Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật) (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.62 KB, 86 trang )

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM ...................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam ......................... 8
1.1.1 Định nghĩa, đặc điểm biện pháp tạm giam ................................................................ 8
1.1.2 Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giam ......................................................... 10
1.2. Cơ sở của việc quy định biện pháp tạm giam ......................................................... 12
1.3. Quy định về biện pháp tạm giam trong pháp luật một số nước trên thế giới ..... 19
Tổng Kết Chương 1 ............................................................................................................. 25
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP TẠM
GIAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ..................................................................................... 26
2.1. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam................................. 26
2.1.1. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam từ năm 1988 đến năm
2003 ................................................................................................................................... 26
2.1.2. Quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp tạm giam ....................... 28
2.1.2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về đối tượng, thẩm quyền áp
dụng biện pháp tạm giam .................................................................................................. 29
2.1.2.2. Quy định Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về thủ tục và thời hạn tạm giam ............. 37
2.1.2.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về áp dụng biện pháp tạm giam
đối với người chưa đủ 18 tuổi ............................................................................................ 45
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam .................................................................. 48
2.2.1.Thực tiễn áp dụng căn cứ, đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam .................... 49
2.2.2.Thực tiễn áp dụng thủ tục và thời hạn biện pháp tạm giam ................................ 51
2.2.3.Nguyên nhân của hạn chế trong việc áp dụng biện pháp tạm giam .................... 52
2.2.3.1. Nguyên nhân từ những bất cập trong việc quy định pháp luật về biện pháp tạm
giam của BLTTHS năm 2003. ........................................................................................... 59
2.2.2.3. Nguyên nhân xuất phát từ nhận thức, thái độ và trách nhiệm của các cơ quan,
người tiến hành tố tụng ..................................................................................................... 61
2.2.3.3. Nguyên nhân xuất phát từ những bất cập trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và
sử dụng cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng ........................................................ 63
Tổng Kết Chương 2 .......................................................................................................... 64
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ĐÚNG BIỆN PHÁP
TẠM GIAM .......................................................................................................................... 65


3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng đúng biện pháp tạm giam ........................... 65
3.1.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm giam trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự ............................................................................................................ 65


3.1.2. Định hướng của việc hoàn thiện pháp luật tạm giam trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự.............................................................................................................................................. 66
3.2. Các giải pháp cụ thể
.................................................................................................................................................................

68
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật.......................................................................................... 68
3.2.1.1. Hồn thiện các quy định về mục đích áp dụng biện pháp tạm giam
.................................................................................................................................................................

68
3.2.1.2. Hoàn thiện các quy định về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam theo hướng
chặt chẽ, rõ ràng
.................................................................................................................................................................

69
3.2.1.3. Hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục và thẩm quyền áp dụng biện pháp
tạm giam
.................................................................................................................................................................

71
3.2.1.4. Hoàn thiện các quy định về việc thu hẹp phạm vi, đối tượng áp dụng biện pháp
tạm giam
.................................................................................................................................................................


72
3.2.1.5. Hoàn thiện các quy định về việc rút ngắn thời hạn tạm giam
.................................................................................................................................................................

73
3.2.1.6. Hạn chế về kỹ thuật lập pháp
.................................................................................................................................................................

76
3.2.2. Các giải pháp khác................................................................................................................ 77
3.2.2.1. Tăng cường năng lực cán bộ tư pháp
.................................................................................................................................................................

77
3.2.2.2.Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong việc áp dụng thi
hành biện pháp tạm giam
.................................................................................................................................................................

78
Tổng Kết Chương 3............................................................................................................................... 80
KẾT LUẬN.............................................................................................................................................. 81


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: So sánh về thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam giữa BLTTHS
năm 2003 và BLTTHS năm 2015
Bảng 2: Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam
Bảng 3: Tình hình áp dụng căn cứ tạm giam
Bảng 4: Tình hình áp dụng trình tự thủ tục tạm giam
Bảng 5: Tình hình áp dụng thời hạn tạm giam



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiến Pháp 2013 đã ra đời đánh dấu những quan điểm, tư tưởng phát triển toàn
diện của Đảng với trọng tâm là xử lý tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội,
quyền và lợi ích cơ bản của cơng dân. Với tình hình tội phạm tại Việt Nam trong
mơi trường kinh tế - xã hội phát triển như hiện nay thì hoạt động TTHS được thực
hiện thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm mục đích làm rõ sự thật khách
quan của vụ án. Trong hệ thống các BPNC trong Luật TTHS thì tạm giam là biện
pháp nghiêm khắc nhất vì khi áp dụng sẽ gắn liền với việc quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân sẽ bị hạn chế như: quyền tự do đi lại, quyền bầu cử,..v.v. Các
hoạt động TTHS mang tính cưỡng chế góp phần phát hiện, ngăn chặn kịp thời, xử lý
nhanh chóng tội phạm bảo đảm công lý và quyền con người. Do vậy, khi áp dụng
các BPNC nói chung và BPTG nói riêng trong q trình giải quyết các VAHS địi
hỏi các CQTHTT phải áp dụng đúng theo các quy định của pháp luật về căn cứ,
thẩm quyền, đối tượng, trình tự và thời hạn khi áp dụng các biện pháp này. Có như
vậy mới tránh được việc áp dụng BPTG một cách tùy tiện đảm bảo quyền con người
nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân nói riêng.
Trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở định hướng cải cách tư pháp của Đảng và
Nhà nước, Hiến pháp 2013 BPTG đã được duy trì phát triển cũng như hồn thiện
hơn trong BLTTHS năm 2015 xuất phát từ yêu cầu giải quyết vụ án hình sự được
khách quan, cơng bằng, nhanh chóng. Việc áp dụng BPTG trên thực tiễn cũng đã
đem lại nhiều lợi ích cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi việc điều tra bị cản trở
ảnh hưởng đến quá trình xác định sự thật vụ án và bỏ lọt tội phạm. BPTG đã được
tiếp cận dưới góc độ bảo vệ quyền con người, lấy quyền con người làm trọng tâm để
đảm bảo cao nhất quyền của người bị áp dụng BPTG.
Bên cạnh những lợi ích tích cực mà BPTG đem lại thì cũng cịn tồn tại những

bất cập trong thực tiễn chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp như là: tạm
giam quá thời hạn, vi phạm chế độ tạm giam, những trường hợp tạm giam do cơ
quan THTT áp dụng chưa được linh hoạt cịn cứng nhắc v.v... Những sai sót tiêu cực
như vậy sẽ gây nên tình trạng phẫn nộ trong lịng người dân, người dân khơng cịn
lịng tin ở các cơ quan THTT, quyền và lợi ích hợp pháp của con người không được
bảo đảm. Nguyên nhân của những ảnh hưởng tiêu cực đó là do quy định pháp luật,
trình độ cũng như những hoạt động tố tụng của các cơ quan chức năng còn


2

chưa được đồng bộ dẫn đến tình trạng oan sai, hồ sơ điều tra bị trả lại ảnh hưởng
đến thời hạn điều tra và thời hạn tam giam. Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc
tế bên cạnh việc nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế về quyền con người thì cần có
giải pháp đảm bảo quyền con người trong quá trình tạm giam cũng như kịp thời
ngăn chặn, xử lý những vi phạm trong việc thi hành biện pháp này.
Trong thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều vấn đề, vướng mắc được đặt ra trong
các VAHS như căn cứ áp dụng, độ tuổi áp dụng, v.v… cần được giải quyết, đảm bảo
được yêu cầu cải cách tư pháp. Do đó, cần có những nghiên cứu sâu hơn về lý luận
và thực tiễn về BPTG theo hướng bảo đảm quyền con người, đánh giá tình hình
thực tiễn áp dụng biện pháp dựa vào BLTTHS năm 2015 một cách khách quan để có
thể đưa ra các giải pháp hồn thiện. Vì vậy, để góp phần hồn thiện pháp luật TTHS,
nâng cao chất lượng hiệu quả áp dụng, làm sáng tỏ những vướng mắc trong cơ sở lý
luận và thực tiễn áp dụng BPTG hiện nay học viên đã lựa chọn nghiên cứu “Biện
pháp tạm giam theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các BPNC nói chung và BPTG nói riêng theo quy định của BLTTHS năm
2003 đã được rất nhiều người quan tâm, nghiên cứu. Tạm giam là biện pháp làm
hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của con người cho nên việc nghiên cứu về những
khó khăn và thuận lợi trong cơng cuộc cải cách tư pháp đều là mục đích quan trọng

và được quan tâm. Do vậy, trong thời gian qua vấn đề này đã thu hút được sự quan
tâm nghiên cứu trong các cơng trình khoa học ở các góc độ, mức độ khác nhau.
Những tài liệu, cơng trình nghiên cứu về đề tài này có thể kể đến là sách “Thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” do Tiến sỹ Lê Hữu Thể chủ
biên; Luận văn thạc sỹ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Lê Đơng Phong, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
năm 2004, Luận văn thạc sỹ “Biện pháp tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt Nam”
của Đào Thu Hà năm 2013. Tuy nhiên, theo như học viên nghiên cứu thì những luận
văn này đã giải quyết được những vấn đề khó khăn đối với BLTTHS năm 2003 quy
định về biện pháp tạm giam.
Biện pháp tạm giam cũng đã có nhiều bài viết về những đặc điểm, khó khăn
và thuận lợi khi áp dụng được cơng bố trên các tạp chí chun ngành như “Biện
pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của
Hồng Tám Phi, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2018 số 07; bài viết
“Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt bị can, bị cáo để


3

tạm giam” của Phan Thị Thanh Mai, Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội năm
2019 số 03.
Đối với BLTTHS năm 2015, học viên nhận thấy khơng có nhiều bài viết hoặc
cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến biện pháp tạm giam, có thể kể đến
Luận văn thạc sỹ “Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ngãi” của Nguyễn Công Thành (năm 2016), “Tạm giam trong tố tụng
hình sự và thực tiễn áp dụng của Cảnh sát điều tra tại tỉnh Bắc Cạn” của Đào Thị
Thu Hồng (năm 2019). Trong các luận văn này nội dung chủ yếu là phân tích và
đánh giá các quy định, căn cứ của BLTTHS năm 2015 về biện pháp tạm giam trong
thực tiễn áp dụng. Đối với các quy định đã được sửa đổi, bổ sung những điểm mới
lại phát sinh những vấn đề khó khăn và chưa được hợp lý thì chưa có nhiều cơng

trình nghiên cứu khoa học phân tích. Hiện nay BPTG trong Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 vẫn cịn những hạn chế trong việc quy định các điều luật, thời hạn tạm giam,
ngày càng nhiều VAHS vẫn tồn tại những hạn chế liên quan đến BPTG cần được
giải quyết và đề xuất hồn thiện.
Qua nghiên cứu những cơng trình khoa học nêu trên, học viên nhận thấy rằng
những quan điểm mang tính lý luận học viên có thể kế thừa và phát triển trên cơ sở
phân tích, đánh giá tình hình, đặc điểm và đưa ra những số liệu có liên quan đến
BPTG để có thể đưa ra những kiến nghị hoàn thiện. Do vậy, đề tài “Biện pháp tạm
giam theo bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu với mục
đích đem lại những hiệu quả thiết thực hoàn thiện về pháp luật giải quyết những hạn
chế trong giai đoạn xét xử hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Luận văn góp phần hồn thiện với mục đích làm rõ và
giải quyết những quy định còn bị hạn chế trong áp dụng pháp luật TTHS hiện hành
về BPTG, làm sáng tỏ những thực trạng áp dụng BPTG ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của con người. Từ đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả
việc thực thi BPTG theo quy định của pháp luật TTHS.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Từ những mục đích nghiên cứu được nêu trên, đề tài
thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một, nghiên cứu và phân tích khái qt tồn bộ hệ thống về quá trình xây
dựng, hình thành cũng như phát triển của BPTG trong TTHS; pháp luật thực định
của BPTG, từ đó mới có thể đưa ra được các khái niệm BPNC nói chung và BPTG
nói riêng.


4

Hai, khái quát hoá các quy định về BPTG trong lịch sử TTHS Việt Nam từ
năm 1945 đến nay, nghiên cứu để làm sáng tỏ BPTG một số nước cụ thể trên thế
giới để rút ra những yếu tố phù hợp với truyền thống văn hoá Việt Nam về hoạt

động lập pháp TTHS.
Ba, nghiên cứu về các quy định cụ thể hiện hành của BPTG trong TTHS và
tình hình thực trạng khi áp dụng từ đó phân tích và làm rõ những khó khăn vướng
mắc, hạn chế và bất cập giữa các quy định được xây dựng trong luật. Từ đó đưa ra
được những nhận xét, đánh giá, kiến nghị để thực thi được các quy định hiện hành
trong luật TTHS một cách hoàn thiện hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn sẽ nghiên cứu về những vấn đề có liên quan
đến BPTG trong TTHS để giải quyết triệt để những hạn chế còn vướng mắc. Quy
định của pháp luật TTHS về BPTG ở Việt Nam, ở một số nước trên thế giới cũng
như thực tiễn áp dụng biện pháp này ở Việt Nam những năm gần đây.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung:
Nghiên cứu và phân tích về lịch sử ra đời của BPTG trong TTHS Việt Nam.
Nghiên cứu thêm các quy định về BPTG của một số Luật TTHS thế giới.
Nghiên cứu các quy định của BPTG trong Luật TTHS Việt Nam hiện hành về độ
tuổi, thời hạn tạm giam đối với người già yếu, bệnh tật; thời hạn tạm giam trong giai
đoạn điều tra, truy tố.
+ Về không gian: Nghiên cứu quy định pháp luật về BPTG trong pháp luật Việt
Nam, pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới. Khảo sát thực tiễn áp dụng
BPTG trong TTHS ở phạm vi địa bàn tồn quốc. Phân tích quyền của người bị tạm
giam để đánh giá pháp luật và hành vi của CQTHTT trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự.
+ Về thời gian: nghiên cứu lịch sử phát triển của luật TTHS Việt Nam quy định về
BPTG từ năm 1945 đến nay. Tập trung chủ yếu hơn vào BPTG trong BLTTHS năm
2015. Luận văn nghiên cứu thực trạng áp dụng BPTG từ năm 2018 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở áp dụng lý luận triết học
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam cải

cách bộ máy Nhà nước được thể hiện qua các Nghị quyết của Đảng đảm bảo xây


5

dựng Nhà nước vững mạnh, phòng chống tội phạm bảo vệ an ninh, trật tự an toàn
quốc gia và xã hội.
Luận văn đảm bảo được sử dụng linh hoạt và hợp lý các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như sau :
Phương pháp phân tích, so sánh, thống kê được sử dụng trong q trình
nghiên cứu làm luận văn để có thể thực thi được các nhiệm vụ và giải quyết được
các mục đích nghiên cứu đã đưa ra.
Phương pháp so sánh dẫn chiếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu luận
văn để có thể chỉ ra được những bất cập mà trong luật TTHS quy định về BPTG
giữa BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015. So sánh và đối chiếu với các quy
định của BLTTHS của một số nước trên thế giới để qua đó học hỏi kế thừa và phát
triển được những điểm mới cho pháp luật TTHS Việt Nam, sửa đổi những quy định
cịn gây khó khăn về quyền, lợi ích hợp pháp của con người.
Phương pháp thống kê sẽ được sử dụng trong luận văn để bảo đảm số lượng bị
can, bị cáo khi áp dụng BPTG được thống kê cụ thể, đảm bảo các số liệu khác có
liên quan đến việc nghiên cứu của đề tài cũng được thống kê chính xác cụ thể.
Phương pháp tổng hợp sẽ được sử dụng trong nghiên cứu qua quá trình tìm
hiểu, làm rõ những vướng mắc khi áp dụng BPTG trong thực tiễn, đánh giá những
kết quả thu thập được trong quá trình nghiên cứu về nguyên nhân, hạn chế khi áp
dụng BPTG trên địa bàn thuộc khuôn khổ phạm vi nghiên cứu để xem xét đưa ra
các giải pháp phù hợp và hợp lý nhất.
6. Những điểm mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài được thể hiện qua những điểm mới sau đây:
Thứ nhất, các nghiên cứu liên quan đến BPTG chưa thật sự có nghiên cứu
mang tính độc lập, tổng thể trong lý luận và thực tiễn ở nước ta. Các nghiên cứu

trước đó đã khơng cịn phù hợp với xu thế phát triển mới sau khi Hiến pháp 2013 và
BLTTHS năm 2015 được ban hành. Những quy định dựa trên cách tiếp cận cũ và
quy định của luật TTHS cũ khơng cịn đúng với thực trạng cũng như thực tiễn áp
dụng. Vì vậy, luận văn vừa kế thừa và bổ sung thêm những bất cập mà các nghiên
cứu trước đó để lại. Việc nghiên cứu độc lập, khái quát đến các BPTG về mặt lý
luận, thực tiễn là điểm mới của luận văn.
Thứ hai, luận văn đưa ra các kinh nghiệm quốc tế và những bài học lịch sử về
BPTG thông qua việc nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế được ghi nhận trong các
công quốc về quyền con người, Điều ước quốc tế cũng như pháp luật một số quốc


6

gia về BPTG và quy định của pháp luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
Những nhận xét, đánh giá của luận văn về BPTG qua các bài học lịch sử và kinh
nghiệm quốc tế là điểm mới so với các cơng trình nghiên cứu trước đó, là tài liệu
tham khảo trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về BPTG.
Thứ ba, những nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng BPTG được phân tích
thơng qua các số liệu thực tiễn, tài liệu cập nhật đảm bảo tính quy luật của luận văn.
Khi thu thập, phân tích số liệu học viên sử dụng phương pháp thống kê để có thể
đem lại kết quả nghiên cứu của luận văn có độ tin cậy cao, phản ánh đúng thực
trạng về thực tiễn áp dụng BPTG trong cả nước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Kết quả của việc nghiên cứu luận văn sẽ đem lại ý nghĩa quan
trọng về thực tiễn lẫn lý luận, việc nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu trong việc
góp phần xây dựng, hồn thiện BPTG trong TTHS.
Ý nghĩa thực tiễn:
Các kết quả đạt được sau khi nghiên cứu sẽ giúp cho tác giả cũng như các cơ
quan, cá nhân nhận thức được toàn bộ về vấn đề lý luận và thực tiễn trong phong
trào đấu trang phòng, chống tội phạm.

Việc phân tích, tổng hợp đánh giá về tình hình thực tiễn khi áp dụng BPTG sẽ
đưa ra được cái nhìn khách quan và rõ ràng hơn về những hạn chế trong thực tiễn
khi áp dụng BPTG; xây dựng được những giải pháp hoàn thiện phù hợp hơn đem lại
tính khả thi cao, giải quyết được những khúc mắc cũng như giải quyết được những
nguyên nhân gây nên những hạn chế mà BPTG đã và đang gặp phải.
Kết quả của việc nghiên cứu cơng trình sẽ đem lại giá trị cho việc nâng cao về
chuyên môn nghiệp vụ, các kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ công tác tại cơ
quan THTT tại địa phương hoặc các tỉnh thành khác tham khảo khi gặp vấn đề
trong quá trình giải quyết VAHS giúp cho vụ việc được giải quyết hiệu quả, khách
quan và đúng thẩm quyền, căn cứ pháp luật hơn.
Trong quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đưa ra được các
kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm hiệu quả
thực thi BPTG đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp
phù hợp với các nghị định của Đảng và Nhà nước cũng như phát triển đúng theo
chuẩn mực quốc tế.


7

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dụng của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp tạm giam
Chương 2: Quy định pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam và thực
tiễn áp dụng
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng đúng biện pháp tạm giam


8


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam
1.1.1 Định nghĩa, đặc điểm biện pháp tạm giam
TTHS là lĩnh vực khá nhạy cảm do mỗi một thủ tục hay quyết định, hành vi
được đưa ra đều rất nghiêm khắc nhằm đảm bảo giải quyết thỏa đáng các vụ án để
bảo vệ công dân, tạo niềm tin và là chỗ dựa của nhân dân. Các cơ quan có thẩm
quyền, cá nhân và cơng dân tìm hiểu về những quy định theo pháp luật của BPNC
nói chung và BPTG nói riêng có ý nghĩa quan trọng cần thiết bởi lẽ đây là biện pháp
khi áp dụng sẽ ảnh hưởng đến tâm lý cũng như khả năng xâm hại trực tiếp đến
quyền, nghĩa vụ hợp pháp của con người. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần
nắm bắt rõ về mặt lý luận cũng như các quy định luật định về đối tượng bị áp dụng,
thẩm quyền áp dụng, căn cứ cũng như mục đích sử dụng nhằm nâng cao hiệu quả
việc đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như có thể hiểu thấu đáo để vận dụng
vào thực tiễn một cách đúng đắn, hợp lý đảm bảo quyền con người trong TTHS.
Về mặt lý luận, cần tìm hiểu về khái niệm “tạm giam” để từ đó có nền tảng đi
sâu vào tìm hiểu cụ thể hơn các lý luận về BPTG. Có thể thấy rằng từ lịch sử của
TTHS thì BPTG cũng đã được đề cập tại chương III Luật số 103.SL005 ngày
20/5/1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về "đảm bảo quyền tự do
1

thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân” .
Qua thời gian cùng với việc cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước đấu
tranh, phịng chống tội phạm thì tạm giam được xem là một trong những BPNC
trong TTHS, là biện pháp cưỡng chế bảo đảm cho hoạt động điều tra đạt được thuận
lợi, đồng thời thể hiện được sự nghiêm khắc của Nhà nước đối với người phạm tội.
Hiện nay, BPTG được diễn đạt với nhiều khái niệm khác nhau trong khoa học pháp
lý.
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ học thì “tạm” là chỉ
2


trong một thời gian nào đó, khi có điều kiện thì sẽ có thay đổi, mang tính tạm thời ;
“giam” tức là giữ người bị coi là có tội ở một nơi nhất định khơng cho tự do đi lại,
3

tự do hoạt động, bị nhốt . Như vậy, có thể hiểu khái quát dưới góc độ của ngơn ngữ
1

/>&document_id=2422

2Hồng Phê (chủ biên) (1992), Viện ngơn ngữ học, Trung tâm từ điển ngôn ngữ- Hà Nội, tr.814.
3 Hồng Phê (chủ biên) (1992), Viện ngơn ngữ học, Trung tâm từ điển ngôn ngữ- Hà Nội,tr 345.


9

học thì: Tạm giam được xem là biện pháp tạm giữ một người bị xem là có tội ở một
nơi cụ thể nhất định và người bị tạm giam sẽ bị hạn chế tự do hoạt động, đi lại trong
một khoảng thời gian, khi có điều kiện hoặc VAHS được giải quyết thì sẽ có thay
đổi.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội,
đã định nghĩa biện pháp tạm giam rằng: “Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị
cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp
luật, cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo
đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được thuận lợi”

4

Tại giáo trình Luật tố tụng hình sự của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh thì: “Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp luật

định nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

5

Tạm giam là một trong các BPNC được quy định trong Bộ luật TTHS, là
BPNC nghiêm khắc nhất trong TTHS. “Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị
cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền công dân
tác động trực tiếp đến quyền tự do thân thể, đi lại của cơng dân được Nhà nước
thừa nhận”.
Phân tích các khái niệm nêu trên thì theo học viên việc liệt kê các cơ quan có
thẩm quyền áp dụng của BPTG theo quy định của pháp luật TTHS có thể sẽ khơng
phù hợp trong trường hợp các quy định của pháp luật TTHS sẽ có sự thay đổi về các
điều kiện áp dụng. Vì vậy, theo học viên xây dựng khái niệm BPTG có thể dựa vào
các đặc điểm thuộc về bản chất đó là:
Là BPNC được quy định cụ thể trong pháp luật TTHS.
Đối tượng bị áp dụng BPTG là những người mà cơ quan có thẩm quyền có căn
cứ cho rằng người đó đã thực hiện hành vi được quy định trong BLHS là tội phạm
(tại thời điểm này được xem là bị can, bị cáo). Quy định nhằm ngăn chặn tình trạng
trốn tránh pháp luật, tiếp tục phạm tội phù hợp với các quy định của Hiến pháp và
chuẩn mực quốc tế về việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, con

4Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: luật Hình sự, luật Tố tụng hình sự. Trường Đại học Luật Hà Nội,
Công an nhân dân 1999, tr.224.
5Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2017), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức –
Hội luật gia Việt Nam, tr.314.


10


người. Theo quy định của luật TTHS hiện hành thì những đối tượng sau sẽ bị áp
dụng BPTG như là bị can, bị cáo, người bị dẫn độ, người bị yêu cầu dẫn độ khi đã
có đầy đủ căn cứ thỏa mãn các điều kiện bị tạm giam.
Hệ quả của BPTG là tạm thời tước tự do đối với bị can, bị cáo trong các
trường hợp do luật định. Người bị áp dụng sẽ phải cách ly với đời sống sinh hoạt xã
hội bên ngoài trong một khoảng thời gian cụ thể nhất định. Thời hạn của việc tạm
giam sẽ phụ thuộc vào tính chất phức tạp của VAHS bao gồm cả việc phụ thuộc vào
giai đoạn tố tụng mà bị can, bị cáo phải tuân thủ. Theo đó, người bị áp dụng BPTG
sẽ phải chịu sự quản lý, giam giữ sau khi bị cơ quan có thẩm quyền ban hành Lệnh
quyết định thực thi biện pháp trong một khoảng thời gian nhất định và trong một số
trường hợp có thể rất dài. Việc bị tạm giam tại cơ sở quản lý sẽ đảm bảo việc điều
tra được thuận lợi, tránh tình trạng tiêu hủy chứng cứ, bảo vệ được tài sản, tính
mạng, sức khỏe của cơng dân. Tạm giam đúng quy định pháp luật sẽ nâng cao được
hiệu quả quản lý Nhà nước, thể hiện được sự nghiêm khắc, chun chính của Nhà
nước XHCN trong việc phịng, chống tội phạm.
Từ những nhận thức được nêu trên, tác giả có định nghĩa về tạm giam như sau: Tạm
giam là biện pháp ngăn chặn được quy định cụ thể trong luật TTHS, do các cơ
quan có thẩm quyền áp dụng theo đúng trình tự, căn cứ, mục đích và thời
gian, qua đó người bị tạm giam sẽ tạm thời bị cách ly khỏi xã hội tại một khơng
gian có sự quản lý của người có thẩm quyền trong một khoảng thời gian, nhằm
ngăn chặn họ không thể thực hiện được bất kì hành vi nào bên ngồi xã hội để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
1.1.2 Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giam
- Mục đích
Theo như các mục đích chung mà hầu hết các nhà luật học quy định cũng như
cơ quan có thẩm quyền khi áp dụng thì BPTG có thể: ngăn chặn khơng để cho bị
can, bị cáo có khả năng tiếp tục phạm tội hoặc thực hiện hành vi gây cản trở đến
việc giải quyết vụ án trong từng giai đoạn tố tụng nhất định. Tuy nhiên, ở từng giai
đoạn của TTHS khi áp dụng BPTG sẽ có mục đích cũng như nhiệm vụ khác nhau
tùy theo tính chất nguy hiểm của VAHS. Ví dụ: Việc áp dụng BPTG trong giai đoạn

điều tra có thể giúp cho cơ quan điều tra giải quyết VAHS được diễn ra thuận lợi
nếu trong trường hợp tội phạm được điều tra là tội nghiêm trọng nếu trong thời hạn
3 tháng vẫn chưa được giải quyết, thu thập chứng cứ xong thì có thể được gia hạn
một lần và không quá hai tháng. Việc tạm giam sẽ đảm bảo cho hoạt động lấy


11

lời khai được diễn ra nhanh chóng từ bị can, bị cáo bất kì lúc nào mà khơng phải
mất thời gian đợi triệu tập nhiều lần.
- Ý nghĩa
Là một BPNC trong TTHS, BPTG có ý nghĩa rất quan trọng đối với q trình
giải quyết VAHS trong cơng tác đấu tranh, phịng chống các nhóm tội phạm những
vẫn đảm bảo được đầy đủ các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, quyền con
người trong TTHS, cụ thể:
Một là, BPTG góp phần đảm bảo cho cơng tác điều tra VAHS nói chung và tội
phạm xâm phạm đến các hoạt động tư pháp nói riêng được hiệu quả. Chất lượng
cơng tác quản lý của BPTG đã góp phần cho hoạt động thu thập các chứng cứ trong
giai đoạn điều tra được tiến hành nhanh chóng, bảo đảm tiến độ giải quyết VAHS
được thuận lợi theo đúng quy định của pháp luật. Thông qua áp dụng BPTG đảm
bảo được trật tự xã hội ổn định, các chứng cứ cũng được đảm bảo không có khả
năng bị tiêu hủy hoặc người bị tạm giam không trốn tránh pháp luật tạo điều kiện
cho Điều tra viên lấy lời khai, hỏi cung, thu thập chứng cứ từ các hoạt động điều tra
khác.
Hai là, tạm giam tạo ra cơ sở pháp lý giúp củng cố và tăng cường pháp chế thể
hiện tinh thần kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm của Nhà nước, thể hiện
được sự nghiêm khắc với công dân đảm bảo sự tuân thủ và tôn trọng quy định pháp
luật. Nhưng vẫn thể hiện được sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân mà Hiến
pháp đã quy định. Tạm giam còn đảm bảo cho mọi công dân, cá nhân được tôn
trọng, các quyền, lợi ích hợp pháp được bảo vệ, khơng có sự xâm hại từ bất kì thế

lực nào, khơng người nào bị tạm giam trái pháp luật. Trong trường hợp cơng dân bị
tạm giam trái pháp luật thì có quyền khiếu nại đến các cơ quan có thẩm quyền để
được bảo vệ và giải quyết.
Ba là, trong quá trình giải quyết VAHS nhờ có BPTG mà các hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi vì BPTG bảo đảm cho sự
có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền nên bảo
đảm được tính chính xác, khách quan của hoạt động TTHS. Sau quá trình điều tra,
truy tố, xét xử BPTG cịn góp phần đảm bảo cho việc thi hành đúng pháp luật,
người bị tạm giam khơng có khả năng trốn thốt hoặc trốn tránh trách nhiệm thực
thi hiệu lực bản án đã được tuyên.


12

1.2. Cơ sở của việc quy định biện pháp tạm giam
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ mà luật TTHS đã ban hành thì việc cần thiết là
quy định đúng đắn, rõ ràng về các BPTG từ đó có các căn cứ vận dụng vào thực tiễn
trong quá trình giải quyết VAHS. Các quy định của BPTG khi xây dựng cần đảm
bảo phải có các cơ sở như: Phát hiện và xử lý đúng người đúng tội một cách công
minh, phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, khơng để lọt tội phạm. Bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của cơng dân, của con người, thực hiện cơng lý chính nghĩa, góp phần
xây dựng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao tinh thần học tập, tuân thủ pháp
luật, giáo dục mọi cá nhân có ý thức về pháp luật, cùng chung tay đấu tranh, phòng
ngừa tội phạm. Các căn cứ sau đây đòi hỏi khi quy định về BPTG nói riêng và
BPNC nói chung, các nhà lập cần thiết phải tuân thủ để thiết lập:
Dựa vào các quy định của Hiến pháp từ đó có căn cứ để xây dựng BPTG:
Trong những năm gần đây quá trình cải cách tư pháp được Đảng, Nhà nước ta
quan tâm sâu sắc nhằm đảm bảo phát huy tiếp tục những kết quả đã đạt được thông
qua việc tổ chức thực hiện theo Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Xây dựng nền tư pháp

trong sạch, dân chủ, nghiêm minh đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc
tế.
Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân
và là bản Hiến pháp đầu tiên được ra đời trong hồn cảnh lịch sử đầy khó khăn
nhưng vẫn là cơng cụ đặc biệt và có hiệu lực ghi nhận các quyền tự do dân chủ của
cơng dân, hình thành nên các mục tiêu cơ bản xây dựng Nhà nước đó là bảo vệ lãnh
thổ, bảo vệ nhân tố quan trọng là con người. Các Hiến pháp tiếp theo sau đó
(1969,1980,1992,2003) cũng đã kế thừa và phát triển những vẫn dựa vào những nền
tảng cơ bản mà Hiến pháp 1946 đã quy định để xây dựng các BPNC có hiệu lực
trong việc cải cách tư pháp, đấu tranh, phòng chống tội phạm nhưng vẫn bảo vệ
6

quyền lợi công dân một cách chính đáng (Điều 14) . Vì lẽ đó, trên cơ sở của nền
tảng mà Hiến pháp đã quy định, Nhà nước với tinh thần đặt ra là quyền, lợi ích hợp
pháp của con người luôn luôn hàng đầu, tôn trọng nhân dân, ngăn ngừa sự lạm
dụng, xâm phạm quyền con người từ phía các cơ quan cơng quyền.

6Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 2013 tại điều 14.


13

Đây là nền tảng quan trọng để lĩnh vực tố tụng hình sự có thể ban hành ra các
quy định về BPNC trong đó có BPTG với mục tiêu cao nhất là phát hiện và làm rõ
tội phạm giải quyết triệt để vụ án, áp dụng hình phạt thích hợp đối với người có tội
giữ vững trật tự an ninh xã hội, cụ thể là: Quy định về việc bắt giam trong Sắc lệnh
số 103 ngày 20/5/1957; Quy định về các BPNC trong BLTTHS năm 1988, năm
2003 và năm 2015; Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948); “Các quy tắc của Liên
hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do” được Đại hội đồng Liên

hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 45/113 ngày 14/12/1990 và nhiều văn kiện
khác v.v…
Hiện nay, trong các quy định BPNC bao gồm BPTG trong BLTTHS 2015
được sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp 2013 đó là xây dựng nền tư
pháp công bằng, nhân đạo đảm bảo quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị tạm giam trong quản lý giam giữ; đồng thời, để bảo đảm việc quản lý,
thi hành tạm giữ, tạm giam tuân thủ đúng quy định của pháp luật, bảo đảm hiệu quả
của công tác quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, đáp ứng yêu cầu điều tra, truy tố,
xét, xử và thi hành án. Điều 20 Hiến pháp 2013 qui định: “1. Mọi người có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2. Khơng ai
bị bắt nếu khơng có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn
của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ
người do luật định”. Vấn đề được nhấn mạnh trong Hiến pháp là không phải bất cứ
bị can, bị cáo nào cũng là đối tượng của các biện pháp cưỡng chế. BLTTHS năm
2015 đã xây dựng BPTG đáp ứng được những yêu cầu mới của Hiến pháp đó là mọi
hành vi lạm dụng, sử dụng biện pháp phải được ngăn chặn ngay từ các quy định của
luật. Đòi hỏi các BPTG phải được quy định chặt chẽ và đựợc thực hiện một cách
nghiêm chỉnh tránh tình trạng tạm giam oan người vơ tội, để lọt kẻ phạm tội.
Biện pháp tạm giam được xây dựng nhằm đảm bảo quyền của công dân,
quyền của con người
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giam là một trong những vấn đề
đặc thù trong việc áp dụng BPNC nói chung và BPTG nói riêng của BLTTHS năm
2015. Hiến pháp năm 2013 sau khi kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 đã


14


quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo
hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm,…”; Điều 31 khoản 5 Hiến pháp năm 2013
nhấn mạnh “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự…”. Nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân không bị
xâm phạm khi áp dụng BPTG BLTTHS năm 2015 quy định “… việc giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định
của Bộ luật này. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người” và
người bị tạm giam “có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
Các quy định như trên đã thể hiện được những yêu cầu tối thiểu của chuẩn mực
quốc tế về quyền con người từ đó làm căn cứ để có nền tảng xây dựng chi tiết các
quy định cụ thể về BPTG trong BLTTHS hiện hành và các nghị định có liên quan.
Những năm gần đây, việc tạm giam, tạm giữ người rất phổ biến và thu hút được sự
chú ý của đông đảo người dân. Việc bắt người tuỳ tiện, không đúng tội, tạm giam
người trái pháp luật quá hạn đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, làm suy giảm uy tín của Đảng, Nhà nước
và lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Nguyên
nhân là do nhận thức không đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động bắt
người, tạm giam, tạm giữ cũng như các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục
giải quyết vụ án chưa được rõ ràng, thiếu chính xác gây ra những hoạt động trái
pháp luật xâm hại đến quyền con người.
Việc tạm giam bị can, bị cáo ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền
tự do dân chủ của công dân vì vậy chỉ những người có thẩm quyền mới có quyền ra
lệnh bắt. Điều luật được xây dựng đã đem lại lợi ích cho các cơ quan tiến hành tố
tụng khi giải quyết vụ án hình sự cũng như đảm bảo được quyền lợi của con người
không bị xâm phạm. Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của
cơng dân thì BPTG khơng phải là biện pháp ngăn chặn duy nhất để áp dụng. Một
người có thể áp dụng tạm giam chỉ khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực
hiện hành vi phạm tội và nếu xét thấy cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc

điều tra, xử lý tội phạm. Trong thực tế nhiều trường hợp bị can, bị cáo nếu không
tạm giam sẽ tiếp tục phạm tội, cản trở hoạt động tố cho nên BPTG đã được xây
dựng nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.


15

Đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của tố tụng hình sự
Trong cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm thì Luật tố tụng hình sự là
cơng cụ thể hiện quyền lực Nhà nước, thể hiện quyền và nghĩa vụ của nhân dân một
cách công khai và trực tiếp. Với nhiệm vụ đảm bảo phát hiện chính xác, xử lý cơng
minh, kịp thời mọi hành vi cho việc phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nhưng không
làm oan người vô tội và khơng để lọt tội phạm. Luật tố tụng hình sự đã quy định các
trình tự, thủ tục giải quyết nguồn tin về tội phạm, các thủ tục thi hành án hình sự;
quy định nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng. Các căn cứ pháp lý được quy định đã thể hiện rõ
quyền lực Nhà nước trong việc chi phối các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự cũng
như trong các hoạt động tố tụng hình sự, đặc biệt là trong việc áp dụng các BPNC
nói chung và BPTG nói riêng. Giúp cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự, xử lý công minh, nghiêm khắc mọi hành vi
phạm tội nhưng không làm oan người vô tội thể hiện được tinh thần nhân đạo nhưng
vẫn đảm bảo sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Như vậy BPTG không chỉ thể
hiện tính cưỡng chế của Nhà nước mà cịn là phương tiện hữu hiệu để bảo đảm cho
việc xử lý tội phạm được nhanh chóng. BPTG cịn bảo đảm cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất, đó là: Bảo đảm sự có mặt của bị
can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền, tính khách quan của hoạt
động tố tụng, ngăn chặn được các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc cố tình xóa dấu
vết phạm tội, tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án. Người bị áp dụng BPTG mới
chỉ là nghi phạm chứ chưa phải là người phạm tội, có khả năng sau khi điều tra họ
là người vô tội nhưng trong quá trình tiến hành tố tụng người bị tạm giam khơng

được thực hiện đầy đủ quyền của mình, bị đối xử như là phạm nhân đã bị kết án. Vì
thế khi áp dụng cần được cân nhắc nhằm đảm bảo không làm oan người vô tội và
xâm phạm đến quyền suy đốn vơ tội của cơng dân. Như vậy, khi áp dụng đúng mục
đích, trình tự của BPTG sẽ góp phần ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm.
Với nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân thì Luật tố tụng hình sự cũng đã quy định chặt chẽ những căn cứ pháp
lý trong BPNC nói chung cũng như BPTG nói riêng nhưng vẫn thể hiện được sự
nghiêm khắc, quản lý mọi mặt trong xã hội, thực hiện những chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước. Thơng qua BPTG thì Luật tố tụng hình sự đã thực hiện được quyền
lực của mình trong việc đấu tranh phịng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính


16

trị và trật tự an toàn xã hội; ngăn ngừa và hạn chế những hậu quả do tội phạm gây
ra. Quy định các nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức khi tham gia tố tụng, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, bảo hộ
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm bởi những hành vi tiêu cực từ phía cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Áp dụng BPTG bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tồ án, được quyền xét xử công bằng và công khai trong thời gian sớm
nhất là cơ sở để bảo đảm các quyền của người bị tạm giam. Vì khi áp dụng BPTG sẽ
tạm thời hạn chế các quyền cá nhân nhưng khơng nên hiểu rằng đây là hình phạt mà
nên xem việc áp dụng biện pháp sẽ kịp thời ngăn chặn hành vi tiếp tục tội phạm
hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Dưới góc độ bảo
vệ quyền con người thì Luật tố tụng hình sự cũng đã quy định quyền được hưởng
thủ tục tố tụng riêng cho người chưa thành niên, người tiến hành tố tụng trong
những vụ án của người dưới 18 tuổi ln phải là những người có kiến thức chuyên
môn về tâm lý trẻ em, chỉ áp dụng BPTG khi việc áp dụng những BPNC khác
không hiệu quả. Vì vậy, BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về quyền hạn, trách
nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo cho việc

giam giữ đúng luật vì đây là một biện pháp cưỡng chế nếu lạm dụng và áp dụng tùy
tiện sẽ trở thành “công cụ” điều tra và lấy tạm giam để thay thế cho hoạt động điều
tra.
Luật tố tụng hình sự cịn là phương tiện để giáo dục công dân biết nghiêm
chỉnh tuân thủ pháp luật đảm bảo trật tự xã hội. Các căn cứ pháp lý giúp cho người
tiến hành tố tụng xác định được rõ quyền, nghĩa vụ tố tụng để có thể tự mình bảo vệ
bản thân cũng như thực hiện đúng nghĩa vụ. Ngoài việc quy định những chế tài xử
lý người phạm tội còn xây dựng những biện pháp có ý nghĩa khuyến khích, động
viên mọi cá nhân, tổ chức thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Nhà nước. Để thực
hiện được nhiệm vụ trên thì Luật tố tụng hình sự đã quy định những nội dung một
cách cụ thể, hoàn chỉnh, thống nhất phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm. BPTG được xây dựng nhằm mục đích giáo dục, răn đe bị can, bị cáo vì
đây được xem là biện pháp nghiêm khắc nhất và hạn chế quyền tự do của người bị
áp dụng. Cơng dân khi đã có kiến thức về pháp luật sẽ có trách nhiệm về hành vi
của mình hơn vì bản thân họ đã biết được những hình phạt sẽ bị áp dụng khi phạm
tội. Như vậy, người dân sẽ có ý thức chấp hành pháp luật, tệ nạn xã hội sẽ giảm đời
sống xã hội được văn minh, dân chủ hơn.


17

Đảm bảo nguyên tắc tố tụng hình sự
Những tư tưởng chỉ đạo tồn bộ q trình xây dựng và áp dụng các BPNC
trong TTHS xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của pháp luật XHCN. Đồng thời,
quan điểm và đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội cũng góp phẩn đề ra các BPNC. Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm phải kiên quyết và thận trọng, tránh làm oan người vô tội,
khi áp dụng BPTG thì phải đảm bảo các ngun tắc nhất định đó là:
Nguyên tắc xử lý tội phạm: Nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh trật tự
xã hội thì nhiệm vụ đấu tranh phịng, chống tội phạm vơ cùng cần thiết và cấp bách

đặc biệt đối với tình hình phạm tội ngày càng nghiêm trọng như hiện nay. Theo đó,
việc áp dụng BPTG rất cần thiết đảm bảo cho quá trình tiếp tục phạm tội của đối
tượng khơng diễn ra gây cản trở quá trình điều tra, truy tố, xét xử thi hành án. Điều
này được thể hiện ở việc khi có đủ căn cứ áp dụng BPTG thì người THTT phải kiên
quyết áp dụng đảm bảo giải quyết VAHS. Đối với những bị can, bị cáo phạm tội ít
nghiêm trọng thì cần nên xem xét thêm các yếu tố khác như mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội, nơi cư trú rõ ràng, nếu không cần thiết áp dụng BPTG thì phải
quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khác.
Ngun tắc suy đốn vơ tội: Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp
năm 2013 thì: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp
luật”. Như vậy, khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật thì
người bị buộc tội phải được coi là người khơng có tội. Bị can, bị cáo bị áp dụng
biện pháp nghiêm khắc nhất như tạm giam cũng khơng có ý nghĩa rằng họ là người
có tội mà chỉ nhằm hỗ trợ cho cơ quan điều tra thuận lợi giải quyết vụ án một cách
nghiêm minh, nhanh chóng hơn. Vì vậy, BLTTHS 2015 quy định chế độ tạm giữ,
tạm giam khác với chế độ chấp hành án phạt tù.
Nguyên tắc pháp chế XHCN: Đây là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ
máy Nhà nước XHCN được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013 thì“Nhà nước
được tồ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiến
pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Trong hoạt động
TTHS, BPTG được áp dụng đảm bảo cho việc xử lý nghiêm minh mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, bảo đảm cho cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm được kiên quyết, triệt để, giáo dục người phạm tội; tôn trọng và bảo vệ
quyền cơ bản của cơng dân; bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, suy


18

đốn vơ tội v.v…Và áp dụng BPTG theo ngun tắc là khi đủ các điều kiện áp dụng

thì mới áp dụng đối với bị can, bị cáo vì biện pháp này ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền tự do của con người nên không thể lạm dụng và tùy tiện áp dụng. Thẩm
quyền áp dụng BPTG cũng được quy định rất cụ thể đảm bảo yêu cầu khách quan,
minh bạch, không được dùng định kiến cá nhân mà phải thống nhất từ các cấp địa
phương.
Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân: Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, do đó hoạt
động TTHS nói chung và áp dụng BPTG cũng phải xuất phát từ việc tôn trọng, đảm
bảo nguyên tắc nhân đạo XHCN. Trong quá trình tố tụng, những người có thẩm
quyền THTT có quyền ra những quyết định tố tụng có tính bắt buộc đối với tổ chức
và mọi cá nhân có liên quan. Trong các hoạt động và quyết định đó, có thể ảnh
hưởng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân đã được Hiến
pháp quy định vì vậy BPTG được xây dựng nhằm đảm bảo quá trình điều tra vụ án
được giải quyết thuận lợi, việc xác định sự thật vụ án được khách quan, toàn diện và
đầy đủ. Nhưng cũng đảm bảo được tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc khơng cịn
cần thiết nữa thì sẽ kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp khác. Theo như
Nghị quyết 08-NQ/TW quy định:“Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam,
giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam
thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp
thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ”.

7

Nguyên tắc nhân đạo XHCN: BPTG không phải là để trừng trị người phạm tội
và cũng không phải là hình phạt. Theo đó, chế độ tạm giam, tạm giữ cũng khác với
chế độ của người đang chấp hành hình phạt tù. Việc áp dụng BPTG cũng thể hiện
tính nhân đạo khi khơng áp dụng đối với một số đối tượng “ bị can, bị cáo là phụ
nữ có thai hoặc đang ni con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh
nặng mà có nơi cư trú rõ ràng…”. Đối với các đối tượng là người chưa thành niên

thì việc áp dụng BPTG cũng có những quy định riêng về thời hạn, căn cứ tạm giam
đảm bảo cho q trình phát triển tồn diện về tâm lý.
Thực tiễn tiến hành tố tụng: Trong quá trình giải quyết các VAHS thì các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự gặp nhiều khó khăn do bị can,
7Nghị quyết 08-NQ/TW về” Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” 2/1/2002 của
Bộ Chính Trị


19

bị cáo khơng hợp tác với cơ quan có thẩm quyền. Họ thường thực hiện những hành
vi sau khi thực hiện việc phạm tội như: bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, đồ vật liên quan
đến vụ án v.v… Điều này, đã gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong việc
điều tra, phá án trật tự an toàn xã hội khơng được bình n khiến người dân hoang
mang, lo lắng khi người phạm tội vẫn cịn ngồi vịng pháp luật. Những khó khăn
mà cơ quan có thẩm quyền gặp khó khăn trong q trình giải quyết vụ án thường là:
không thể triệu tập được bị can, bị cáo; bỏ trốn khỏi nơi cư trú rồi tiếp tục thực hiện
hành vi phạm tội v.v… Qua đó việc áo dụng BPTG nhằm tạm thời giám sát bị can,
bị cáo trong một khoảng thời gian nhất định sẽ giúp cho cơ quan có thẩm quyền có
thể thuận lợi trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Đây cũng là
những nguyên nhân mà BPTG được xây dựng trong TTHS Việt Nam.
Từ những phân tích trên, có thể thấy các nguyên tắc áp dụng BPTG chính là tư
tưởng chỉ đạo tồn bộ q trình xây dựng và áp dụng BPTG trong TTHS. Đây là
những nguyên tắc xuất phát từ quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước
trên con đường đấu tranh phòng, chống tội phạm nhưng cũng đảm bảo được quyền
và lợi ích hợp pháp của con người.
1.3. Quy định về biện pháp tạm giam trong pháp luật một số nước trên thế giới
-

Quy định về BPTG trong Bộ luật TTHS Nhật Bản


Theo luật TTHS Nhật Bản có quy định tại điều 60 thì: “Tồ án có thể giao
một thẩm phán tồ án quận, tồ án gia đình, hoặc tồ giản lược tại địa điểm nơi
tìm thấy bị cáo, tạm giam người này… Thẩm phán được phân công, hoặc chấp
8

nhận việc chuyển giao này phải ban hành lệnh tạm giam” . Như vậy, có thể thấy
rằng luật TTHS Nhật Bản quy định thẩm quyền áp dụng tạm giam được giao duy
nhất cho một cơ quan là Tòa án. Thẩm phán là người sẽ ra lệnh tạm giam, dù cho
Thẩm phán được phân công không nhận vụ việc, khơng có thẩm quyền vẫn có thể
giao cho một Thẩm phán khác tại tòa án quận, tòa án gia đình hoặc tịa án giản lược
được ủy quyền chấp nhận việc phân công ra lệnh tạm giam như tại điều 2 khoản 66
BLTTHS Nhật Bản.
Tại BLTTHS Nhật Bản quy định rõ trong các điều luật cũng phần nào thể hiện
được việc dù có ban hành hình phạt nghiêm khắc hay áp dụng BPTG thì cũng phải
được xem xét cụ thể nhằm bảo đảm không xâm phạm đến những quyền, lợi ích cơ
bản của công dân. Tại điều 60 BLTTHS Nhật Bản quy định: Chỉ khi Thẩm phán xét
8Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật Bản chương VIII- Lệnh triệu tập, tạm giam và đưa vào tạm giam


20

thấy có căn cứ cho rằng người bị tình nghi đã phạm tội và hội tụ đủ 2 điều kiện sau,
thì thẩm phán có quyền ra quyết định tạm giam bị cáo:
+ Một là, có đầy đủ căn cứ để nghi ngờ bị cáo đã phạm tội
+ Hai là, bị cáo thuộc một trong những trường hợp sau đây:
-

Bị cáo khơng có nơi cư trú cố định;


-

Có đủ lý do để nghi ngờ là người này có thể tiêu huỷ hoặc che dấu chứng cứ;

-

Bị cáo chạy trốn, hoặc có đủ căn cứ nghi ngờ là người này có thể trốn.

Tại điều 37 khoản 2 BLTTHS Nhật Bản cũng đã quy định: “bị can liên quan
đến vụ án có mức hình phạt tử hình, tù khổ sai hoặc chung thân hoặc thời hạn tối
đa không quá ba năm, nếu bị can khơng thể chỉ định người bào chữa vì khơng đủ
kinh phí hoặc vì lý do khác, Thẩm phán phải, sau khi có yêu cầu, chỉ định người
9

bào chữa cho bị can” . Điều này chứng tỏ rằng BPTG tại Nhật Bản cũng áp dụng
cho cả bị can, bị cáo.
BLTTHS Nhật Bản cũng quy định rõ về việc không được phép lạm dụng
BPTG cũng như không áp dụng biện pháp trái với quy định pháp luật : “Không
được tạm giam bị cáo trừ khi và cho đến khi Toà án đã thông báo cho bị cáo về vụ
10

án và lắng nghe tuyên bố của người này” . Tuy nhiên, BLTTHS Nhật Bản vẫn cịn
điểm hạn chế trong việc khơng có căn cứ pháp lý quy định đối tượng bị áp dụng
biện pháp này đối với bị can tại điều luật về tạm giam tại điều 60. Và theo quy định
thì bị cáo chỉ cần có đủ hai căn cứ nêu trên mà không cần xét đến việc họ phạm tội
với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cho xã hội có như thế nào thì vẫn sẽ có
thể áp dụng tạm giam điều này có thể dẫn đến việc lạm dụng trong việc áp dụng tạm
giam. Điều này có thể xem là quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đã và đang bị
xâm phạm chưa được bảo vệ. Nhưng riêng đối với trường hợp bị can bị tạm giam
thì tại điều luật khác(điều 37 khoản 2) lại có quy định khi họ liên quan đến vụ án có

mức hình phạt tử hình, tù khổ sai hoặc chung thân hoặc thời hạn tối đa không quá
ba năm chứng tỏ rằng bị can phạm vào những tội rất nghiêm trọng thì sẽ bị tạm
giam.
Về thời hạn tạm giam được Bộ luật quy định: Không quá 2 tháng sau ngày ra
quyết định khởi tố, nếu trong thời hạn tạm giam mà việc giải quyết VAHS ở các giai
đoạn vẫn chưa được hoàn thành và trong trường hợp thật cần thiết mới có thể
9Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật Bản chương IV- Người bảo chữa và trợ lý
10

Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật Bản chương VIII- Lệnh triệu tập, tạm giam và đưa vào trại giam


21

được tiếp tục gia hạn việc tạm giam bằng quyết định nhưng phải nêu được rõ lý do
xác đáng cho việc gia hạn tạm giam này.
Việc thi hành lệnh tạm giam phải được thi hành bởi thư kí của văn phịng cơng
tố hoặc Cảnh sát dưới sự chỉ huy của Công tố viên và lệnh tạm giam phải được
thông báo cho người bị tình nghi phạm tội càng sớm càng tốt. Lệnh tạm giam trong
đó có thể miêu tả diện mạo, vóc dáng, hoặc các đặc điểm khác cho phép nhận dạng
người này trong trường hợp không biết tên của bị cáo v.v... Nhằm đảm bảo quyền
lợi cho người bị tạm giam thì trong suốt quá trình kể từ khi bị bắt cho tới quá trình
tố tụng, người bị tình nghi bị bắt có quyền được thơng báo về quyền chỉ định người
bào chữa.
-

Quy định về BPTG trong Bộ luật TTHS Cộng hòa liên bang Đức

Trong Bộ luật TTHS Cộng hòa liên bang Đức, BPTG được quy định tại Điều
112 và điều 114 về đối tượng bị áp dụng, thẩm quyền áp dụng và điều kiện áp dụng:

“Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can nếu có căn cứ xác đáng để nghi ngờ người
11

đó đã phạm tội và nếu có căn cứ để bắt” . Hai đối tượng kế tiếp có thể áp dụng
biện pháp này là bị can và bị cáo. So với BLTTHS Nhật Bản và BLTTHS Việt Nam
thì đối tượng áp dụng BPTG tại Cộng hịa liên bang Đức có phần rộng hơn khi áp
dụng trước khi xét xử và áp dụng đối với các đối tượng bao gồm người bị tình nghi
thực hiện tội phạm (khi có quyết định bắt), bị can (khi có quyết định truy tố của
Viện cơng tố) và bị cáo (khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án).
Nhưng thẩm quyền ban hành lệnh tạm giam tại BLTTHS Cộng hịa liên bang
Đức lại mang tính chặt chẽ, cơng bằng hơn khơng mang tính tùy nghi so với
BLTTHS Nhật Bản quy định, do Thẩm phán quyết định thể hiện được sự quan trọng
của BPTG xét thấy bị can có đầy đủ căn cứ, bằng chứng để tin tưởng rằng bị can đã
hoặc đang trốn tránh; Xét tới các tình tiết của vụ án cụ thể, có khả năng bị can sẽ
trốn tránh (nguy cơ bỏ trốn); hoặc hành vi của bị can dẫn tới nghi ngờ rằng họ sẽ
tiêu hủy chứng cứ hoặc có hành vi tác động sai trái tới đồng phạm, nhân chứng thì
mới được quyền tạm giam hoặc khi rơi vào các trường hợp tại điều 112 và 112a.
Việc tạm giam cũng có thể không áp dụng nếu như việc giải quyết vụ án có
thể áp dụng các hình phạt hoặc BPNC khác. Khơng được lạm dụng BPTG vì có thể
11

Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hịa liên bang Đức chương IX- Bắt và tạm giam


22

gây ảnh hưởng đến tâm lý cũng như các quyền lợi của người bị tình nghi phạm tội.
Bị can chỉ có thể bị tạm giam khi có trát bắt hoặc lệnh bắt của Tòa án phải ghi rõ
những căn cứ về việc tại sao bị cáo lại bị bắt, giải thích ngắn gọn tội phạm mà người
đó đã thực hiện hoặc bị nghi thực hiện trước đó chứ khơng được phép tùy tiện bắt

giữ người không căn cứ. Một bản sao lệnh bắt của Tòa án phải được gửi cho bị can
và Tịa án thơng báo cho một người thân trong gia đình của bị can với điều kiện
khơng ảnh hưởng đến mục đích của việc điều tra. Bị can chỉ có thể bị tạm giam nếu
đã thực hiện nhiều lần hoặc tiếp tục thực hiện một hành vi hình sự mà trong việc
thực hiện hành vi đó được pháp luật quy định phạt tự do có thời hạn 5 năm trở lên,
hoặc nếu thời hạn phạt tù trên 1 năm nhưng được luật TTHS liên bang Đức liệt tội
đó vào loại tội phạm đặc biệt mà người vi phạm sẽ bị tạm giam tại điều 112a. Đối
với trường hợp những tội ít nghiêm trọng có mức phạt tù giam đến 6 tháng tại điều
113 xét thấy nếu bị can có khả năng bỏ trốn khi có các trường hợp được quy định thì
mới bị tạm giam. Điều luật này lại thể hiện được tinh thần nhân đạo, đảm bảo được
quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân hơn so với BLTTHS Việt Nam và Nhật Bản
Không được phép tạm giam bị can phạm tội quá 6 tháng trừ trường hợp chứng
minh được rằng vụ án có khó khăn đặc biệt trong quá trình điều tra hoặc một số lý
do có liên quan quan trọng khác ngăn cản cho việc tuyên án. Việc tạm giam một
người quá 6 tháng sẽ phải được hủy bỏ nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giam vì người bị tạm giam chỉ bị tình nghi là phạm tội chứ chưa hề có
bản án quyết định họ có tội cho nên việc tạm giam trong một thời gian dài như vậy
sẽ ảnh hưởng rất lớn cho cuộc sống sinh hoạt trong xã hội sau này của họ, chỉ được
phép tiếp tục tạm giam sau 6 tháng “chỉ trong trường hợp thi hành lệnh bắt bị đình
12

chỉ theo điều 116 hoặc khi do Tòa án khu vực cấp trên ra lệnh tiếp tục tạm giam” .
Theo đó, ngay sau khi bắt, người bị buộc tội được đưa đến trước Tịa án có thẩm
quyền hoặc Tịa án địa phương nơi gần nhất, khơng muộn hơn ngày tiếp theo sau
khi bị bắt và nếu có căn cứ thì Thẩm phán phải ra lệnh bắt để tạm giam đối tượng
này.

12

Điều 121 khoản 2 Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hịa liên bang Đức



×