Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học đề tài tư TƯỞNG CHÍNH TRỊ của MẠNH tử và ý NGHĨA của nó đối với VIỆC xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.99 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ

----

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MẠNH TỬ VÀ Ý
NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn: TS. Bùi Xuân Thanh
Sinh viên thực hiện: Trần Trọng Huân
Lớp: 21C1PHI61000416 MSSV: 212107056

Tp Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2022


MỞ ĐẦU
Hiện nay, có nhiều cơng trình nghiên cứu về Nho giáo và Nho giáo Việt Nam, về
lịch sử và văn hóa Việt Nam cho thấy, từ khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam đã ảnh
hưởng sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội với con người Việt Nam. Chúng ta
không thể phủ nhận những nhân tố, những giá trị tích cực trong tư tưởng chính trị - xã
hội của Mạnh Tử và những nhân tố, những giá trị này, ở Việt Nam hiện nay, vẫn còn
ảnh hưởng, vai trị nhất định. Song bên cạnh đó, trong tư tưởng chính trị - xã hội của
Mạnh Tử vẫn cịn tồn tại nhiều yếu tố, tính chất lỗi thời và lạc hậu mà sự cần thiết đòi
hỏi chúng ta phải chỉ ra để khắc phục. Cũng thông qua việc nghiên cứu những nội dung
tư tưởng của Mạnh Tử nói chung và đặc biệt là tư tưởng chính trị của ông nói riêng,
chúng ta có thể có thêm những căn cứ, cơ sở để khẳng định rằng, trong Nho giáo có sự
gắn bó chặt chẽ những vấn đề chính trị - xã hội với những vấn đề triết học, giáo dục và
đạo đức v.v. Những vấn đề ấy không những khơng tách rời nhau mà đan xen, hồ quyện


vào nhau trong cùng một nội dung, trong cùng một hệ thống.
Tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử trong học thuyết Nho gia, thực chất là
tư tưởng dân bản - tư tưởng lấy dân làm gốc nước. Tư tưởng ấy tuy còn những hạn chế
về mặt lịch sử và mang dấu ấn của sự phân biệt đẳng cấp xã hội, nhưng cũng có những
mặt tích cực mang giá trị nhân loại phổ biến, đã từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp
thu, kế thừa có sự chọn lọc và phê phán trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Nghiên cứu tư tưởng của Mạnh Tử cho thấy rằng, bên cạnh và chính bằng việc
tiếp thu, kế thừa và phát triển tư tưởng của Khổng Tử; giải thích trên quan điểm, lập
trường của mình, mở rộng nhiều yếu tố của các trào lưu tư tưởng khác nhau như Đạo
gia, Pháp gia, Mặc gia và đưa vào hệ tư tưởng của mình, mà Mạnh Tử hình thành học
thuyết của ơng nhằm đáp ứng nhu cầu là hệ tư tưởng, là công cụ thống trị, quản lý xã
hội của giai cấp phong kiến thống trị. Là nhà tư tưởng chủ yếu thuộc trường phái Nho
gia, Mạnh tử đã đề cập đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội và con người, về vai trò
của con người trong các mối quan hệ xã hội. Đặc biệt trong tư tưởng của chính trị - xã
hội của Mạnh Tử, ơng ta cịn đưa ra (ở những nét cơ bản nhất) phương pháp cai trị theo
Nhân trị (hay Nhân chính) nhằm đạt đến mục đích cuối cùng là xây dựng một xã hội lý
tưởng. Trong những nội dung ấy, chứa đựng nhiều giá trị, nhiều nhân tố khá hợp lý và

1


đúng đắn mà ngày nay, chúng ta cần phải nghiên cứu để tiếp thu, kế thừa, phát triển và
vận dụng vào việc xây dựng và đưa nước ta hiện nay đạt đến mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chẳng hạn như, từ tư tưởng đề cao vai
trò của con người và đặt con người, nhìn nhận con người trong các mối quan hệ xã hội
cơ bản, ông đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức và những quy phạm, những yêu cầu có
tính đạo đức, mang nội dung đạo đức và hành động theo đạo đức để điều chỉnh mọi hành
vi, mọi hoạt động của con người. Và, đó là tư tưởng về một bậc minh quân có đạo đức,
hiểu và hành động theo nhân nghĩa; đó là tư tưởng “Dân vi quý”. Đặc biệt, đó là tư tưởng

về đường lối trị nước theo phương pháp Đức trị (còn được gọi là Nhân trị hay Nhân
chính), được biểu hiện dưới hình thức những quy định và những đánh giá trên cơ sở xác
lập những giá trị luân lý, đạo đức được mọi người thừa nhận và chấp hành một cách tự
giác.
Học thuyết Khổng - Mạnh nói chung và tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
nói riêng là một trong những tinh hoa của văn hóa nhân loại, đã từng ảnh hưởng khá sâu
rộng tới xã hội Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “trong học thuyết của Khổng
Tử có nhiều điều khơng đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”. Một
trong những điều hay của học thuyết Khổng - Mạnh chính là tư tưởng xây dựng và củng
cố bộ máy cầm quyền trên tinh thần nhân bản, dân bản, với nhiều luận điểm có giá trị
về “lịng dân”, “sức dân”, “lấy dân làm gốc nước”… đáng để chúng ta kế thừa như là
những bài học lịch sử bổ ích trong cơng cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay.

CHƯƠNG 1
BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
Mạnh Tử (371- 289 TCN) tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư. Ông là người nước
Châu, sát nước Lỗ (nay là huyện Châu thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc). Mạnh Tử
được sinh ra trong một gia đình quý tộc sa sút vào thời Chiến Quốc, ơng thuộc dịng dõi
q tộc. Nhưng tới đời ông cha, chi của ông sa sút nên tuy là q tộc mà sống như bình
dân. Ơng mồ côi cha, tuy nhiên ông lại được sự vỗ về, quan tâm của mẹ. Mẹ của Mạnh

2


Tử là người phụ nữ hiểu biết lễ nghĩa, hiền từ và nhân ái. Bà dồn hết lòng vào việc chăm
sóc Mạnh Tử và mong Mạnh Tử học hành thành đạt. Điển tích có ghi Mạnh mẫu đã ba
lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập,
tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Dư, tức là Khổng Cấp, cháu

nội của Khổng Tử. Vì vậy, ơng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo.
Sống trong thời Chiến Quốc, là giai đoạn xã hội loạn lạc, Mạnh Tử đi chu du khắp nơi
đem học thuyết của mình để khuyến cáo các vua chư hầu, nhằm định yên thiên hạ, thống
nhất quốc gia về một mối. Đến đâu ông cũng giảng đạo lý cho các bậc cầm quyền để
giúp họ có phương pháp trị nước hiệu quả mà nhân đạo, nhân chính.
1.1 CƠ SỞ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỂ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
- XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
Theo nhiều tài liệu lịch sử và nhiều nguồn tư liệu khác, thời đại Mạnh Tử là thời
kỳ mà xã hội Trung Quốc tiếp tục diễn ra những biến đổi sâu sắc trên tất cả các mặt, các
lĩnh vực của đời sống xã hội và con người. Trong nguyên lý của triết học Mác - Lênin
về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã chỉ ra rằng, sự hình
thành, phát triển và biến đổi của ý thức xã hội nói chung, của bất kỳ hình thái ý thức xã
hội nói riêng khơng chỉ bị quy định, chi phối bởi tồn tại xã hội (mà chủ yếu là điều kiện
kinh tế - xã hội) mà còn trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát triển ý thức xã hội và mỗi
hình thái ý thức xã hội trước đó. Sự hình thành tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
cũng khơng nằm ngồi tính quy luật, tính tất yếu ấy.
Xuất phát từ việc nghiên cứu hồn cảnh ra đời và nhất là nội dung, tính chất trong
hệ thống tư tưởng của Mạnh Tử nói chung, tư tưởng chính trị - xã hội của ơng nói riêng,
đúng như nhiều nhà nghiên cứu, nhiều cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra và khẳng định,
tư tưởng của Mạnh Tử là sự tiếp thu, kế thừa và sự phát triển nhiều nội dung chủ yếu
trong tư tưởng của Khổng Tử. Người ta gọi Mạnh Tử thuộc dịng “đích phái” của Khổng
Tử là vậy. Do đó, tư tưởng của Khổng Tử là một trong những tiền đề tư tưởng chủ yếu
đối với sự hình thành về nội dung, tính chất tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử.
1.2 TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA KHỔNG TỬ - TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ

3


Tư tưởng đức trị là những quan niệm về đường lối trị nước, quản lý xã hội dựa trên cơ

sở những chuẩn mực đạo đức. Đó là hệ thống những nguyên tắc quy phạm đạo đức để điều
chỉnh hành vi của con người trong các quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Đức trị phản ánh nhu cầu lợi ích xã hội của giai cấp thống
trị, được biểu hiện dưới hình thức những quy định và những đánh giá trên cơ sở xác lập
những giá trị luân lý, được mọi người thừa nhận và chấp hành một cách tự giác. Nó được
củng cổ bằng những tấm gương đạo đức. Khổng Tử và Mạnh Tử đều coi đạo đức, lễ
giáo có vai trị quyết định trong việc duy trì quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị
và củng cố chế độ phong kiến, trong việc quản lý xã hội. Trong sách Luận ngữ, Khổng
Tử nói: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình pháp để giữ trật tự, dân tránh khỏi
tội nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ gìn trật tự, dân biết hổ
thẹn mà tiến tới chỗ tốt lành”. Qua đây chúng ta thấy, Khổng Tử rất đặc biệt đề cao vai
trị của đức trị- coi đó là cách trị nước tốt nhất. Đứng trước bối cảnh thực tiễn của một
thời đại mà “Vương đạo suy vi”, “bá đạo” nổi lên lấp át “vương đạo” của nhà Chu, trật
tự, lễ nghĩa của nhà Chu bị đảo lộn, Khổng Tử than rằng” “vua không phải đạo vua, tôi
không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo con” [33, tr.483]. Trong
lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc nhà Chu, ông chủ trương lập lại
trật tự của nhà Chu với một nội dung mới, phù hợp với hiện thực khi đó mà ơng cho là
“khn mẫu”, “lý tưởng”.
Kế thừa tư tưởng chính danh của Khổng Tử, khi đưa ra mối quan hệ giữa người
với người trong xã hội, Mạnh Tử cũng yêu cầu con người trong xã hội phải danh chính
ngơn thuận, ứng xứ đúng với địa vị danh phận của mình. Như trong chương Đằng Văn
Cơng, Mạnh Tử nói: “Thánh nhân dạy dân biết các giềng mối của con người: giữa cha
con có tình thân ái, giữa vua tơi có nghĩa vụ, vợ chồng có phân biệt, anh em có thứ tự,
bạn bè có chữ tín”. Như vậy, con người phải nắm vững danh phận của mình với người
khác trong xã hội để mà hành xử sao cho phù hợp. Mạnh Từ sống sau Khổng Tử hơn
một trăm năm. Thời đại của ông hỗn loạn hơn đời Khổng Tử cả về phương diện xã hội
lẫn tư tưởng. Trong khi các triết gia đương thời đang cố gắng tìm ra hướng đi mới trong
việc bình ổn xã hội thì Mạnh Tử vẫn trung thành vói đường lối đức trị trên đây của thầy
mình. Tồn bộ tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử được ông xây dựng trên nền tảng
là tư tưởng đức trị của Khổng Tử nên có thể nói, tư tưởng đức trị Khổng Tử đưa ra từ


4


thời đại Xuân Thu chính là nguồn gốc lý luận trực tiếp cho tư tưởng chính trị- xã hội
của ơng.
Như vậy, trong bối cảnh kinh tế, xã hội thời Chiến Quốc cùng với các trào lưu
tư tưởng đang lưu hành trong thời kỳ này với việc xuất hiện nhiều nhà “chư tử” khác
nhau, với nhiều học thuyết khác nhau nhằm“cứu vớt nhân dân”, nhằm tạo lập một xã
hội có trật tự, kỷ cương, cải “loạn thành trị”. Tư tưởng của Mạnh Tử nói chung và tư
tưởng chính trị - xã hội của ơng nói riêng được ra đời cũng xuất phát và chịu ảnh hưởng
từ chính hồn cảnh lịch sử đó.

CHƯƠNG 2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ
HỘI CỦA MẠNH TỬ
2.1 ĐƯỜNG LỐI “NHÂN CHÍNH” CỦA MẠNH TỬ
Có thể nói, điểm đặc sắc nhất trong tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử là tư
tưởng “nhân chính”, tức là làm chính trị bằng “nhân nghĩa”. Trên cơ sở kế thừa và cải
biến các phạm trù đạo đức của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đặc biệt đề cao vai trò của nghĩa,
kết hợp nhân với nghĩa thành phạm trù nhân nghĩa. Xuất phát từ đó, ông vận dụng nhân
nghĩa vào công việc chính tri của nhà cầm quyền hình thành nên tư tưởng nhân chính
với những nội dung cơ bản: đề cao vai trò của đường lối nhân chính, xây dựng đường
lối nhân nghĩa, cách ứng xử của vua và bề tơi, hồn thiện đạo đức của vua quan, sự khác
nhau giữa vương đạo và bá đạo. Tư tưởng ấy chính là tâm điểm của tồn bộ triết học
Mạnh Tử nói chung và tư tưởng chính trị- xã hội của ơng nói riêng.
Xuất phát từ chủ trương dùng nhân nghĩa trong chính trị, nhằm nhấn mạnh hơn
nữa vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự tồn vong của một chế độ xã hội, Mạnh
Tử đưa ra tư tưởng lấy nhân làm trọng. Tư tưởng này thể hiện rõ nét và sâu sắc đường
lối “nhân chính” trong tư tưởng chính trị- xã hội của ông. Từ chỗ thấy được tầm quan

trọng của ba yếu tố thiên, địa, nhân, Mạnh Tử nhấn manh tới yếu tố nhân hồ. Theo
ơng, nhân hồ là yếu tố quyết đinh sự thành công của nhà cầm quyền, bởi lẽ: “thờ trời
chẳng bằng lợi đất; lợi đất chẳng bằng lòng người hoà hiệp”. Với lập luận ấy, Mạnh Tử
muốn khuyến cáo các vua chư hầu: việc trị quốc bình thiên hạ cần phải nhận được sự
ủng hộ của đa số dân chúng. Bờ cõi chắc chắn, núi non hiểm trở và vũ khí tốt mới chỉ

5


là những điều kiện cần nhưng chưa đủ cho ông vua làm nên nghiệp lớn. Điều quan trọng
nhất là phải có “lịng người hồ hiệp”. Và, cố nhiên để lịng người có thể hồ hiệp thì
nhà cầm quyền cần phải tri nước theo “đạo chính nghĩa” hướng tới dân và vì dân.
Mạnh Tử là người rất coi trọng người tài đức. Với ông, nhân tài là trụ cột của quốc gia,
là tài sản quý của đất nước, nên việc sử dụng người tài đức là điều kiện cho sự tồn tại
và phát triển của một chế độ xã hội. Cũng chính vì thế, sử dụng người tài đức đã trở
thành một phần quan trọng trong phương pháp trị nước. Có thể nói, vấn đề sử dụng, coi
trọng người tài đức mà ơng đề xuất với vua chúa thời đó đến nay vẫn là vấn đề mang
tình thời sự. Khơng phải mọi nhà nước ở mọi quốc gia trên thế giới đều đã giải quyết
vấn đề đó một cách thoả đáng.
Để những người tài đức sẵn sàng cống hiến sức lực và trí tuệ của mình phục vụ
đất nước, phục vụ vua, tự vua phải “thân hành viếng nhà hiền giả”, nghĩa là phải thật
lịng tơn trọng, và biết cách thu hút trọng dụng nhân tài theo lễ: “Nếu vua dùng hiệu
lệnh để triệu quan đại phu mà với người giữ vườn thảo mộc, thì người giữa vườn thảo
mộc đành chịu chết chứ chẳng dám đến. Nếu vua dùng hiệu lệnh để vời quan sĩ mà địi
kẻ bình dân, thì kẻ binh dân há dám đến sao? Huống chi vua dùng cách đòi người chẳng
tài đức mà đòi trang tài đức, thì trang tài đức có chịu đến hay chăng. Theo Mạnh Tử,
nhà cầm quyền muốn sử dụng người tài đức mà khơng theo đạo lý, thì cũng giống như
muốn người tài đức vào nhà mình, nhưng mình lại đóng cửa lại. Ơng đặc biệt nhấn
mạnh cách đối xử, lịng u mến và sự tôn trọng nhân tài của nhà cầm quyền. Với ông,
biết trọng dụng người tài đức là sự thể hiện nhân nghĩa và trí của kẻ cai trị. Bởi lẽ, khi

ấy họ sẽ được nghe lời hay lẽ phải về công việc trị nước, giống như cây được tiếp xúc
với ánh sáng mặt trời. Không biết trọng dụng người tài đức sẽ đưa tới hậu quả nhà cầm
quyền không được nghe lời hay lẽ phải nên tất yếu đất nước trì trệ khơng phát triển,
thậm chí mất nước.
Tóm lại, trong toàn bộ các phạm trù đạo đức của Nho gia, Mạnh Tử chủ yếu nói
tới các phạm trù nhân và nghĩa. Với phong cách tư duy độc đáo của mình, ơng đã thêm
vào các phạm trù nhân, nghĩa những nội hàm, những ý tưởng mới mẻ, trên cơ sở đó kết
hợp chúng thành phạm trù nhân nghĩa. Chính sự kế thừa mang tính sáng tạo đó đã làm
cho các phạm trù đạo đức của Nho gia mang những diện mạo và sắc thái mới. Có thể
nói, từ tư tưởng nhân nghĩa đến đường lối nhân chính, Mạnh Tử đã mở rộng đạo đức

6


đến chính trị, làm cho đạo đức hóa thân vào chính trị. Chính vì thế, tư tưởng chính trị –
xã hội của ông chẳng những không phải là bản sao tư tưởng đức trị của Khổng Tử, mà
còn làm cho tư tưởng đức trị sâu sắc hơn, rõ ràng hơn, có ý nghĩa thiết thực hơn đối với
xã hội Trung Quốc đương thời.
2.2 TƯ TƯỞNG "DÂN BẢN" CỦA MẠNH TỬ
“Dân bản” có nghĩa là: dân là gốc của vua, dân là gốc của nước. Quan điểm về
dân bản của Nho giáo chủ trương: vua trị quốc phải quán triệt tư tường lấy dân làm gốc,
phải xem dân là gốc của vua và nền tảng của đất nước, xem việc yêu dân, thương dân,
phú dân và lấy lòng dân là nhiệm vụ hảng đầu của trị quốc. Tư tưởng dân bản là một
trào lưu tư tưởng xã hội có ý nghĩa tiến bộ, xuất hiện từ giữa thời Thương - Chu và đến
thời Xuân Thu- Chiến Quốc thì tư tường này phát triển khá phổ biến. Do ảnh hưởng
của thời đại, Mạnh Tử cũng đưa ra quan điểm về dân bản một cách có hệ thống.
Mạnh Tử xuất phát từ việc cho rằng bản tính của con người là thiện nên trong chính trị
tất yếu phải lấy nhân nghĩa làm gốc. Phát triển thuyết nhân của Khổng Tử, Mạnh Tử đề
xuất thuyết nhân nghĩa. Thuyết nhân nghĩa này được áp dụng vào việc chính trị gọi là
nhân chính hay đường lối chính trị lấy nhân nghĩa làm gốc.

Tìm hiểu tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử, chúng ta thấy Mạnh Tử đã
trình bày một cách khá đầy đủ các vấn đề liên quan tới chính trị- xã. Nó đặt ra những
vấn đề hết sức cơ bản, đó là vai trò của đạo đức trong xã hội, đạo đức người cầm quyền,
vai trò của người dân trong xã hội, các biện pháp làm cho dân chúng có cuộc sống tốt
đẹp, xây dựng xã hội lý tưởng. Kế thừa và phát triển tư tưởng “đức trị” của Khổng Tử,
Mạnh Tử đã phát triển thành đường lối “nhân chính”- làm chính trị dựa vào đức nhân.
Tuy đã tiến xa hơn rất nhiều so với Khổng Tử. Ở đường lối “đức trị”, Khổng Tử mới
chỉ bàn tới việc làm chính trị dựa trên cơ sở thực thi đạo đức và đường “đức trị” mới
bàn tới :phú, thứ, giáo. Nhưng Mạnh Tử đã làm cụ thể hóa đường lối “đức trị” của
Khổng Tử bằng đường lối “nhân chính” và nó được cụ thể hố bằng các vấn đề: chia
ruộng đất công minh, giảm thuế khố, giảm hình phạt, quan tâm tới giáo dục. Đường
lối “nhân chính” của Mạnh Tử mang tính nhân văn nhân đạo sâu sắc.
Trước Mạnh Tử đã có rất nhiều người đề cao vai trò của người dân trong xã hội,
nhưng điều đó vẫn cịn mang tính chất chung chung. Chỉ đến Mạnh Tử ông mới chỉ ra
một cách rõ ràng vai trị của người dân trong xã hội thơng qua tuyên ngôn khá quan

7


trọng, đó là “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, ở đây, Mạnh Tử đã thiết lập nên
mối tương quan Trời- Vua- Dân và chỉ đến đây địa vị của người dân mới được đề cao
thực sự. Xuất phát từ việc nhận thấy vai trò quan trọng của người dân trong xã hội nên
Mạnh Tử đã yêu cầu nhà cầm quyền phải thi hành đường lối “nhân chính”, phải chăm
dân, huệ dân.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng, tất cả những tư tưởng này của
Manh Tử đều tốt lên tinh thần của Nho giáo đó chính là hệ tư tưởng của giai cấp thống
trị và là cơng cụ hữu ích để xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, là
công cụ đắc lực để bảo vệ địa vị của giai cấp phong kiến.

CHƯƠNG 3

Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
ĐỐI VỚI NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1 ĐÁNH GIÁ MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
3.1.1 Những mặt tích cực trong học thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử
Điểm tích cực đầu tiên của tư tưởng ấy là tinh thần đề cao và coi trọng con người
của Mạnh Tử. Xuất phát từ đó, ơng mở rộng đạo đức đến chính trị, xây dựng nên đường
lối chính trị nhân nghĩa với nội dung quan tâm sâu sắc tới cuộc sống con người, đã từng
có vai trị tích cực trong lịch sử. Học thuyết tính thiện của Mạnh Tử: cho rằng bản tính
con người từ khi mới sinh ra là thiện. Con người bất thiện là do hoàn cảnh đem lại và
bằng giáo dục giáo hố thì có thể thay đổi đươc bản tính con người. Đây là tư tưởng rất
tiến bộ, ông coi trọng việc giáo dục. Và bằng việc khẳng định tính người từ khi sinh ra
ai cũng như ai, ai cũng thiện là Mạnh Tử đã đặt vị trí người bình thường như các thánh
nhân.
Mạnh Tử đã đề cao vai trò của người dân lên tới mức tuyệt đối. Điều này thể
hiện qua tư tưởng: “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Ở Mạnh Tử đã đặt người
dân trong mối tương quan: Trời-vua- dân. Khổng Tử mới đưa ra tư tưởng “quân quânthần thần: vua ra vua- tơi ra tơi” tức là phải chính danh. Nhưng Mạnh Tử đã tiến bộ hơn
Khổng Tử khi cho rằng: bề tôi chỉ trung thành với ông vua nào mà vì dân, có đức và
khơng tơn thờ ơng vua nào trong có đạo đức. Tức là ở đây, Mạnh Tử đã có tư tưởng bề

8


tơi có quyền lật đổ vua nếu vị vua đó khơng ra gì. Đây là tư tưởng rất tiến bộ.
Mạnh Tử đã rất duy vật khi cho rằng có hằng sản thì mới có hằng tâm. Ơng là
người đề cao vấn đề kinh tế trong xã hội. Ơng có một chính sách kinh tế hợp lý trong
nhiều lĩnh vực: nơng nghiệp- thủ công nghiệp như việc đề ra chế độ “tỉnh điền”. Trong
học thuyết chính trị xã hội của mình, Mạnh Tử còn để lại nhiều tư tưởng về các chính
sách xã hội hợp lý, nhân văn nhân đạo như chỉ ra việc cần quan tâm tới các loại người
có hồn cảnh khó khăn trong xã hội: cơ, quan, quả... Mạnh Tử cịn khun nhà cầm

quyền nên giảm nhẹ hình phạt, giảm nhẹ tơ thuế cho dân... Mạnh Tử cịn là người đề ra
thuyết phân công lao động trong xã hội bằng việc chỉ ra có hạng người “lao lực” và có
hạng người “lao tâm”. Mỗi hạng người này có nhiệm vụ nhất định trong đời sống. Có
như vậy, xã hội mới cân bằng, phát triển toàn diện về các mặt.
Điểm tích cực thứ hai đáng lưu ý trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
là tư tưởng dân bản – tư tưởng lấy dân làm gốc. Tư tưởng ấy không chỉ phản ánh nhu
cầu khách quan về sự phát triển sản xuất, phát triển kinh tế của xã hội Trung Quốc
đương thời, mà còn phản ánh nhu cầu của lịch sử cần phải nâng cao và cải thiện địa vị
xã hội của người lao động trong thời kỳ xã hội đang có những bước chuyển hết sức
mạnh mẽ. Nếu như Khổng Tử coi nghĩa là đức tính quan trọng để phân biệt người quân
tử với kẻ tiểu nhân nên đặt nghĩa lên trên tư lợi cá nhân và địi hỏi con người khơng
được vì lợi mà quên nghĩa, thì Mạnh Tử đã đi xa hơn một bước bằng cách tuyệt đối hóa
vai trị của nghĩa, địi hỏi người ta phải quên lợi vì nghĩa. Trong suy nghĩ của Mạnh Tử,
lợi là quan tước, bổng lộc, tiền của… luôn cám dỗ con người, làm cho con người khơng
cịn giữ được nhân nghĩa. Hơn nữa, thời đại của ông - thời Chiến quốc, xã hội Trung
Hoa đang loạn lạc, các nước chư hầu tranh thành cướp đất của nhau, chỉ biết đuổi theo
lợi ích. Thế nhưng các cuộc chiến tranh vì lợi ích ấy chẳng những khơng mang lại lợi
ích mà cịn làm tổn hại lợi ích của vua chúa và các tập đoàn vua chúa cũng như tính
mạng, tài sản của nhân dân. Để cứu vãn tình trạng đó, Mạnh Tử chủ trương dùng các
giá trị chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi con người, và một trong những giá trị
chuẩn mực đạo đức ấy là nhân nghĩa. Ông đưa ra lẽ sống: Kẻ nào coi trọng lợi ích tất
sẽ nhận được sự đối xử cũng chỉ vì lợi ích của kẻ khác nên dễ mất ln lợi ích. Ngược
lại, những ai coi trọng nhân nghĩa sẽ nhận được sự đối xử có nhân nghĩa của mọi người,
từ đó tự nhiên có lợi. Như vậy, khơng cầu lợi mà tự khắc sẽ có lợi, cịn nếu đuổi theo

9


lợi sẽ mất ln lợi ích.
Là người rất quan tâm đến đời sống kinh tế của dân nên Mạnh Tử đặc biệt coi

trọng chính sách phát triển kinh tế. Trong suy nghĩ của ông, sự hưng thịnh của một quốc
gia sẽ phụ thuộc nhiều vào các chính sách kinh tế của nhà cầm quyền nên tính đúng đắn
của các chính sách kinh tế là một trong những tiêu chuẩn đánh giá giá trị cũng như tài
năng của họ. Điều đó cho thấy, mặc dù Mạnh Tử là người theo đường lối đức trị nhưng
không phải mọi luận điểm trong đường lối chính trị của ơng chỉ dừng lại ở phương diện
đạo đức. Về thực chất, đường lối chính trị ấy là đường lối nhân đạo chủ nghĩa tích cực,
hàm chứa nhiều tư tưởng có ý nghĩa thiết thực khơng chỉ trong xã hội Trung Quốc
đương thời, mà còn trong cả các xã hội sau này.
3.1.2 Những hạn chế trong học thuyết chính trị- xã hội của Mạnh Tử
Mạnh Tử đã quả tuyệt đối hoá việc dùng đạo đức để trị người. Trên thực tế việc
dùng đức nhân để đối xử với nhau nó chỉ diễn ra ở những người có đạo đức và được
giáo dục, họ thực hiện trên tinh thần tự giác. Trên thực tế, cuộc sống rất khó khăn, phức
tạp với nhiều dang người: tốt- xấu, quân tử- tiểu nhân, khơng phải ai cũng có đạo đức.
Chính vì vậy, sự hy vọng cảm hoá nhân tâm trong đường lối chỉnh trị của ông không
tránh khỏi sự mơ hồ, khó thuyết phục đối với những ai dày dạn trong đường đời. Điều
này cắt nghĩa tại sao các vua chư hầu khơng sử dụng tư tưởng nhân chính của ơng trong
công việc trị nước của họ.
Mạnh Tử là một nhà triết học duy tâm. Ông đề cao thuyết “thiên mệnh”, đề cao
trời, cho trời là đấng tối cao có quyền hành vạn năng. Các vua được trị nước cũng là do
được hưởng mệnh Trời. Và việc gì khơng làm được ông cũng đổi cho đó là do mệnh
Trời quy định. Từ đây, nhận thấy việc quá đề cao mệnh Trời lại làm giảm đi vai trò của
nhân nghĩa, vai trò vận động của mỗi cá nhân, hình thành nên lối suy nghĩ ỷ lại của con
người mỗi khi không làm được việc gì.
Mặc dù đề ra tư tưởng nhân chính, tư tưởng dân bản- lẩy dân là gốc. Đây là
những tư tường tiến bộ nhưng suy đến cùng là những tư tưởng này của Mạnh Tử đều
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của người cầm quyền. Đây cũng là xu thế chung của các
nhà Nho đương thời- muốn bảo vệ thiên tử của nhà Chu.
3.2 TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ ĐỐI VỚI NƯỚC

10



TA HIỆN NAY
Nho giáo được du nhập và truyền bá vào nước ta từ cuối thế kỷ thứ II trước Cơng
ngun bằng hai con đường chính: Con đường thứ nhất nằm trong ý đồ quân xâm lược
phương Bắc là sử dụng Nho giáo nhằm nơ dịch, đồng hố, để biến nước ta thành một
quận huyện của Trung Quốc. Con đường thứ hai là Nho giáo được truyền vào nước ta
trong q trình giao lưu văn hố giữa hai nước.
Nho giáo được truyền vào nước ta có cả Nho giáo nguyên thuỷ (Nho giáo KhổngMạnh), Hán Nho, Tống Nho. Các luồng tư tưởng này tuy có khác nhau nhưng nhìn
chung đều thống nhất với nhau vì cùng một gốc mà ra. Và đặc biệt là ở mỗi một thời
gian khác nhau thì mỗi triều đại phong kiến ở nước ta lại đề cao từng loại Nho giáo
riêng biệt. Nho giáo có sức ảnh hưởng lớn nhất đến lịch sử tư tưởng Việt Nam đó chính
là Nho giáo Tiên Tần do các đại biểu là Khổng Tử và Mạnh Tử sáng lập ra. Các nhà
Nho duy tân rất coi trọng tư tưởng “dân vi bản” của Mạnh Tử. Hơn nữa, họ đã gán cho
hàm nghĩa tương thông với quan niệm dân quyền thời Cận đại. Như đã nói ở trên, tư
tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử có ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng nước ta trong
suốt thời kỳ phong kiến. Hiện nay, ở nước ta cái bệ đỡ của Nho giáo là nhà nước phong
kiến khơng cịn nữa (đã chính thức mất vào năm 1945) nhưng trên thực tế tư tưởng “dân
bản”, “nhân nghĩa” của Mạnh Tử vẫn còn có ảnh hưởng sâu sắc tới nước ta cả về lĩnh
vực chính trị và đạo đức hàng ngày.
3.2.1 Tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử đối với tư duy chính trị ở
nước ta hiện nay
Tư tưởng của Mạnh Tử đã có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng nước ta thời phong
kiến. Và trong xã hội hiện đại, việc tìm hiểu những giá trị của tư tưởng của Mạnh Tử
ảnh hưởng đến tư tưởng nước ta là một vấn đề khá quan trọng. Cũng giống như thời kỳ
trước, nội dung các tư tưởng “dân vi bản”, tư tưởng “nhân nghĩa”, tư tưởng “tu thân”
thành người quân tử, tư tưởng giáo dục của Mạnh Tử vẫn cịn có ảnh hưởng lớn đến tư
tưởng nước ta hiện nay.
Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước, cứu dân, đã nắm bắt, khai
thác được những giá trị, tinh hoa đạo đức mang đậm tính nhân văn, dân bản sâu sắc

trong tư tưởng của nhân loại, nhất là của Khổng- Mạnh; đồng thời thừa hưởng có chọn
lọc sáng tạo vào cuộc đấu tranh chống thực dân xâm lược, tham gia đòi quyền tự do,

11


bình đẳng cho các dân tộc thuộc địa. Người đã cho rằng những giá tri tư tưởng ấy như
là tiền đề, “lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á,
dễ dàng hơn là của châu Âu. Hồ Chí Minh viết: Khổng Tử vĩ đại khởi xướng thuyết đại
đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản. Học trị của Khổng Tử là Mạnh Tử, tiếp tục
tư tưởng của thầy và vạch ra một kế hoạch chi tiết để tổ chức sự sản xuất và tiêu thụ.
Sự bảo vệ và phát triển lành mạnh của trẻ em, sự giáo dục và lao động cưỡng bức đối
vói người lớn, sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám, sự nghỉ ngơi của người già, khơng
có điều gì đề án của ơng khơng đề cập đến. Việc thủ tiêu bất bình đẳng về hưởng thụ,
hạnh phúc không phải cho một số động mà cho tất cả mọi người, đấy là đường lối kinh
tế của một vị hiền triết.
Chịu ảnh hưởng của Mạnh Tử, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt đề cao vai trò của
đường lối nhân chính. Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân sẽ phát động được sức
mạnh vô tận của khối quần chúng đông đảo để đưa sự nghiệp cách mạng tới thành cơng,
dù khó khăn gian khổ tới đâu: "có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được
tất cả lực lượng nhân dân tiến lên”. Người còn nhấn mạnh "thực hành dân chủ là cái
chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn". Chúng ta thấy Hiến pháp
1946 và Hiến pháp sửa đổi 1959 do Người trực tiếp chỉ đạo là cơ sở pháp lý "đảm bảo
được quyền tự do dân chủ cho các lầng lớp nhân dân lao động trên cơ sở công nông liên
minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Hồ Chí Minh cịn đặc biệt đề cao vai trị của người dân khi người đưa ra trách
nhiệm của người cán bộ trong xã hội mới. Theo Người: “Chế độ ta là chế độ dân chủ,
nghĩa là nhân dân làm chủ... tất cả các cán bộ đều là người đày tớ trung thành của nhân
dân”. Người đã nhác nhở các nhân viên chính quyền nhà nước: "chúng ta phải hiểu rằng
các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc cho đến các làng, đều là cổng bộc của dân,

nghĩa là gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân" và “Đem lực dân, sức
dân, của dân làm lợi cho dân”.
Ngồi ra, người cịn khun cán bộ cần hành động sao cho: “Việc gì có lợi cho
dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Ở đây, ngoài việc
chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng “dân vi q” thì Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng bởi tư
tưởng vương đạo, bá đạo của Mạnh Tử. Vì “việc gì có lợi cho dân” tức là Người muốn
nói đến đường lối lãnh đạo đất nước nhân đạo, có lợi cho dân và hợp lịng người. Còn

12


“việc gì hại đến dân” thì phải chăng đó chính là việc thực thi đường lối bá đạo? Và Hồ
Chí Minh đề cao cái đường lối vương đạo ấy. Điều này đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa
của Mạnh Tử đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh khá sâu sắc.
Tư tưởng trên đây của Mạnh Tử gợi mở cho chúng ta nhận thức: để nhà nước
thực sự “vì dân” thì mọi chính sách, pháp luật của nhà nước đều phải xuất phát từ lợi
ích của nhân dân và hướng tới bảo đảm lợi ích cho nhân dân. Vì vậy nhà nước cần trưng
cầu ý dân. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, do đó vấn đề kiện tồn hệ thống pháp
luật là một trong những vấn đề trọng yếu của việc xây dựng nhà nước. Trong việc làm
luật, Quốc hội cần mở rộng các hình thức cho nhân dân tham gia vào quá trình lập pháp.
Để ghi nhận ý kiến của nhân dân, các đại biểu Quốc hội nên liên hệ chặt chẽ với cử tri,
thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của họ.
Tóm lại, hơn hai nghìn năm với sự hưng thịnh và suy vọng của các triều đại vua
chúa, các chế độ xã hội từ phương Đông và phương Tây là thời gian đủ để chứng minh
tư tưởng “lấy dân làm gốc” mà Mạnh Từ đề xướng trong tư tưởng chính trị- xã hội vẫn
là tư tưởng có ý nghĩa và là bài học lịch sử bổ ích, thiết thực đối với sự nghiệp xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng ta trở lại tư tưởng “lấy dân
làm gốc” khơng có sự hồi cổ, mà là sự kế thừa tinh hoa văn hoá nhân loại để nhận thức
được tính tất yếu mà chúng ta khơng thể làm trái vì sự tồn tại của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.

3.2.2 Tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử đối với việc xây dựng đạo đức
trong nhân dân
Dân tộc Việt Nam truyền thống đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau nên tư tưởng
của Mạnh Tử được truyền vào Việt Nam thì những tư tường về làm người, tư tưởng về
nhân nghĩa của Mạnh Tử đã được nhân dân ta đón nhận khai thác để làm giàu hơn về
tinh thần nhân nghĩa vốn có trước đây. Hiện nay, kế thừa và phát triển tư tưởng “nhân
chính”, “nhân nghĩa” của Mạnh Tử, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm tới
việc nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc khó khăn, xố đói giảm nghèo. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta thì tư tưởng nhân nghĩa ngày càng được nhân rộng,
phát triển thành những chủ trương, phong trào lớn và có những giá trị hiện thực hết sức
tích cực. Các đức tính và hành động yêu thương giúp đỡ đồng bào của nhân dân ta vừa
thể hiện truyền thống vốn có của dân tộc Việt Nam vừa thể hiện một sự tiếp thu kế thừa

13


sâu sẳc tư tưởng nhân nghĩa của Mạnh Tử.
Trong nội dung giáo dục, Mạnh Tử yêu cầu phải giáo dục “đạo làm người” cho
con người. Đạo làm người đó chính là thực hành các đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Và
về mối quan hệ giữa người với người thì Mạnh Tử đề cao chữ “hiếu” và chữ “trung”.
Hiếu với cha mẹ là nền tảng của trung với nước. Những giá trị này vẫn tồn tại và có sức
ảnh hưởng lớn trong tư tưởng người Việt. Mỗi người Việt Nam sống đều lấy đức “hiếu”
và đức “trung” làm nền tảng tư tưởng và hành động của mình. Hiện nay, trước những
biến đổi do xu hướng hội nhập kinh tế- văn hóa tồn cầu, trước chiến dịch “diễn biến
hịa bình của các nước thù địch, trước những biến đổi mà nguyên nhân là do tác động
của nền kinh tê thị trường trong nước nên vấn đề đạo đức của con người nhất là đối với
thể hệ trẻ đã có nhiều biểu hiện suy đồi. Chính vì vậy, chúng ta nên giáo dục cho thể hệ
trẻ những giá trị đạo đức mang tính chất nhân văn “hiếu”, “trung”, “nhân”, “nghĩa”,
“lễ”, “tri” mà Mạnh Tử đã đề cao. Đây có lẽ là việc làm vô cùng cần thiết trong thời đại
ngày nay - điều này có lẽ ở một số người, trong một thời gian dường như chúng ta đã

quên đi, chỉ chú trọng đến giáo dục các bộ môn thuộc về khoa học cơ bản, khoa học tự
nhiên.
Không chỉ để lại những giá trị sâu sắc về tư tưởng “dân bản” và tư tưởng “nhân
nghĩa” mà Mạnh Tử còn để lại cho chúng ta những giá trị rất sâu sắc về đường học vấn.
Tư tưởng về phương pháp học tập “Đọc sách mà tin cả ở sách thì khơng bằng khơng có
sách” của Mạnh Tử có giá trị rất lớn đến ngày hơm nay. Nó khuyên chúng ta phải có tư
duy sáng tạo, khơng được rập khn máy móc. Và phương pháp giáo dục này rất quan
trọng và vô cùng cần thiết nhất là đối với cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở
nước ta hiện nay. Phương pháp chia từng đối tượng ra mà dạy học của Mạnh Tử cũng
là những lịi khun vơ cùng qúy báu đối vói những người làm giáo dục. Chúng ta phải
biết trình độ, đặc điểm cùa từng người học để từ đấy có phương pháp giảng đúng đắn,
như vậy mới có kết quả cao.
Dù sao chúng ta cũng phải thấy rằng tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử có
giá trị vơ cùng to lớn và có ảnh hưởng rất tích cực đối với Việt Nam. Trong thời kỳ
phong kiến, tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử có ảnh hưởng tới hầu hết các triều
đại. Các triều đại từ Lý- Trần- Hậu Lê- Lê Trung hưng- Nguyễn đều đề cao tư tưởng
“dân bản”, tư tưởng “nhân nghĩa” trong chính trị.

14


Tư tưởng của Nho giáo nói chung của Mạnh Tử nói riêng có ảnh hưởng và có
nhiều giá trị tích cực đối với nền chính trị - xã hội ở Việt Nam. Kế thừa tư tưởng “nhân
chính”, “dân bản” của Mạnh Tử, hiện nay chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước “của dân, do dân, vì dân” là nhà nước thực hiện
đường lối chính trị “lấy dân làm gốc” hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Hiện nay, mặc dù trước những biến đổi của thời đại, cái bệ đỡ của Nho giáo là
chế độ phong kiến khơng cịn nữa nhưng Nho giáo vẫn còn hiện diện ở nước ta. Đặc
biệt là những tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng dân bản của Mạnh Tử kết hợp với vãn hóa

bản địa Việt Nam vẫn cịn có sức ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tạo nên bản sắc văn
hóa của dân tộc Việt Nam.

KẾT LUẬN
Khổng Tử là một trong những người sáng lập ra Nho giáo ở thời Xuân Thu và
Mạnh Tử là người có cơng trong việc phát triển Nho giáo ở thời Chiến Quốc. Cùng với
Khổng Tử, Mạnh Tử được coi là linh hồn của Nho giáo. Mạnh Tử muốn đưa cái đạo
mà mình được học để giúp đời. Trong cuộc đời của mình, ơng đã đi chu du các nước để
giảng đạo. Đến nước nào Mạnh Tử cùng giảng về đạo trị nước mang màu sắc nhân
chính, nhân nghĩa. Các tư toởng của ông rất nhân văn, nhân đạo và hợp thời thế. Tiền
đề lý luận của việc hình thành tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử học thuyết “tính
thiện” của ơng và tư tưởng “đức trị” của Khổng Tử. Ngồi ra, Mạnh Tử cịn kế thừa
một số tư tưởng khác của một số trường phái như Đạo giáo, Mặc gia, Pháp gia…
Ông phát triển tư tưởng “đức trị” của Khổng Tử thành tư tưởng vương đạo nhân
chính. Đạo của Khổng Tử tập trung trong chữ Nhân- yêu người. Kế thừa tư tưởng “đức
trị” của Khổng Tử, Mạnh Tử đã thêm chữ Nghĩa vào chữ Nhân và phát triển thành
đường lối trị nước nhân nghĩa hay còn gọi là đường lối Nhân chính. Đây là đường lối
chính trị mang tính nhân văn nhân đạo sâu sắc. Đối với ơng, dân chúng có vai trị rất
quan trọng và nhà cầm quyền phải xác định được địa vị của dân trong xã hội. Điều này
được thể hiện qua tuyên ngôn “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Ông yêu cầu
nhà cầm quyền phải yêu thương dân, chăm dân, giảm nhẹ hình phạt, thuế má cho dân
và dùng đức nhân, đức nghĩa đối với dân. Ông cũng yêu cầu nhà cầm quyền phải thường

15


xuyên tu dưỡng đạo đức để trở thành bậc Thánh nhân quân tử.
Đến xã hội Việt Nam hiện đại mặc dù cái bệ đỡ của Nho giáo là nhà nước phong
kiến khơng cịn nữa nhưng tư tưởng của Nho giáo nói chung của Mạnh Tử nói riêng
vẫn cịn có ảnh hưởng và có nhiều giá trị tích cực đối với nền chính tri- xã hội ở Việt

Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng tốt những tư
tưởng đức trị, tư tưởng dân bản... của Mạnh Tử để đề ra phương hướng xây dựng đất
nước. Hiện nay, chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước “của dân, do dân, vì dân” là nhà nước thực hiện đường lối chính trị
“lấy dân làm gốc” hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.

16



×