua bán dẫn đến hậu quả
sự ng thuận của đơng sự không còn giá trị. Luật Gia Long quy định một số tr-
ờng hợp miễn thi hành khế ớc mà pháp luật hiện nay cho đó là trờng hợp bất
khả kháng tại điều 166 cho rằng: Trờng hợp bị mất, bị hỏa hoạn, bị cớp, đạo tặc
hoặc các súc vật bị chết vì bệnh có chứng cớ rõ ràng, thì không bị tội. Vấn đề
thời hạn của khế ớc cũng đợc quy định cụ thể: Điển mại không ghi rõ thời hạn
chuộc, thì đợc chuộc lại trong 30 năm.
Tựu chung lại toàn bộ quá trình phát triển của pháp luật dân sự nói
chung và hợp đồng dân sự nói riêng đều chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế
xã hội; điều kiện chính trị của các triều đại phong kiến đơng thời. Sự phát

triển của HĐDS trải qua một quá trình tất yếu, ban đầu là những phong tục,
tập quán, thói quen trong quan hệ trao đổi, dần dần xã hội phát triển, Tựu
chung lại toàn bộ quá trình phát triển của pháp luật dân sự nói chung và hợp
đồng dân sự nói riêng đều chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế xã hội;
13
điều kiện chính trị của các triều đại phong kiến đơng thời. trong giao lu dân sự
bớc đầu hình thành trong quy định pháp luật thành văn từ các triều đại Lý
Trần. Dới triều đại nhà Lê pháp luật dân sự đã thực sự đợc quan tâm, ghi nhận
trong hệ thống pháp luật chung và đã có một vị trí độc lập trong bộ luật Hồng
Đức.
Thời kỳ tiếp theo trong lịch sử dân tộc là thời kỳ Pháp thuộc. Với t tởng
pháp luật của một chế độ xã hội phát triển, chính quyền đô hộ lúc bấy giờ quan
tâm xây dựng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực dân sự. Trong thời kỳ này có ba bộ
luật dân sự đợc ban hành áp dụng cho ba kỳ trên lãnh thổ Việt Nam. Bộ luật
dân sự giản yếu 1883 mà nội dung là sự rút tỉa những nguyên tắc đại cơng của
Bộ luật dân sự Pháp và đợc áp dụng cho xứ thuộc địa Nam kỳ. Bộ dân luật Bắc
Kỳ năm 1931 áp dụng cho xứ bảo hộ Bắc Kỳ và Bộ HoàngViệt Trung Kỳ Bộ
luật 1936 áp dụng cho xứ Trung kỳ. Nhìn chung trong thời kỳ này, lần đầu tiên
trong lịch sử pháp luật Việt Nam có các bộ luật dân sự độc lập để điều chỉnh
các quan hệ xã hội trong lĩnh vực dân sự. Chế định HĐDS đợc ghi nhận một
cách hoàn thiện trên nguyên tắc của luật dân sự hiện đại. Mặc dù đợc xây dựng
trên nguyên tắc của Bộ luật dân sự Pháp 1804 nhng đã có sự sửa đổi cho phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là các yếu tố phong
tục tập quán, thuần phong mỹ tục của ngời Việt Nam.
Sau khi đất nớc giành đợc độc lập, ngày 10/10/1945 Hồ Chủ Tịch đã ký
sắc lệnh số 90/SL về việc tạm thời sử dụng luật lệ hiện hành ở Việt Nam cho
đến khi ban hành luật mới. Ngày 22/5/1950 Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh 97/SL đã
nêu ra những nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự
ở Việt Nam. Từ đó đến nay Nh n ớc đã ban hành rất nhiều văn bản pháp quy
để điều chỉnh quan hệ dân sự, chế định hợp đồng dân sự đã đợc đúc kết xây

dựng thành pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991. Ngoài ra còn rất nhiều văn
bản pháp luật khác điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự chuyên biệt nh Pháp
lệnh nhà ở. Qua một quá trình soạn thảo lâu dài cho đến ngày 9/11/1995 Nh
nớc đã công bố ban hành Bộ luật dân sự (viết tắt là : BLDS), việc ban hành
BLDS đã đánh dấu một bớc phát triển mới về pháp luật dân sự, đã pháp điển
hóa toàn bộ các quy định trớc đây trong lĩnh vực dân sự đa vào bộ luật một
cách có hệ thống. Chế định hợp đồng dân sự chiếm một vị trí xứng đáng trong
bộ luật. Ngoài những vấn đề đợc quy định mang tính chất nguyên lý chung
14
trong phần giao dịch dân sự, thì phần thứ ba của bộ luật: Nghĩa vụ dân sự và
hợp đồng dân sự, đã đợc quy định chi tiết, cụ thể từ điều 285 điều 633 BLDS.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của pháp luật dân sự nói
chung và chế định HĐDS nói riêng chúng ta thấy rằng chế định HĐDS đã có
một truyền thống và quá trình phát triển lâu dài. Tuy rằng t liệu lịch sử về pháp
luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng trong thời kỳ đầu dựng nớc, thời
kỳ 1000 năm bắc thuộc, thời kỳ Lý Trần Hồ không có nhiều nhng có thể
thấy rằng, trớc đó các quan hệ giao lu chủ yếu đợc điều chỉnh bằng tập quán đã
tồn tại lâu đời. Nhng quy định pháp luật thành văn đã hình thành nhng còn rất
hạn chế. Khi bắt đầu thời kỳ xây dựng Nh n ớc phong kiến trung ơng tập
quyền, nền kinh tế ổn địnn và có những bớc phát triển nhất định đòi hỏi có
những quy phạm pháp luật cụ thể chặt chẽ về hình thức, thủ tục, thời hạn cho
những giao dịch về ruộng đất. Đây là cơ sở khách quan tạo ra một bớc phát
triển nhất định của pháp luật thành văn trong lĩnh vực giao lu dân sự.
Thời kỳ nhà Lê trong lĩnh vực lập pháp vấn đề giao lu dân sự và các
quan hệ dân sự khác đã có một vị trí riêng trong bộ luật Hồng Đức; Tuy chỉ
chiếm một phần khiêm tốn nhng lại thể hiện những t tởng pháp luật tiến bộ, có
nhiều giá trị mà ngày nay vẫn còn gây nhiều bất ngờ cho giới nghiên cứu khoa
học pháp lý. Bởi vì cùng một niên đại lịch sử, pháp luật của Trung Quốc (đời
nhà Đờng, nhà Minh) đã không có đợc những t tởng tiến bộ tốt đẹp này.
Những quy định về giao lu dân sự chỉ thực sự phát triển từ khi Nhà nớc

độc lập. Trớc thời điểm ban hành BLDS những quy định về hợp đồng dân sự
còn tản mát trong các văn bản pháp luật. Sự ra đời của BLDS là thành tựu lập
pháp to lớn trong lịch sử lập pháp, khẳng định sự hoàn thiện của pháp luật dân
sự nói chung và pháp luật về hợp đồng dân sự nói riêng. Lần đầu tiên, các
nguyên tắc cơ bản, các khái niệm, đặc điểm, yêu cầu của các chế định hợp
đồng dân sự đợc pháp điển hóa một cách khoa học và có hệ thống trong BLDS.
1.2. Khái niệm và bản chất pháp lý của hợp đồng dân sự.
Trong đòi sống xã hội, con ngời muốn tồn tại đợc họ phải có những mối
quan hệ qua lại với nhau. Mối quan hệ này đợc thể hiện nhiều góc cạnh về tinh
thần , về xã hội hoặc về vật chất .
Chính những mối quan hệ qua lại này khẳng định sự tồn tại của xã hội
loài ngời . Con ngời cần có những cơ sở vật chất để phục vụ nhu cầu cá nhân
Nhng mỗi cá nhân lại không thể tự đáp ứng nhu cầu phong phú của bản thân
15
nên cần phải có sự trao đổi qua lại. Trong xã hội cũng nh trong giao lu dân sự
việc chuyển giao tài sản cùng quyền sở hữu tài sản giữa các chủ thể có vai trò
quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu của nhau. Việc chuyển giao tài sản chỉ
đợc thực hiện khi có sự ng thuận của các bên nếu không sẽ không thể tồn tại
mối quan hệ trao đổi.
Trong quan hệ trao đổi nếu các bên bày tỏ ý chí của mình và cùng thống
nhất ý chí để đạt đợc mục đích nhất định thì gọi là hợp đồng. Khi các bên phải
chuyển giao tài sản, phải làm một việc nhằm đáp ứng nhu cầu của nhau trong
sinh hoạt hay sản xuất thì đã hình thành nên quan hệ hợp đồng dân sự. Tại
điều 394 BLDS có qui đinh: Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên
về việc các lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Tóm lại hợp đồng dân sự là một loại quan hệ pháp luật dân sự đợc xây
dựng trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên tham gia nhằm thoả mãn nhu cầu
sinh hoạt, tiêu dùng.Trên cơ sở sự thoả thuận này các bên đã thiết lập quyền và
nghĩa vụ tơng ứng ràng buộc lẫn nhau.
Nghiên cứu hợp đồng dân sự, vấn đề cần xem xét tới chính là bản chất

pháp lý của hợp đồng.
Ngay trong pháp lệnh dân sự năm 1991 và Bộ luật dân sự năm 1995 đều
ghi nhận hợp đồng dân sự là sự thoả thuận của các bên tham gia nhằm xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên.
Nh vậy sự thoả thuận là nền tảng để hình thành quan hệ hợp đồng. Điều
này có nghĩa rằng sự thể hiện ý chí của các bên trong hợp đồng là rất quan
trọng. Việc giao kết hợp đồng phải dựa trên ý chí thực của các chủ thể không
thể tồn tại sự áp đặt hay ép buộc thể hiện ý chí. ý chí của mỗi bên đợc xây
dựng trên cơ sở nhu cầu, nguyện vọng của chủ thể. Đây là tiền đề khách quan
hình thành quan hệ trao đổi. Sau khi hình thành ý chí chủ quan thì phải biểu lộ
ý chí dới những hình thức cụ thể nh ngôn ngữ hay hành động. Qua sự biểu lộ
khách quan này các bên nhận thức đợc mong muốn yêu cầu của nhau trên cơ
sở đó sẽ thiết lập hợp đồng.
Tự nguyện trong thoả thuận giao kết hợp đồng là một trong những điều
kiện đảm bảo cho hợp đồng dân sự có hiệu lực (Điều 131 BLDS). Sự thoả thuận
thống nhất ý chí giữa các chủ thể là tiền đề hình thành hợp đồng và yếu tố có
ảnh hởng đến hiệu lực của hợp đồng .
16
Sự quy định của pháp luật về hợp đồng cần đợc xem xét khi tìm hiểu bản
chất pháp lý của hợp đồng .
Nh trên đã nói viêc hình thành hợp đồng tức là đã xác lập quyền và
nghĩa vụ ràng buộc các bên tham gia cho dù nó đợc giao kết dới hình thức nào
đi chăng nữa. Điều này có ý nghĩa rằng: Mọi cam kết thoả thuận hợp pháp có
hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên. Đây là nguyên tắc chung đợc quy
định tại điều 7 BLDS và cũng là bản chất pháp lý của hợp đồng.
Trong trờng hợp xảy ra tranh chấp, toà án nhân dân hoặc cơ quan có
thẩm quyền sẽ căn cứ vào các điều khoản cụ thể để xác định quyền và nghĩa vụ
tơng ứng cho mỗi bên. Cần lu ý rằng các quy phạm pháp luật chỉ mang tính
định hớng và có tính chỉ dẫn, các bên tham gia giao kết phải thực hiện, thoả
thuận cho phù hợp với quy định của pháp luật. Vì lẽ đó trong lĩnh vực hợp

đồng dân sự , các bên ngoài việc tự do,tự nguyện cam kết thoả thuận thì tính tự
chịu trách nhiệm từ việc cam kết này cũng là một đặc trng.
Tuy nhiên cần thấy rằng pháp luật dân sự tôn trọng các quyền tự do cam
kết, thoả thuận nhng tất cả phải trong khuôn khổ pháp luật không đợc xâm
phạm tới lợi ích Nhà nớc, công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của ngời khác.
Thông qua các quy định của pháp luật , nhà nớc công nhận quyền tự do cam
kết, thoả thuận của các chủ thể nhng trong những trờng hợp nhất định vẫn có
sự hạn chế. Ví dụ điều 473 BLDS qui định: Lãi suất vay do các bên thoả
thuận nhng không đợc vợt qúa 50% lãi suất cao nhất của Ngân hàng Nhà nớc
qui định đối với loại cho vay tơng ứng. Ngoài ra trong những trờng hợp pháp
luật không qui định, các bên có thể xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự nhng
không đợc trái với những nguyên tắc cơ bản đợc qui định trong Bộ luật dân sự.
Việc qui định này của pháp luật đã tạo ra một hành lang pháp lý rộng rãi để ng-
ời dân thực hiện theo khuôn khổ pháp luật.
Pháp luật là công cụ pháp lý của Nhà nớc để điều tiết các quan hệ theo
hớng phát triển phù hợp lợi ích chung của cộng đồng. Hợp đồng là hình thức
pháp lý của quan hệ trao đổi trong lĩnh vực dân sự.
Nh vậy bản chất pháp lý của hợp đồng dân sự là việc tự do, tự nguyện
cam kết thoả thuận của các bên phù hợp với qui định của pháp luật. Nếu thỏa
mãn đầy đủ các điều kiện đó thì cam kết này có hiệu lực bắt buộc không những
đối với các bên tham gia mà bên thứ ba và cơ quan Nhà nớc cũng phải tôn
17
trọng cam kết đó. Nếu nh họ không tự nguyện thực hiện đúng các điều khoản
đã cam kết sẽ bị cuỡng chế thực hiện theo qui định của pháp luật.

1.3. Một số vấn đề khác biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh
tế
Sự khác biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế là các vấn đề đợc
các nhà nghiên cứu và xây dựng luật quan tâm và bàn luận. Hiện nay Nh n ớc
đã ban hành BLDS và đang xây dựng dự thảo các văn bản pháp luật trong lĩnh

vực kinh tế. Việc phân định này vẫn đang có ý nghĩa thực tiễn trong xây dựng
pháp luật kinh tế nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh doanh trong một nền kinh
tế thị trờng đang bắt đầu sôi động trên đất nớc ta. Xét về hệ thống luật thực
định đang điều chỉnh các quan hệ kinh tế, thì thuật ngữ này đang sử dụng ở nớc
ta gọi là luật kinh tế, và việc tồn tại, phát triển của ngành luật kinh tế có
nguyên nhân lịch sử của nó.
Trong một khoảng thời gian dài nền kinh tế nớc ta đợc quản lý theo cơ
chế kế hoạch hóa tập trung mang nặng tính vật chất, trong đó quan hệ hàng
tiền trì trệ kém phát triển. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sự trao đổi
phân phối đợc kế hoạch hóa một cách chi tiết và tập trung, cứng nhắc đã làm
mất đi tính năng động vốn có của nền kinh tế. ở đó các quan hệ kinh tế chủ
yếu đợc thiết lập theo chiều dọc và kế hoạch hóa tất yếu đợc xem là công cụ
quan trọng nhất để quản lý nền kinh tế quốc dân. Có quan hệ ngang giữa các
đơn vị bị xem nhẹ và hình thức pháp lý của chúng là hợp đồng kinh tế bị biến
thành công cụ của kế hoạch hóa Nh n ớc, mất đi thuộc tính bình đẳng, tự
nguyện vốn là đặc trng bản chất của quan hệ hợp đồng. Với quan niệm Nh n -
ớc XHCN vừa trực tiếp hoạt động kinh tế vừa lãnh đạo các hoạt động đó thông
qua các cơ quân kinh tế của mình. Nh n ớc ta chủ trơng xây dựng một ngành
luật kinh tế độc lập nằm trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Chính trong điều
kiện cơ chế kinh tế tập trung quan liêu đó, hợp đồng kinh tế đã mất đi giá trị
đích thực của mình với tích cách là hình thức pháp lý chủ yếu của các quan hệ
kinh tế, bởi sự áp đặt ý chí chủ quan lên các quan hệ kinh tế khách quan. Từ
sau Đại hội Đảng lần thứ VI Nh n ớc ta chủ trơng phát triển nền kinh tế hàng
hoá với nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý
của Nh n ớc theo định hớng XHCN. Nh vậy, nớc ta đã xây dựng nền kinh tế thị
trờng từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ; tính chất của nền kinh
18
tế thị trờng hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp và đối
lập với cơ chế cấp phát giao nộp; cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trờng
tuân thue các quy luật riêng, đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật

cạnh tranh Vì vậy, việc chuyển sang nền kinh tế thị trờng đòi hỏi phải xóa bỏ
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Hệ thống pháp luật kinh tế trớc đây là hậu
quả tất yếu của cơ chế cũ phải đợc thay thế bởi một hệ thống pháp luật kinh tế
mới phù hợp với nền kinh tế thị trờng hiện nay.
Sự phân chia giữa hai ngành luật hiện đang đợc xem xét thông qua nhiều
yếu tố trong đó có yếu tố về sự khác nhau giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng
dân sự. Việc xem xét sự khác nhau này không tách khỏi điều kiện kinh tế xã
hội hiện nay của nớc ta, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trờng có định
hớng XHCN, do đó quyền tự do kinh doanh đợc ghi nhận là nguyên tắc Hiến
định. Điều chắc chắn rằng, nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng, tính độc
lập, tự chịu trách nhiệm về tài sản sẽ đợc coi là nguyên tắc cơ bản trong quan
hệ hợp đồng. Cũng chính nguyên tắc đó cùng với nguyên tắc tự định đọat trong
việc giải quyết tranh chấp đã chi phối toàn bộ quan hệ trao đổi trong nền kinh
tế . Điều này dờng nh xóa mờ danh giới đã đợc xác định trong cơ chế kế hoạch
hóa giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế. Tuyên nhiên ở một phơng diện
nào đó xuất phát từ nền kinh tế thị trờng ở nớc ta và xét thực chất của hai quan
hệ trao đổi trong lĩnh vực dân sự và lĩnh vực kinh doanh, chúng ta vẫn thấy rõ
yếu tố chi phối sự khác biệt giữa hai quan hệ này. Điều này đợc xem từ chính
nguyên tắc cơ bản trong giao kết hợp đồng nh đã nói ở phần trên. Tự do giao
kết hợp đồng thể hiện ở tự do tìm kiếm, lựa chọn đối tác, tự do xác lập những
điều khoản của hợp đồng, tự do cam kết miễn là không trái pháp luật và đạo
đức xã hội. Đây là quyền tuyệt đối của chủ thể trong luật dân sự, quyền này đ-
ợc phản ánh rất rõ trong BLDS (điều 7, 395). Nhng đối với chủ thể của luật
kinh tế không phải bao giờ cũng đạt đợc sự tự do nh vậy.
Trong quan hệ kinh tế nhiều thành phần xuất phát từ lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng nên có những hợp đồng chỉ có sự tham gia của pháp nhân, của
các cơ quan quản lý có thẩm quyền. Chẳng hạn hợp đồng xây dựng kinh
doanh chuyển giao (B.OT) ký kết giữa cơ quan quản lý Nh n ớc Việt Nam với
nhà đầu t nớc ngoài cũng phải có những điều kiện nhất định do pháp luật quy
định về chủ thể, quyền sử dụng đất Sự thỏa thuận trong quan hệ kinh tế xét về

bản chất cũng không hoàn toàn giống sự thỏa thuận trong dân sự và có sự điều
19
tiết của Nh n ớc trong một số nớc. Tất nhiên sự can thiệp của cơ quan Nh n ớc
có thẩm quyền nh vậy không làm mất đi tính tự nguyện thoa thuận trong quan
hệ kinh tế.
Một vấn đề khác nh vấn đề sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ
hợp đồng không thể xem xét yếu tố quyết định chi phối sự bình đẳng đó chính
là quyền sở hữu của chủ thể đối với đối tợng trao đổi. Lẽ tất nhiên chủ sở hữu
mới có quyền bán những gì mình có. Nh vậy quyền sở hữu với ba nội dung
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đợc thể hiện rất rõ trong sở hữu của cá nhân là
chủ thể chủ yếu của luật dân sự. Trái lại trong quan hệ kinh tế, có những chủ
thể mà quyền năng đối với tài sản khó xác định đợc rõ ràng, bởi tài sản đó
không phải của chính nó mà do chủ thể khác giao cho quản lý sử dụng (chẳng
hạn nh doanh nghiệp Nh n ớc). Trên cơ sở những quy định của luật thực định
đó là pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 và chế định hợp đồng dân sự quy
định trong BLDS cho thấy sự phân biệt hợp đồng kinh tế hợp đồng dân sự
còn có thể dựa trên một số tiêu chí sau: Đó là chủ thể, đại diện của chủ thể khi
giao kết hợp đồng, hình thức hợp đồng, mục đích hợp đồng.
Trớc hết xét về vấn vấn đề đại diện theo pháp luật. Trong BLDS (điều
150) quy định phạm vi rất rộng ngời đại diện theo pháp luật của chủ thể hợp
đồng dân sự, chứ không chỉ giới hạn ở ngời đợc quy định trong pháp lệnh hợp
đồng kinh tế (điều 11 BLDS) cho phép ngời đợc ủy quyền có thể ủy quyền lại
cho ngời thứ ba nếu đợc ngời ủy quyền đồng ý hoặc pháp luật có quy định
(điều 588 BLDS). Trái lại, trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế không cho phép
ngời đợc ủy quyền đợc ủy quyền lại cho ngời thứ ba (điều 9) và chế định ủy
quyền không đợc áp dụng khi ký kết hợp đồng kinh tế bằng tài liệu giao dịch
hoặc khi ký kết những loại hợp đồng kinh tế mà pháp luật quy định phải đăng
ký (điều 7 nghị định 17/HĐBT ngày 16/1/1990).
Những sự khác nhau giữa HĐDS và HĐKT xét về mặt pháp lý chủ yếu
dựa vào yếu tố chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Theo các điều 2,42,43 pháp

lệnh HĐKT thì hợp đồng kinh tế đợc ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân,
pháp nhân với cá nhân, có đăng ký kinh doanh; quan hệ hợp đồng kinh tế cũng
có thể đợc xác lập giữa những ngời làm công tác khoa học kỹ thuật, hộ kinh
tế gia đình, hộ nông dân cá thể, các tổ chức, cá nhân nớc ngoài tại Việt Nam
với pháp nhân Việt Nam. Điều đó cho thấy trong HĐKT ít nhất một bên chủ
thể bắt buộc phải có t cách pháp nhân. Quan hệ kinh tế và quan hệ dân sự đều
20
là quan hệ mang yếu tố tài sản, do đó chủ thể của nó phải là tổ chức và ngời có
tài sản riêng thuộc quyền sở hữucủa mình hoặc có quyền quản lý nghiệp vụ đối
với tài sản do Nh n ớc giao. Do đó điều 2 pháp lệnh HĐKT và điều 4 pháp
lệnh HĐDS đều thống nhất quy định nếu một tổ chức muốn tham gia ký kết
HĐKT, HĐDS thì tổ chức đó phải là pháp nhân. Nhng pháp luật nớc ta hiện có
quy định về pháp nhân cha thống nhất. Tại điều 1 Nghị định số 17/HĐBT ngày
16/1/1990 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh HĐKT quy định: pháp nhân là
một tổ chức có đủ điều kiện sau đây:
a. Đợc thành lập một cách hợp pháp
b. Có tài sản riêng và chịu trách nhiệm một cách độc lập bằng tài sản đó.
c. Có quyền quyết định một cách độc lập về các hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
d. Có quyền tự mình tham gia các quan hệ pháp luật
Tại điều 94 BLDS quy định: Một tổ chức đợc công nhận là pháp nhân
khi có đủ cá điều kiện sau:
1. Đợc cơ quan Nh n ớc có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập,
đăng ký hoặc công nhận.
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình.
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Qua hai khái niệm về pháp nhân nêu trên thì khái niệm về pháp nhân
trong BLDS quy định bao quát và đầy đủ hơn so với khái niệm pháp nhân trong

nghị định 17/HĐBT. Nghị định 17HĐBT quy định Có quyền quyết định một
cách độc lập các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình dẫn đến một thực
tế hiện có thuật ngữ Pháp nhân kinh tế. Do đó xuất hiện cách hiểu: Có loại
pháp nhân dân sự và có loại pháp nhân kinh tế riêng. Điều này cần có một nhận
thức thống nhất, khoa học. Do sự phân công lao động xã hội, Nh n ớc thành
lập các cơ quan, đơn vị, tổ chức và giao cho chúng một chức năng, nhiệm vụ
riêng, mỗi tổ chức, đơn vị, cơ quan chỉ đợc phép hoạt động và chủ động thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mình trong phạm vi Nh n ớc quy định. Vì vậy,
việc quy định điều kiện một tổ chức trở thành pháp nhân cần đợc ghi nhận một
cách thống nhất, tức là chỉ có quy định chung về pháp nhân cho mọi lĩnh vực
hoạt động xã hội, tránh tình trạng tùy tiện quy định, có thể dẫn đến các quy
21
định mới về pháp nhân ra đời nh: pháp nhân hành chính, pháp nhân xã hội
Trong quan hệ dân sự chủ thể HĐDS rất rộng nó không đòi sự tham gia của
pháp nhân cho nên HĐDS đợc hiểu là sự thỏa thuận giữa cá nhân hoặc các chủ
thể khác nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (nh
nội dung điều 130 BLDS). Trong hợp đồng kinh tế, cá nhân tham gia quan hệ
hợp đồng phải là ngời có giấy phép kinh doanh, nhng cá nhân kinh doanh tuy
là chủ thể hợp đồng kinh tế, nhng pháp luật chỉ coi là hợp đồng kinh tế khi hợp
đồng có ít nhất một bên chủ thể là pháp nhân. Đối với hợp đồng dân sự, việc cá
nhân trơ thành chủ thể của hợp đồng hay không lại phụ thuộc vào độ tuổi, khả
năng nhận thức, để có thể xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ hợp đồng (điều
20,21,22 BLDS). Các quy định của pháp luật vể chủ thể của hợp đồng kinh tế
trong Nghịd định số 17/HĐBT cho thấy cha thực sự có sự bình đẳng về chủ thể
và tính đa dạng của các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trờng. Hiến pháp
1992 (điều 22) và các văn bản pháp luật khác (luật doanh nghiệp t nhân, luật
khuyến khích đầu t trong nớc) đều ghi nhận quyền bình đẳng trớc pháp luật
giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhng theo
pháp luật hợp đồng kinh tế các chủ thể trong quan hệ kinh doanh (mặc dù hợp
pháp không bị vô hiệu) giữa các doanh nghiệp t nhân với nhau hoặc với cá

nhân kinh doanh hoặc giữa cá nhân kinh doanh với nhau không đợc xem là hợp
đồng kinh tế . Trong khi đó cũng quan hệ kinh doanh nh vậy nếu các chủ thể
tham gia là pháp nhân thì lại đợc coi là hợp đồng kinh tế. Với pháp luật hiện
hành, vấn đề quy định chủ thể trong quan hệ kinh doanh còn rất hạn chế, điều
này cho thấy nó cha phản ánh đợc sự đa dạng của các quan hệ kinh doanh đang
tồn tại trong nền kinh tế thị trờng. Sự hạn chế, thiếu tính thống nhất đó cha đáp
ứng đợc yêu cầu điều chỉnh quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trờng, cha
phản ánh đợc bản chất của quan hệ hàng hoá -tiền tệ đang có xu hớng lấn át
quan hệ giao lu dân sự (thơng mại hóa quan hệ dân sự).
Bên cạnh yếu tố chủ thể thì mục đích của việc xác lập quan hệ hợp đồng
đợc xem là căn cứ để phân biệt giữa hợp đồng kinh tế hợp đồng dan sự. Trớc
khi có BLDS thì vấn đề này đợc quy định rõ trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế
và pháp lệnh hợp đồng kinh tế nêu khái niệm hợp đồng kinh tế Hợp đồng kinh
tế là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc
thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ nghiên cứu, ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích kinh doanh với
22
sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực
hiện kế hoạch của mình
(1)
. Qua khái niệm trên đã xác định rõ mục đích đặt ra
trong hợp đồng kinh tế là Kinh doanh. Kinh doanh đợc hiểu là viẹc thực hiện
một, một số hoặc tất cả các công đọan của quá trình đầu t từ sản xuất đến tiêu
thụ hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích sinh lời. Nh vậy, quan
hệ hợp đồng đợc xác định là hợp đồng kinh tế phải đạt đến mục đích cuối cùng
của nó là lợi nhuận. Tại điều 1 pháp lệnh hợp đồng dân sự nêu khái niệm về
hợp đồng dân sự Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về sự xác lập,
thay đổi, hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê,
vay, mợn, tặng cho tài sản, làm hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các
thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh

hoạt, tiêu dùng. Nh vậy, khi mục đích của một bên hoặc của các bên tham gia
giao kết hợp đồng đều nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng thì hợp
đồng do đó đợc xác định là hợp đồng dân sự. Hiện nay mục đích của giao dịch
dân sự nói chung, hợp đồng dân sự nói riêng không đợc quy định cụ thể là
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng nh pháp lệnh hợp đồng dân sự, mà
đợc quy định chung ở mục đích của giao dịch dân sự Là lợi ích hợp pháp mà
các bên mong muốn đạt đợc khi xác lập giao dịch đó (điều 132 BLDS). Nh
vậy thì sự phân biệt giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự trên tiêu chí mục
đích của sự thỏa thuận sẽ trở nên khó khăn hơn. Khi pháp lệnh hợp đồng kinh
tế đang có hiệu lực, để xác định một quan hệ trao đổi có phải là hợp đồng kinh
tế hay không thì bên cạnh yếu tố chủ thể, hình thức của giao dịch, ta vẫn phải
xác định mục đích kinh doanh hay không phải kinh doanh của các chủ thể
tham gia quan hệ đó. Nhng chính cơ sở pháp lý cần thiết về vấn đề này lại cha
đợc quy định rõ ràng trong khái niệm hợp đồng kinh tế. Tại điều 1 pháp lệnh
hợp đồng kinh tế nêu trên quy định mục đich kinh doanh trong quan hệ, nh-
ng cha chỉ rõ mục đích kinh doanh đó đòi hỏi cho cả hai bên hay chỉ một bên
trong quan hệ hợp đồng. Trong Thông t hớng dẫn số 11/TT-PL ngày 25/5/1992
của trọng tài kinh tế Nh n ớc tại điều 1 quy định: Nếu khi ký kết hợp đồng,
một bên nhằm mục đích kinh doanh, một bên không nhằm mục đích kinh
doanh, nhng cũng không nhằm mục đích sinh hoạt tiêu dùng, thuê lao động thì
hợp đồng đó đợc coi là hợp đồng kinh tế. Trong thực tế các cơ quan tài phán
cha tìm ra một loại hợp đồng nào mà không có mục đích kinh doanh, cũng
(1)
Pháp lệnh HĐKT - điều 1
23
không có mục đích tiêu dùng, sinh hoạt, thuê lao động. Nh vậy thì quy định
trên có ý nghĩa gì. Điều này buộc chúng ta phải đi đến nhận thức: Đã là hợp
đồng kinh tế thì các bên tham gia quan hệ hợp đồng đều nhằm mục đích kinh
doanh, đều nhằm vào lợi nhuận, còn nếu một bên có mục đích kinh doanh, đều
nhằm vào lợi nhuận, còn nếu một bên có mục đích kinh doanh, bên kia lại là

mục đích sinh hoạt, tiêu dùng, thì hợp đồng đó là hợp đồng dân sự.
Vấn đề hình thức của hợp đồng cũng có thể đợc xem là tiêu chí để phân
biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế. Trong BLDS, tại điều 400 quy
định về hình thức hợp đồng dân sự gồm có: Hợp đồng miệng, hợp đồng bằng
văn bản và hợp đồng bằng văn bản có chứn nhận của Công chứng Nh n ớc,
chứng thực, đăng ký hoặc xin phép. Nh vậy hình thức hợp đồng dân sự đa
dạng đơn giản, linh hoạt phù hợp với bản chất giao lu dân sự, với hậu quả tác
động của hợp đồng trong đời sống xã hội. Đối với hình thức của hợp đồng kinh
tế thì buộc phải thực hiện bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch (điều 1
PLHĐKT). Điều này có nghĩa là: Đã là hợp đồng kinh tế thì phải đợc thực hiện
bằng hình thức văn bản, trên văn bản có đóng dấu, chữ ký của đại diện hợp
pháp của các bên. Hợp đồng kinh tế đợc ký kết bằng tài liệu giao dịch có thể
hiểu là tập hợp văn bản giao dịch, thể hiện các điều khoản chủ yếu của hợp
đồng, xác định quyền nghĩa vụ của các bên, có chữ ký, con dấu hợp pháp của
các bên. Có thể thấy hình thức của hợp đồng kinh tế đợc ghi nhận chặt chẽ và
buộc phải thực hiện bằng hình thức văn bản. Điều này thể hiện rõ vai trò của
hợp đồng kinh tế, những ảnh hởng, tác động của hậu quả của hợp đồng kinh tế
trong đời sống xã hội. Đối với những hợp đồng kinh tế vi phạm, ảnh hởng của
hợp đồng trong nhiều trờng hợp rất nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Vì vậy
các thủ tục, hình thức pháp lý của hợp đồng phải chặt chẽ đảm bảo sự an toàn
pháp lý cho các chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Sự đổ bể của hợp đồng kinh tế
có thể ảnh hởng đến hàng lọat các chủ thể trong quan hệ kinh tế. Các chủ thể
tham gia quan hệ kinh tế với mục đích kinh doanh, mà trong kinh doanh thì
mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận. Sự hối thúc của các lợi ích đã thúc đẩy các chủ
thể vào cuộc chạy đua tìm kiếm lợi nhuận với mọi phơng cách và thủ đoạn, có
thể điều đó làm cho các hoạt động kinh doanh vốn năng động thì lại càng phức
tạp hơn trong nền kinh tế thị trờng. Trong các nguyên nhân dẫn đến phá sản,
không có ít vụ do thủ đoạn lừa gạt, gian trá trong ký hợp đồng, có tác động tiêu
cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Điều đó cho thấy tính chất nghiêm trọng
24

của các vi phạm hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự cũng khác nhau. Sự ảnh
hởng, vị trí, vai trò của hai loại hợp đồng này trong xã hội cũng khác nhau.
Chính điều này chi phối sự hình thành các thiết chế tổ chức, thủ tục để ngăn
chặn vi phạm pháp luật hợp đồng trong hai lĩnh vực kinh doanh và dân sự, cũng
nh hình thức tổ chức, và thủ tục giải quyết tranh chấp trong hai quan hệ kinh
doanh, quan hệ dân sự cũng khác nhau. Thủ tục giải quyết tranh chấp trong
quan hệ kinh doanh đòi hỏi phải nhanh chóng, rút gọn vì thời gian trong kinh
doanh là lợi nhuận. Và tất cả mọi vấn đề xoay quanh quan hệ hợp đồng kinh
doanh đều bị chi phối bởi lợi nhuận, vì vậy trong nền kinh tế thị trờng, với sự
phát triển mạnh mẽ của các quan hệ ngang (quan hệ trao đổi, hợp đồng kinh tế
đợc trả lại giá trị đích thực của nó bởi nguyên tắc Tự do khế ớc.
Nhìn chung hiện nay sự phân định giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng
kinh tế vẫn đang dựa trên các tiêu chí đã đợc trình bày trên, tuy nhiên trên thực
tế xác định gianh giới giữa hai loại hợp đồng này vẫn còn nhiều vấn đề tranh
chấp và còn nhiều ý kiến tranh cãi xung quanh các tiêu chí đang đợc sử dụng
để phân biệt, vấn đề này chỉ đợc giải quyết một cách triệt để khi chúng ta có đ-
ợc một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh đồng bộ và thống nhất để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, quản lý xã hội. Xét về bản chất giữa hai quan hệ hợp đồng kinh
tế và hợp đồng dân sự có những nội dung thống nhất bởi nó đều điều chỉnh
quan hệ trao đổi tài sản là quan hệ ngang trong xã hội. Mà trong nền kinh tế
thị trờng lại tạo ra một loại quan hệ kinh tế thuần nhất đó là quan hệ hàng hóa
tiền tệ và điều này đã xác định bản chất của quan hệ hợp đồng kinh tế là tự
do khế ớc. Đây chính là điểm chung giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân
sự. Tuy nhiên sự thống nhất ở đây không có nghĩa là đồng nhất giữa hai loại
quan hệ này. Dựa trên cơ sở mục đích của quan hệ về mặt hình thức cho phép
chúng ta xác định đợc phạm vi đối tợng điều chỉnh của hai ngành luật cũng nh
sự phân định ranh giới giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự.
25

×