Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm giam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.73 KB, 17 trang )

Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ...........................................................................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................................................................1
I. Những quy định chung về biện pháp tạm giam trong BLTTHS Việt Nam........................................1
6. Thời hạn để tạm giam....................................................................................................................5
7. Một số vấn đề liên quan đến tạm giam..........................................................................................7
II. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam và nguyên nhân của những tồn tại....................................7
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm giam............................................10
2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giam.................................................................................................13
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................................16

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS, là biện pháp ngăn chặn thể
hiện tính cưỡng chế về mặt tố tụng rõ nét nhất. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam đụng chạm trực tiếp đến quyền tự do và một số quyền và lợi ích cơ bản khác của
công dân. Chính vì vậy việc tạm giam phải tuân thủ những quy định chặt chẽ của
BLTTHS, cần xác định rõ các trường hợp có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam,
đối tượng có thể tạm giam, những cơ quan nào mới có thẩm quyền áp dụng biện pháp
tạm giam. Xác định điều đó sẽ tạo cơ sở để áp dụng biện pháp này đúng đắn, nâng cao
hiệu quả phòng ngừa tội phạm.

NỘI DUNG
I. Những quy định chung về biện pháp tạm giam trong BLTTHS Việt Nam.
1. Khái niệm biện pháp tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm


tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trong mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm
và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2. Mục đích áp dụng biện pháp tạm giam
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố
tụng hình sự. Vì vậy, ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ
án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích
riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn,
việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan
điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ
khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời
cũng giúp cho việc quản lý giám sát bị can được chặt chẽ, việc tạm giam bị cáo sau khi
tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được
thuận lợi.
3. Đối tượng và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người
không phải là bị can, bị cáo thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Khoản 1 Điều 88
BLTTHS 2003 quy định những trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giam như sau:
Trường hợp thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội
rất nghiêm trọng. Khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 quy định: “tội phạm rất nghiêm trọng là
tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên

mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Như vậy, khi bị can, bị cáo phạm tội gây
nguy hại rất lớn hoặc đặc biệt rất lớn cho xã hội, thì có thể áp dụng biện pháp này. Điều
đó có nghĩa, biện pháp ngăn chặn này có thể được áp dụng trên cơ sở tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, mà không cần chứng minh khả năng trốn tránh, gây
khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc khả năng tiếp tục
phạm tội của họ.
Trường hợp thứ hai: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm
trọng mà BHLS quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể
bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
đến ba năm tù, tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù”. Như vậy, đối với bị
can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng để quyết định áp dụng biện
pháp tạm giam, phải thỏa mãn 2 điều kiện:
Điều kiện thứ nhất: bị can, bị cáo phạm tội gây nguy hại không lớn hoặc lớn cho xã
hội mà BLHS quy định hình phạt tù trêm 2 năm, thì mới là điều kiện xét xử để quyết
định áp dụng tạm giam, những trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS 1999 quy
định hình phạt tù đến 2 năm thì không áp dụng biện pháp này.
Điều kiện thứ hai: có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

Đây là điều kiện đủ để có thể xem xét quyết định áp dụng tạm giam đối với bị can, bị
cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù
trên 2 năm. Để có cơ sở xác định bị can, bị cáo sẽ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố,

xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội, phải nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề
có liên quan đến việc hiện thực hóa khả năng này. Lý luận và thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử đã rút ra những dấu hiệu cho phép dự báo khả năng bị can, bị cáo sẽ trốn tránh
việc điều tra, truy tố, xét xử như sau: 1, bị can, bị cáo đang tìm cách bán nhà hoặc tài sản
có giá trị; 2, bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng; 3, bị can, bị cáo không có mặt
theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng mà không có lý do chính đáng; 4, bị
can, bị cáo bỏ việc làm… Những dấu hiệu cho thấy bị can, bị cáo sẽ cản trở điều tra,
truy tố, xét xử: 1, bị can, bị cáo chuẩn bị tiêu hủy vật chứng, che dấu, xóa các dấu vết
của tội phạm; 2, bị can, bị cáo mua chuộc, đe dọa người làm chứng để họ khai báo gian
dối; 3, bị can, bị cáo mua chuộc người giám định để họ ra kết luận giám định gian dối;
4, bị can, bị cáo đe dọa người bị hại để họ không dám cung cấp tài liệu cho cơ quan tiến
hành tố tụng; 5, bị can, bị cáo bàn bạc, thông đồng với các bị can, bị cáo khác trong vụ
án nhằm khai báo gian dối đánh lừa cơ quan tiến hành tố tụng… Những dấu hiệu cho
phép dự báo khả năng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: 1, bị can, bị cáo phạm tội chuyên
nghiệp, có tổ chức, là phần tử lưu manh, côn đồ, có nhiều tiền án, tiền sự, phạm tội
nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; 2, bị can, bị cáo đã có những hành vi xảo
quyết, hung hãn như đe dọa người tố cáo, đe dọa trả thù người bị hại và có thể thực hiện
sự đe dọa đó; 3, bị can, bị cáo đã thực hiện hành vi tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương
tiện hay tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm; 4, bị can, bị cáo đã
có hành vi kích động, xúi giục người khác phạm tội (1).
Ngoài ra cần chú ý tới một số trường hợp sau: Khoản 1 Điều 25 Luật Bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân ngày 26/11/2003 quy định: “Người bị tước quyền bầu cử theo
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành
hình phạt tù, người đang bị tạm giam, và người mất năng lực hành vi dân sự thì không
được ghi tên vào danh sách cử tri”. Điều 31 Luật này còn quy định: “Những người sau
đây không được ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân: 1. Người thuộc các trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật này, 2. Người đang bị khởi tố về hình sự…”. Khoản 1
Điều 23 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội 2001 cũng quy định: “Người bị tước quyền bầu
cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp
hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự thì

không được ghi tên vào danh sách cử tri”. Điều 29 Luật này còn quy định: “Những
người sau đây không được ứng cử đại biểu Quốc hội: 1. Người thuộc các trường hợp
sau đây quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật này; 2. Người đang bị khởi tố về hình sự”.
Từ những quy định trên đây cho thấy người bị tạm giam không được ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, không được ghi tên vào danh sách cử tri.


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

Việc tạm giam đối với người chưa thành niên cũng được quy định tại Điều 303
BLTTHS 2003 như sau: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giam nếu có
đủ căn cứ quy định tại các điều 81, 82, 86, 88 và 120 của BLTTHS, nhưng chỉ trong
trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại
các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của BLTTHS, nhưng chỉ trong những trường hợp
phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng.
4. Những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam
“Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi,
là người già yếu, người bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác trừ những trường hợp sau đây:
a, Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b, Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc
cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c, Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia” (Khoản 2 Điều 88
BLTTHS).
Theo Pháp lệnh Người cao tuổi 2000 không sử dụng thuật ngữ “người già” mà sử

dụng thuật ngữ “người cao tuổi” và đưa ra định nghĩa pháp lý khái niệm người cao tuổi
tại Điều 1: “Người cao tuổi theo quy định của Pháp lệnh này là công dân nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”. Từ quy định này có thể hiểu, người
già yếu là người 60 tuổi trở lên mà thường xuyên ốm đau. Khái niệm “người bị bệnh
nặng ” có thể hiểu là người đã được giám định y khoa kết luận mắc những bệnh nếu bị
tạm giam thì sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, lao phổi nặng, bại liệt…
Tóm lại, tạm giam là biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với những người đã
có quyết định khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
5. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Khoản 3 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định những người có thẩm quyền ra lệnh bắt
bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra lệnh tạm giam. Theo đó những người có thẩm
quyền ra lệnh tạm giam bao gồm:
“a, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các
cấp;
b, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
c, Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao, Hội đồng xét xử;
d, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp”
(Trích khoản 1 Điều 80 BLTTHS 2003)


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

Lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trược khi thi hành. Thời hạn mà Viện kiểm sát
phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ
quan điều tra là ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và
hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ

quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.
6. Thời hạn để tạm giam
6.1. Thời hạn tạm giam để điều tra
Về thời hạn tạm giam đề điều tra Điều 120 BLTTHS 2003 quy định: “Thời hạn tạm
giam bị can đề điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá
ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Về gia hạn tạm giam được quy định tại khoản 2 Điều 120 BLTTHS như sau:
“a, Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá
một tháng;
b, Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất
không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;
c, Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất
không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
d, Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần
không quá bốn tháng”.
So với quy định tương ứng của BLTTHS 88, BLTTHS 2003 đã quy định cụ thể
thời hạn tạm giam thêm đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, mà không quy định
dưới dạng trừu tượng: “trong trường hợp cần thiết, đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm
phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia
hạn thêm” như quy định tại khoản 2 Điều 71 BLTTHS 1988. Điều này thể hiện thái độ
tôn trọng của Nhà nước ta đối với các quyền tự do cá nhân của con người, cho dù họ
phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì cơ
quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho
người bị tạm giam hoặc xét cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người
bị tạm giam hoặc nếu xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
6.2. Tạm giam để truy tố
Ngoài những quy định về tạm giam để điều tra, BLTTHS 1988 cũng như BLTTHS

2003 đều có quy định về việc tạm giam để truy tố và xét xử.
Đối với việc tạm giam bị can để truy tố, thì sau khi nhận hồ sự vụ án và bản kết
luận điều tra của cơ quan điều tra, theo quy định tại khoản 2 Điều 166 BLTTHS 2003,


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn, yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can. Nếu thời hạn tạm giam để điều tra đã hết
và xét thấy phải tiếp tục tạm giam bị can để tạo điều kiện cho việc truy tố người đó trước
Tòa án bằng bản cáo trạng, thì Viện kiểm sát có thể áp dụng biện pháp tạm giam, nhưng
thời hạn tạm giam không được quá 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn
thêm, nhưng không được quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày
đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
6.3. Tạm giam để xét xử
Đối với việc tạm giam bị cáo để chuẩn bị xét xử, thì sau khi nhận được hồ sơ vụ án
từ Viện kiểm sát, theo quy định tại Điều 177 BLTTHS 2003, Chánh án hoặc Phó Chánh
án có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam. Theo
quy định tại Điều 176 Bộ luật này, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được
quá 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 2
tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 3 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể gia hạn thêm nhưng không được
quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30
ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa, thời hạn tạm giam đã

hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm
giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù, nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa
thời hạn tạm giam đã hết thì theo quy định tại khoản 1 Điều 228, khoản 4, khoản 5 Điều
227 BLTTHS 2003 thì Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định trong bản án việc tiếp tục
tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
Trong trường hợp Tòa án phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử
lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo
là cần thiết, thì theo quy định tại khoản 5 Điều 250 BLTTHS 2003, Hội đồng xét xử
phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến ngày Viện kiểm sát hoặc Tòa
án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án. Trong trường hợp Hội đồng Giám đốc thẩm hủy bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại và
xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì theo quy định tại Điều 287 Bộ luật
này, Hội đồng Giám đốc thẩm ra lệnh tạm giam cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án
thụ lý lại vụ án.
Theo quy định tại Điều 33 và khoản 1 Điều 31 BLHS 1999, thì tạm giam được trừ
vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 1 ngày tạm giam bằng 1 ngày tù, thời hạn tạm


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 1 ngày tạm
giam bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ.
7. Một số vấn đề liên quan đến tạm giam
7.1 Thủ tục tạm giam
Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giam phải ghi
rõ ngày, tháng, năm; họ tên chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm
giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản.

Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan có lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của
người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm
lẫn. Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình người bị
tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm
giam cư trú hoặc làm việc biết được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm
kiếm không cần thiết, gây tốn kém.
7.2. Chế độ tạm giam
Tạm giam không phải là hình phạt mà là những biện pháp ngăn chặn trong TTHS.
Việc áp dụng biện pháp tạm giam không phải nhằm trừng phạt người phạm tội mà là để
ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ
án của người phạm tội. Vì vậy, Điều 89 BLTTHS 2003 quy định chế độ tạm giam khác
với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Người bị tạm giam không phải
chấp hành chế độ của người thi hành hình phạt tù mà chỉ chấp hành các quy định của
Chính phủ về chế độ đi lại, sinh hoạt, nhận quá, liên hệ với gia đình trong thời gian bị tạm
giam.
7.3. Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân của người bị tạm giam
Khi áp dụng biện pháp tạm giam, Điều 90 BLTTHS 2003 có quy định nếu người bị
tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc người thân thích là người tàn tật, già
yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giam giao những người
đó cho người thân thích chăm nom. Trường hợp người bị tạm giam không có người thân
thích thì cơ quan ra quyết định tạm giam những người đó cho chính quyền sở tại chăm
nom. Trong trường hợp người bị tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người
chăm nom bảo quản thì cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải áp dụng những biên pháp trông
nom, bảo quản thích đáng.
Sau khi đã áp dụng những biện pháp bảo hộ đối với thân nhân và tài sản, cơ quan đã
ra quyết định tạm giam phải thông báo cho người bị tạm giam biết những biện pháp đã
được áp dụng (2).
II. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam và nguyên nhân của những tồn tại
1. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam



Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

Theo số liệu thống kê của tác giả Nguyễn Hải Phùng trong bài “Thực trạng và những
giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát về tạm giữ, tạm giam” trong tạp chí
Kiểm sát số 08/2008 cho thấy thời gian mấy năm gần đây việc áp dụng biện pháp tạm
giam đã đạt được những hiệu quả nhất định góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện, đấu
tranh và phòng ngừa tội phạm. Trong những năm gần đây đã chấm dứt hoàn toàn tình
trạng tạm giam không có lệnh hợp pháp và tạm giam theo danh sách trích ngang. Cơ quan
có thẩm quyền đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác như cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh, tỷ lệ này tăng từ 9,2% lên 12% đã làm giảm số tải số lượng bị can áp
dụng biện pháp tạm giam (2000 - 2007). Việc áp dụng biện pháp tạm giam đã thận trọng
hơn nên số người bị tạm giam đưa ra truy tố, xét xử đã tăng lên, việc phân loại người bị
tạm giam được chặt chẽ nên đã hạn chế tình trạng thông cung giữa các bị can trong cùng
một vụ án, tình trạng người bị tạm giam trốn đã giảm hẳn, các buồng giam đã được xây
nâng cấp, xây mới nên nơi ở của họ đã rộng rãi, đảm bảo sức khỏe cho người bị tạm
giam, chế độ lương thực quy ra gạo được tăng từ 12kg lên 15 kg, các chế độ thực phẩm,
nhu yếu phẩm cho người bị tạm giam đã được quy thành lượng và quyết định theo giá thị
trường (3). Tuy nhiên vẫn còn những vi phạm khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
xảy ra trên thực tế. Trong công tác quản lý giam giữ ở các trại tạm giam tính đến hết năm
2007 còn để 6.184 lượt người vi phạm quy chế và nội quy trại tạm giam, hành vi vi phạm
chủ yếu là đánh nhau 3.710/6.184 người chiếm tỉ lệ 60%, trốn khỏi nơi giam 503 người
(bị bắt lại 307 người, chưa bắt lại 196 người), cơ quan điều tra đã khởi tố 21 vụ về tội trốn
khỏi nơi giam, tội cố ý gây thương tích 10 vụ, về tội giết người 1 vụ, để 3 đối tượng có
thai trong quá trình tạm giam như tử tù Nguyễn Thị Oanh, phạm tội mua bán trái phép
chất ma túy, án phạt tử hình, bị tạm giam tại trại giam của công an tỉnh Hòa Bình, bị can
Trần Thị Hương, phạm tội mua bán trái phép chất ma túy và Nguyễn Thủy Tiên phạm tội
cướp tài sản đang bị tạm giam tại trại tạm giam Chí Hòa và nhà tạm giữ của Công an

Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh (4).
Về thủ tục tạm giam: việc tạm giam bị cáo để chờ xét xử phúc thẩm nhưng không
được Tòa án cấp phúc thẩm ra lệnh tạm giam theo quy định tại điều 243 BLTTHS 2003,
tồn tại này phần nhiều thuộc trách nhiệm của 3 Tòa phúc thẩm thuộc Tòa án nhân dân tối
cao.
Về thời hạn tạm giam: việc quá hạn vẫn xảy ra ở một số địa phương. Tình trạng tạm
giam kéo dài tời gần 3 năm, thậm chí còn bị bỏ quên, thất lạc hồ sơ… Việc để xảy ra
những trường hợp quá hạn tạm giam đều có trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án các cấp.
Việc vi phạm trong công tác quản lý của cán bộ chiến sĩ ở các trại tạm giam là người
đưa người bị tạm giam ra ngoài lao động để cải thiện, có nhiều trường hợp do sơ hở mất
cảnh giác của cán bộ trong lúc dẫn giải đi xét xử, khi đi khám tại bệnh viện, thậm chí còn
quên khóa cửa buồng giam nên dẫn đến người bị tạm giam bỏ trốn, có trường hợp trốn ra
lại tiếp tục phạm tội (5).


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

2.Nguyên nhân của những tồn tại
Sở dĩ có tình trạng tạm giam tràn lan, không đúng đối tượng, không có lệnh, quá thời
hạn và không đúng với các quy định về chế độ tạm giam… nêu ở trên là do nguyên nhân
chủ quản thuộc về những người có trách nhiệm, quyền hạn trong việc ra lệnh tạm giam,
những người có trách nhiệm trong trại tạm giam, do công tác xây dựng pháp luật chưa
đầy đủ, kịp thời… và do điều kiện cơ sở vật chất của các trại giam hiện nay cũng như do
công tác kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực tạm giam không được thường xuyên, chặt chẽ.
2.1 Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức của các cơ quan và những người có trách nhiệm trong việc bắt và ra lệnh
tạm giam còn hạn chế, chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về thủ

tục, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam. Ở một số địa phương lực lượng tiến hành tố tụng
vừa yếu lại thiếu so với số lượng vụ án cần giải quyết, dẫn đến việc giải quyết các vụ án
còn chậm, việc tồn đọng bị kéo dài, bị can, bị cáo tạm giam quá hạn.
Trình độ của những cán bộ làm công tác ở các trại tạm giam chưa đồng đều, thậm chí
có nơi chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, dẫn đến vi phạm pháp luật do kém hiểu biết,
không tiến hành thường xuyên chế độ kiểm tra, kiểm soát bảo vệ an toàn nơi giam giữ
cũng như không quản lý, theo dõi chặt chẽ và thông báo kịp thời đến cơ quan có trách
nhiệm về việc người tạm giam quá hạn.
Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giam chưa được Viện
kiểm sát ở nhiều địa phương tiến hành thường xuyên và đều khắp nên không phát hiện và
có biện pháp khắc phục kịp thời những vi phạm xảy ra.
Công tác quản lý, theo dõi những người bị tạm giam chưa được duy trì chặt chẽ nên
còn để xảy ra tình trạng bỏ trốn hoặc chết do dịch bệnh, do đánh lẫn nhau.
Những điều kiện cần thiết bảo đảm cho công tác tạm giam chưa được chú trọng đúng
mức. Trại tạm giam nhiều nơi bị xuống cấp nhưng không được xây dựng, sửa chữa kịp
thời.
2.2 Những nguyên nhân khách quan
Tình hình vi phạm, tội phạm ngày càng tăng lên, theo chiều hướng phức tạp, số
người bị tạm giam tăng lên hàng năm, tính chất tội phạm ngày càng nghiêm trọng hơn, do
vậy công tác quản lý tạm giam đã gặp không ít khó khăn.
Các trại tạm giam đều đóng ở khu vực xa trung tâm, phương tiện kĩ thuật phục vụ
cho công tác kiểm sát việc tạm giam chưa được đầu tư đúng múc đã làm hạn chế chất
lượng của công tác trực tiếp kiểm sát thường kì và bất thường tại các trại giam.
Bên cạnh đó các quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn nói chung, đối
với biện pháp tạm giam nói riêng trong BLTTHS dù đã có tính hệ thống, đồng bộ, thống
nhất song vẫn còn những hạn chế nhất định mâu thuẫn với nhau, chồng chéo nhau và có
những quy định không phù hợp với thực tế như:
- Chưa quy định đầy đủ các đối tượng cần áp dụng biện pháp tạm giam.



Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

- Thời hạn tạm giam nhiều khi chưa đủ để tiến hành các hoạt động tố tụng
cần thiết.
- Nhiều khi thời hạn tạm giam ngắn hơn thời hạn điều tra nên thời hạn điều
tra vẫn còn, việc tạm giam vẫn cần thiết nhưng không có cơ sở để tiếp tục áp dụng biện
pháp tạm giam bị can, bị cáo.
- Thời hạn áp dụng đối với các hành vi tố tụng như việc phê chuẩn của Viện
kiểm sát đối với lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra thời hạn tạm giam để chuyển từ
giai đoạn tố tụng này sang giai đoạn tố tụng khác… chưa được quy định đầy đủ và chặt
chẽ.
- Phạm vi thẩm quyền ra lệnh áp dụng biện pháp tạm giam còn quá rộng,
nhưng có nhiều khi lại chưa quy định đủ thẩm quyền nên dẫn đến khó khăn cho cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc áp dụng biện pháp tạm giam.
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm giam
Nghị quyết số 08/NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới có nêu: “tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ,, bảo
đảm đúng pháp luật, những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết
không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp
oan, sai trong bắt, giữ” (6). Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: “Xác định rõ căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng
biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền
quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam”.
Với chủ trương trên thì việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS về việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng cần phải
được chú ý khi sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2003. Về việc sửa đổi, bổ sung các quy định
của BLTTHS 2003 về biện pháp ngăn chặn tạm giam, tôi xin đưa ra một số ý kiến như
sau:

1.Về căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam và việc hạn chế áp dụng biện pháp tạm
giam đối với một số loại tội phạm:
Theo quy định của BLTTHS hiện hành (Điều 88, Điều 303), căn cứ để áp dụng hoặc
không áp dụng biện pháp tạm giam dựa vào một số loại tiêu chí như: dựa vào sự phân loại
tội phạm theo quy định của BLHS, dựa vào khả năng bị can, bị cáo cos thể trốn hoặc cản
trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội, dựa vào một số yếu tố về
nhân thân, lai lịch như tuổi, tình trạng sức khỏe, tình trạng thai sản hoặc đang nuôi con
nhỏ của bị can, bị cáo là phụ nữ… BLTTHS hiện hành quy định các trường hợp có thể
tạm giam như mục 1.3 phần I, tôi đồng ý với ý kiến của tác giả Lê Minh Tuấn trong bài
viết “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về tạm giam nhằm đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp” đăng trên tạp chí Kiểm sát số 09/2008: đó là quy định hiện hành của


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

BLTTHS về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam là chưa thực sự phù hợp và chưa đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cần xuất phát từ mục đích của việc
áp dụng biện pháp tạm giam để xác định căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn này một
cách phù hợp, đồng thời cũng để tránh việc áp dụng biện pháp tạm giam này một cách tùy
tiện hoặc sự dụng biện pháp ngăn chặn này như một biện pháp thay thế cho các biện pháp
điều tra. Vì tạm giam không phải là hình phạt mà chỉ là một biện pháp ngăn chặn được cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng chủ yếu để ngăn chặn việc bị can, bị cáo trốn hoặc cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội nên việc nhà làm luật chỉ thuần
túy dựa vào sự phân loại tội phạm theo quy định của BLHS (tức là dự vào tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được thực hiện) mà không cần tính đến
việc bị can, bị cáo có khả năng trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết định việc tạm giam. Ngoài ra, cũng
cần xem xét đến một số yếu tố khác có thể được dùng làm căn cứ để áp dụng (hoặc không

áp dụng) biện pháp ngăn chặn này như: khả năng gây nguy hại đến an ninh quốc gia hoặc
trật tự an toàn xã hội của bị can, bị cáo nếu không tạm giam họ, loại và mức hình phạt vi
phạm tội được thực hiện, một số yếu tố về nhân thân, lai lịch như tuổi, tình trạng sức
khỏe, tình trạng thai sản, hoặc đang nuôi con nhỏ của bị can, bị cáo là phụ nữ…
Liên quan đến việc hạn chế việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một số loại tội
phạm, từ thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam ở nước ta những năm qua cho thấy, do
BLTTHS hiện hành không quy định đối với những loại (nhóm) tội phạm nào thì có thể
hạn chế việc tạm giam nên việc xem xét, quyết định tạm giam chỉ căn cứ vào quy định
của Điều 88 và Điều 303 BLTTHS chứ không căn cứ vào loại tội phạm mà bị can, bị cáo
đã thực hiện. Trên thực tế có những trường hợp bị can, bị cáo phạm tội thuộc nhóm tội
phạm về kinh tế - chức vụ, họ có nơi cư trú rõ ràng, có đủ điều kiện để có thể áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam như: cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền, hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, họ không có khả năng và điều
kiện thực tế để có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục
phạm tội nhưng họ vẫn bị tạm giam với lý do đơn giản để phục vụ việc điều tra, truy tố,
xét xử (?).
Theo tác giả Lê Minh Tuấn việc hạn chế tạm giam bị can, bị cáo đối với một số loại
tội phạm là rất cần thiết. Vấn đề đặt ra là cần hạn chế tạm giam đối với những loại tội cụ
thể nào và trong những trường hợp nào. Trong điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay, có
thể nghiên cứu để hạn chế việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một số loại tội phạm sau:
+ Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
+ Nhóm tội phạm môi trường
+ Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu (trừ các tội: cướp tài sản, bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản…)
+ Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
và trật tự quản lý hành chính.


Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

+ Một số tội phạm thuộc nhóm tội phạm về chức vụ và nhóm tội phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp.
Thêm vào đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 88 BLTTHS chỉ phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi mới được áp dụng quy định không tạm giam. Trường
hợp đứa trẻ dưới 36 tháng tuổi nhưng không còn mẹ chỉ có cha thì sao? Người cha có
được miễn tạm giam không? Hoặc trường hợp là người duy nhất phải chăm sóc người
thân (cha, mẹ, anh chị em ruột là người tàn tật, già yếu, người sắp chết không thể tự sinh
hoạt như những người bình thường được). Để bảo đảm tính nhân đạo, tiến bộ và vì con
người, theo tôi nên bổ sung vào khoản 2 Điều 88 trường hợp không tạm giam: “người
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người duy nhất có người thân là người tàn tật, già yếu
không tự sinh hoạt được”
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm thì cùng với việc
hạn chế tạm giam đối với một số loại tội, cần thiết phải tăng cường hiệu quả và tính khả
thi của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Từ những phân tích trên, tác giả cũng xin đề xuất những căn cứ áp dụng biện pháp
tạm giam như sau:
“Điều… tạm giam:
1.Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a. Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội;
b. Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù có
thời hạn thuộc đối tượng sống lang thang, không có nơi cư trú nhất định, không được cơ
quan, tổ chức, cá nhân đứng ra bảo lĩnh và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
c. Bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội;

d. Bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội
rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ cho rằng người đó cos thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội;
đ. Bị can, bị cáo thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này nhưng phạm tội
xâm phạm an ninh quốc gia hoặc là đối tượng đặc biệt nguy hiểm đố với an ninh quốc
gia hoặc trật tự an toàn xã hội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
2. Đối với bị can, bị cáo thuộc một trong những trường hợp sau đây thì không áp dụng
biện pháp tạm giam mà nếu cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác:
a. Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai, người đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người duy
nhất có người thân là người tàn tật, già yếu không tự sinh hoạt được;


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

b. Bị can, bị cáo phạm tội mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt chính không phải là
hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình hoặc quy định hình phạt tù có thời
hạn là hình phạt lựa chọn với các loại hình phạt khác;
c. Bị can, bị cáo phạm tội quy định tại các Điều… của Bộ luật Hình sự (liệt kê các tội
phạm cụ thể hoặc các nhóm tội phạm không cần thiết phải tạm giam) mà có nơi cư trú rõ
ràng và được cơ quan, tổ chức, cá nhân đứng ra bảo lãnh hoặc tự đặt tiền hoặc tài sản
có giá trị để bảo đảm sự có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án…”
2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 và khoản 3 Điều 88 BLTTHS những người có
thẩm quyền ra lệnh tạm giam bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp.
Theo tôi, quy định phạm vi chủ thể được ra lệnh tạm giam như vậy là quá rộng. BLTTHS
cần sửa đổi, bổ sung theo hướng thu hẹp phạm vi đối tượng chủ thể được ra lệnh tạm

giam. Trong giai đoạn điều tra, việc ra lệnh tạm giam chỉ nên giao cho Viện Trưởng Viện
kiểm sát. Thay vì việc Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra có quyền ra lệnh bắt
bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam như quy định của BLTTHS hiện hành thì chỉ nên
quy định cho các chủ thể này có nghĩa vụ thu thập các tài liệu, chứng cứ để đề nghị Viện
trưởng Viện kiểm sát ra quyết định bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam. Vì biện
pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn đặc biệt nên cũng không nên giao cho Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát được quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam mà
chỉ nên giao thẩm quyền này cho Viện trưởng Viện kiểm sát. Chỉ trong trường hợp Viện
trưởng Viện kiểm sát vắng mặt thì một Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng
Viện kiểm sát ủy quyền mới được ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam.
Trong giai đoạn hồ sơ vụ án chuyển Tòa án chuẩn bị xét xử thì chỉ nên quy định cho thẩm
phán giữ chức vụ Chánh án Tòa án các cấp và Chánh án Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao được quyền ra lệnh bắt bị cáo để tạm giam và ra lệnh tạm giam. Tại phiên tòa,
thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử. Theo đó về thẩm quyền ra lệnh tạm giam nên
sửa như sau:
“Điều … Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Trong các giai đoạn tố tụng trước khi xét xử (giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố),
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp tự
mình hoặc trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của Thủ trưởng Cơ quan điều tra cùng cấp
có quyền ra lệnh tạm giam. Trong trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt thì
một Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng ủy quyền thực hiện thẩm quyền
này.
Trong giai đoạn xét xử, Chánh án Toàn án nhân dân, Chánh án Toàn án quân sự các
cấp có quyền ra lệnh tạm giam. Trong trường hợp Chánh án Tòa án vắng mặt thì một


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự


Phó Chánh án Tòa án được Chánh án ủy quyền thực hiện thẩm quyền này. Thẩm quyền
ra lệnh tạm giam bị cáo tại phiên tòa do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định…”
3.Về thời hạn tạm giam bị can, bị cáo
Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo được quy định theo những căn cứ khác nhau phụ
thuộc vào từng giai đoạn tố tụng để bảo đảm cho cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình. Trong đó, thời hạn tạm giam để quyết định truy tố được quy định
bằng thời hạn quyết định truy tố, và thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử được quy định
bằng thời hạn chuẩn bị xét xử. Còn thời hạn tạm giam để điều tra và thời hạn gia hạn tạm
giam để điều tra phụ thuộc vào từng loại tội. Nếu so sánh với thời hạn điều tra thì chúng
ta có thể nhận thấy tổng thời hạn để điều tra 1 vụ án về tội ít nghiêm trọng là 4 tháng, và
tổng thời hạn tạm giam để điều tra 1 vụ án về tội ít nghiêm trọng là 3 tháng, tổng thời hạn
để điều tra 1 vụ án về tội nghiêm trọng là 8 tháng, và tổng thời hạn tạm giam để điều tra 1
vụ án về tội nghiêm trọng là 6 tháng, tổng thời hạn để điều tra 1 vụ án rất nghiêm trọng là
12 tháng, tổng thời hạn tạm giam để điều tra 1 vụ án rất nghiêm trọng là 9 tháng, trong
khi đó tổng thời hạn để điều tra 1 vụ án đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng, tổng thời hạn
tạm giam để điều tra 1 vụ án đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng. Như vậy, trong số các
loại tội phạm nêu trên chỉ có tội đặc biệt nghiêm trọng là có tổng thời hạn tạm giam để
điều tra bằng tổng thời hạn điều tra, còn tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và tội rất
nghiêm trọng là có các tội có tổng thời hạn tạm giam để điều tra ngắn hơn tổng thời hạn
điều tra (8). Vì mục đích của việc tạm giam là để bảo đảm cho việc điều tra cho nên
BLTTHS không quy định thời hạn tạm giam để điều tra bằng thời hạn điều tra của ba loại
này như tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc như thời hạn tạm giam để hoàn thành cáo trạng,
chuẩn bị xét xử như BLTTHS 1988 là khó khăn cho cơ quan điều tra. Để khắc phục bất
cập này và không làm bó tay Cơ quan điều tra theo tôi cần sửa lại quy định về thời hạn
điều tra, tạm giam để điều tra quy định tại Điều 119 (về gia hạn điều tra) và quy định tại
Điều 120 (về gia hạn tạm giam để điều tra) của BLTTHS hiện hành cần sửa đổi, bổ sung
theo hướng sau:
- Giao thẩm quyền gia hạn điều tra và gia hạn điều tra tạm giam để điều tra cho Tòa
án (phù hợp với quy định chung và thẩm quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
tạm giam và gia hạn tạm giam của Tòa án).

- Khắc phục mâu thuẫn giữa nội dung quy định tại Điều 119 (về gia hạn điều tra) và
quy định tại Điều 120 (về gia hạn tạm giam để điều tra) với thời gian tối đa là 20 tháng

KẾT LUẬN
Từ bài viết của mình, tôi có thể đưa ra một số kết luận cơ bản như sau:
Thứ nhất, tạm giam là một biện pháp ngăn chặn quan trọng trong hệ thống các biện
pháp ngăn chặn trong BLTTHS Việt Nam. Nó có vai trò to lớn trong việc đảm bảo thực
hiện có nhiệm vụ trọng tâm là phát hiện nhanh chóng, chính xác, xử lý công minh người
phạm tội. Trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, diễn biến phức tạp của tình hình tội


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

phạm xảy ra hiện nay, đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc áp dụng biện pháp
tạm giam, phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, khắc phục những hạn chế
tồn tại trong việc tạm giam. Vì vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định về tạm giam
có ý nghĩa to lớn về phương diện lí luận cũng như phương diện thực tiễn.
Thứ hai, cần rà soát các văn bản hướng dẫn hiện hành phát hiện và loại bỏ những
chồng chéo, mâu thuẫn không còn phù hợp đồng thời bổ sung những văn bản hướng dẫn
mới quy định những vấn đề còn có nhiều cách hiểu khác nhau trong BLTTHS để dẫn tới
cách hiểu thống nhất và áp dụng đồng bộ trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, quy định về tạm giam phải trên cơ sở là để đảm bảo cho các hoạt động tố
tụng được tiến hành thuận lợi, song chúng ta phải đặt dưới mối quan hệ với việc đảm bảo
quyền tự do dân chủ của công dân.
Thứ tư, thời hạn, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam phải quy định làm sao cho
phù hợp với từng giai đoạn tố tụng.
Thứ năm, không ngừng hoàn thiện các quy định về tạm giam, đồng thời các cơ
quan tiến hành tố tụng cần phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật.

Thứ sáu, cần chú trọng hơn nữa việc đào tạo đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác
tạm giam có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất cần thiết để đáp ứng yêu cầu của công việc.
Thứ bảy, quy định đầy đủ, nhận thức đứng đắn, áp dụng triệt để biện pháp tạm
giam và việc làm thiết thực bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
1, BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
2, BLHS: Bộ luật Hình sự
3, TTHS: Tố tụng hình sự
CÁC CHÚ THÍCH
(1) Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, tác giả: Trần Quang Tiệp,
nxb Chính trị quốc gia, năm 2005.
(2) Giáo trình Tố tụng hình sự, trường Đại học Luật Hà Nội, nxb Tư pháp, năm 2006.
(3) Từ thực tiễn công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục, chấp
hành hình phạt tù, tạp chí Kiểm sát số 08/2008, tác giả: Tô Thị Mình Tâm.
(4) Thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam, tạp chí Kiểm sát số 08/2008, tác giả: Nguyễn Hải Phùng.
(5) Từ thực tiễn công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục, chấp
hành hình phạt tù, tạp chí Kiểm sát số 08/2008, tác giả: Nguyễn Hải Phùng.


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

(6) Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
trong BLTTHS, tạp chí Kiểm sát.
(7) Phòng ngừa tình trạng oan sai trong tố tụng hình sự, Luận văn Thạc sĩ, tác giả: Đặng
Thị Hồng Nhung, năm 2005.
(8) Sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về những biện pháp ngăn chặn, tạp chí

Kiểm sát số 20/2007, tác giả: Mai Bộ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Bộ luật Tố tụng hình sự 1988
2, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
3, Luật Bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân 2003
4, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội 2001
5, Chỉ thị số 15/2008/CT-TTạm giam về tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện công tác
tạm giữ, tạm giam do Thủ Tướng Chính phủ ban hành.
6, Nghị định 98/2002/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế về tạm giữ, tạm
giam ban hành ngày 27/11/2002.
7, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, trường Đại học Luật Hà Nội , năm 2006, nxb Tư
pháp
8, Phòng ngừa tình trạng oan sai trong điều tra hình sự, Luận văn Thạc sĩ, tác giả Đặng
Thị Hồng Nhung, năm 2005.
9, Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam về giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
Luận văn Tiến sĩ Luật học Lê Thị Thanh Hằng, năm 2009.


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập học kỳ, Luật Tố Tụng Hình Sự

10, Hoàn thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố tụng hình sự
theo yêu cầu của cải cách tư pháp, tác giả: Phạm Mạnh Hùng, tạp chí Kiểm sát số
21/2007.
11, Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, tác giả: tiến sĩ Trần Quang
Tiệp, nxb Chính trị quốc tra, năm 2005.
12, Từ thực tiễn công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành hình phạt tù, tác giả: Tô Thị Minh Tâm, tạp chí Kiểm sát số 08/2008.

13, Thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam, tác giả: Nguyễn Hải Phùng, tạp chí Kiểm sát số 08/2008.
14, Sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về những biện pháp ngăn chặn, tạp chí
Kiểm sát, số 20/2007, tác giả: Mai Bộ.
15, Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về tạm giam nhằm đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, tác giả Lê Minh Tuấn, tạp chí Kiểm sát số 09/2008.



×