Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

lạm phát của việt nam qua các năm 2007 2008, 2010 2011, nguyên nhân và giải pháp cũng như triển vọng lạm phát năm 2017 ở việt nam (KInh tế vĩ mô)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.6 KB, 13 trang )

GIỚI THIỆU:
Nói đến lạm phát là chúng ta liên tưởng ngay đến một nền kinh tế vì nó tồn tại song
song với các chế độ khác nhau trong những thời kỳ lịch sử khác nhau nhưng các
biểu hiện của nó vô cùng đa dạng và phức tạp. Trên thế giới, các quốc gia dù chọn
mơ hình kinh tế tập trung bao cấp hay kinh tế thị trường, nếu muốn phát triển vững
mạnh đều phải quan tâm đến tam giác: tăng trưởng, thất nghiệp, lạm phát. Đây là ba
chỉ số quan trọng nhất trong việc đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia,
chúng vừa đối lập nhau vừa liên kết chặt chẽ với nhau. Trong đó, Lạm phát như một
căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn
về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được kết quả khả quan. Chống
lạm phát khơng chỉ là việc của các doanh nghiệp mà cịn là nhiệm vụ của chính phủ
và của tất cả chúng ta.Trong những năm gần đây, đặc biệt là vào năm 2007-2008
Bởi lẽ đó, vấn đề lạm phát được rất nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đề xuất
các phương án. Có thể nhận thấy, việc nghiên cứu lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân
và các biện pháp chống lạm phát là hết sức cần thiết và có vai trị to lớn góp phần
vào sự nghiệp phát triển đất nước. Vì thế, em quyết định chọn đề tài “LẠM PHÁT
CỦA VIỆT NAM QUA CÁC NĂM 2007- 2008, 2010-2011, NGUYÊN NHÂN VÀ
GIẢI PHÁP CŨNG NHƯ TRIỂN VỌNG LẠM PHÁT NĂM 2017 Ở VIỆT NAM”
để nghiên cứu và làm tiểu luận.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1 Một số định nghĩa về lạm phát:
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường ,nó xuất hiện khi các
yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hố khơng được tơn trọng ,nhất là quy luật
lưu thông tiền tệ .Ở đâu cịn sản xuất hàng hố ,cịn tịn tại những quan hệ hàng hố
tiền tệ thì ở đó cịn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi
các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm .Lạm phát đã trở thành mối quan tâm
của rất nhiều người .Do đó lạm phát được đề cập đến rất nhiều trong các cơng trình
nghiêm cứu của các nhà kinh tế .Mỗi người đều đưa ra khái niệm về lạm phát theo
quan điểm ,phương hướng nghiên cứu của mình .
Trong bộ tư bản nổi tiếng của mình ,Các Mác viết :”Việc phát hành tiền giấy phải
được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thơng nhờ các đại diện tiền


giấy của mình “.Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước phát
hành vào lưu thông vượt qua số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy
giảm xuống ,giá cả tăng vọt và tình trạng lạm phát xuất hiện .
Từ đây ,ông cho rằng lạm phát là “bạn đường “của chủ nghĩa tư bản.Không những
chủ nghĩa tư bản bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư mà còn gây ra lạm
phát giảm tiền lương của người lao động.
Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng :”lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và
chi phí tăng – giá bánh mì ,dầu xăng ,xe ơ tô tăng ,tiền lương ,giá đất, tiền thuê tư
liệu sản xuất tăng “.Ơng thấy rằng lạm phát chính là biểu thị sự tăng lên của giá cả .


Còn Milton Friedman lại quan niệm khác :”Lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và
kéo dài “.Ông cho rằng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ .
Một số nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes đều tán thành ý kiến đó của
Friedman.Họ cho rằng khi thị trường tiền tệ phát triển ,ảnh hưởng đến nền kinh tế
quốc dân của mỗi nước thì lạm phát có thể xảy ra bất kì thời điểm nào .Nó chính là
một hiện tượng tất yếu của t chính – tiền tệ .
Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó đựoc
sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường :”Lạm phát là sự tăng lên của
mức giá trung bình theo thời gian“.
1.2 Phân loại lạm phát:
1.2.1 Lạm phát vừa phải.
Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi mức giá tăng chậm thường ở mức một con
số. Đó là mức lạm phát mà bình thường nền kinh tế trải qua và ít gây tác động tiêu
cực đến nền kinh tế.
1.2.2 Lạm phát phi mã.
Lạm phát trong phạm vi hai hoặc ba con số một năm thường được gọi là lạm phát
phi mã. Khi lạm phát phi mã xảy ra giá trị đồng tiền bị mất giá rất nhanh, mọi người
có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc
các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và

tích lũy của cải.
1.2.3 Siêu lạm phát.
Siêu lạm phát là trường hợp lạm phát đặc biệt cao. Siêu lạm phát bắt đầu khi tỷ lệ
lạm phát hàng tháng vượt quá 50%. Đặc điểm chung của mọi cuộc siêu lạm phát là
sự gia tăng quá mức trong cung tiền,nhiều cuộc siêu lạm phát đã có xu hướng xuất
hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến, hoặc cách mạng, do sự căng thẳng
về ngân sách chính phủ.
2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2008 và 2010-2011
2.1 Lạm phát giai đoạn 2007-2008:
Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng ấn tượng đạt 8,48%, cao
hơn mức trung bình 5 năm giai đoạn 2003- 2007, là một trong những nền kinh tế có
tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trên thế giới. Tuy nhiên, vào những tháng
cuối năm 2007 và đầu 2008, cùng với đà suy thoái kinh tế thế giới, đồng USD mất
giá, giá dầu thô tăng cao, giá cả lương thực và nguyên nhiên vật liệu tăng đột biến
cộng với tác động của thiên tai, dịch bệnh đã làm cho nền kinh tế Việt Nam bộc lộ
những nhược điểm cố hữu của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.
Năm 2007 cịn là năm hội tụ của những “cơn bão” tệ hại cho nền kinh tế nước ta:
thiên tai bão lụt, dịch bệnh và đặc biệt là cơn bão tăng giá kéo dài và bất kham, lạm
phát của nước ta tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm sốt, tỉ lệ lạm phát cao ở
mức 13%, chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007.
Tính chung cả năm 2007, CPI ước khoảng trên 10,5- 11%, phần nào phản ánh tốc
độ trượt giá và lạm phát của năm nay. Theo thống kê sơ bộ của tổng cục thống kê,
tính đến cuối tháng 10/2007, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã lên đến hơn
9.34% so với cùng kỳ năm trước, và khoảng 8,12% so với đầu năm.
Những tháng đầu năm 2008, mức lạm phát của Việt Nam đã tăng đến 25,2% trong
tháng 5, cao nhất kể từ năm 1992, tạo ra thách thức cho chính phủ khi họ cố gắng


kìm chế nền kinh tế đang phát triển q nóng. Mức tăng giá, ở tháng tư là 21%, vì
mức tăng 67,8% của giá gạo – nông sản chủ yếu chịu trách nhiệm cho sự tăng gía

42,8% của hàng hố và dịch vụ khi chúng ta tinh toán mức lạm phát. Chi phí xây
dựng và tiền thuê nhà cũng tăng 22,9% so với năm 2007. Đến tháng bảy, tỷ lệ lạm
phát lại một lần nữa tăng lên tới 27%,khi giá thực phẩm và nhiên liệu đã kìm hãm
nền kinh tế nơi mà Việt Nam đang phải đối phó với trận chiến chống lạm phát tàn
khốc nhất vùng Á Châu.
2.2 Lạm phát giai đoạn 2010-2011:
Năm 2010 Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong cả năm 2010, chỉ số giá tiêu
dùng tăng 11,75% so với tháng 12 năm 2009. Con số 11,75% tuy không quá bất ngờ
nhưng vẫn vượt so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%. Tính
chung trong cả năm 2010, giáo dục là nhóm tăng giá mạnh nhất trong rổ hàng hóa
tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn (16,18%) và nhà ở - vật liệu xây dựng
(15,74%). Bưu chính viễn thơng là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6%
trong năm 2010. Năm 2011 ,Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng năm
2011 ước tính tăng 5,76% so với cùng kỳ năm 2010. CPI cả nước tháng 10 tăng
21.59% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng 17.05% so với tháng 12 năm 2010. Tính
chung 10 tháng, CPI tăng 18.5% so với cùng kỳ năm trước.
Nếu tháng giêng năm 2011, lạm phát Việt Nam khởi điểm 7% so với cùng kỳ năm
2010 thì đúng 3 tháng sau đó, cuối tháng 4/2011, Tổng cục Thống kê Việt Nam
chính thức thơng báo lạm phát hay chỉ số giá tiêu dùng (gọi tắt là CPI) nhảy vọt lên
mức gần 18% so với một năm trước đó.
Nghe các con số thì khơ khan, nhưng chỉ cần hình dung thế này, nếu q vị, tháng tư
năm trước bỏ ra 100,000 cho một ký lô thịt heo, thì đến tháng tư năm nay, q vị
phải bỏ ra gần 118,000 đồng cũng chỉ để mua một ký lô thịt heo. Trong khi lương
tháng vẫn không hề thay đổi, hàng hóa thì tăng, cịn tiền lương lại cố định, làm cho
q vị có cảm giác như như mình vừa bị “lấy trộm” mất gần 18,000 đồng.
Với mức tăng xấp xỉ gần 18%, tốc độ leo thang của giá cả được cho là tăng nhanh
nhất kể từ hồi năm 2008.
Tuy nhiên, lạm phát Việt Nam vẫn chưa dừng lại ở đó. Lạm phát tháng 7 lên đến
đỉnh điểm, tăng hơn 22% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng xấp xỉ 15% so với ngày
đầu tiên của năm 2011. Lạm phát tháng 7 của Việt Nam lúc này ở mức cao nhất

Châu Á và đứng thứ nhì thế giới, chỉ sau Venezuela.

CHƯƠNG 2: NGUYÊN NHÂN CỦA LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2007-2008 VÀ 2010-2011
2.1 Giai đoạn 2007-2008:
2.1.1 Nguyên nhân bên ngoài:
-Cũng như những quốc gia châu á khác, do đồng USD suy yếu trong những năm
gần đây đã tạo ra những cú sốc về tăng giá xăng dầu, giá vàng, giá lương thực thực
phẩm… từ đó tác động xấu đến giá cả ở VN. Giá cả thị trường thế giới liên tục tăng


cao, xăng dầu tăng (giá dầu thô từ 60 USD/thùng đầu năm 2007 tăng lên trên 100
USD/thùng cuối năm 2007), sắt thép tăng 30%, phân bón tăng 20%, lúa mì tăng
60%, sợi, bông, chất dẻo, … Đồng thời những mặt hàng nước ta xuất khẩu (gạo, cà
phê, cao su, hạt tiêu, điều…) cũng xuất với giá tăng rất cao, đặc biệt là giá lương
thực phẩm tăng trên 30%, nên giá thu mua cũng tăng, từ đó làm ảnh hưởng lớn đến
giá cả chung trong nước, vả lại khi tính chỉ số CPI thì trọng số lương thực thực
phẩm ở ta chiếm tỷ lệ cao (42,85%), nhà ở vật liệu xây dựng chiếm 10%, giá xăng
dầu trong năm 2007 tăng nhanh, giá vàng thế giới v trong nước tăng rất cao, ảnh
hưởng gián tiếp là tác động tâm lý đến các loại giá khác, nên CPI tăng mạnh.
2.1.2 Nguyên nhân bên trong:
- Chính sách tài khóa khơng hiệu quả là ngun nhân rất quan trọng của căn bệnh
lạm phát ở nước ta. Để hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế, Chính phủ đã có những kế
hoạch chi tiêu nâng cấp cơ sở hạ tầng của đất nước và liên tục bội chi ngân sách
trong nhiều năm trn 5% GDP (năm 2007 bội chi khoảng trên 56.000 tỷ đồng). Đầu
tư cho tăng trưởng kinh tế là điều cần thiết, nhưng đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn
trải, gây lãng phí lớn trong thời gian dài là nguy hiểm cho nền kinh tế nước nhà
– Thiên tai, mưa bão, lũ lụt, những đợt rét đậm, rét hại ở các tỉnh phía Bắc gây thiệt
hại năng nề: con người, tài sản, đất trồng, lương thực thực phẩm và dịch bệnh
(SARS, cúm gia cầm) ảnh hưởng đến giá cả thực phẩm…ảnh hưởng đến giảm tổng

cung.
– Chi phí sản xuất hàng hóa dịch vụ chưa hợp lý, sức cạnh tranh các sản phẩm trong
nước không cao, hiệu quả kinh tế thấp.
– Trong năm 2007, và đầu năm 2008 Nhà nước chủ động thực hiện lộ trình điều
chỉnh theo giá thị trường đối với một số loại hàng hóa, vật tư cơ bản như: điện, xăng
dầu, than,… làm ảnh hưởng đến việc tăng giá các hàng hóa khác.
– Chính sách tiền tệ năm 2007 cũng có những vấn đề cần xem xét, cung tiền (tổng
phương tiện thanh toán) tăng nhanh năm 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm
2007 là 53.8%, tổng cộng 3 năm cung tiền M2 tăng 134.2%, trong khi 3 năm GDP
chỉ tăng 25.09%. Chênh lệch giữa cung tiền tăng trong 3 năm qua (134.5%) với tăng
trưởng kinh tế GDP (25.09%) là rất lớn, chắc chắn sẽ đè nặng lên giá cả trong nước,
và cuối năm 2007, đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do có sự cộng hưởng bởi lạm
phát quốc tế (USD yếu) và thiên tai.
2.2 Giai đoạn 2010-2011
2.2.1 Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức độ cao bằng mọi giá.
08/11/2010 chính phủ đặt ra những chỉ tiêu phát triển không thực tế: 7%-7.5% mỗi
năm trong 5 năm tới và 7%-8% trong 2011-2020. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam
trải qua nạn lạm phát 11.75% vào năm 2010 cao hơn tất cả những nước láng giềng.
Để đạt được mục tiêu phát triển, chính phủ gia tăng chương trình đầu tư cơng qua
các doanh nghiệp nhà nước và hậu quả là làm tăng mức cầu về tín dụng. Do đó có
thể nói rằng lạm phát hiện nay phần lớn do sức cầu kéo.và mãi đến 18/10/2011,
Chính phủ đề xuất giảm xuống còn 6-6.5% để ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mơ.
2.2.2 Do tính quy luật về quan hệ cung cầu hàng hóa theo mùa trong năm.


Năm 2010: Nhìn vào diễn biến chỉ số CPI giữa các tháng trong năm 2010 cho thấy:
chỉ số CPI tăng cao chủ yếu vào đầu năm và cuối năm, tập trung là vào dịp trước và
sau Tết Dương lịch cũng như Tết Nguyên đán. Đây là khoảng thời gian cầu tăng
mạnh do tiêu dùng cuối năm, dịp Tết, nhưng cung hạn chế do thời tiết, do mùa vụ
của sản xuất và một số yếu tố khác. Riêng tháng 12 – 2010 chỉ số CPI tăng cao nhất,

tới gần 2%.
Năm 2011: Nhìn trên các chỉ số cụ thể từng tháng, CPI năm 2011 có 3 điểm đáng
lưu ý:
Thứ nhất, đây là năm có mức độ tăng giá trong một tháng rất cao, tháng 4 “vọt” lên
mức 3,32%.
Thứ hai, ngoài mức tăng đột biến, khoảng cách giữa tháng tăng cao nhất và tháng
giảm thấp nhất cũng rất lớn, lên đến 2.96% (so sánh mức tăng 3,32% với mức giảm
0.36%).
Thứ ba, diễn biến chỉ số giá năm 2011 phá vỡ tính chu kỳ của các năm 2010. Trong
khi những năm 2010, biểu đồ chỉ số giá diễn biến theo hình parabol ngược, tức là
tăng cao ở những tháng đầu năm và cuối năm dương lịch, tăng thấp hoặc giảm vào
những tháng đầu quý 2 và khá ổn định những tháng giữa năm, thì năm 2011 có sự
đột biến mạnh trong quý I và giữa quý II, sau đó giảm tốc mạnh mẽ những tháng
cuối năm.
2.2.3 Do thiên tai
-Ảnh hưởng đến mùa màng vừa bị thiệt hại, thức ăn và vật tư nông nghiệp, máy
móc thiết bị nơng nghiệp bị mất hay hư hỏng.
- Dịch cúm gia cầm, bệnh dịch lở mồm long móng
- Giá điện, phân bón, thức ăn chăn ni, xăng dầu, lãi suất vốn vay và chi phí vốn
vay tăng, chi phí đầu vào tăng.
- Trong năm 2010, giá bán lẻ thức ăn chăn nuôi đã tăng tới 14 lần, riêng từ
15/9/2010 đến cuối tháng 12/2010 tăng tới 9 lần. Giá thức ăn chăn ni tháng
1/2010 cịn ở mức
187.500 đồng/bao loại 25 kg, đến tháng 12/2010 đã tăng lên 264.000 đồng/kg nên
nhiều vùng trồng rau màu ven các đô thị lớn thu hẹp diện tích gieo trồng, nguồn
cung giảm
2.2.4 Do tác động của giá cả trên thị trường thế giới.
- Giá thế giới tăng, giá xuất khẩu các mặt hàng tương ứng của Việt Nam tăng và giá
thu mua trong thị trường nội địa cũng tăng. Bình quân 8 tháng năm 2011, giá cả



hàng hóa chung thế giới đã tăng 32,88% so với cùng kỳ năm 2010, cao hơn mức
tăng của năm 2010 và 2009, trong khi cán cân thương mại thâm hụt ở mức lớn
- Giá nông sản, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn ni, phân bón, thuốc trừ sâu,
hóa chất khác phục vụ nông nghiệp và thuốc thú y trên thị trường thế giới tăng khá
cao, giá dầu thô trên thị trường thế giới năm 2010-2011 biến động dữ dội làm cho
giá xăng dầu trong nước tăng lên đột biến. Các mặt hàng khác có liên quan đến dầu
mỏ như: khí đốt, gas,hóa chất, hạt nhựa, nhựa đường, than đá, chất dẻo, phân bón...
cũng tăng khá cao.
2.2.5 Việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ) và xuất nhập khẩu.
Sự phá giá VNĐ cũng giúp tăng xuất khẩu và giảm chênh lệch cán cân thương mai
vì làm giảm chi phí sản xuất trong nước. Tuy nhiên, đồng Việt Nam mất giá cũng
làm tăng lạm phát vì giá sản phẩm và nguyên liệu nhập khẩu sẽ gia tăng tính theo
VNĐ. Đồng nội tệ sẽ lại mất giá mạnh, khi đó sẽ tác động tăng lạm phát cao hơn vì
phải bỏ ra nhiều nội tệ hơn để có một đồng ngoại tệ.
2.2.6 Do tác động của q trình đơ thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng.
Trong xu hướng đơ thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng, diện tích đất đai tiếp tục bị
thu hẹp. Việc thu hồi đất nông nghiệp, đặc biệt là đất canh tác màu mỡ của người
dân ở ven các khu đô thị, làm cho diện tích đất trồng trọt giảm. Mặt khác, tình trạng
đó làm hạn chế quy mô sản xuất nông nghiệp, giảm nguồn cung ứng nông sản ra thị
trường.Xu hướng này càng được đẩy mạnh và mở rộng trong năm 2010, nên tác
động đáng kể đến giá cả.Cũng do q trình đơ thị hóa, giá th nhà trong năm 2010
bình qn tăng trên 20%, nhất là giá nhà cho người có thu nhập thấp và trung bình
thuê, như sinh viên, người lao động.
2.2.7 Do tác động của lãi suất.
Lãi suất thị trường liên ngân hàng tạo thành xu hướng đi lên, từ quanh mức 10,25%
cuối tháng 8, đến đầu tháng 9 năm 2010 lên mức khoảng 14% và có thời điểm đến
18-20%.
Mức tín dụng tăng 27% trong năm 2010, vượt quá mục tiêu 25%. Mức tín dụng chỉ
tiêu cho năm 2011 là 23%.Mặc dù trong 9 tháng 2011, tốc độ tăng trưởng tổng

phương tiện thanh tốn và tín dụng ở mức thấp, lần lượt là 8.87% và 8.16% (ngày
23/9/2011), nhưng ảnh hưởng của tăng trưởng cung tiền và tín dụng tới lạm phát là
có độ trễ. Do đó, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến lạm phát tăng cao
2.2.8 Do biến động của giá vàng và diễn biến tâm lý của người dân.
- Yếu tố tâm lý tác động nhiều đến động thái tiêu dùng và phân phối hàng hóa trong
nền kinh tế. Chính phủ đã nới lỏng mục tiêu lạm phát từ 7% đến dưới 10% đến 15%
đến 17% và 18% và các tổ chức quốc tế cũng điều chỉnh tăng dự báo lạm phát Việt
Nam khiến cho niềm tin của dân chúng về lạm phát ổn định bị ảnh hưởng và làm


gia tăng mức lạm phát kì vọng, góp phần tăng lạm phát thực tế. Trong đó, lạm phát
tâm lý trong nền kinh tế đang ảnh hưởng đến nhiều mặt đời sống xã hội, đặc biệt là
giá các loại hàng hóa trên thị trường.
-Giá vàng tăng và lên cơn sốt vào nhiều thời điểm, cộng với diễn biến thất thường
của tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do, tác động lớn đến tâm lý của người dân
về lạm phát,về sự mất giá của đồng tiền Việt Nam, góp phần tác động đến mặt bằng
giá chung trên thị trường.
2.2.9 Nợ công và chi tiêu công quá mức.
Nợ công
Năm 2011, dự kiến nợ công của Việt Nam ước khoảng 54,6% GDP và theo đánh giá
của Chính phủ đang ở ngưỡng an tồn.
Về chi tiêu công
Với mức chi tiêu của khu vực công (bao gồm chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư)
trong những năm 2010-2011 luôn ở mức 35-40% GDP và đầu tư của nhà nước bằng
khoảng 20% GDP (một nửa tổng đầu tư toàn xã hội) là một mức quá cao.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHÀ NƯỚC ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ KIỀM CHẾ LẠM
PHÁT TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2008 VÀ 2010-2011
3.1 Giai đoạn 2007-2008:
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều ngun nhân,
nhưng lạm phát ln có ngun nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư

nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là
nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ
trương kiểm sốt chặt chẽ tổng phương tiện thanh tốn và tổng dư nợ tín dụng ngay
từ đầu năm. Ngân hàng Nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp
lý các cơng cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được
yêu cầu này.
Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh
khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều
kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Hai là, cắt giảm đầu tư cơng và chi phí thường xun của các cơ quan sử dụng
ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng
giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn
đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả
của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính
phải cắt giảm và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các cơng trình kém hiệu quả,
các cơng trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ
được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn


vốn.
Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ u cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh,
thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng
mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các cơng trình đầu tư kém
hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những cơng trình sắp hồn
thành, những cơng trình đầu tư sản xuất hàng hố thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy
nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực
phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt

Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài
và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển
sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị
trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ.
Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ tịch
UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm
nhập siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản
xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá,
ngăn chặn đầu cơ.
Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội
ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực,
thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao
nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm
cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả.
Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp qua
giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã
quyết định: từ nay cho đến hết tháng 6, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu;
giữ ổn định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu hoả;
giao Bộ Tài chính rà sốt để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân...
Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và
kiềm chế sự tăng giá q mức của nhóm hàng này, Chính phủ quy định lượng xuất
khẩu gạo năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quý 3 khơng q 3,2 triệu tấn.
Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng thuế xuất khẩu than,
dầu thô và nghiên cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo.



Trong điều kiện đồng Đô la Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường
xuất khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đối giữa đồng tiền Việt
Nam và đồng Đơ la Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị trường ngoại tệ.
Vì vậy, Chính phủ chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản
ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không
ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra
thuận lợi.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong năm
2007 và tăng cao hơn trong quý 1 năm nay, đã đe doạ đến cân đối vĩ mơ, địi hỏi
phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy
mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu.
Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân
hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng
xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể;
tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách
mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho
doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt
Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp
với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập
khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng
phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm
năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các
cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà sốt
tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thơng. Chính phủ kêu gọi mọi
người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là
giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng
cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
Sáu là, tăng cường cơng tác quản lý thị trường, kiểm sốt việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến

động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất
và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực
phẩm…; ngăn chặn tình trạng bn lậu qua biên giới, đặc biệt là bn lậu xăng dầu,
khống sản.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán
tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã
chỉ đạo các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu
cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và
đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng
tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.


Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình hình
giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ
nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương
mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Chính phủ đã quyết định tăng 20% mức lương tối thiểu cho những người lao động
thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội từ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Chính phủ cũng quy định điều chỉnh mức
lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và
cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp,
hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt
Nam có thuê mướn lao động.
Riêng với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy
nghề), mức lương tối thiểu quy định cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu
vùng. Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã
hội đã được tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người có cơng đã được điều chỉnh trợ
cấp lên 20% so với mức chuẩn hiện hành.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 289/QĐ-TTg về một số

chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ
cận nghèo và ngư dân. Theo đó, thực hiện cấp bằng tiền tương đương 5 lít dầu
hoả/năm (dầu thắp sáng) cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện
chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có điện lưới; điều chỉnh mức hỗ trợ mua
bảo hiểm y tế cho người nghèo từ 80.000 đồng/người/năm lên 130.000
đồng/người/năm; hỗ trợ 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế đối với thành viên thuộc
hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện; hỗ trợ ngư dân mua mới, đóng mới
tàu đánh bắt hải sản, tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản; hỗ trợ
ngư dân để thay máy tàu sang loại máy mới tiêu hao ít nhiên liệu hơn; hỗ trợ về
kinh phí bảo hiểm thân tàu cho tàu đánh bắt hải sản, tàu dịch vụ phục vụ hoạt động
khai thác hải sản và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng lao
động trên các tàu cá, tàu dịch vụ; hỗ trợ về dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh
bắt hải sản hoặc tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản.
Chính phủ đã quyết định giữ ổn định mức thu học phí, viện phí và tiếp tục cho sinh
viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hồn cảnh khó khăn được vay ưu đãi
để học tập. Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho hộ đồng bào
bị thiên tai, thiếu đói (5). Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các chương
trình mục tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng
bị thiên tai. Điều quan trọng cần chú ý là phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc
thực thi, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước đến đúng đối tượng, khơng bị thất
thốt, tham nhũng.
3.2 Giai đoạn 2010-2011
Từ thực trạng này, Chính phủ thống nhất cao các giải pháp kiềm chế lạm phát, bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô trong thời gian tới.


Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý giá cả phù hợp với cơ chế thị trường. Thực
hiện quản lý nhà nước về giá đối với một số hàng hóa, dịch vụ độc quyền phù hợp
với cơ chế thị trường và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế bằng các biện pháp

giám sát thị trường, kiểm soát chi phí, áp thuế.
Thứ ba, tái cơ cấu nền kinh tế gắn bó chặt chẽ với đổi mới mơ hình tăng trưởng
theo hướng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ tư, tạo động lực từ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao để tăng
sức cạnh tranh của sản phẩm.
Thứ năm, thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước.
Thứ sáu, tăng cường công tác phân tích, dự báo tình hình thế giới, khắc phục triệt để
nguyên nhân lạm phát do yếu tố tâm lý.
Mục tiêu của Chính phủ trong năm 2011 là kiềm chế bằng được lạm phát ở mức
18% và kéo xuống dưới 10% trong các năm tiếp theo để đến năm 2015 kiềm chế
lạm phát ở mức khoảng 5%.
CHƯƠNG 4: TRIỂN VỌNG LẠM PHÁT NĂM 2017 THEO Ý KIẾN CỦA
CÁC CHUYÊN GIA VÀ TỔ CHỨC QUỐC TẾ
4.1 Theo Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR)
Tại hội thảo cơng bố báo cáo kinh tế vĩ mô quý 4 năm 2016 và triển vọng kinh tế
năm 2017 diễn ra ngày 16/1, Tiến sỹ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR cho
rằng năm 2017 có thể mục tiêu tăng trưởng kinh tế khơng đạt như chỉ tiêu 6,7% như
đề ra mà ước tính chỉ đạt 6,4%. Theo Tiến sỹ Thành đây là một ngưỡng quá cao và
là mục tiêu tương đối tham vọng đòi hỏi quyết tâm lớn và điều kiện thuận lợi mới
đạt được. Ơng cũng khuyến cáo Chính phủ vẫn nên duy trì tâm lý tránh nơn nóng
đạt mục tiêu tăng trưởng cao dẫn đến bng lỏng ổn định vĩ mơ.
Ngồi ra, VEPR nhận định đang có nhiều dấu hiệu cho thấy lạm phát đang quay trở
lại và mục tiêu 4% cho năm 2017 là khơng dễ dàng, ước tính lạm phạt có thể lên
đến 5,9%. Tiến sỹ Thành phân tích khi lạm phát vượt 5%, lãi suất danh nghĩa sẽ
phải điều chỉnh tăng, có thể gây ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh và thị trường tài
chính, tác động bất lợi đến tăng trưởng kinh tế nói chung.
Viện trưởng VEPR cho hay trong năm 2017 kinh tế Việt Nam cần thận trọng ứng
phó với những cú sốc mới từ bên ngồi. Trong đó, ngồi những vấn đề nội tại cố
hữu của nền kinh tế nội địa, tình hình kinh tế thế giới đầy bất trắc cũng sẽ gây ra
những ảnh hưởng khơng nhỏ tới Việt Nam.

Bên cạnh đó, VEPR nhận định ảnh hưởng của việc Donald Trump phản đối ký kết
TPP, có thể khiến làn sóng FDI vào Việt Nam suy giảm. Điều này có thể gây ra một
số hệ lụy nhất định, đòi hỏi sự cải cách tốt hơn điều kiện kinh doanh và năng lực
sản xuất trong nước, nâng cao sức cạnh tranh, nhằm duy trì động lực tăng trưởng
cho Việt Nam.


4.2 Theo Cơng ty Cổ phần Chứng khốn Bảo Việt (BVSC)
Theo BVSC, chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I năm nay tăng 4,96% so với bình
quân cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều so với cùng kỳ 2 năm gần đây. Nguyên
nhân chủ yếu do các địa phương tiếp tục điều chỉnh giá dịch vụ y tế và giáo dục
theo lộ trình; quý đầu năm trùng với Tết Nguyên đán nên nhu cầu về lương thực,
thực phẩm tăng lên, đóng góp 0,36% vào mức tăng CPI chung; giá nhiên liệu trên
thị trường thế giới tăng mạnh, khiến giá xăng dầu bình quân quý I tăng 34,92% so
với cùng kỳ năm ngối, đóng góp 1,45% vào mức tăng CPI chung.
Như vậy, chỉ số lạm phát toàn phần tăng mạnh chủ yếu do ảnh hưởng của nhóm
hàng lương thực thực phẩm, nhóm giao thơng và các mặt hàng do Nhà nước quản lý
giá. Nếu loại trừ các nhóm hàng này ra thì chỉ số lạm phát cơ bản bình quân 3 tháng
đầu năm 2017 có mức tăng khơng q lớn (chỉ 1,66%).
BVSC nhận định, diễn biến lạm phát trong các tháng tới sẽ không gặp quá nhiều rủi
ro. Cơ sở cho nhận định này là lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ y tế về cơ bản đã
hoàn thành bước 2, ước tính đến thời điểm này chỉ cịn 5 trên 63 tỉnh thành chưa
thực hiện điều chỉnh xong. Mức ảnh hưởng cịn lại của lộ trình tăng giá dịch vụ y tế
trong các tháng tới sẽ khơng lớn. Nhóm giáo dục cũng chỉ khiến chỉ số CPI chung
mỗi năm tăng thêm khoảng 0,3% từ nay đến năm 2021, là mức tăng nhỏ, khó gây
đột biến đến chỉ số lạm phát chung.
Bên cạnh đó, giá dầu dự báo sẽ ổn định quanh mức 50 USD/thùng trong thời gian
tới. Hiện có nhiều căn cứ để dự báo giá dầu sẽ còn điều chỉnh về mức thấp hơn, và
áp lực tăng giá xăng dầu trong nước sẽ giảm bớt, giá nhóm hàng giao thơng sẽ tránh
được mức tăng đột biến.

Ngồi ra, tình hình thời tiết 2017 có thể bớt cực đoan hơn năm 2016 giúp nguồn
cung lương thực thực phẩm được đảm bảo, giúp ổn định mặt bằng giá nhóm hàng
ăn và dịch vụ ăn uống. BVSC giữ nguyên dự báo lạm phát bình quân cho cả năm
2017 dao động ở mức 3 - 4%.
WB dự báo lạm phát trung bình cả năm 2017 là 4%, và trong 2 năm tiếp theo vẫn
giữ nguyên tốc độ này.
4.3 Theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia
Báo cáo tình hình kinh tế năm 2016 và dự báo năm 2017 của Ủy ban Giám sát tài
chính quốc gia (UBGS) nhận định, năm 2017, lạm phát chịu áp lực chủ yếu từ yếu
tố giá thế giới, được dự báo tăng trở lại.
Bên cạnh đó, dự báo lạm phát năm 2017 sẽ phụ thuộc vào mức độ điều chỉnh giá
dịch vụ công theo hai kịch bản: thứ nhất, giá dịch vụ công không điều chỉnh, lạm
phát dự báo ở mức khoảng 4%; thứ hai, giá dịch vụ công điều chỉnh bằng nửa mức
điều chỉnh trong năm 2016. Theo đó, lạm phát dự báo ở mức 5%.
KẾT LUẬN:
Bất kỳ nền kinh tế nào, từ mơ hình tập trung quan liêu bao cấp đến kinh tế thị
trường, muốn phát triển vững mạnh đều phải quan tâm đặc biệt tới tam giác: tăng
trưởng, thất nghiệp và lạm phát. Chúng liên kết hay đối lập, chúng liên hợp những


nhịp độ của tăng trưởng, sự tăng lên hay tụt xuống của những lớp thất nghiệp dưới
làm sóng lạm phát. Lạm phát, đó là hiện tượng mất cân bằng kinh tế phổ biến, là
căn bệnh kinh niên của kinh tế thị trường. Lạm phát được coi là con quỷ gớm nhất
trên trái đất, ít nhất là xét về triển vọng chính sách kinh tế vĩ mơ. Tuy nhiên lạm
phát cũng có tính chất hai mặt của nó. Một mặt nó kích thích nền kinh tế phát triển
nếu tốc độ tăng của nó phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, nếu tốc độ
lạm phát tăng cao sẽ gây ra những biến động kinh tế hết sức nghiêm trọng, như biến
dạng cơ cấu sản xuất về việc làm, thu nhập bất bình đẳng, tỷ lệ thất nghiệp tăng
Càng ngày, cùng với sự phát triển đa dạng phong phú của nền kinh tế thì nguyên
nhân dẫn đến lạm phát cũng ngày càng trở nên phức tạp hơn.Đối với nước ta, trong

sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết
của nhà nước, cơ chế mới sẽ là môi trường thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
theo xu hướng hiện đại, chắc lọc thừa kế những thành tựu và khắc phục những tồn
tại đã qua. Trong đó, lạm pháp nổi lên như là một vấn đề hết sức nghiêm trọng. Việc
nguyên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát là
hết sức cần thiết và có vai trị to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước



×