Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.02 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUAN HỆ GIỮA DÂN
TỘC VÀ TÔN GIÁO Ở TÂY NGUYÊN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...............4
1. Vấn đề gìn giữ thiết chế xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số.......4
2. Vấn đề văn hóa, nghi lễ truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số...................5
3. Vấn đề tuân thủ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước............................................................................................................................... 7
4. Những bất cập, hạn chế của hệ thống chính trị cơ sở trong việc thực hiện chính sách
dân tộc và tơn giáo.........................................................................................................8
5. Vấn đề lợi dụng tôn giáo của các lực lượng thù địch...............................................10
6. Vấn đề quan hệ quốc tế của các tôn giáo ở Tây Nguyên..........................................11

Chương 2. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM GIẢI QUYẾT TỐT MỐI
QUAN HỆ GIỮA DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO Ở TÂY NGUYÊN................13
2.1. Nhóm giải pháp chung..........................................................................................13
2.2. Nhóm giải pháp cụ thể..........................................................................................18
KẾT LUẬN.................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................26


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội và hiện tượng xã hội phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định, chịu sự quyết định bởi tồn tại
xã hội với những đặc trưng: Cộng đồng đức tin, hệ thống nghi lễ, hệ thống tổ
chức, hệ thống luân lý. Với những đặc trưng đó, giữa tơn giáo và dân tộc có mối
quan hệ biện chứng với nhau, làm tiền đề cho sự tồn tại của nhau, tạo nên một


chỉnh thể thống nhất phản ánh bản sắc riêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Sự vận
động, biến đổi của mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo gắn chặt với sự vận
động và biến đổi của tồn tại xã hội. Trong điều kiện hiện nay do tác động của
kinh tế thị trường, tồn cầu hố, nên quan hệ dân tộc và tơn giáo có những điểm
khác biệt so với trước. Xu thế đồn kết tơn giáo và dân tộc vẫn là dòng chủ lưu
xuất phát từ những yếu tố truyền thống, lịch sử và văn hoá. Là vấn đề vô cùng
phức tạp, nhạy cảm nên tôn giáo và dân tộc luôn bị các thế lực thù địch trong và
ngoài nước khai thác, lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam.
Tây Nguyên là địa bàn của nhiều dân tộc, tơn giáo khác nhau vì vậy, các
thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tơn giáo, xem đây là
những “ngịi nổ” để kích động tư tưởng ly khai, tự trị với âm mưu thành lập một
“Nhà nước Đề Ga độc lập” ở Tây Ngun. Với âm mưu “diễn biến hịa bình”, sử
dụng lực lượng Fulro, ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tơn giáo kích động quần
chúng gây mất ổn định chính trị xã hội trong khi đó việc tuyên truyền giáo dục
nâng cao nhận thức cho quần chúng chưa đạt kết quả khả quan đặc biệt là xóa
dần khoảng cách về kinh tế giữa các vùng, địa phương. Vấn đề dân tộc và tôn
giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số di cư tự do đến Tây Nguyên còn diễn
biến phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định về an ninh chính trị, trật tự
an tồn xã hội trên địa bàn tỉnh. Các loại “tà đạo”, “đạo lạ”, hiện tượng tôn giáo
mới hoạt động ngày càng diễn biến phức tạp. Những năm qua, các hoạt động lợi
dụng tôn giáo của thế lực thù địch đã ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định và phát
triển của Tây Nguyên nói riêng và của cả nước nói chung, làm suy giảm lòng tin


2

và niềm tin của người dân tại chỗ với Đảng và Nhà nước, gây tâm lý bất an, thụ
động trong xây dựng cuộc sống mới của người dân.
Là địa bàn chiến lược đặc biệt trọng yếu, sự ổn định kinh tế - chính trị xã
hội và phát triển bền vững của Tây Ngun đóng vai trị quan trọng trong sự

phát triển chung của cả nước. Để Tây Nguyên phát triển nhanh, bền vững, cần
thiết phải có các cơ chế, chính sách phát triển đặc thù, phù hợp với điều kiện của
vùng, phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ mơi
trường,... trong đó việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo
chú trọng phát triển kinh tế xã hội sẽ góp phần nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân thực hiện mục tiêu đại đoàn kết dân tộc. Xuất phát từ
những ý nghĩa này, chúng tôi chọn vấn đề “Một số vấn đề đặt ra trong quan hệ
giữa dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên hiện nay và những định hướng giải pháp”,
làm đề tài tiểu luận bộ môn Lý luận dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm góp phần trình bày một số vấn đề
đặt ra trong mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên hiện nay. Từ đó,
đề xuất một số định hướng nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và tôn
giáo ở khu vực này.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài sẽ tập trung giải
quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ một số vấn đề đang đặt ra trong quan hệ giữa
dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, đề xuất một số định hướng nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa
dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên trong giai đoạn tới.
Thứ ba, rút ra một số kết luận nhằm đánh giá tổng quan vấn đề nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vy nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Một số vấn đề đặt ra trong quan hệ
giữa dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên hiện nay và những định hướng giải pháp”.
Phạm vy nghiên cứu của đề tài: Về mặt không gian, đề tài giới hạn ở khu
vực Tây Nguyên và về mặt thời gian là giai đoạn hiện nay.


3


4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đề tài sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic là chủ
yếu. Ngoài ra, đề tài còn vận dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu khác
như: Sưu tầm tài liệu, so sánh, đối chiếu, phân tích...
5. Đóng góp của đề tài
Thứ nhất, đề tài góp phần hệ thống hóa một cách tồn diện các vấn đề đặt
ra trong quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, các giải pháp được nêu ra trong đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả cho việc thực thi chính sách cũng như thực hiện công tác dân tộc và tôn giáo
trên địa bàn Tây Nguyên giai đoạn đến.
Thứ ba, xây dựng hệ thống tư liệu tham khảo liên quan đến vấn đề: “Một số
vấn đề đặt ra trong quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên hiện nay và
những định hướng giải pháp”.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tại được cấu thành bởi
hai chương:
Chương 1, một số vấn đề đặt ra trong quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo ở
Tây Nguyên giai đoạn hiện nay.
Chương 2, Một số định hướng nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân
tộc và tôn giáo ở Tây Nguyên.


4

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUAN HỆ GIỮA DÂN
TỘC VÀ TÔN GIÁO Ở TÂY NGUYÊN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Vấn đề gìn giữ thiết chế xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc
thiểu số
Khi đã thâm nhập được vào vùng đất Tây Nguyên, các tôn giáo thường cố

gắng tạo ra những cộng đồng cư dân dựa trên đức tin và hoạt động dựa theo cơ
chế tổ chức của Giáo hội (Công giáo, Phật giáo) hoặc Hội thánh (Tin lành, Cao
Đài). Từ đây, cấu trúc buôn làng truyền thống bị phá vỡ và thay vào đó là các
chi, họ đạo. Các chi, họ đạo này khơng chỉ tập hợp những gia đình có cùng sắc
tộc mà nó đã xen lẫn giữa tộc người này với tộc người khác, giữa buôn này với
buôn khác. Ranh giới của các chi họ đạo này có thể lớn hơn rất nhiều lần so với
phạm vi truyền thống của các buôn làng. Thiết chế xã hội dựa trên đức tin này sẽ
có tính bền vững khi được duy trì ở mức độ là sinh hoạt tôn giáo thuần túy và
khi đã vượt ra khỏi giới hạn thì rất khó để quản lý vì khơng có những định chế
về mặt thế tục để ràng buộc. Sự đỗ vỡ của các buôn làng truyền thống còn kéo
theo sự phai nhạt về vai trò của già làng, trưởng bản, hội đồng làng... Quan hệ
giữa các thành viên trong cộng đồng trở nên “bình đẳng” hơn khi cùng chịu
chung một định chế mới là giáo lý, giới luật của các tôn giáo. Sự phức tạp này sẽ
tăng lên khi đồng bào có đạo sẽ phải sinh hoạt dựa trên ba thiết chế xã hội khác
nhau và đi kèm là những định chế được áp dụng. Đó là thiết chế xã hội bn
làng truyền thống với định chế là luật tục, thiết chế hành chính nhà nước với
định chế pháp luật và thiết chế tôn giáo với định chế giới luật. Trong bn làng,
tín đồ vừa buộc phải tuân thủ luật tục cùng các quy định của thiết chế hành
chính nhà nước, vừa phải tuân thủ theo giáo lí, giới luật của các tơn giáo. Trong
khi đó, giữa các thiết chế này lại khơng có sự đồng nhất nên đã tạo ra sự mâu
thuẫn và nhiều khó khăn cho các tín đồ trong việc thực hiện các nhiệm vụ vừa là
cơng dân, vừa là tín đồ, vừa là thành viên của buôn làng. Trong thiết chế buôn
làng truyền thống, luật tục luôn là định chế cao nhất (phép vua thua lệ làng).
Nhiều khi đồng bào các dân tộc chỉ quan tâm đến việc chấp hành đúng luật tục


5

của bn làng nhiều hơn là tìm hiểu các quy định của pháp luật. Khi các tôn
giáo đã áp đặt được thiết chế tổ chức của mình lên các bn làng thì các tín đồ

lại sợ chức sắc, giới luật nhiều hơn cả luật tục và pháp luật của nhà nước.
Trong thiết chế buôn, làng truyền thống, những người vi phạm sẽ bị già
làng hoặc hội đồng xét xử. Tội nhẹ khiển trách (hoặc phạt vạ), tội nặng bị đuổi
ra khỏi làng. Trong thiết chế tôn giáo, tội nhẹ sẽ phải xưng tội hoặc sám hối, tội
nặng thì khơng được tham dự vào các lễ nghi tôn giáo và bị cộng đồng đức tin
lên án... Chính sự khơng tương dung này sẽ làm mất đi sức nặng và tính hiệu
quả của luật tục trong các buôn làng. Việc thay thế thiết chế tôn giáo ở các buôn
làng không những sẽ làm phá vỡ cấu trúc xã hội truyền thống mà còn gây nên
nhiều bất đồng trong xã hội. Các mâu thuẫn giữa những người có đạo và khơng
có đạo sẽ nảy sinh, biểu hiện dưới dạng hiềm khích về niềm tin, về đối tượng
thờ phụng và các nghi lễ, nếu khơng kịp thời kiểm sốt sẽ rất dễ biến thành các
điểm nóng và thậm chí là xảy ra xung đột. Ở một số buôn làng, thiết chế tổ chức
của các tôn giáo hoạt động mạnh, nhiều khi đã lấn át cả hoạt động của thiết chế
hành chính nhà nước, lấn át cả chính quyền cơ sở và các hội đồn quần chúng.
Điều này sẽ gây nên những khó khăn cho cơng tác tun truyền, vận động tín đồ
tham gia các tổ chức chính trị - xã hội và thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như chính quyền địa phương.
2. Vấn đề văn hóa, nghi lễ truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số
Ở mặt nào đó, các tơn giáo ở Tây nguyên hiện đang gia tăng khả năng thích
ứng của mình đối với đời sống văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào. Việc
làm này sẽ nâng cao hiệu quả cho cơng tác truyền giáo. Và ở phía ngược lại, nó
tạo ra cầu nối để kích cầu cho các giá trị văn hóa và tri thức bản địa được gìn
giữ, phát huy, hội nhập với xu thế hiện đại. Chẳng hạn như việc xây dựng niềm
tin tôn giáo thuần túy cho các tín đồ với những giá trị nhân văn, hướng thiện sẽ
góp phần đào luyện nên những con người thuần lương, biết xem trọng chuẩn
mực đạo đức, biết q trọng truyền thống dân tộc mình. Bên cạnh đó, các tôn
giáo cũng đã và đang mang đến cho đồng bào các dân tộc thiểu số những trải
nghiệm mới về mặt văn hoá, đức tin, trang bị những phương tiện nhận thức mới



6

phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Các tôn giáo với xu thế hội nhập quốc
tế cũng tạo ra cầu nối để đồng bào các dân tộc thiểu số có thể tiếp biến, giao lưu
và hội nhập với các quốc gia, khu vực trên thế giới. Hiện nay, một số tôn giáo ở
Tây Nguyên như Công giáo, Tin Lành, Phật giáo đang triển khai các chương
trình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc. Chiến lược này hướng
đến việc tiếp cận sâu hơn vào các phong tục, tập quán, ngôn ngữ của đồng bào
để từ đó, đưa giáo lí, lễ nghi thâm nhập vào các dân tộc cũng như loại bỏ các tập
tục lạc hậu. Tín đồ vừa thực hành lễ nghi tôn giáo vừa thực hiện các phong tục
tập quán truyền thống nhất là trong các dịp lễ hội, tang ma, cưới hỏi... Ngồi
việc truyền tải nội dung giáo lí, giới luật, các tơn giáo sau khi tiếp cận được văn
hóa truyền thống của các dân tộc còn giúp đồng bào in ấn, lưu trữ sách vở, mở
mang tri thức, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ dân tộc.
Ở mặt ngược lại, các tơn giáo trong q trình truyền đạo thường cố gắng
xác lập một phương thức sinh hoạt mới, khác so với cách thức sinh hoạt truyền
thống của đồng bào. Nhìn chung, xu hướng chủ đạo mà các tơn giáo thực hiện là
đưa đến cho đời sống tín đồ những sự thuận tiện tối đa trong việc thể hiện đức
tin cũng như thực hành các nghi lễ. Những yếu tố mới mẻ và đầy tiện lợi này đã
lôi cuốn các tín đồ và làm cho nhiều người trở nên thờ ơ với các lễ hội truyền
thống của dân tộc. Trong những năm gần đây, dù các tơn giáo đã có nhiều cố
gắng để cải thiện tình hình, nhưng trong các bn, làng có đạo dường như lễ hội
truyền thống khơng cịn giữ được sự thuần khiết mà đã có sự pha lẫn giữa cái cũ
với cái mới, có nơi đã thay thế hồn tồn bằng nghi lễ tơn giáo. Sự cuốn hút của
các nghi lễ tôn giáo, sự ràng buộc bởi những tín điều thuộc về đức tin đã làm
cho các thế hệ sau ít quan tâm đến bản sắc văn hóa dân tộc, khơng muốn tham
dự các lễ hội văn hóa địa phương. Trước đây nhà rơng, nhà dài là trung tâm hội
họp và thể hiện các sinh hoạt văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc, là
sợi dây tinh thần cố kết các thành viên trong buôn, làng thành một cộng đồng
bền vững. Hiện nay, giá trị đó được thay thế bằng các sinh hoạt tơn giáo. Thậm

chí ở nhiều bn làng, nhà nguyện, nhà thờ, niệm Phật đường, Thánh thất đã dần
thay thế chức năng của nhà rơng, nhà dài. Việc thay thế tín ngưỡng truyền thống


7

bằng đức tin tôn giáo (từ đa thần sang nhất thần) cũng gây nên nhiều xung chạm
về mặt tư tưởng và lối sống. Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
thường quan niệm mọi hành vi, lời nói của cá nhân hay cộng đồng ln có sự
giám sát, phán xét của thần linh. Các tập tục về kiêng cữ từ ngàn xưa đã trở
thành một phần quan trọng của định chế xã hội, ràng buộc các thành viên vào
trong những khuôn khổ của lệ làng. Tuy nhiên, khi đã chấp nhận quy xu tơn
giáo, các tín đồ sẵn sàng từ bỏ nghi lễ truyền thống, từ bỏ các vị thần mà từ khi
sinh ra họ đã được dạy bảo là phải biết sợ và biết kính trọng để thực hiện các
nghi lễ mới. Sự lựa chọn này đối với nhiều tín đồ khá là khó khăn bởi họ luôn
phải gánh chịu cảm giác tội lỗi với truyền thống, thậm chí có thể bị người thân,
cộng đồng xa lánh. Một số nơi ở Tây Nguyên, các làng, họ đạo thường biệt lập
với cộng đồng các dân tộc khác, hoặc tơn giáo khác. Điều này sẽ làm hạn chế
việc đồn kết các tôn giáo, dân tộc trên địa bàn và là yếu điểm để các lực lượng
cực đoan, chống đối lợi dụng vào mục đích li khai, tự trị.
3. Vấn đề tuân thủ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước
Hiện nay, hoạt động tôn giáo trên địa bàn Tây Nguyên đang diễn ra khá
phức tạp. Ngồi việc cạnh tranh địa phận để truyền đạo thì các tơn giáo ở Tây
Ngun dù vơ tình hay hữu ý đã có nhiều sai phạm. Đó là việc truyền đạo, giảng
đạo, phát triển tín đồ, thành lập hội đồn trái phép; rồi việc in ấn, tán phát kinh
sách tự do, tổ chức các lễ hội linh đình để quảng bá thanh thế... Khi các cơ quan
chức năng phát hiện, xử lí sai phạm thì nhiều cá nhân đã tỏ thái độ bất hợp tác.
Thậm chí, nhiều người nhân cơ hội đó đã tun truyền, lơi kéo, kích động tín đồ,
vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, đàn áp tơn giáo. Tình trạng khiếu kiện

đất đai, cơ sở thờ tự ở khu vực Tây Nguyên cũng đang có chiều hướng gia tăng.
Trước năm 1975, do được chính quyền Sài Gịn có nhiều ưu ái nên Cơng giáo và
Tin lành đã sử dụng khá nhiều diện tích đất đai. Sau khi giải phóng, để phục vụ
cho các chiến lược phát triển của địa phương và đất nước, Chính phủ đã điều
chuyển, trưng dụng một số cơ sở tôn giáo. Do vậy mà hiện nay, một số tín đồ
Cơng giáo, Tin Lành cực đoan đã vịn vào vấn đề này để đòi lại đất đai tại các địa


8

điểm như: Trường Mầm non Sư phạm Thực hành Kon Tum; Giáo xứ Châu Sơn
kiến nghị lô đất số 27 tại Đắk Lắk; Dòng Mến Thánh giá Đà Lạt khiếu nại về
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Hội dòng Mến Thánh giá Khiết Tâm kiến
nghị về việc tranh chấp đất với Trường Tiểu học Nam Thiên ở Lâm Đồng; Hội
dòng Mến Thánh giá Gò Vấp xin lại Trường mần non 4 ở Đà Lạt... Bên cạnh đó,
việc mua bán, chuyển nhượng, hiến tặng đất đai giữa các hộ dân với các tôn giáo
để mở rộng khuôn viên, tạo lập quỹ đất xây dựng cơ sở tôn giáo gắn với dạy
nghề, nhà trẻ, nhà tình thương,... diễn ra khá phổ biến. Tình trạng xây dựng, cơi
nới cơ sở tơn giáo trái pháp luật diễn ra khá phổ biến ở nhiều nơi và trong hầu
hết các tôn giáo. Theo Báo cáo của Ban Tơn giáo Chính phủ, năm 2016 ở Kon
Tum đã có 116 trường hợp, Gia Lai 27 trường hợp, Đắk Lắk 56 trường hợp, Đắk
Nông 96 trường hợp, Lâm Đồng 68 trường hợp.
Bên cạnh các sai phạm về đất đai, truyền đạo, một số chức sắc ở Tây
Nguyên còn tự ý tổ chức các hoạt động thiện nguyện không thông qua Mặt trận
Tổ quốc hoặc Hội chữ thập đỏ theo quy định. Các hoạt động này ngoài ý nghĩa
từ thiện thuần túy còn được lồng ghép thêm nhiều chủ đích khác nhau. Chẳng
hạn như việc tạo dựng uy tín về sự quan tâm của tôn giáo đối với đời sống nhân
dân để lơi kéo tín đồ vào đạo. Hay việc khẳng định thanh thế giữa các tôn giáo
với nhau... Khi bị phát hiện thì những người này đã lấy lí do nhân đạo để chống
chế, đưa chính quyền vào thế bị động. Để giải quyết “thấu tình, đạt lý” đối với

các hoạt động lấy danh nghĩa nhân đạo làm đầu này không phải là một câu
chuyện dễ. Nếu không có đủ cơ sở pháp lí rất dễ bị các “nhà từ thiện” lèo lái
sang vấn đề khác để kích động quần chúng tín đồ đấu tranh, phản đối. Thêm vào
đó, các hoạt động thiện nguyện khơng qua kiểm sốt cũng làm dấy lên tâm trạng
phân bì giữa những người có đạo và khơng đạo; tạo tâm lí so sánh về “sự quan
tâm” của các tôn giáo với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước...
4. Những bất cập, hạn chế của hệ thống chính trị cơ sở trong việc thực hiện
chính sách dân tộc và tơn giáo
Hệ thống chính trị cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị, nhưng lại
là cấp rất quan trọng. Gần như mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp


9

luật của Nhà nước có được đưa vào cuộc sống hay khơng, có hiệu quả hay
khơng phụ thuộc rất nhiều vào cấp này. Hệ thống chính trị cơ sở cũng là cấp gần
dân, phục vụ nhân dân một cách trực tiếp nhất, song cũng trực tiếp chịu sự kiểm
tra, giám sát của nhân dân. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước, hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên dần được củng cố, kiện
toàn theo hướng tăng lên về số lượng và nâng cao về mặt chất lượng. Năng lực
lãnh đạo, quản lí của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở người dân tộc thiểu số
cũng được cải thiện đáng kể, nhiều người được bổ nhiệm giữ những vị trí lãnh
đạo, quản lí chủ chốt. Tuy nhiên, hệ thống chính trị cơ sở tại nhiều địa phương
vẫn bộc lộ những hạn chế, yếu kém nhất định như: Trình độ chun mơn nghiệp
vụ của cán bộ cịn thấp, khơng đồng đều; số cán bộ có trình độ cử nhân hoặc
dưới cử nhân vẫn chiếm tỉ lệ cao; chính quyền cơ sở tại nhiều nơi chưa làm tốt
chức năng quản lí, trong đó có quản lí các hoạt động tơn giáo và thực thi chính
sách dân tộc; các tổ chức đoàn thể hoạt động chưa hiệu quả, kém hiệu lực, nặng
hình thức, hành chính. Một số nơi, cán bộ cơ sở không biết tiếng dân tộc, chưa
hiểu rõ thực tế phong tục, tập quán của đồng bào nên chưa phát huy được tính tự

quản của thiết chế bn, làng cũng như vai trị của già làng, người có uy tín. Tổ
chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm cơng tác tơn giáo cịn thiếu và chưa ổn định,
chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao. Bộ máy trực tiếp làm công tác tôn
giáo chỉ được kiện toàn đến cấp tỉnh với số lượng định biên thấp, cấp huyện có
1-2 người chun trách, cịn cấp xã gần như khơng có mà kiêm nhiệm trong khi
mọi hoạt động tôn giáo lại chủ yếu diễn ra ở cấp xã.
Sự thiếu và yếu về số lượng lẫn chất lượng của đội ngũ cán bộ cơ sở dẫn
đến việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về tôn giáo, về dân tộc
của Đảng và Nhà nước thiếu hiệu quả. Khơng ít trường hợp đã dẫn đến những
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân và trong nội bộ tín đồ tơn giáo. Chính điều này
đã làm cho một số chức sắc và tín đồ tơn giáo cảm thấy bất đồng, mất niềm tin
vào chính quyền cơ sở, vào sự lãnh đạo của Đảng. Sâu xa hơn là làm hạn chế
hiệu quả quá trình đổi mới của đất nước. Tại nhiều nơi trên địa bàn Tây Nguyên,
chính quyền và cán bộ cơ sở chưa có sự đối thoại và khai thác tốt vai trò đội ngũ


10

chức sắc, chức việc trong việc tạo đồng thuận khi thực thi các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội. Một số cán bộ chưa quan tâm đến việc nắm bắt nguyện
vọng của chức sắc, tín đồ nên khi giải quyết các vụ việc còn chủ quan, duy ý chí
làm theo thói quen, dẫn đến hiệu quả thấp. Một bộ phận cán bộ, đảng viên lập
trường tư tưởng thiếu kiên định, khi xử lí các vụ việc liên quan đến tơn giáo
thường khơng cương quyết hoặc tìm cách né tránh. Trong khơng ít trường hợp,
nhận thức chưa khách quan từ cả phía cán bộ và chức sắc, tín đồ nên chưa có sự
phối hợp tốt giữa chính quyền và các tôn giáo.
5. Vấn đề lợi dụng tôn giáo của các lực lượng thù địch
Không phải ngẫu nhiên mà từ trong quá khứ, các thế lực ngoại xâm như
Pháp hay Mỹ đều cố gắng để làm chủ khu vực Tây Ngun; cũng khơng phải
ngẫu nhiên mà Tây Ngun lại có sự hội tụ của đông đảo các dân tộc thiểu số

cùng các tơn giáo. Khu vực này có một vị thế vô cùng đặc biệt, do vậy, trong
những năm qua, các thế lực thù địch ln tìm cách “xâm nhập” vào vùng đất
này. Để thực hiện được mưu toan, rất nhiều chiến lược đã được các thế lực thù
địch sử dụng và trong đó hiển nhiên có cả vấn đề về dân tộc và tôn giáo. Các lực
lượng thù địch đã lợi dụng tôn giáo vào chiêu bài “dân chủ, nhân quyền, tôn
giáo”; liên kết với các tổ chức phản động trong nước để tuyên truyền chống phá
Đảng, Nhà nước. Chúng chỉ đạo một số chức sắc, tín đồ tơn giáo có tính cực
đoan lợi dụng các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai, cơ sở thờ tự để gây nên
những bất ổn trong xã hội. Chúng tìm mọi cách xun tạc lịch sử, bóp méo, phủ
nhận đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; thổi phồng
những khiếm khuyết trong quản lí, điều hành của một số địa phương để vu cáo
chính quyền lấy đất đai, phân biệt đối xử, đàn áp đồng bào dân tộc thiểu số và
tín đồ các tơn giáo. Lợi dụng sự phát triển của mạng xã hội, các thế lực thù địch
tăng cường truyền bá tư tưởng kì thị, chia rẽ khối đồn kết Kinh - Thượng, đồn
kết tơn giáo, kích động tư tưởng li khai, rêu rao cái gọi là thành lập “Nhà nước
độc lập”, “Nhà nước tự trị”. Khơng những thế, chúng cịn tìm cách ni dưỡng
và liên kết các tổ chức phản động người Việt lưu vong với các lực lượng cơ hội
chính trị hiện có ở các tỉnh Tây Ngun; tích cực hỗ trợ nhóm cầm đầu FULRO


11

ở nước ngoài và các phần tử Tin lành Đề ga trong nước móc nối tạo dựng lực
lượng chống đối, xây dựng khung chính quyền ngầm trên địa bàn. Nguy hiểm
hơn, chúng cịn ra sức dụ dỗ, lơi kéo đồng bào dân tộc thiểu số vượt biên trái
phép sang Campuchia để tham gia các tổ chức phản động; can thiệp sâu vào vấn
đề nhân sự, đường hướng hoạt động của các tơn giáo; kích động người dân tăng
cường khiếu kiện, đòi lại đất đai canh tác, cơ sở thờ tự; xúi giục các phần tử cực
đoan trong đồng bào dân tộc thiểu số và tơn giáo gây rối, biểu tình chống chính
quyền, tạo ra những “điểm nóng”, xung đột dân tộc, tơn giáo hịng tạo cớ kêu

gọi can thiệp từ bên ngồi... Âm mưu và q trình hoạt động của các thế lực thù
địch đã gây nên nhiều bất ổn về chính trị, xã hội trên địa bàn, chia rẽ khối đại
đồn kết tồn dân tộc, làm xói mịn niềm tin của đồng bào có đạo đối với Đảng
và Nhà nước.
6. Vấn đề quan hệ quốc tế của các tôn giáo ở Tây Ngun
Cùng với xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các tôn giáo ở Tây
Nguyên nói riêng và ở Việt Nam nói chung đang ngày càng mở rộng phạm vi
ảnh hưởng của mình ra bên ngoài. Với Tin Lành trong những năm gần đây, do
những ảnh hưởng từ nguồn vốn đầu tư kinh tế của Hàn Quốc nên các hệ phái
của Tin Lành cũng bắt đầu đã có sự dịch chuyển các mối quan hệ trọng tâm sang
quốc gia này. Giáo hội Công giáo Việt Nam thời gian gần đây không chỉ quan
tâm đến vấn đề truyền giáo trong nước mà còn cả các quốc gia bên ngồi như
Lào, Thái Lan, Camphuchia, thậm chí là các quốc gia Âu Mĩ. Phật giáo Việt
Nam cũng đẩy mạnh quá trình hoằng pháp sang các quốc gia châu Âu và Bắc
Mĩ. Ở một số nước như Pháp, Mĩ, Canada... Phật giáo đã có được cộng đồng
Phật tử là người nước ngồi. Khơng chỉ dừng lại ở các sinh hoạt đức tin hay
truyền giáo thuần túy mà các tôn giáo ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế cũng đang cố gắng gia tăng tầm ảnh hưởng của mình lên phương diện chính
trị, kinh tế, văn hóa, nhất là vấn đề nghèo đói, mơi trường, di dân, viện trợ và
hàng loạt các vấn đề từ thiện nhân đạo khác. Xu hướng này hẳn nhiên sẽ tác
động trực tiếp đến đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số theo cả hai chiều kích
là tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực, các tơn giáo ở Tây Ngun với quá trình


12

hội nhập sẽ có thêm nhiều cơ hội để huy động các nguồn lực từ bên ngoài nhằm
hỗ trợ cho cuộc sống đồng bào; các giá trị văn hóa tiến bộ qua sự chọn lọc, tiếp
biến của các tôn giáo sẽ xâm nhập sâu hơn vào đời sống đồng bào; khoảng cách
đời sống tâm linh, tinh thần giữa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên với các quốc

gia, khu vực trên thế giới sẽ được thu hẹp... Mặt tiêu cực, tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế đã làm biến đổi nhiều phương diện đời sống của đồng bào. Nhiều
giá trị văn hóa truyền thống đứng trước nguy cơ bị mai một. Tình trạng chuyển
đổi niềm tin tơn giáo diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhiều đồng bào dân tộc thiểu
số đã từ bỏ tín ngưỡng truyền thống để theo đạo Tin lành hay chuyển đạo, cải
đạo từ tôn giáo này sang tôn giáo khác. Các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện
và hoạt động ẩn mình dưới nhiều hình thức khác nhau. Để lôi kéo được nhiều
người tham gia, các đối tượng cầm đầu ở trong và ngoài nước đã dùng mọi thủ
đoạn từ tuyên truyền xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đến kích động người dân đấu tranh chống đối chính quyền... Bên cạnh đó,
tồn cầu hóa tơn giáo kéo theo sự gia tăng các hoạt động chống đối của các thế
lực thù địch vào vùng đất Tây Nguyên. Các hình thức ngày càng trở nên phức
tạp như cài cắm người vào các tổ chức tôn giáo; viện trợ vật chất kèm theo các
luận điệu tuyên truyền nhằm hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước; tăng cường các
hoạt động li khai tự, đòi dân chủ, nhân quyền...


13

Chương 2. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM GIẢI QUYẾT TỐT MỐI
QUAN HỆ GIỮA DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO Ở TÂY NGUYÊN
2.1. Nhóm giải pháp chung
Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và
đồng bào dân tộc thiểu số theo tơn giáo nói riêng. Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới
và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục thuyết phục và vận động
quần chúng nhằm nâng cao nhận thức trong đồng bào các dân tộc thiểu số có
đạo, chức sắc các tơn giáo hiểu được chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân là vơ cùng quan trọng. Làm cho đồng bào
và tín đồ các tôn giáo hiểu rõ về âm mưu ý đồ của các thế lực thù địch, bọn phản
động lợi dụng tơn giáo, từ đó, nâng cao sức đề kháng của đồng bào có đạo trước

mọi âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, lôi kéo của các thế lực thù địch.
Việc nâng cao nhận thức về cơng tác phịng, chống địch lợi dụng tôn giáo
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đòi hỏi đặc biệt chú ý đến
âm mưu, thủ đoạn hoạt động của tổ chức phản động mang tên “Tin lành Đề ga”.
Cần làm cho đồng bào dân tộc thiểu số hiểu được nền tảng tư tưởng của “Tin
lành Đề ga” cũng như của tổ chức “Nhà nước Đề ga” là chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi, thực chất “Tin lành Đề ga” là tổ chức chính trị phản động đội lốt tơn giáo để
chống lại Nhà nước ta, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Tổ chức phản động này
lấy việc tập hợp, phát triển lực lượng cho cái gọi là “Nhà nước Đề ga” làm mục
đích trực tiếp, hàng đầu chứ khơng phải nhằm mục đích duy trì và phát triển tơn
giáo như Tin lành truyền thống.
Tiếp tục đấu tranh bóc gỡ, xóa bỏ cơ sở ngầm của Fulro, “Tin lành Đề ga”,
“Hà Mịn”, khơng để chúng tiếp tục tun truyền lơi kéo khống chế và kích động
đồng bào và hình thành tổ chức mới. Chủ động đấu tranh làm phân hóa nội bộ
và vơ hiệu hóa các hoạt động cũng như sự chỉ đạo vào bên trong của chúng;
ngăn chặn và hạn chế thấp nhất hoạt động của các thế lực thù địch, bọn phản
động lưu vong lợi dụng địa bàn Campuchia để tạo lập căn cứ, tập hợp và phát
triển lực lượng, móc nối lơi kéo, xâm nhập và tác động vào bên trong.


14

Kịp thời phát hiện, đấu tranh kiên quyết đối với các hoạt động phục hồi tổ
chức, phát triển lực lượng và “Tin lành Đề ga” bên trong theo phương châm
“phát hiện đến đâu, tổ chức bóc gỡ đến đó”. Khơng để chúng có cơ hội kéo dài
các hoạt động, tập hợp lực lượng và hình thành tổ chức ngầm bên trong, kích
động biểu tình, bạo loạn. Khi xử lý, giải quyết các vấn đề có liên quan đến dân
tộc, tơn giáo phải quán triệt phương châm “kiên nhẫn, thận trọng, chắc chắn,
nhanh, gọn, không để lây lan kéo dài” và “dùng tôn giáo giải quyết các vụ việc
liên quan đến tôn giáo” nhưng phải đảm bảo các yêu cầu về chính trị, nghiệp vụ

và pháp luật; kết hợp tốt giữa kiên quyết trong đấu tranh trấn áp với khoan hồng
giáo dục cảm hóa đối tượng; hết sức chú ý việc tranh thủ, tạo được đồng thuận
của số đông đồng bào và tín đồ tơn giáo. Tăng cường các biện pháp cơng tác
quản lý, giáo dục, cảm hóa số đối tượng liên quan đến hoạt động fulro đã bị xử
lý hiện đang sống tại cộng đồng và trong các trại cải tạo tập trung, hạn chế đến
mức thấp nhất tình trạng chống đối hoặc tái hoạt động trở lại. Chú ý phải phát
huy sức mạnh của cả cộng đồng, gia đình, dịng họ và hệ thống chính trị cơ sở,
các đồn thể quần chúng vào cuộc với các lực lượng chức năng; bảo đảm quyền
lợi chính đáng, khơng bị phân biệt đối xử với các đối tượng được tha về.
Thứ hai, coi trọng công tác vận động, tranh thủ chức sắc tơn giáo và những
người có uy tín. Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo là rường cột trong tổ chức, hoạt
động tơn giáo, họ có vị trí, vai trị rất quan trọng trong các hoạt động tôn giáo và
tổ chức giáo hội, có ảnh hưởng lớn tới quần chúng tín đồ, ở một số tơn giáo,
người có uy tín như già làng, trưởng bản cũng có vai trị rất lớn trong việc đạt
được những mục tiêu của công tác vận động.
Với vai trị tích cực của các chức sắc, chức việc các tơn giáo thì hoạt động
tơn giáo ở khu vực này ln được duy trì ổn định, tn thủ đúng pháp luật.
Những ngày lễ quan trọng của các tôn giáo đã được chính quyền các địa phương
tạo điều kiện để đơng đảo bà con theo đạo tham gia. Ngồi sinh hoạt tơn giáo,
các tổ chức, chức sắc và tín đồ tôn giáo, bà con theo đạo cũng thường xuyên
tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tổ chức các hoạt động từ thiện, xã hội


15

như thăm, tặng quà cho người nghèo, khám, chữa bệnh miễn phí cho các gia
đình có hồn cảnh khó khăn.
Hiện nay, lực lượng chức sắc tôn giáo ở Tây Nguyên khá đông đảo, với gần
2.500 chức sắc hoạt động trong 750 cơ sở thờ tự, riêng ở tỉnh Gia Lai đã có
1.259 chức sắc tơn giáo và người có uy tín gồm các già làng, trưởng bản, trưởng

tộc. Đây là những người có năng lực, trình độ và biết chăm lo cho cuộc sống của
đồng bào dân tộc thiểu số. Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp với ngành chức năng tổ
chức cho chức sắc, tu sĩ và tín đồ quán triệt các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng và tơn giáo, mở các lớp bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng, an ninh cho các chức sắc, chức việc, tín đồ các tơn giáo...
Các địa phương chú trọng phát huy vai trò của đội ngũ chức sắc, chức việc và
đồng bào có đạo là những người thuần túy về nhu cầu tín ngưỡng tơn giáo để
đấu tranh với âm mưu lợi dụng tôn giáo, góp phần tăng cường khối đại đồn kết
tồn dân tộc, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội trên địa bàn.
Cạnh đó, cần chú trọng đến việc phát huy vai trị của những người có uy
tín, tiêu biểu trong cộng đồng các dân tộc thiểu số trong công tác bảo đảm an
ninh trật tự; tham gia giải quyết các vụ khiếu kiện, tranh chấp liên quan đến đất
đai; cung cấp thông tin giúp lực lượng công an phát hiện, đấu tranh với các đối
tượng Fulro, Tin lành Đề ga; kết hợp hài hoà giữa luật tục và luật pháp, giữa
truyền thống và hiện đại, thực hiện tốt các hoạt động tự quản tại cơ sở, xây dựng
qui ước, hương ước trong từng cộng đồng dân cư; chống lại âm mưu lợi dụng
vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá cách mạng.
Thứ ba, thực hiện tốt chính sách dân tộc và chính sách tơn giáo trong cộng
đồng các dân tộc thiểu số theo tôn giáo ở Tây Nguyên.
Việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tơn giáo có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để thực hiện tốt chính
sách dân tộc của Đảng, trước hết cần tạo sự chuyển biến tích cực trong cơng tác
dân tộc, trước hết là việc củng cố chính quyền cấp cơ sở và nâng cao nhận thức
về công tác dân vận cho các cấp các ngành. Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các
chủ trương chính sách, phải nhằm giải quyết ngay những vấn đề bức xúc trong


16

đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Tiếp tục đầu tư nghiên

cứu các biến đổi về quan hệ dân tộc, sự vận động trong nội bộ từng dân tộc và
những tác động thời đại đến vùng dân tộc, làm cơ sở cho việc hoạch định các
chính sách nhằm giải quyết các vấn đề đang đặt ra ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
Cơng tác tôn giáo cần tuyên truyền cho đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu
rõ chính sách tơn giáo của Đảng, từ đó giác ngộ, khuyến khích đồng bào lên án,
đấu tranh với những hành động vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do
khơng tín ngưỡng của đồng bào. Thực hiện đoàn kết đồng bào theo những tôn
giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.
Các cấp, các ngành cần tiếp tục qn triệt tốt chính sách tơn giáo của Đảng
và Nhà nước trong cấp ủy Đảng, chính quyền, đồn thể, chức sắc và tín đồ tơn
giáo và trong quần chúng nhân dân để tạo sự thống nhất trong toàn xã hội. Tránh
tình trạng cấm phát triển đạo bằng các biện pháp hành chính thơ bạo, gây đối
đầu giữa chính quyền, chức sắc và tín đồ. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với
hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Tiếp tục khảo sát, phân loại, nắm vững tình
hình các tôn giáo trên địa bàn. Hướng dẫn các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là các
hệ phái Tin lành đã được công nhận về mặt tổ chức đăng ký hoạt động tôn giáo
theo Hiến chương, điều lệ đã được Nhà nước chấp thuận, tuân thủ đúng pháp
luật, thực hiện đường hướng đồng hành cùng dân tộc. Mở các lớp bồi dưỡng cho
các chức sắc tơn giáo về chính sách pháp luật của nhà nước để đội ngũ này
hướng tín đồ hoạt động đúng pháp luật.
Thứ tư, nâng cao chất lượng quản lý của hệ thống chính trị cơ sở; xây dựng
và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, cán bộ người dân tộc thiểu số trong
hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên.
Hệ thống chính quyền cơ sở có vai trị trực tiếp đưa các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống. Hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị ở cơ sở địi hỏi phải nắm bắt và giải quyết kịp thời những tâm tư,
nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của đồng bào các dân tộc thiểu số. Mặt
trận và các đoàn thể quần chúng ở địa phương phải bám sát cơ sở ở buôn làng,



17

có sự tun truyền, vận động, giải thích các chủ trương, chính sách cho đồng
bào hiểu rõ, phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích của đồng bào thì mới tạo
được niềm tin và được sự đồng tình của họ.
Để củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính quyền cơ sở, trước hết cần
chú ý các vấn đề sau:
- Thực hành dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Phát huy dân chủ đi đôi với củng cố và nâng
cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật; tổ chức kiểm tra và giải quyết triệt để các
vụ tranh chấp khiếu kiện trong nhân dân, kiểm tra và thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở và những việc làm sai, có dấu hiệu tiêu cực của cán bộ cơ sở, không để các
thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, lôi kéo đồng bào theo tôn giáo vì những
động cơ ngồi tơn giáo.
- Đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị
cơ sở, trước hết, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng ở cơ sở.
Tổ chức Đảng ở cơ sở cần xác định rõ và thực hiện đúng chức năng lãnh đạo của
mình, khơng làm thay hoặc lấn át chức năng quản lý của chính quyền cơ sở; đổi
mới cách thức ra nghị quyết của cấp ủy ở cơ sở trên cơ sở tình hình thực tế đời
sống xã hội của địa phương mình, đảm bảo thực hiện được trong thực tế và phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân. Chính quyền cấp cơ sở phải cụ thể hóa các
chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính quyền cấp trên thành những chương
trình hành động cụ thể, thiết thực và tổ chức thực hiện để đưa vào cuộc sống của
nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Đổi mới cách tiếp dân, xây dựng và
hình thành văn hóa giao tiếp của chính quyền với đồng bào, tránh tình trạng
hách dịch, hạch sách.
- Xây dựng và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, cán bộ người dân
tộc thiểu số trong hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên. Chú trọng đào tạo đội
ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, nhất là đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính

trị cơ sở, cán bộ dân tộc thiểu số, có phẩm chất và năng lực, có khả năng quy tụ
sức mạnh của quần chúng thành thực lực của chính quyền cách mạng; tâm huyết
với cơng tác dân tộc, tơn giáo. Thực hiện tốt chính sách ln chuyển, tăng cường


18

cán bộ các ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang xuống cơ sở để nắm dân, vận
động nhân dân, vừa giúp đồng bào sản xuất, xóa đói giảm nghèo, vừa tuyên
truyền giác ngộ nhân dân nhận rõ và bác bỏ những luận điệu tuyên truyền xuyên
tạc, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại
thủ đoạn lơi kéo, đe dọa, kích động của các thế lực phản động trong và ngoài
nước; vận động đồng bào dân tộc thiểu số không gia nhập tổ chức Tin lành Đề
ga, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào Tây Nguyên.
2.2. Nhóm giải pháp cụ thể
* Đối với lĩnh vực tơn giáo:
- Cần làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tôn giáo để vừa
thống nhất nhận thức trong hệ thống chính trị, vừa làm cho đồng bào Cơng giáo
ngày càng hiểu đúng các quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước. Cần bảo đảm tốt thông tin hai chiều, thường xuyên lắng nghe ý kiến của
chức sắc, chức việc, tín đồ trong q trình giải quyết những vấn đề vướng mắc,
nảy sinh của công tác tôn giáo.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo. Quán triệt và nâng
cao nhận thức về tôn giáo của cán bộ đảng viên, trong hệ thống chính trị về cơng
tác tơn giáo trong tình hình mới. Quan tâm giải quyết kịp thời, thỏa đáng các
nhu cầu hợp lý, hợp pháp của các chức sắc và giáo dân, nhất là giải quyết các
nhu cầu bình thường đúng quy định pháp luật. Chủ động và kịp thời phát hiện,
chấn chỉnh, xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động tôn giáo một cách dân
chủ, công khai, tuân thủ pháp luật. Đối với các hành vi vi phạm pháp luật như tổ
chức sang nhượng đất đai, huy động đóng góp tiền của, cơng sức tràn lan; cố

tình lập các dịng tu, xây dựng cơ sở thờ tự khơng xin phép; tình trạng xin ít làm
nhiều, xin nhỏ làm lớn, làm trước xin sau, làm không xin phép, lấn lướt chính
quyền; việc lợi dụng tín ngưỡng hành nghề mê tín dị đoan, gây rối trật tự cơng
cộng... của giáo hội thì cần phải xử lý nghiêm, cơng khai và xử lý ngay khi phát
hiện dấu hiệu vi phạm, trên cơ sở lấy công tác vận động quần chúng làm căn
bản; đồng thời tác động tranh thủ, gắn trách nhiệm của hàng ngũ chức sắc (nhất


19

là giám mục và các linh mục quản hạt, quản xứ) trong việc cùng với chính
quyền xử lý những hành vi sai phạm.
Đối với vấn đề nhà, đất liên quan đến tơn giáo: Rà sốt, củng cố lại các tài
liệu, hồ sơ liên quan đến nhà, đất tôn giáo hiện Nhà nước đang quản lý, sử dụng.
Các cơ quan đơn vị được giao sử dụng khẩn trương tiến hành các thủ tục liên
quan đến đất đai theo qui định của pháp luật. Tập trung xử lý vấn đề đất đai, cơ
sở thờ tự có nguồn gốc tơn giáo hiện đã đưa vào sử dụng cho mục đích phúc lợi
xã hội; bảo đảm sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, khơng làm ảnh hưởng đến
tình cảm tơn giáo. Tiếp tục rà soát chấn chỉnh ngay tất cả các cơ sở mượn, trưng
thu, trưng dụng nhưng sử dụng sai mục đích cơng ích, nhất là chia cấp cho cá
nhân trái quy định, cho thuê mặt bằng, mua bán sang nhượng trái phép. Đối với
các trường hợp cần thiết, phải thu hồi lại tồn bộ diện tích và lập dự án xây dựng
các cơng trình cơng ích như cơng viên, vườn hoa, nhà trẻ, trường lớp mẫu giáo...
để tránh tâm lý bức xúc, xin đòi lại phức tạp.
Đối với đạo Tin lành: Các cấp ủy đảng, chính quyền tiếp tục thực hiện Kết
luận số 57-KL/TW ngày 03-11-2009 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 01/2005/CTTTg của Thủ tướng Chính phủ. Đấu tranh ngăn ngừa có hiệu quả các hoạt động
truyền đạo trái pháp luật, nhất là ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới. Có
kế hoạch qui hoạch chi hội, điểm nhóm đối với các hệ phái Tin lành đã được
Nhà nước công nhận, cấp phép hoạt động. Làm tốt công tác quản lý nhà nước
đối với các vấn đề phát sinh sau khi công nhận chi hội và đăng ký điểm nhóm.

- Tăng cường cơng tác vận động quần chúng tơn giáo trong tình hình mới.
Cần quan tâm đến công tác phát triển đảng viên, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng
hoạt động và vai trò của đảng viên có đạo. Chăm lo xây dựng củng cố các tổ
chức đồn thể; lựa chọn bồi dưỡng những tín đồ thuần thành, có ý thức cơng dân
tốt, chấp hành tốt chính sách pháp luật, làm trịn nghĩa vụ cơng dân đối với nhà
nước, có uy tín trong quần chúng tín đồ; đồng thời có ý thức bảo vệ sự trong
sáng của tơn giáo, cảnh giác và có trách nhiệm phản bác lại mọi hành vi lợi dụng
tôn giáo để phá đạo, hại đời; kịp thời phát hiện những việc làm sai trái của kẻ
xấu. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng, cấp uỷ, chính quyền các cấp, các đồn


20

thể quần chúng phải có chủ trương, kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng lực lượng
cốt cán; biết cách sử dụng họ trong việc tuyên truyền, thuyết phục, hướng dẫn
tín đồ; huấn luyện về kỹ năng tuyên truyền, vận động, đồng thời có chính sách,
quan tâm giúp đỡ họ trong đời sống cũng như trong hoạt động tôn giáo.
Tập trung chỉ đạo cơng tác xây dựng tổ chức đồn thể ở vùng giáo phù hợp
với tình hình, điều kiện cụ thể của từng nơi, khơng gị ép, cứng nhắc. Tăng
cường kết nạp tín đồ vào các tổ chức đồn, hội; mạnh dạn tổ chức phối hợp hoạt
động giữa các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở với các tổ chức hội đồn tơn
giáo, nhất là trong cơng tác xóa đói giảm nghèo, bảo vệ trật tự trị an, tổ chức các
hoạt động về nguồn, giữ gìn vệ sinh mơi trường, phát triển phong trào văn hóa
văn nghệ, thể dục thể thao. Đẩy mạnh công tác thu hút, tập hợp thanh niên tôn
giáo; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị và pháp luật cho
thanh niên; xây dựng các mơ hình sinh hoạt văn hố, xã hội thiết thực, hiệu quả
thu hút thanh thiếu niên. Thường xuyên tổ chức, vận động lớp tín đồ trẻ hăng hái
tham gia các hoạt động tập thể; các phong trào thi đua sản xuất, làm nghĩa vụ
quân sự, học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật, thể dục, thể thao,... ngăn ngừa hiện
tượng thanh niên bị các tổ chức hội đoàn chi phối, thao túng; thậm chí bị lơi kéo

kích động tham gia vào việc tụ tập đông người, càn quấy, gây mất trật tự trị an.
- Đối với tà đạo, đạo lạ dù hoạt động dưới bất kỳ tên gọi, hình thức nào
cũng khơng phải là một tổ chức tơn giáo. Vì vậy, cần phân biệt rõ giữa nhu cầu
tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng với âm mưu hoạt động lợi dụng tơn giáo,
tín ngưỡng; xác định đúng đối tượng, biện pháp đấu tranh, phương pháp xử lý
chính xác, hiệu quả. Việc xử lý, giải quyết các tà đạo, đạo lạ phải trên cơ sở qn
triệt chính sách tơn giáo, dân tộc của Đảng, Nhà nước; tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và tự do khơng tín ngưỡng, tơn giáo của nhân
dân. Thực chất là xóa bỏ mặt mê tín dị đoan, cực đoan, tà ác, phi nhân tính, phản
văn hóa, vi phạm đạo đức xã hội... Do đó, cần tập trung rà sốt, phân loại, nắm
chắc tình hình, cơ sở pháp lý để có đối sách, biện pháp đấu tranh phù hợp với
từng loại; đồng thời có những biện pháp kiên quyết, phù hợp để loại bỏ các yếu
tố, điều kiện hoạt động cũng như cơ sở tư tưởng của các tà đạo, đạo lạ.


21

- Đẩy mạnh ngoại giao tôn giáo nhà nước với các nước khu vực và trên thế
giới, đặc biệt là Mỹ để các nước hiểu rõ thực chất vấn đề, tránh hiểu lầm hoặc
xuyên tạc sự thật về tôn giáo ở Tây Nguyên nói riêng, Việt Nam nói chung. Về
ngoại giao nhân dân tăng cường hợp tác để họ có dịp đến Tây Nguyên để mắt
thấy, tai nghe một cách cụ thể, sát hợp; tổ chức các đoàn ngoại giao gồm cơ
quan quản lý nhà nước về tôn giáo, chức sắc, trí thức tơn giáo, các nhà nghiên
cứu tơn giáo làm việc, giao lưu với các nước.
- Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở. Về
lâu dài cần phải có phương án quy hoạch, tuyển chọn cán bộ có kiến thức,
chuyên sâu quản lý Nhà nước về tơn giáo, có trình độ, kinh nghiệm, phẩm chất
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chun mơn. Trong q trình cơng tác, cán bộ có
triển vọng cần đặc biệt quan tâm phát triển Đảng, cử đi học các lớp chun mơn
nghiệp vụ, lý luận chính trị để bảo đảm có phẩm chất, trình độ vững vàng. Riêng

đối với cơ sở (xã, phường, thị trấn) cần tập trung tăng cường chỉ đạo về công tác
tôn giáo; nhất là những xã, phường, thị trấn trọng điểm về tơn giáo phải có cán
bộ chun trách, theo dõi cơng tác tơn giáo. Ngồi ra, cán bộ chủ chốt của Đảng,
chính quyền, đồn thể phải được huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về
tôn giáo và công tác tôn giáo; nhất là công tác vận động quần chúng và xây dựng
cốt cán, thực lực chính trị trong giáo sỹ, chức việc và quần chúng tín đồ; khơng
ngừng đưa cơng tác tôn giáo ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả.
Tăng cường trách nhiệm lãnh đạo của cấp ủy đảng, cơng tác quản lý của
chính quyền cơ sở đối với hoạt động tôn giáo. Cán bộ cơ sở phải hiểu, nắm và
quản lý tốt mọi hoạt động diễn ra trong đời sống tơn giáo; nắm chắc tình hình
giáo sỹ và giáo dân; thâm nhập sâu vào quần chúng, biết xây dựng nịng cốt, cốt
cán trong đồng bào có đạo, khơng để các thế lực thù địch lợi dụng việc đoàn ngũ
hố tín đồ của các tơn giáo để lơi kéo quần chúng, tạo dựng lực lượng làm đối
trọng với chính quyền và kịp thời phát hiện, ngăn ngừa, xử lý những sai phạm
* Đối với lĩnh vực dân tộc:
- Về chính sách liên quan đến đất đai và xóa đói giảm nghèo: Nhà nước cần
bảo đảm nguồn kinh phí thực hiện Quyết định số 755/QĐ-TTg ngày 20-5-2013


22

của Thủ tướng Chính phủ, tạo quỹ đất, đẩy nhanh việc hỗ trợ đất ở, đất sản xuất,
nước sinh hoạt cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo. Các địa phương có
phương án cụ thể triển khai các giải pháp thực hiện Chương trình bố trí dân cư
các vùng thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, di cư tự do, khu rừng
đặc dụng; trong đó, các địa phương phải thực hiện và đảm bảo đúng các cơ chế,
chính sách về đất đai. Căn cứ Luật đất đai hiện hành, các địa phương có biện
pháp thu hồi diện tích đất chưa sử dụng hoặc sử dụng kém hiệu quả của các
doanh nghiệp, các tổ chức hay cá nhân hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất
theo quy hoạch, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt để giao cho các

hộ gia đình, cá nhân thuộc dự án bố trí ổn định dân cư.
- Về chính sách liên quan đến rừng và lâm nghiệp: Cần thực hiện rà soát
làm cơ sở xem xét tái cấu trúc lại các nông - lâm trường, công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên để “điều chỉnh phần lớn đất rừng sản xuất từ lâm trường
và công ty cho đồng bào”. Hệ thống nông - lâm trường và công ty lâm nghiệp
chuyển sang chủ yếu làm chức năng dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất lâm
nghiệp”. Người dân có quyền dùng đất được cấp (quy ra tiền sát giá cả thị
trường) góp vốn bằng quyền sử dụng đất và lao động của mình vào các doanh
nghiệp nông - lâm nghiệp đứng chân trên địa bàn buôn làng. Doanh nghiệp đóng
vai trị là “bà đỡ” giúp dân xóa đói giảm nghèo. Nhà nước đóng vai trị là “trọng
tài” trong sự liên kết này. Đối với Tây Nguyên, rừng gắn bó lâu đời với đồng
bào dân tộc thiểu số, vì vậy phải tiếp tục thực hiện chính sách giao rừng cho
cộng đồng bn làng để góp phần giữ rừng, sống được với rừng và bảo vệ môi
trường sinh thái. Coi đây là một trong những giải pháp quan trọng để cho người
dân gắn bó với rừng, tạo cơng ăn việc làm, thốt nghèo bền vững và bảo đảm
khơng gian sinh sống, môi trường tự nhiên của đồng bào. “Rừng đặc dụng và
rừng phịng hộ khơng chỉ giao cho Ban quản lý rừng của Nhà nước ăn lương bao
cấp, mà giao cho cả cộng đồng các dân tộc tại chỗ sống gần rừng quản lý và bảo
vệ với một hệ thống chính sách đặc thù, phù hợp dựa trên quan niệm về giá trị
của rừng và đất của đồng bào “thờ cúng thiên nhiên”, tự nguyện bằng luật tục,
mà Nhà nước không cần phải chi lương”.


23

- Về cơng tác xóa đói giảm nghèo: Cơng tác xóa đói giảm nghèo trong đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên luôn xác định là nghiệm vụ quan trọng, địi
hỏi quyết tâm chính trị của cả hệ thống chính trị và của tồn dân, nhất là hộ
nghèo, xác định ngun nhân đói nghèo để có chính sách phù hợp. Lồng ghép
các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo (nhất là nguồn vốn) cho vùng dân

tộc thiểu số về một số đầu mối, ưu tiên, tránh đầu tư dàn trải, hạn chế việc cho
không, cấp không, để khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà
nước. Hỗ trợ tập trung cho các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư
và tập huấn tri thức, kỹ năng sản xuất, tạo việc làm cho hộ nghèo, hộ cận nghèo
để xóa nghèo bền vững.
- Tiếp tục thực hiện chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục đào tạo,
dạy nghề; đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức cho các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên, cần thực hiện nhất quán chính sách ưu tiên trong đào tạo và bố trí việc
làm cho con em đồng bào dân tộc thiểu số tốt nghiệp các trường Đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp về địa phương. Tăng cường quy mô các trường
dự bị đại học, trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh, huyện. Cần thống nhất nhận
thức trong tồn hệ thống chính trị về việc đầu tư cho loại hình giáo dục giành
cho học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số là đầu tư phát triển nguồn nhân
lực cho tương lai, góp phần vào sự ổn định và phát triển bền vững Tây Nguyên
như Đảng và Nhà nước đã đầu tư xây dựng hệ thống trường miền Nam trên đất
Bắc những năm chống Mỹ cứu nước. Nhà nước và ngành giáo dục - đào tạo tiếp
tục thực hiện kiên cố hóa trường lớp học và nhà công vụ giáo viên, mở rộng
trường lớp bán trú ở cụm xã, tổ chức tốt việc ăn ở, giảng dạy, học tập để từng
bước nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số, chú ý việc dạy và học
chữ các dân tộc thiểu số như: Bana, Êđê, Gia Rai, MNông, Cơ ho,...
- Kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc và
của từng dân tộc, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Cần
nhận thức đúng đắn quan điểm của Đảng “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội”. Vì vậy, cần đầu tư nhiều hơn cho công tác bảo tồn, phát triển văn hóa của
các dân tộc thiểu số nhằm giữ gìn, kế thừa, phát huy những giá trị tiêu biểu của


24

văn hóa truyền thống kết hợp với xây dựng văn học, nghệ thuật tiên tiến và hình

thành nếp sống văn minh, gia đình văn hóa đi vào thực chất để làm phong phú
thêm đời sống tinh thần trong mỗi cộng đồng dân tộc. Tăng cường đầu tư nghiên
cứu, sưu tầm, phục hồi các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, tiếng nói, chữ viết
của các dân tộc, đặc biệt “Khơng gian văn hóa cồng chiêng” đã được UNESCO
cơng nhận là “Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”. Có
chính sách khuyến khích bảo tồn các buôn, làng cổ truyền của đồng bào các dân
tộc thiểu số Tây Nguyên; khôi phục các lễ hội truyền thống và sinh hoạt văn hóa
tâm linh theo nhu cầu và nguyện vọng của người dân như lễ đâm trâu, mừng lúa
mới, cúng bến nước, bỏ mả, mừng sức khỏe, cầu mưa,...; tránh tình trạng quá
chú trọng “sân khấu hóa” làm giảm thiểu các giá trị văn hóa truyền thống của
đồng bào.
- Chăm lo xây dựng, củng cố khối đoàn kết dân tộc; chú trọng đến đặc thù
của đồng bào dân tộc thiểu số trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giáo dục
cán bộ, đảng viên, các ngành các cấp và đồng bào Kinh hiểu phong tục, tập quán
của cư dân tại chỗ; tôn trọng và bảo đảm quyền lợi, tập quán của đồng bào các
dân tộc thiểu số. Tiếp tục thúc đẩy phong trào tương trợ, kết nghĩa, khuyến khích
các cơ quan, đồn thể, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cán bộ, nhân dân
vùng đồng bào Kinh giúp đỡ các buôn, làng dân tộc thiểu số tại chỗ phát triển
sản xuất, ổn định đời sống bằng những việc làm thiết thực. Tăng cường các sinh
hoạt giao lưu văn hóa, thể dục thể thao giữa các dân tộc.
- Tăng cường hoạt động tuyên truyền giáo dục thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng. Báo chí, phát thanh, truyền hình cần có nhiều bộ phim tài
liệu, nhiều chuyên trang, chuyên đề về Tây Nguyên, một mặt tuyên truyền, giới
thiệu về đất nước, con người, tiềm năng, triển vọng và những thành tựu về phát
triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, mặt khác tuyên truyền cho người dân
hiểu những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chăm lo xây dựng
khối đoàn kết dân tộc, phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số...



×