Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.37 KB, 73 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, với xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế các quốc gia đang tích
cực tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Mỗi một quốc gia đang trở
thành một mắt xích của nền kinh tế thế giới, không một quốc gia nào dù mạnh
đến đâu đi ngược với xu thế trên lại có thể phát triển. Trong điều kiện này
thương mại quốc tế mở rộng cánh cửa để nền kinh tế các nước hướng ra thị
trường bên ngoài. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất mỗi nước đều dựa
vào những tiềm năng như tài nguyên, vị trí địa lý, lao động.
Nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước. Các doanh nghiệp có chủ động sản xuất kinh doanh. Ngày càng nhiều
các công ty tham gia vào giao dịch thương mại quốc tế. Trong trong quá trình
buôn bán quốc tế, nhiều công ty, tổ chức đã đạt được nhiều kết quả tốt. Tuy
nhiên vẫn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Cụ thể là do trình độ
nghiệp vụ ngoại thương còn non kém, cán bộ sản xuất nhập khẩu chưa được
đào tạo một cách có hệ thống, chưa am hiểu về tập quán thương mại, luật
buôn bán quốc tế v.v Đặc biệt là về chế độ ký kết và thực hiện. Công ty xuất
nhập khẩu Hà Tây là một trong nhiều công ty tham gia sản xuất, kinh doanh
và xuất khẩu. Công ty luôn luôn phấn đấu vượt mọi khó khăn hoàn thành tốt
mục tiêu nhiệm vụ của mình. Song bên cạnh đó mới bước vào hoạt động kinh
doanh xuất khẩu. Khả năng còn hạn chế dẫn đến trong kinh doanh công ty còn
vấp váp ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của công ty.
Qua thời gian thực tập ở công ty xuất nhập khẩu Hà Tây, tôi thấy các
công ty sản xuất kinh doanh xuất khẩu trực tiếp thì việc ký kết và thực hiện
hợp đồng là rất cần thiết và quan trọng trong quá trình làm ăn buôn bán với
nước ngoài. Chính vì vậy mà tôi mạnh dạnh nghiên cứu đề tài.
"Hoàn thiện chế độ pháp lý về ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu
ở công ty xuất nhập khẩu Hà Tây" với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình
vào việc hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh ở công ty.
1
Nội dung gồm các phần sau:


Phần A: Chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu hiện nay.
Phần B: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu ở công ty
xuất nhập khẩu Hà Tây.
Phần C: Hướng hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu
tại công ty.
2
PHẦN A
CHẾ ĐỘ KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU HIỆN NAY
I. KHÁI NIỆM VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU
1/ Tính tất yếu của hợp đồng xuất nhập khẩu
Ngày nay sự phát triển kinh tế của một quốc gia không thể tách rời với
các quốc gia khác trên thế giới. Thực tế đã chứng minh rằng các quốc gia
không thể tồn tại tách biệt với thế giới bên ngoài mà có thể đảm bảo đầy đủ
điều kiện vật chất và có thể phát triển. Vì thế cần phải phát triển thương mại
quốc tế để phát triển đất nước.
Tuy nhiên, trong kinh doanh nói chung và trong kinh doanh thương mại
quốc tế nói riêng cũng rất nhiều phức tạp. Mặc dù, đã được bàn bạc, thoả
thuận kỹ nhưng nếu không có hợp đồng thì nhiều khi vẫn có thể bị huỷ bỏ.
Điều này dễ xảy ra nếu thực tế sẽ không có lợi cho một bên nào đó.
Trên thực tế giao dịch bằng miệng nhiều khi vẫn có hiệu lực và bị ràng
buộc. Nhưng nếu có tranh chấp sẽ không có chứng cứ cụ thể để giải quyết.
Trường hợp giao kết bằng điện thoại, telex thông thường phải lưu giữ những
nội dung chào hàng xác định và các thông báo gửi tin ưng thuận, nếu có tranh
chấp thì đó là chứng cứ. Tuy nhiên nếu có tranh chấp xảy ra không có hợp
đồng là rất khó xử. Vì thế trong kinh doanh thương mại quốc tế hợp đồng là
rất cần thiết vì:
- Trong kinh doanh thương mại quốc tế giữa các nước với nhau, nếu có
sự khác nhau về chủ thể ngôn ngữ, chính trị, luật pháp, tôn giáo, tập quá.
Đồng thời có sự hiểu nhầm về thuật ngữ thống nhất đã dùng trong bản hợp

đồng. Vì thế khi có hợp đồng và các điều khoản qui định trong hợp đồng thì
các bên có thể hiểu một cách thống nhất với nhau.
- Hợp đồng là văn bản bằng chứng ghi rõ những điều khoản trên giấy
trắng mực đen và chữ ký của 2 bên tham gia hợp đồng. Vì thế sẽ là căn cứ
pháp lý ràng buộc các bên thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã thoả
3
thuận. Đồng thời nó là cơ sở để thực hiện và kiểm tra việc thực hiện hợp đồng
của doanh nghiệp đã ký kết
- Hợp đồng sẽ là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp xảy ra nếu như
các bên không thực hiện đúng và đầy đủ trong hợp đồng. Nhằm đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của các bên.
2/ Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng xuất nhập khẩu
a) Khái niệm
Hợp đồng mua bán ngoại thương còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu.
Trước hết nó là hợp đồng mua bán nói chung. Thuật ngữ "hợp đồng mua bán"
được hiểu là sự thoả thuận về việc di chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá
từ người bán sang người mua nhằm phân biệt với các hợp đồng khác như hợp
đồng cho thuê, hợp đồng vận tải, hợp đồng bảo hiểm là những hợp đồng
không có sự chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá mà đối tượng của hợp
đồng hoặc là quyền sử dụng hàng hoá hoặc là dịch vụ. Từ những vấn đề khái
quát trên chúng ta có thể rút ra một số điểm sau:
- Hợp đồng mua bán là sự thoả thuận của các bên ký kết, hình thức của
sự thoả thuận có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản.
- Chủ thể hợp đồng mua bán là người bán và người mua. Những người
bán, người mua này có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc Nhà nước.
- Nội dung của hợp đồng đề cập tới quyền và nghĩa vụ của các bên
trong việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, trả tiền và nhận tiền.
- Tính chất pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hoá mang những nét
đặc trưng của hợp đồng ước hẹn, hợp đồng song vụ, hợp đồng di chuyển
quyền sở hữu.

Pháp luật các nước nói chung đều có những quan điểm thống nhất về
những điểm nêu trên. Nhưng khác với hợp đồng mua bán hàng hoá trong
nước, hợp đồng mua bán ngoại thương có tính chất quốc tế. Tính chất quốc tế
của hợp đồng mua bán ngoại thương được luật pháp các nước cũng như các
điều ước quốc tế qui định một cách khác nhau.
4
* Công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu hình qui
định tại điều 1 rằng: "Hợp đồng ngoại thương là hợp đồng được ký kết giữa
các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hoá được chuyển
từ nước này sang nước khác hoặc là việc trao đổi ý chí để ký kết hợp đồng
giữa các bên ký kết được lập ở các nước khác nhau". Từ điều 1 của công ước
này cho ta thấy tính quốc tế được thể hiện như sau:
- Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng là các bên có trụ sở thương mại ở
các nước khác nhau. Vấn đề quốc tịch của chủ thể không được công ước đề
cập và không coi là yếu tố xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán ngoại
thương.
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá được di chuyển từ nước này qua
nước khác.
- Chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể lập ở các nước khác nhau.
* Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì hợp
đồng xuất nhập khẩu là các bên ký kết hợp đồng có trụ sở thương mại ở các
nước khác nhau (điều 1). Việc áp dụng công ước Viên cho phép ngoại trừ
những quan điểm khác biệt, bất đồng trong luật quốc gia các nước, làm giảm
bớt các khó khăn trở ngại và tăng hiệu quả trong đàm phán ký kết hợp đồng.
Công ước Viên 1980 đã đơn giản hoá những yếu tố quốc tế của hợp đồng xuất
nhập khẩu. Việc có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau dẫn đến việc có
thể áp dụng nhiều hệ thống pháp luật khác nhau nhưng trong trường hợp hai
chủ thể có quốc tịch khác nhau lại có trụ sở thương mại trên lãnh thổ của một
nước thì việc giải thích yếu tố quốc tế của hợp đồng xuất nhập khẩu là bế tắc.
Do đó quan điểm về tính quốc tế của hợp đồng xuất nhập khẩu trong công

ước Viên mang tính chất chung và phù hợp với thực tế hiện nay.
* Quan điểm của Việt Nam về hợp đồng xuất nhập khẩu được qui định
tại điều 80 luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997: "Hợp
đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán
hàng hoá được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là
thương nhân nước ngoài". Tại điều 5 khoản 6 luật Thương mại qui định
"Thương nhân" được hiểu là "các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình có đăng ký
kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên".
5
Để xác định hợp đồng xuất nhập khẩu thì chỉ có một qui định đó là hợp
đồng được ký kết với thương nhân nước ngoài. Vấn đề đặt ra là xác định
thương nhân nước ngoài như thế nào? Theo điều 81 khoản 1 luật thương mại
qui định "Chủ thể bên nước ngoài là thương nhân và tư cách pháp lý của họ
được xác định căn cứ theo pháp luật mà thương nhân đó mang quốc tịch".
Như vậy cho thấy khái niệm về hợp đồng xuất nhập khẩu của Việt Nam trái
với công ước Viên 1980 ở chỗ công ước Viên qui định chủ thể phải có trụ sở
thương mại ở các quốc gia khác nhau chứ không xét đến quốc tịch của chủ
thể.
Ngày nay nước ta đang từng bước hội nhập vào sự phân công lao động
quốc tế để phát triển. Muốn vậy pháp luật không thể có những qui định trái
ngược với những điều ước quốc tế và cần phải nghiên cứu sửa đổi cho phù
hợp với các điều ước và thông lệ quốc tế.
b) Đặc điểm.
Từ tính chất quốc tế nói trên mà làm nên đặc điểm của hợp đồng xuất
nhập khẩu. Nó được thể hiện ở một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Chủ thể hợp đồng xuất nhập khẩu là những bên có trụ sở
thương mại đặt ở các nước khác nhau. Điều này được quy định ở công ước
Lahaye 1964 và công ước Viên 1980 chứ không bắt buộc phải khác quốc tịch.
"Chủ thể hợp đồng mua bán ngoại thương bên Việt Nam phải là thương nhân
được phép hoạt động thương mại trực tiếp với nước ngoài" (điều 81, khoản 1

luật thương mại).
Hai là: Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu. Hàng hoá
này phải được chính phủ các nước hữu quan cho phép vận chuyển, buôn bán
và trao đổi từ nước này sang nước khác. Tức là không thuộc diện hàng hoá
cấm nhập, cấm xuất của các quốc gia đó. Ví dụ ở Việt Nam theo quyết định
số 11 năm 1998/QĐ-TTg ngày 23/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mặt
hàng cấm xuất, cấm nhập năm 1998 thì có 6 nhóm mặt hàng cấm xuất và 9
nhóm mặt hàng cấm nhập. Những mặt hàng này không phải là đối tượng của
hợp đồng mua bán ngoại thương.
Ba là: Tiền tệ dùng để thanh toán giữa hai bên có thể là ngoại tệ đối với
một hoặc hai bên. Bởi vì đồng tiền thanh toán này được ghi trong hợp đồng
6
mà mỗi quốc gia lại có đồng tiền riêng của mình. Hơn nữa trong thanh toán
quốc tế người ta thường dùng đồng tiền mạnh. Do vậy các bên trong hợp
đồng phải lưu ý về vấn đề tỷ giá hối đoái của đồng tiền thanh toán để tránh
được những thiệt thòi có thể xảy ra do sự biến động về giá trị của đông tiền
thanh toán.
Bốn là: Tranh chấp phát sinh giữa các bên xung quanh việc ký kết và
thực hiện hợp đồng có thể do một trung tâm trọng tài quốc tế nào đó xét xử
theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc toà án có thẩm quyền của một trong các
nước có liên quan. Tuy nhiên trước khi đưa tranh chấp ra trọng tài hoặc toà
án thì các bên phải giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải. Nếu việc
thương lượng, hoà giải không thành công thì mới giải quyết theo hai hình
thức trên.
Ở Việt Nam, hình thức giải quyết tranh chấp thương mại được qui định
tại điều 239 của Luật thương mại "Trong trường hợp thương lượng hoặc hoà
giải không đạt kết quả thì tranh chất thương mại được giải quyết tại trọng tài
hoặc toà án. Thủ tục giải quyết tại trọng tài hoặc toà án được tiến hành theo
các thủ tục tố tụng của trọng tài, toà án mà các bên lựa chọn" và thẩm quyền
giải quyết tranh chấp thương mại với thương nhân nước ngoài được qui định

tại điều 240 "Đối với thương nhân nước ngoài, nếu các bên không thoả thuận
hoặc điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc tham gia không có qui định thì
tranh chấp được giải quyết tại toà án Việt Nam"
Năm là: Luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu được các bên ký kết
thoả thuận chỉ định, bổ sung cho những điều chưa được quy định chi tiết trong
hợp đồng. Nguồn luật đó có thể là luật quốc gia giữa các bên ký kết hoặc có
liên quan, có thể là luật quốc tế hoặc có thể là tập quán quốc tế.
II. NGUỒN LUẬT ÁP DỤNG CHO HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU
Hợp đồng xuất nhập khẩu dù được ký kết hoàn chỉnh chi tiết đến đâu,
bản thân nó cũng không thể dự kiến đầy đủ, chứa đựng tất cả các vấn đề, các
tình huống phát sinh trong thực tế. Do đó cần phải có cơ sở pháp lý cụ thể để
bổ sung cho hợp đồng. Thực tế cho thấy những trường hợp tranh chấp xảy ra
giữa các bên lại không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp
đồng. Trường hợp này phải dựa vào luật điều chỉnh của hợp đồng để giải
7
quyết tranh chấp. Không chỉ nghiên cứu luật áp dụng hợp đồng mua bán mà
còn cả toà án (hoặc trọng tài) giải quyết tranh chấp phát sinh.
Trong mua bán quốc tế các đương sự hoàn toàn có quyền tự do thoả
thuận nguồn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng của mình. Nguồn luật đó có
thể là luật quốc gia, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế. Tuy nhiên nghiên cứu
áp dụng luật nào cho phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
1) Điều ước quốc tế
Khi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xuất nhập khẩu liên quan đến vấn
đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng các bên
có thể dựa vào các điều ước quốc tế về ngoại thương.
Đối với những điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc thừa nhận thì
chúng có giá trị bắt buộc đối với hợp đồng xuất nhập khẩu có liên quan.
Những điều ước quốc tế này là nguồn luật đương nhiên, các bên ký kết có thể
dựa vào đó mà không cần phải có sự thoả thuận riêng nào khác. Tức là, dù các
bên mua và bán có dẫn chiếu hay không hì các điều ước quốc tế về ngoại

thương mà ta ký kết hoặc thừa nhận vẫn đương nhiên được áp dụng.
Những điều ước quốc tế về ngoại thương mà Nhà nước ta không ký,
chưa ký hoặc không thừa nhận thì không có giá trị bắt buộc đối với các chủ
thể Việt Nam trong hợp đồng xuất nhập khẩu. Những điều ước quốc tế này
không phải là nguồn luật đương nhiên của hợp đồng xuất nhập khẩu do các
chủ thể Việt Nam ký kết với các thể nhân và pháp nhân nước ngoài. Chúng
chỉ trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu nếu các bên thoả
thuận dẫn chiếu tới trong hợp đồng.
Ví dụ: Việt Nam chưa thừa nhận công ước Viên 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế. Cho nên công ước này chỉ được áp dụng để điều chỉnh
hợp đồng xuất nhập khẩu mà chủ thể Việt Nam với bên nước ngoài trong hợp
đồng xuất nhập khẩu có quy định áp dụng công ước Viên hoặc hai bên thoả
thuận với nhau sẽ dựa vào công ước Viên để giải quyết các tranh chấp về hợp
đồng xuất nhập khẩu. Nếu không có sự thoả thuận đó công ước Viên sẽ không
có ý nghĩa và không có giá trị pháp lý nào đối với Việt Nam.
8
Khi áp dụng điều ước quốc tế để điều chỉnh cần phải chú ý tới tính chất
pháp lý của các loại quy phạm pháp luật đó. Nếu là loại quy phạm có tính chất
mệnh lệnh các đương sự phải tuyệt đối tuân thủ. Nếu là quy phạm có tính chất
tuỳ ý các bên có thể tuân theo hoặc không tuân theo.
2) Nghị định song phương và đa phương.
Các nghị định song phương hoặc đa phương về thương mại quốc tế
được ký kết giữa hai hoặc nhiều quốc gia với nhau. Các nước cùng nhau bàn
bạc thoả thuận để ký kết về một hiệp định chung về thương mại và các vấn đề
liên quan.
Nghị định được ký kết giữa các quốc gia thì nó trở thành nguồn luật
đương nhiên đối với các bên của các quốc gia đó và nó có giá trị bắt buộc đối
với hợp đồng xuất nhập khẩu có liên quan. Các bên có thể dựa vào đó mà
không phải dựa vào đó mà không phải dựa và đó mà không cần phải có sự
thoả thuận nào đó. Tức là chỉ các bên có dẫn chiếu hay không thì các hiệp

định, nghị định song phương hoặc đa phương về ngoại thương mà ta ký kết
đương nhiên được áp dụng.
Khi tranh chấp xảy ra giữa các bên về hợp đồng mua bán ngoại thương
thuộc các quốc gia đã ký kết nghị định, hiệp định song phương hoặc đa
phương thì có thể dựa vào các hiệp định nghị định này để giải quyết.
Thông qua các Nghị định, Hiệp định song phương hoặc đa phương tạo
điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán thương mại quốc tế thuận tiện nhanh
chóng tiết kiệm chi phí, thời gian mà hợp đồng vẫn có giá trị. Nếu trong điều
ước quốc tế về ngoại thương có những quy định khác với pháp luật Việt Nam
(mà nước ta chưa tham gia ký kết hoặc công nhận) thì có quyền bảo lưu. Tức
là chỉ áp dụng từng chương, mục của công ước mà không trái với pháp luật
Việt Nam. Thông qua điều ước quốc tế mà các chủ thể của hợp đồng xuất
nhập khẩu dù ở các nước khác nhau có thể có sự hiểu thống nhất trong việc
giải quyết nhanh chóng tranh chấp phát sinh, tiết kiệm thời gian, chi phí.
3) Tập quán quốc tế
9
Tập quán quốc tế về thương mại cũng là nguồn luật điều chỉnh hợp
đồng xuất nhập khẩu. Đặc biệt trong nhiều trường hợp tập quán thương mại
quốc tế không chỉ giúp cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh một cách dễ
dàng hơn. Tập quán thương mại là những thói quen thương mại được công
nhận rộng rãi. Những thói quen thương mại sẽ được công nhận và trở thành
tập quán thương mại khi thoả mãn những yêu cầu sau:
- Là một thói quen phổ biến được nhiều nước áp dụng và áp dụng
thường xuyên.
- Là thói quen độc nhất về từng vấn đề và ở từng địa phương.
- Là một thói quen có nội dung rõ ràng mà người ta có thể dựa vào đó
để xác định quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
Tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng cho hợp đồng xuất nhập
khẩu trong các trường hợp sau:
- Khi chính hợp đồng xuất nhập khẩu quy định áp dụng tập quán đó

- Khi các điều ước quốc tế có liên quan quy định.
- Khi luật quốc gia do các bên thoả thuận lựa chọn, không có hoặc có
không đầy đủ còn thiếm khuyết về vấn đề tranh chấp vấn đề cần được điều
chỉnh.
Khi áp dụng tập quán quốc tế thường có nhiều loại. Cho nên để tránh
sự nhầm lẫn hoặc hiểu không thống nhất về một tập quán nào đó, nhất thiết
hợp đồng phải ghi rõ sẽ áp dụng tập quán nào. Ngoài ra khi áp dụng tập quán
thương mại quốc tế các bên đương sự cần phải chứng minh nội dung của tập
quán đó. Nội dung có thể lấy trong các văn bản của phòng thương mại, sách
báo, bản án v.v
Trong số các tập quán thương mại quốc tế có vai trò quan trọng trong
ngoại thương phải kể đến Incoterms 1990 của phòng thương mại quốc tế soạn
thảo. Có thể nói Incoterms 1990 là công cụ trợ giúp đắc lực quan trọng có tính
chất chung nhất cho giao dịch quốc tế khi mà của luật pháp các nước còn quy
định khác nhau về kinh doanh thương mại. Tuy nhiên khi áp dụng Incoterms
cần nắm vững các nguyên tắc sau:
10
Thứ nhất: Incoterms không có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể của
hợp đồng xuất nhập khẩu. Nó chí có giá trị bổ sung cho sự thiếu chính xác
trong hợp đồng. Do đó nó chỉ áp dụng khi không có quy định cụ thể của hợp
đồng về một vấn đề nào đó. Điều này được khẳng định ở điều 5 của
Incoterms. "Mọi quy định trong quy tắc phải nhường bước cho các quy định
riêng được các bên đưa vào hợp đồng".
Thứ hai: Phải ghi rõ là phải hiểu theo Incoterms nào. Ví dụ: giao hàng
theo điều kiện FOB (CIF) Incoterms 1990, để tránh hiểu nhầm với các tập
quán khác.
Thứ ba: Incoterms không giải quyết tất cả các vấn đề mà chỉ giải quyết
bốn vấn đề sau:
- Chuyển rủi ro vào thời điểm nào
- Ai lo liệu chứng từ hải quan

- Ai trả chi phí bảo hiểm
- Ai chịu trách nhiệm về phí vận tải.
Ngoài ba nguồn luật nói trên, thực tiễn buôn bán quốc tế (phương Tây)
còn thừa nhận cả án lệ và điều luật chung, các hợp đồng mẫu chuyên nghiệp
làm nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu.
4) Án lệ
Án lệ cũng được xem là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán ngoại
thương. án lệ được áp dụng ở hầu hết các nước phương Tây. Thông qua các
vụ án kinh tế mà đặc biệt là vụ án kinh tế về mua bán ngoại thương đã được
xét xử để người ta có thể áp dụng cho các trường hợp tương tự tiếp theo xảy
ra.
Án lệ được áp dụng trong các trường hợp sau:
- Khi các bên thoả thuận trong hợp đồng là sẽ áp dụng án lệ. Tuy nhiên
các bên phải quy định cụ thể trong những trường hợp cụ thể trong hợp đồng.
11
- Khi mà các bên thảo thuận điều khoản trọng tài trong việc lựa chọn
trung tâm trọng tài trong việc lựa chọn trung tâm trọng tài mà trung tâm trọng
tài có áp dụng án lệ vào xét xử thì ác bên đương sự phải áp dụng.
Ở Việt Nam nói chung là chưa áp dụng án lệ vào các loại hợp đồng nói
chung và hợp đồng mua bán ngoại thương nói riêng. Và cũng không có một
văn bản pháp luật nào quy định án lệ là nguồn luật điều chỉnh các hành vi vi
phạm.
5) Luật quốc gia
Luật quốc gia trở thành nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu
khi các chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu thoả thuận chọn luật của một
nước nào đó. Nhằm bổ sung những thiếu sót của hợp đồng.
Luật quốc gia của một nước sẽ được lựa chọn khi:
- Các bên thoả thuận trong hợp đồng. Có nghĩa là ngay từ lúc đàm phán
ký kết hợp đồng, các bên đã thoả thuận, đưa vào hợp đồng điều khoản luật áp
dụng ví dụ "mọi vấn đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ thì

áp dụng theo luật Việt Nam".
- Các bên thoả thuận lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng sau khi hợp
đồng xuất nhập khẩu đã được ký kết. Trường hợp này được áp dụng cho xuất
nhập khẩu được ký kết trước đó. Vì lý do nào đó (khách quan hoặc chủ quan)
không có điều khoản luật áp dụng. Mặc dù lúc này thường là tranh chấp đã
xảy ra nhưng các bên vẫn có thể đàm phán với nhau để lựa chọn luật nào đó
để giải quyết.
- Khi luật đó đã được quy định trong các điều ước quốc tế hữu quan.
Có nghĩa là nếu trong điều ước quốc tế mà quốc gia mình tham gia ký kết
(hoặc thừa nhận) có quy định điều khoản về luật áp dụng cho các hợp đồng
mua bán quốc tế thì luật đó đương nhiên được áp dụng. Các chủ thể hợp đồng
xuất nhập khẩu không phải đàm phán về vấn đề đó nữa.
Luật quốc gia được lựa chọn là do các bên của hợp đồng xuất nhập
khẩu tự thoả thuận và quyết định, nó có thể là luật nước người bán, nước
người mua, nước thứ ba luật nói ký kết, nói thực hiện hợp đồng xuất nhập
khẩu Việc lựa chọn luật nước nào phụ thuộc vào sự đàm phán vào thế vào
12
lực "của mỗi bên. Và đặc biệt là sự hiểu biết về luật cần lựa chọn. Vì khi đàm
phán chọn luật áp dụng bao giờ các bên cũng muốn chọn luật nước mình. Nếu
không đạt được việc lựa chọn của một trong hai nước thì có thể chọn luật
nước thứ ba. Tuy nhiên cần phải am hiểu sâu sắc về luật cần chọn.
Khi luật quốc gia là nguồn luật điều chỉnh không phải là toàn bộ hệ
thống luật quốc gia được đem áp dụng mà chỉ áp dụng những ngành luật có
liên quan tới hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh những bộ luật còn có các
văn bản dưới luật áp dụng cho mua bán hàng hoá quốc tế. Mà những văn bản
dưới luật này nó thường hay thay đổi. Vì thế cần phải ghi rõ ràng hợp đồng
rằng "Hợp đồng có hiệu lực điều chỉnh từ khi nào thì do các quy phạm pháp
luật thời điểm đó điều chỉnh".
III. KÝ KẾT HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU.
1) Điều kiện để hợp đồng xuất nhập khẩu có hiệu lực

a) Chủ thể phải hợp pháp:
Đối với nước ngoài, chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu có thể là thể
nhân hoặc pháp nhân. Các chủ thể này phải có năng lực pháp lý và năng lực
hành vi. Năng lực hành vi của thể nhân nước ngoài về nguyên tắc chung là do
luật quốc tịch nước ngoài quy định. Muốn biết xem thương nhân nước ngoài
có năng lực hành vi hay không thì phải biết người đó thuộc quốc tịch nào rồi
căn cứ vào luật nước đó để xem xét năng lực hành vi. Tương tự một tổ chức
nước ngoài có là một pháp nhân hay không, cũng phải biết tổ chức đó thuộc
nước nào, rồi căn cứ vào luật nước đó xem xét có đủ tư cách pháp nhân hay
không.
Đối với Việt Nam chủ thể cũng có thể là thể nhân hoặc pháp nhân:
* Thể nhân Việt Nam ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu phải có năng lực
hành vi và năng lực pháp lý. Tuổi của năng lực hành vi là 18 tuổi. Điều 20 Bộ
luật dân sự qui định "Người có đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người
chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên" và điều 21 qui định "Người thành
niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp qui định tại điều 24 và
25 của Bộ luật này".
13
Ở Việt Nam chủ thể hợp đồng mua bán là thương nhân, mà "Thương
nhân gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh
hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên" (điều 5 khoản 6 Luật Thương
mại). Điều 17 qui định điều kiện để trở thành thương nhân "Cá nhân từ đủ 18
tuổi trở nên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia
đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo qui định của pháp luật
nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân.
Theo điều 18 Luật Thương mại, những người không được công nhận:
"- Người không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang phải chấp

hành hình phạt tù.
- Người đang trong thời gian bị toà án tước quyền hành nghề vì phạm
các tội buôn lậu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, làm hàng giả, buôn bán hàng
giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội khác theo
qui định của pháp luật.
* Tổ chức Việt Nam có tư cách pháp nhân phải thoả mãn các điều kiện
sau (Điều 94 Bộ luật dân sự):
"- Là tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho
phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận.
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
- Có tài sản độc lập với cá nhân hoặc tổ chức khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản đó.
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập"
Song không phải mọi thể nhân và pháp nhân Việt Nam được thừa nhận
là chủ thể của hợp đồng kinh tế mà chủ thể này phải có giấy phép kinh doanh
xuất nhập khẩu do Bộ thương mại cấp (Nghị định 33/CP của Chính phủ ngày
19/4/1994 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu).
14
Điều kiện để được cấp giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu
được qui định tại điều 6 của Nghị định 33/CP.
Đối với doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu thì:
- Thành lập theo đúng luật pháp và cần kinh doanh tuân thủ các quy
định của pháp luật hiện hành.
- Doanh nghiệp phải có mức vốn lưu động tối thiểu tính bằng tiền việt
nam tương đương 200000 USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh xuất khẩu,
nhập khẩu. Riêng đối với các doanh nghiệp kinh doanh nghiệp kinh doanh
những mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩumà không đòi hỏi nhiều vốn,
mức lưu động nêu trên được quyết định tương đương 100000U S D.
- Hoạt động theo đúng ngành hàng đã đăng ký khi thành lập doanh
nghiệp.

- Có đội ngũ cán bộ đủ trình độ quy định, khuyến khích và thực hiện
hợp đồng mua bán ngoại thương.
Đối với doanh nghiệp sản xuất :
Các doanh nghiệp được thành lập theo đúng luật pháp, cơ sở sản xuất
hàng xuất khẩu ổn định và có thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, có đội ngũ cán
bộ đủ trình độ kinh doanh, khuyến khích thực hiện hợp đồng mua bán ngoại
thương, có quyền trực tiếp xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất và nhập khẩu
vật tư nguyên liệu cần thiết cho sản xuất của chính doanh nghiệp. Trường hợp
khách hàng nước ngoài thanh toán bằng hàng (đổi hàng), phải được Bộ
thương mại xem xét giải quyết hợp lý cho từng trường hợp cụ thể.
b) Hình thức hợp đồng xuất nhập khẩu phải hợp pháp.
Về vấn đề hình thức hợp đồng nói chung chưa có sự thống nhất giữa
các nước. Hầu hết các nước phương Tây như Anh, Pháp v.v cho rằng hình
thức có thể được ký kết bằng miệng, văn bản hay bằng bất cứ hình thức nào
khác tuỳ các bên thoả thuận. Công ước Viên 1980 tại điều 11 quy định rằng:
"Hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết bằng văn hoặc xác nhận
bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp
đồng". Còn đối với Việt Nam và một số nước khác quy định rằng hợp đồng
xuất nhập khẩu phải được ký kết bằng văn bản thì mới có hiệu lực. Chính vì
15
thế mà điều 96 của công ước Viên 1980 cho phép các quốc gia bảo lưu điều
11 như luật pháp các nước quy định hình thức văn bản là bắt buộc.
Ở Việt Nam hợp đồng xuất nhập khẩu phải được ký kết bằng văn bản
mới có hiệu lực. Tại điều 81 khoản 4 Luật Thương mại qui định rằng "Hợp
đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài phải được lập thành văn
bản" vì thế các doanh nghiệp Việt Nam phải tuyệt đối tuân thủ. Ngoài ra "Đối
với các hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật qui định phải được lập
thành văn bản thì phải tuân theo các qui định đó: điện báo, telex, fax, thư điện
tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn
bản" (điều 49 khoản 3 Luật Thương mại).

c) Nội dung của hợp đồng xuất nhập khẩu phải hợp pháp.
Một hợp đồng xuất nhập khẩu để có hiệu lực phải có nội dung hợp
pháp. Tính hợp pháp của nó được thể hiện ở các vấn đề sau:
Thứ nhất: hợp đồng xuất nhập khẩu phải có các điều khoản chủ yếu.
Các điều khoản này được quy định tại Điều 50 Luật Thương mại gồm có tên
hàng; số lượng; quy cách phẩm chất; thời hạn, địa điểm giao hàng; giá cả và
điều kiện giao hàng; phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán.
Thứ hai: Ngoài những điều khoản chủ yếu trên bất kỳ các điều khoản
nào khác được các bên đưa vào hợp đồng xuất nhập khẩu gọi là điều khoản
thông thường. Các điều khoản này được quy định như bao bì; giám định, mẫu
cách, chế tài, tranh chấp, bảo hành, hiệu lực hợp đồng v.v Tuy nhiên phải
xem xét rằng đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu có thuộc diện cấm xuất
cấm nhập không.
d) Hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết trên cơ sở tự nguyện.
Nguyên tắc tự nguyện cho phép các bên được hoàn tự do thoả thuận về
một vấn đề có liên quan tới quyền và nghĩa vụ của các bên trong khuôn khổ
pháp luật.
Nguyên tắc tự nguyện loại bỏ tất cả các hợp đồng được ký kết trên cơ
sở dùng bạo lực, do bị đe doạ, bị lừa đảo hoặc do sự nhầm lẫn.
2) Thủ tục ký kết
16
a) Người ký kết
Người đứng tên tham gia ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu phải là người
đúng chức năng thẩm quyền phù hợp với quy định của pháp luật.
Nếu là hợp đồng được ký kết giữa các cá nhân, doanh nghiệp tư nhân
với nhau thì thẩm quyền ký kết là người chủ doanh nghiệp đó. Họ là cá nhân
có đăng ký kinh doanh (Việt Nam) hoặc có tên trong sổ đăng ký thương nhân
(các nước phương Tây) hoặc những người được chủ doanh nghiệp, cá nhân
đăng ký kinh doanh uỷ quyền.
Nếu là hợp đồng được ký kết giữa các pháp nhân luật pháp sẽ quy định

ai là người có quyền ký kết hợp đồng. Thông thường là những người đại diện
cho công ty như: Tổng giám đốc, giám đốc, chủ tịch hãng tập đoàn. Những
người này là đại diện theo luật định.
Ngoài ra còn có những người đại diện theo luật định uỷ quyền. Việc uỷ
quyền được thực hiện trên giấy uỷ quyền hoặc hợp đồng uỷ thác (việc này rất
phổ biến trong ngoại thương). Những người được uỷ quyền, nếu vượt qua
phạm vi được uỷ quyền thì hợp đồng xuất nhập khẩu sẽ không có giá trị.
b) Trình tự ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu.
Có hai hình thức ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu:
- Ký kết trực tiếp: Các bên của hợp đồng xuất nhập khẩu trực tiếp gặp
gỡ nhau cùng đàm phàn thoả thuận. Nếu các bên thống nhất các vấn đề nêu ra
thì cùng ký vào hợp đồng. Hợp đồng được coi là ký kết từ lúc các bên cùng
ký vào hợp đồng đó. Tại điều 55 Luật Thương mại qui định "Hợp đồng mua
bán hàng hoá được coi là ký kết kể từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp
đồng"
- Ký kết gián tiếp: Khi các bên ở xa nhau không đàm phán trực tiếp
được mà hợp đồng được ký kết bằng cách gửi trao đổi đề nghị ký kết hợp
đồng và chấp nhận ký kết hợp đồng:
- Giai đoạn đề nghị ký kết hợp đồng (chào hàng) người đề nghị phải
tuân thủ pháp luật về điều kiện hiệu lực của chào hàng.
17
Ở Việt Nam Điều 51 Luật Thương mại quy định rằng: Chào hàng là đề
nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá trong một thời hạn nhất định được
chuyển cho một hay nhiều người xác định và phải có nội dung chủ yếu của
hợp đồng. Tuân thủ thời hạn hiệu lực và điều kiện để tuyên bố đề nghị ký kết
hợp đồng có hiệu lực. Thời hạn hiệu lực hợp đồng của bên chào hàng bắt đầu
từ thời điểm chào hàng được chuyển đi cho đến được chào hàng đến hết thời
hạn chào hàng. Trong trường hợp không xác định thời hạn chấp nhận chào
hàng thì thời hạn có hiệu lực của chào hàng tuỳ thuộc luật pháp các nước. ở
Việt Nam là 30 ngày kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào

hàng (điều 53 khoản 1 Luật Thương mại).
Theo điều 15 khoản 1 Công ước Viên 1980 thì "Chào hàng có hiệu lực
khi nó tới tay người được chào hàng". Tuy nhiên chào hàng cũng có thể bị
huỷ bỏ, vấn đề này được qui định tại điều 15 Công ước Viên "Chào hàng dù
là loại chào hàng cố định vẫn có thể bị huỷ nếu như thông báo về việc huỷ
chào hàng đến người được chào hàng trước hoặc cùng lúc với chào hàng",
ngoài ra chào hàng cũng có thể bị mất hiệu lực khi: Người chào hàng đưa ra
hoàn giá; thời hạn có hiệu lực qui định trong chào hàng kết thúc; trường hợp
bất khả kháng như thiên tai, lệnh cấm của Chính phủ.
- Giai đoạn chấp nhận chào hàng: pháp luật đa số của các nước quy
định rằng: Hợp đồng được coi là ký kết khi đề nghị ký kết hợp đồng được
chấp nhận vô điều kiện. Điều 55 Luật Thương mại Việt Nam quy định rằng:
"Trong trường hợp các bên không cùng có mặt để ký hợp đồng, hợp đồng
mua bán hàng hoá được coi là ký kết từ thời điểm bên chào hàng nhận được
thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện đã ghi trong chào hàng trong thời
hạn trách nhiệm của người chào hàng". Vấn đề chào hàng có hiệu lực khi nào
là rất quan trọng tại điều 18 khoản 2 của Công ước Viên 1980 thì "Chấp nhận
chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận được chấp thuận. Chấp
nhận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp thuận ấy không được
gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà người này đã qui định trong chào
hàng ". Chấp nhận chào hàng cũng có thể được huỷ bỏ và nó được qui định
tại điều 22 Công ước Viên "Chấp nhận chào hàng có thể bị huỷ bỏ nếu thông
báo về việc huỷ chào hàng tới tay người được chào hàng trước hoặc cùng một
lúc khi chấp nhận có hiệu lực".
18
Nếu có sự sửa sang, sửa đổi chào hàng thì coi như đã từ chối, và được
coi là ký kết khi người chào hàng chấp nhận các sửa đổi này. Công ước Viên
1980 quy định ký kết hợp đồng là ngày đề nghị ký kết hợp đồng được chấp
nhận vô điều kiện và nói ký kết là nói nhận được chấp nhận vô điều kiện.
3) Các điều khoản của hợp đồng xuất nhập khẩu.

a) Những điều khoản liên quan tới đối tượng
Về tên hàng. Tên hàng thể hiện qua ngôn ngữ tiếng Anh là thông dụng
nên hai bên cần ghi rõ tên thương mại, tên khoa học và tên thông dụng của nó
để tránh sự hiểu nhầm.
Về quy cách phẩm chất. Đây là khâu yếu nhất của hợp đồng xuất nhập
khẩu, nó phải bảo đảm tính dự định về phẩm chất qua từng thời gian và từng
chuyến hàng xuất nhập. Có rất nhiều cách xác định phẩm chất (mẫu hàng,
hàm lượng, nhãn hiệu, trọng lượng tự nhiên, thông số kỹ thuật v.v ) Mỗi
cách xác định đó khi không tuân thủ sẽ gánh chịu các hậu quả pháp lý khác
nhau.
- Về số lượng: Đây là điều khoản quan trọng góp phần xác định rõ đối
tượng mua bán và liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ của người mua và
người bán. Do vậy việc lựa chọn đơn vị đo lường nào lại căn cứ vào tính chất
của bản thân hàng hoá, vừa phải căn cứ vào tập quán buôn bán quốc tế về đo
lường mặt hàng nào đó.
Về số lượng khi lập hợp đồng cần thoả thuận các vấn đề cơ bản sau:
+ Lựa chọn đơn vị đo lường. Tuỳ theo tính chất loại hàng hoá mà sử
dụng các đơn vị đo lường như kg, tấn , lít, m3, cái, chiếc, hộp, chai.
+ Về quy tắc xác định khối lượng, có thể được xác định cố định, hoặc
trong một giới hạn quy định.
+ Cần phải xem xét hệ thống đo lường ở các quốc gia khác nhau để
tránh có sự hiểu lầm. Ví dụ 1 thước theo hệ Trung Quốc bằng 40cm; còn theo
hệ đo quốc tế là 100cm.
b) Điều khoản liên quan tới giá cả và thanh toán.
19
- Về điều khoản giá cả cần phải ghi rõ đơn vị tính giá cả (căn cứ vào
tính chất hàng hoá và tập quán buôn bán mặt hàng đó trên thị trường quốc tế).
+ Giá cơ sở: Căn cứ vào chi phí chuyên chở, phí BH phí lưu kho.
Thường qua các thuật ngữ FOB, CIF, FAS kèm theo địa danh giao hàng.
+ Đồng tiền tính giá: Có thể là đồng tiền của nước xuất khẩu, nước

nhập khẩu hoặc nước thứ 3.
+ Phương pháp tính giá: được hai bên thoả thuận vào thời diểm ký kết
hợp đồng hoặc trong thời gian hợp đồng đang có hiệu lực, hoặc thời diểm
thực hiện thanh toán. Có thể tính theo các loại giá sau: giá cố định, giá di
động, giá trượt, giá quy định sau:
- Điều khoản thanh toán
+ Về phương thức thanh toán. Trong mua bán quốc tế thường áp dụng
các phương thức thanh toán như: Thanh toán bằng đổi hàng hoá, thanh toán
bằng tiền mặt, thanh toán theo từng phần, thanh toán ứng trước v.v
+ Hình thức thanh toán, có thể qua hình thức nhờ thu, thư tín dụng, séc
và thanh toán hồi phiếu. Nhưng phần lớn thanh toán HĐTMQT thường qua
hình thức nhờ thu và thư tín dụng.
+ Đồng tiền thanh toán có thể là đồng tiền của nước xuất khẩu hoặc
nước nhập khẩu hoặc nước thứ ba. Đồng tiền thanh toán có thể không trùng
với đồng tiền tính giá, nếu vạy trong hợp đồng phải quy định tỷ giá chuyển
đổi để thuận lợi cho việc thanh toán.
+ Thời hạn thanh toán có thể được xác định cụ thể hoặc việc thanh toán
được tiến hành trong một số ngày nhất định.
c) Điều khoản về thời hạn, địa điểm giao hàng:
- Về thời hạn giao hàng có thể được qui định thời gian giao hàng cụ thể
hoặc giao hàng trong một khoảng thời gian nhất định.
- Về điều kiện giao hàng nhằm qui định rõ hàng được giao ở đâu, ai
thuê tàu, ai mua bảo hiểm. Điều kiện này có thể được qui định rõ trong hợp
đồng hoặc có thể được hai bên dẫn chiếu đến các điều kiện thương mại quốc
tế nha FOB, CIF Incoterms 1990.
20
d) Các điều khoản khác của hợp đồng.
Ngoài các điều khoản chủ yếu được nêu trên trong hợp đồng xuất nhập
khẩu còn có các điều khoản khác bao gồm:
- Điều khoản về đóng gói bao bì và ký mã hiệu. Để đảm bảo cho lộ

trình vận chuyển và bảo quản hàng hoá, mặt khác nâng cao tính hấp dẫn cho
người tiêu dùng. Hợp đồng thường có điều khoản quy định về đóng gói bao
bì. Bên cạnh đó để thuận tiện cho việc giao nhận bốc dỡ, bảo quản hợp đồng
còn quy định về ký mã hiệu của hàng hoá, nó có thể bằng chữ hoặc bằng số.
- Điều khoản về bất khả kháng. Những trường hợp gây thiệt hại nhưng
không do lỗi của các bên ảnh hưởng tới hậu quả không thực hiện được hợp
đồng, làm chậm thời gian thực hiện hợp đồng gây thiệt hại về số lượng hoặc
chất lượng hàng hoá. Vì thế trong hợp đồng xuất nhập khẩu thường ghi điều
khoản bất khả kháng như: hoả hoạn, lụt lội, thiên tai, biển đóng băng, đóng
cửa các eo biển, đi trệch đường, do các hoạt động quân sự gây ra, chiến tranh,
phong toả hoặc các biện pháp khác của chính phủ ngăn cấm.
- Điều khoản về bảo hành, nhằm xác định về khối lượng hàng hoá phải
bảo hành, thời hạn bảo hành, nghĩa vụ của người bán trong từng trường hợp
phát hiện có khuyết tật hoặc không phù hợp thì người bán phải thực hiện
nghĩa vụ gì. Ví dụ như bồi hoàn chi phí cho người mua. Trường hợp không
khắc phục được thì người mua có quyền gì. Ví dụ như từ chối hợp đồng, hoặc
yêu cầu giảm giá, đổi thiết bị mới.
- Điều khoản khiếu nại. Đây là những yêu sách của người mua đưa ra
đối với người bán. Vì vậy điều khoản này phải quy định rõ trình tự khiếu nại,
thời hạn có thể nộp đơn khiếu nại; quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan
tới việc phát đơn khiếu nại; các phương pháp điều chỉnh khiếu nại (bù hàng
thiếu, giao thêm, trả lại hàng và hoàn tiền cho người mua, sửa chữa khuyết tật
và người bán chịu phí tổn, đổi hàng khác).
- Điều khoản về thời gian địa điểm phương tiện giao hàng.
Trong hợp đồng thường phải quy định các nguyên tắc giao nhận hàng
cụ thể như sau:
21
+ Thời gian giao nhận hàng, về cả số lượng và chất lượng nhằm người
mua kiểm tra cả số lượng lẫn chất lượng. Thông thường thời gian đó tiếp nhận
chất lượng thường lâu hơn số lượng.

+ Địa điểm giao hàng phải được quy định cụ thể là sẽ giao ở đâu, tại
kho hay công ty của người bán; cảng giao hàng đã thoả thuận; ga gửi, sân
bay, kho người mua, v.v
+ Phương tiện giao hàng: Có thể thoả thuận rõ ràng về phương tiện
chuyên chở đến các địa điểm giao nhận hàng. Ngoài ra còn phải nêu rõ: cảng
bốc hàng, dỡ hàng, địa địa điểm phải qua, thể thức hoá đơn, vận đơn; Trình tự
thông báo xảy đến cảng bốc, dỡ hàng.
- Điều khoản về trách nhiệm lập hồ sơ chứng từ cho lô hàng xuất nhập
khẩu. Thông thường bên bán có nghĩa vụ chuẩn bị chứng từ hoàn hảo bao
gồm:
+ Bộ hoá đơn thương mại.
+ Tờ khai hải quan.
+ Giấy chứng nhận đóng gói, bao bì
+ Giấy chứng nhận kiểm dịch
+ Giấy chứng nhận nguồn gốc xuất xứ của lô hàng
+ Giấy chứng nhận sát trùng (nếu bên mua yêu cầu)
+ Bộ vận đơn đường biển
Ngoài các giấy tờ trên, tuỳ theo loại hàng xuất khẩu mà phải xin thêm
giấy tờ cần thiết khác.
- Điều khoản trọng tài:
Theo điều khoản này của hợp đồng quy định thể thức giải quyết tranh
chấp có thể phát sinh giữa các bên mà không thể điều chỉnh bằng các biện
pháp tự hoà giải được. Các bên có thể chọn trọng tài thương mại quốc tế của
một nước nào đó để giải quyết. Thời hạn đưa tranh ra trọng tài được các bên
thoả thuận quy định rõ trong hợp đồng. Tuy nhiên việc lựa chọn trọng tài phải
cân nhắc tới thời gian, chi phí thủ tục tố tụng của trung tâm trọng tài đó nhằm
22
mang lại hiệu quả cho mỗi bên nhằm tạo nên sự đầy đủ của nội dung hợp
đồng đảm bảo sự thực hiện hợp đồng của các bên.
IV. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU

1) Nguyên tắc thực hiện
Hợp đồng xuất nhập khẩu sau khi ký kết các bên phải thực hiện theo
những thoả thuận được ký kết trong hợp đồng. Việc thực hiện phải tuân thủ
các nguyên tắc nhất định. Nó là tư tưởng chỉ đạo có tính chất bắt buộc các bên
phải tuân theo trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu đã ký kết.
Bao gồm các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc thực hiện hiện thực là thực hiện đúng về mặt đối tượng,
không được thay thế việc thực hiện đó bằng việc đưa một khoản tiền nhất
định hoặc dưới một hình thức khác.
- Nguyên tắc thực hiện đúng: tức là thực hiện tất cả các điều khoản đã
cam kết. Tất cả các quy định trong hợp đồng đều phải được thực hiện đúng và
đầy đủ như số lượng phải đủ chất lượng phải phù hợp với quy định, đúng thời
gian, phương thức thanh toán, giao hàng v.v
- Nguyên tắc thực hiện trên tinh thần hợp tác và cùng có lợi. Nguyên
tắc này tạo nên sự quán triệt trong suốt quá trình ký kết và thực hiện hợp
đồng, cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xuất nhập
khẩu. Các bên có nghĩa vụ hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi và giúp
đỡ lẫn nhau để thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh cam kết, cùng nhau khắc
phục những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng. Ngay cả khi có
tranh chấp xảy ra các bên phải cùng nhau giải quyết các vấn đề phát sinh.
2) Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng, các bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng đã
ký kết. Căn cứ vào các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng để tiến hành
sắp xếp công việc phải làm. Việc thực hiện cũng phải tuân thủ theo pháp luật
bao gồm các bước sau:
a) Thực hiệp hợp đồng xuất khẩu:
a1. Xin giấy phép xuất khẩu
23
Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu
khác của quá trình xuất khẩu. Người xuất khẩu phải thực hiện nghĩa vụ xin

giấy phép xuất khẩu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để hàng được xuất
khẩu.
Ở Việt Nam theo Nghị định số 89/CP ngày 15/12/1995 qui định bãi bỏ
thủ tục Bộ Thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu cho từng chuyến hàng
(lô hàng). Kể từ ngày 1/2/1996 trở đi trường hợp sau đây phải xin giấy phép
xuất khẩu chuyến đi hàng xuất nhập khẩu mà Nhà nước quản lý bằng hạn
ngạch (theo quyết định số 11-1998/QĐ-TTg ngày 23/1/1998 của Thủ tướng
Chính phủ thì còn hai mặt hàng được Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch đó là
gạo, hàng dệt may xuất khẩu vào EU, Canada, Nauy, Thổ Nhĩ Kỳ.
Việc xin giấy phép xuất khẩu phải lập tờ khai (6 bản) trên mẫu do Bộ
thương mại và du lịch phát hành. Ngoài ra cần xuất trình: Hợp đồng hoặc
những văn bản có giá trị như hợp đồng; thư tín dụng (L/C) nếu thanh toán
bằng thư tín dụng; phiếu lạm ngạch đối với hàng quản lý bằng hạn ngạch
(Điều 2 quy định số 297/TMDL-XNK ngày 9-4-1992 của Bộ thương mại và
Du lịch).
Những mặt hàng xuất với mục đích khác như nhận uỷ thác xuất khẩu
hoặc dự hội chợ triển lãm thì ngoài 6 tờ khai còn có văn bản cho phép của
Bộ Thương mại và Du lịch, hợp đồng uỷ thác (uỷ thác xuất khẩu); Danh mục
và số lượng hàng được Bộ Thương mại và Du lịch xác nhận (hàng dự hội chợ,
triển lãm).
a2. Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu
Theo yêu cầu của người nhập khẩu về hàng hoá như quy cách, số
lượng, chủng loại thì người xuất khẩu phải tổ chức sản xuất hoặc thu gom
hàng hoá để tập trung xuất khẩu.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thì việc chuẩn bị hàng hoá
thường gồm các công việc sau:
- Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu thông qua các hợp
đồng kinh tế như hợp đồng mua đứt bán đoạn, hợp đồng gia công, hợp đồng
24
đổi hàng, hợp đồng đại lý thu mua, hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu. Tuân

thủ theo pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989.
- Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu nhằm bảo đảm phẩm chất chất lượng,
thuận lợi cho việc bốc xếp di chuyển, giao nhận.
- Có ký mã hiệu hàng hoá xuất khẩu bằng số hoặc bằng chữ, bằng hình
vẽ để nhận biết dễ dàng.
Đối với doanh nghiệp sản xuất thì phải tiến hành lập kế hoạch, tổ chức
sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng và số lượng để tiến hành thực hiện các
công việc như doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu.
a3. Kiểm nghiệm chất lượng hàng hoá.
Hàng hoá xuất khẩu đảm bảo được yêu cầu về chất lượng, số lượng và
các yêu cầu khác theo như thoả thuận trong hợp đồng. Vì vậy trước khi xuất
khẩu người xuất khẩu phải tiến hành kiểm tra hàng hoá: kiểm nghiệm về số
lượng chất lượng bao bì; hoặc là kiểm dịch đối với động thực vật.
Việc kiểm tra có thể do khách hàng, do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (ví dụ Vinacontrol ) hoặc tổ chức quốc tế nào đó thực hiện nhằm đảm
bảo quyền lợi cho công ty nhập khẩu và đảm bảo uy tín công ty xuất khẩu.
Đồng thời ngăn chặn hậu quả xấu. Những mặt hàng bắt buộc phải kiểm tra
theo quy định của pháp luật trong nước hoặc quốc tế thì phải tiến hành kiểm
tra.
a4. Thuê tàu
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu việc thuê tàu chở
hàng dựa vào các điều khoản cụ thể được quy định trong hợp đồng. Người
xuất khẩu có phải thuê tàu hàng hay không tuỳ thuộc vào thoả thuận trong
hợp đồng, tuỳ thuộc vào điều kiện giao hàng. Ví dụ nếu thoả thuận giao hàng
theo điều kiện CFR, CIF, CIP Incoterms 1990 thì người xuất khẩu phải thuê
tàu. Người xuất khẩu phải tiến hành các thủ tục với các hãng tàu đi thuê tàu
chuyên chở hàng hoá tới nơi quy định theo quy định trong hợp đồng xuất
nhập khẩu.
a5. Bảo hiểm.
25

×