Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận về các chế tài thương mại buộc thực hiện, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại (LTM2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.33 KB, 19 trang )

KHOA LUẬT – ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
BỘ MÔN LUẬT KINH DOANH
--------

NHÓM 6
LUẬT THƯƠNG MẠI 2
CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI : BUỘC THỰC HIỆN, PHẠT
VI PHẠM, BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

Hà Nội - tháng 4/2022
1


MỤC LỤC

Mở Đầu......................................................................................................................... 2
Nội Dung....................................................................................................................... 2
I/ Những vấn đề chung............................................................................................2
1. Khái niệm, đặc điểm của chế tài thương mại.....................................................2
2. Mục đích của chế tài thương mại........................................................................4
3. Căn cứ chung để áp dụng chế tài & các trường hợp được miễn chế tài
thương mại...............................................................................................................5
II/ Các chế tài thương mại.......................................................................................6
1. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng...............................................................6
1.1. Khái niệm “buộc thực hiện đúng hợp đồng”...................................................6
1.2. Căn cứ áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng...................................6
2. Chế tài phạt vi phạm............................................................................................8
2.1. Khái niệm “phạt vi phạm” và mục đích của việc phạt vi phạm.......................8
2.2. Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm............................................................10
2.3. Mức phạt vi phạm.........................................................................................11
3. Chế tài buộc bồi thường thiệt hại.....................................................................12


3.1. Khái niệm BTTH và mục đích của việc bồi thường......................................12
3.2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH.............................................................12
3.3. Mối quan hệ giữa chế tài BTTH và phạt vi phạm.........................................13
III/ Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện chế tài trong thương mại.....14
Kết Luận..................................................................................................................... 16
Tài liệu tham khảo.....................................................................................................17

2


Mở Đầu
Để đảm bảo khung pháp lý cho hoạt động thương mại, Nhà nước sử dụng hàng loạt
các công cụ pháp lý điều chỉnh quan hệ thương mại như : xây dựng các quy phạm
pháp luật, quy tắc, tiêu chuẩn tiến hành các hoạt động thương mại; kiểm soát việc thực
thi các quy định đó; áp dụng các hình thức chế tài đối với người vi phạm pháp luật,
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác... Quan hệ thương mại ln có
yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến việc giao kết, thực hiện hợp đồng. Chế tài là yếu tố không
thể thiếu trong hệ thống các công cụ pháp lý điều chỉnh quan hệ kinh doanh, thương
mại nhằm đảm bảo việc tuân thủ các quy phạm pháp luật thương mại, đảm bảo quyền
lợi của các bên trong hợp đồng thương mại. Pháp luật đã quy định một loạt các loại
chế tài thương mại : Buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường
thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, huỷ bỏ hợp
đồng, các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
Phần trình bày dưới đây của nhóm 6, sẽ làm rõ về các chế tài thương mại : buộc
thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại.

Nội Dung
I/ Những vấn đề chung

1. Khái niệm, đặc điểm của chế tài thương mại
a) Khái niệm
Luật thương mại 2005 sử dụng thuật ngữ “chế tài trong thương mại” ở phần đề
mục của Chương VII nhưng khơng có giải nghĩa. Căn cứ bản chất của chế tài, đáng lẽ
chế tài trong thương mại phải là chế tài áp dụng đối với những người vi phạm các quy
định pháp luật thương mại khi thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động thương
mại, tức là bao gồm mọi vi phạm nghĩa vụ phát sinh kể từ khi các tổ chức, cá nhân
tham gia vào các quan hệ do pháp luật thương mại điều chỉnh. Tuy nhiên, xét các hình
thức chế tài trong thương mại được quy định tại Điều 292 Luật Thương mại năm 2005
thì chế tài trong thương mại là những chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại,
không bao gồm những chế tài do vi phạm pháp luật thương mại khác. Điều này có thể
xuất phát từ lý do những chế tài khác mặc dù được nhắc tới tại khoản 1 Điều 321 Luật
Thương mại năm 2005 nhưng lại thuộc các lĩnh vực luật khác như hình sự, hành chính
3


nên Luật Thương mại năm 2005 không quy định cụ thể mà chỉ tập trung quy định chế
tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại.
Như vậy, có thể thấy chế tài trong thương mại theo pháp luật thực định của Việt
Nam là chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại, xác định những hậu quả pháp
lý bất lợi của bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng có thể là
việc khơng thực hiện hợp đồng, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật (khoản 12
Điều 3 Luật Thương mại năm 2005).
b) Đặc điểm
Với cách hiểu là chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại, chế tài trong
thương mại có đặc điểm pháp lý sau đây:
Thứ nhất, chế tài trong thương mại luôn mang tính cưỡng chế nhà nước đối với
người vi phạm pháp luật thương mại. Các chế tài thể hiện thái độ, phản ứng của Nhà
nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, các biện pháp cưỡng chế này

chỉ áp dụng đối với các nhà kinh doanh và những người có quan hệ hợp đồng với họ
khi vi phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng và theo pháp luật.
Thứ hai, chế tài trong thương mại được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp
luật thương mại. Những chế tài trong thương mại được luật hoá và quy định tại Luật
Thương mại năm 2005 (Mục 1 Chương VII). Việc quy định trong văn bản quy phạm
pháp luật đảm bảo tính cưỡng chế nhà nước của các chế tài này thông qua các thiết chế
nhất định trong trường hợp không được bên vi phạm hợp đồng tự nguyện thi hành. Các
chế tài trong thương mại chỉ được áp dụng khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định.
Do được quy định trong các văn bản pháp luật nên các chế tài trong thương mại được
áp dụng theo mức bằng nhau đối với những vi phạm cùng loại, không phân biệt chủ
thể hành vi vi phạm là ai, nhằm đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của các chủ thể quan hệ
pháp luật thương mại.
Ví dụ: nếu đáp ứng đủ căn cứ thì có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm với mức tối đa
là 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm, không phân biệt bên vi phạm là cá nhân hay
pháp nhân, doanh nghiệp vốn trong nước hay vốn nước ngoài (Điều 301 Luật Thương
mại năm 2005)
Thứ ba, chế tài trong thương mại là hình thức trách nhiệm của một bên trong quan
hệ hợp đồng trong thương mại đối với bên kia của hợp đồng, trách nhiệm của bên vi
4


phạm đối với bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Quan hệ hợp đồng trong thương mại
được xây dựng trên nguyên tắc là quan hệ bình đẳng giữa các bên với nhau, việc vi
phạm nghĩa vụ của bên này chính là vi phạm quyền của bên kia và ngược lại. Vì thế,
trách nhiệm trước hết là của một bên đối với bên kia trong quan hệ hợp đồng trong
thương mại, của bên vi phạm đối với bên bị vi phạm. Chế tài trong thương mại chỉ có
thể được áp dụng khi có yêu cầu của một bên trong hợp đồng, đó là bên có quyền và
lợi ích bị vi phạm. Các chế tài hình sự hay hành chính có thể được áp dụng dựa trên
yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khơng xuất phát từ các bên nhưng đối
với chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại (chế tài trong thương mại), điều

kiện đầu tiên để xem xét áp dụng phải là có yêu cầu của một bên trong hợp đồng.
Thứ tư, chế tài trong thương mại chủ yếu mang tính tài sản. Vì các quan hệ được
điều chỉnh bởi pháp luật thương mại là quan hệ tài sản nên chế tài trong thương mại
trước hết thực hiện chức năng tác động về tài sản đối với bên vi phạm. Các chế tài tài
sản áp dụng đối với bên vi phạm dưới hình thức khác nhau, đều dẫn đến việc bên vi
phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Đó có thể là những nghĩa vụ tài
sản tương đương với nghĩa vụ theo hợp đồng như bồi thường thiệt hại thực tế. Đó cũng
có thể là những nghĩa vụ tài sản bổ sung so với nghĩa vụ theo hợp đồng như tiền phạt,
lãi suất tiền chậm thanh toán, khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ... Tuy nhiên, theo pháp luật
thực định Việt Nam, có những chế tài khơng mang tính tài sản như tạm ngừng thực
hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng.

2. Mục đích của chế tài thương mại
Khi hợp đồng trong hoạt động thương mại được giao kết hợp pháp sẽ phát sinh
nghĩa vụ ràng buộc các bên giao kết. Các bên phải nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng. Bên nào vi phạm, bên đó phải chịu trách nhiệm đối với bên bị vi phạm dưới
những hình thức chế tài khác nhau. Như vậy, các chế tài trong thương mại trước hết
thúc đẩy các nhà kinh doanh tuân thủ khung pháp lý gồm các quy định, thủ tục, tiêu
chuẩn, yêu cầu đã được xác định trước và thực hiện hoạt động thương mại trong khn
khổ đó.
Bên cạnh đó, chế tài trong thương mại có khả năng trừng phạt đối với nhà kinh
doanh khơng thực hiện các nghĩa vụ của mình. Nếu như quy định pháp luật tạo khuôn
khổ pháp lý gồm các quy tắc xử sự cho mọi tổ chức, cá nhân và được nhà nước đảm
bảo thực hiện, thì trong trường hợp tổ chức, cá nhân nào vượt ra khỏi khuôn khổ pháp
5


lý đó, tức là vi phạm các quy tắc xử sự chung, sẽ phải chịu sự trừng phạt, chịu những
hậu quả bất lợi vì hành vi của mình. Nếu vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thì bên vi
phạm cũng phải chịu sự trừng phạt theo quy định của pháp luật và của hợp đồng. Sự

trừng phạt do vi phạm hợp đồng này chủ yếu mang tính tài sản, tính bằng tiền, được áp
dụng nhằm buộc bên vi phạm phải trả giá cho hành vi vi phạm hợp đồng của mình.
Chế tài trong thương mại có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên trong quan hệ hợp đồng thương mại. Nếu bên nào bị vi phạm hợp đồng, bên đó có
quyền yêu cầu bên vi phạm khơi phục quyền và lợi ích hợp pháp hoặc bù đắp những
thiệt hại mà bên vi phạm đã gây ra do hành vi vi phạm hợp đồng của mình. Đây là mục
đích chủ yếu của chế tài trong thương mại vì quan hệ hợp đồng thương mại được thiết
lập trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi của các bên; do hợp đồng bị vi phạm dẫn đến
quyền và lợi ích của bên bị vi phạm khơng được đảm bảo nên chế tài được đặt ra chủ
yếu nhằm hướng tới khơi phục các quyền và lợi ích bị vi phạm, bù đắp những thiệt hại
chứ không phải nhằm mục đích chính là trừng phạt. Pháp luật sẽ can thiệp để đảm bảo
những quyền và lợi ích họp pháp này của họ. Nếu bên vi phạm không tự nguyện thi
hành thì sẽ có cơ chế cưỡng chế thi hành từ phía các cơ quan nhà nước trên cơ sở các
quy định pháp luật.
Ngồi ra, chế tài trong thương mại cịn nhằm ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp
đồng từ phía các nhà kinh doanh cũng như những người có quan hệ hợp đồng với họ.
Các chủ thể hợp đồng lường trước được sự trừng phạt hay hậu quả bất lợi dự kiến sẽ
được áp dụng nếu minh có hành vi vi phạm pháp luật, từ đó nâng cao ý thức tuân thủ
pháp luật, tuân thủ hợp đồng và chủ động phòng tránh vi phạm.

3. Căn cứ chung để áp dụng chế tài & các trường hợp được miễn chế tài
thương mại
a) Căn cứ chung để áp dụng chế tài
Có hành vi vi phạm: Bao gồm các hành vi thực hiện không đúng hoặc không thực
hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Đây là căn cứ cần được đưa ra chững minh trong việc
áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài.
Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra. Căn cứ này bắt buộc phải được viện dẫn khi áp
dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế.
6



Có lỗi của bên vi phạm, đây là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng đối với tất cả các
loại chế tài.
b) Các trường hợp được miễn chế tài thương mại
Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: ( Điều
294 Luật thương mại 2005) : Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả
thuận; Xảy ra sự kiện bất khả kháng; Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi
của bên kia; Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng.
Bên vi phạm hợp đồng sẽ có nghĩa vụ chứng minh trong các trường hợp trên.

II/ Các chế tài thương mại
1. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
1.1. Khái niệm “buộc thực hiện đúng hợp đồng”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 297 Luật Thương mại năm 2005: “Buộc thực hiện
đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng
hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu
chi phí phát sinh.”
Buộc thực hiện đúng hợp đồng nhằm bảo đảm thực hiện trên thực tế hợp đồng đã
ký kết. Trong nhiều trường hợp các chế tài khác như bồi thường thiệt hại hay phạt vi
phạm khơng thể thay thế được lợi ích từ việc buộc thực hiện đúng hợp đồng.Khi tham
gia vào quan hệ hợp đồng, mục đích của các bên là quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng được thực hiện một cách đầy đủ và thiện chí chứ khơng phải nhằm đạt được lợi
ích từ việc nộp phạt hay bồi thường của một bên nào đó, vì vậy việc áp dụng chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng là không thể thiếu.
Nội dung của chế tài này được quy định tại Điều 297 Luật Thương mại năm 2005.

1.2. Căn cứ áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng

Thứ nhất, giữa các bên có hợp đồng thương mại và hợp đồng phải có hiệu lực pháp
luật. Chế tài buộc thực hiện hợp đồng là một hình thức chế tài trong thương mại do vi
phạm hợp đồng thương mại do vậy để áp dụng hình thức chế tài này thì phải xem xét
giữa các bên có hợp đồng và hợp đồng đó có hiệu lực hay khơng? Nếu giữa các bên
khơng có quan hệ hợp đồng hoặc có hợp đồng nhưng hợp đồng khơng có hiệu lực thì
khơng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các bên.
7


Thứ hai, phải có hành vi vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ
pháp lí cần thiết để áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng.
Theo khoản 12, Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, vi phạm hợp đồng là việc một bên
không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo
thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này.
Như vậy, theo Luật Thương mại năm 2005, vi phạm hợp đồng không chỉ là việc vi
phạm nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà còn là nghĩa vụ phát sinh từ những quy định
của pháp luật. Bởi vì, nội dung của hợp đồng không chỉ bao gồm những điều khoản do
các bên thoả thuận mà còn bao gồm cả những điều khoản các bên không thoả thuận
nhưng theo quy định của pháp luật các bên vẫn phải thực hiện. Đó là những điều
khoản thường lệ. Những điều khoản này các bên có thể đưa vào hợp đồng hoặc không
đưa vào hợp đồng. Nếu các bên không thoả thuận với nhau về những điều khoản này
thì coi như các bên mặc nhiên cơng nhận những điều khoản đó.
Thứ ba, bên vi phạm phải có lỗi. Mặc dù Luật Thương mại năm 2005 không quy
định về lỗi của các bên nhưng lại quy định các trường hợp miễn trách nhiệm với hành
vi vi phạm. Cụ thể ở khoản 1, Điều 294 Luật Thương mại quy định các trường hợp
miễn trách nhiệm với hành vi vi phạm :
“Điều 294. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;

c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng.”
Từ đó có thể thấy rằng, bên vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm
của mình khi có lỗi. Nếu xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả
thuận trong hợp đồng thì bên vi phạm đương nhiên khơng phải chịu trách nhiệm.
Mặc dù Luật thương mại không quy định lỗi của bên vi phạm là một căn cứ để áp
dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng nhưng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương
mại cũng là một loại trách nhiệm dân sự nói chung, do vậy khi Luật thương mại không

8


điều chỉnh thì ta có thể áp dụng theo luật chung, tức là Bộ luật dân sự, theo đó chỉ có
thể áp dụng chế tài khi bên vi phạm có lỗi.

2. Chế tài phạt vi phạm
2.1. Khái niệm “phạt vi phạm” và mục đích của việc phạt vi phạm.
Căn cứ vào Điều 300 Luật Thương mại 2005 thì phạt vi phạm được hiểu như sau:
Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi
phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách
nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này.
Bên cạnh đó Bộ luật Dân sự 2015 cũng có định nghĩa về phạt vi phạm như sau:
Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm có
nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm .Trong quá trình giao kết và thực
hiện hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về việc phạt vi phạm khi có sự vi phạm nghĩa
vụ. Việc phạt vi phạm chỉ đặt ra nếu có sự thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp
đồng, đồng thời việc phạt vi phạm được giải quyết bằng việc nộp một khoản tiền cho
bên bị vi phạm.

Đối chiếu với điều 294 của luật thương mại 2005 có quy định như sau:
“Điều 294. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền mà các bên khơng thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.”
Do đó, trong trường hợp dù các bên có thỏa thuận phạt vi phạm như bên vi phạm
được miễn trách nhiệm thì sẽ khơng bị phạt vi phạm.
Phạt vi phạm trong Bộ luật dân sự hay trong Luật thương mại đều phát sinh trên cơ
sở thỏa thuận, phải thỏa thuận trước khi có hành vi vi phạm, đối tượng của phạt vi
phạm là tiền. Luật Thương mại quy định các bên có thể thỏa thuận về một khoản tiền
phạt (không quá 8% phần nghĩa vụ bị vi phạm) nếu vi phạm hợp đồng. Trong trường
hợp này, nếu xảy ra vi phạm, bên bị vi phạm có quyền địi khoản tiền phạt mà khơng
được quyền địi bồi thường thiệt hại.
9


Với quy định như vậy, có vẻ như chế định Phạt vi phạm này được sử dụng với hai
mục đích đồng thời :
Răn đe, ngăn chặn vi phạm hợp đồng (trong trường hợp có vi phạm thì bên vi phạm
sẽ phải nộp "phạt" không phụ thuộc vào việc thực tế vi phạm đó có gây ra thiệt hại cho
bên kia không);
Bồi thường thiệt hại theo mức định trước (tức là nếu có vi phạm gây thiệt hại thì
bên bị thiệt hại khơng được quyền địi bồi thường thiệt hại theo mức thiệt hại thực tế
mà chỉ được đòi khoản tiền đã xác định trước mặc dù thực tế khơng có thiệt hại hoặc
thiệt hại có thể là thấp hơn hoặc cao hơn mức tiền phạt này).
Cả hai mục đích này đều có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, vẫn cịn những vấn đề liên quan

cần giải quyết:
Quy định về "giới hạn trên" của mức phạt (8%) là khơng hợp lý vì nếu một bên thấy
mức thiệt hại mà họ phải chịu nếu thực hiện đúng hợp đồng còn cao hơn mức thiệt hại
do nộp phạt thì họ sẽ "cố ý" vi phạm. Mục đích "răn đe" do đó sẽ khơng thực hiện
được. Hơn nữa quy định này cũng can thiệp vào quyền tự do thỏa thuận của các bên.
Vì vậy, khơng nên quy định mức phạt tối đa;
Việc quy định phạt vi phạm với mục đích răn đe (phạt) cũng có thể gây ra những
nguy cơ nhất định trong việc áp dụng. Ví dụ theo thơng luật (common law) áp dụng tại
các nước Anh, Mỹ, Úc... các bên chỉ được thoả thuận về bồi thường theo mức định
trước (liquidated damages), mọi thỏa thuận về phạt vi phạm (penalty) đều vô hiệu.
Như vậy một bản án của tòa án hay phán quyết trọng tài chấp nhận hiệu lực của điều
khoản phạt vi phạm trong HĐTM có thể sẽ bị tồ án tại các nước theo hệ thống thông
luật từ chối công nhận và thi hành.
Mục đích răn đe và bồi thường thiệt hại theo mức định trước đôi khi không thể
thống nhất với nhau trong cùng một loại chế tài. Ví dụ nếu "răn đe" thì mọi vi phạm
đều phải nộp phạt còn nếu là "bồi thường thiệt hại theo mức định trước" thì chí ít việc
vi phạm phải gây ra thiệt hại (thì mới có chuyện "bồi thường thiệt hại"; "bồi thường
thiệt hại theo mức định trước chỉ khác so bồi thường thiệt hại chung ở chỗ mức bồi
thường đã được ấn định trước). Luật hợp đồng của Pháp qui định nội dung này thành
hai hình thức riêng biệt: (i) bồi thường thiệt hại theo mức định trước (với các điều kiện
áp dụng cho bồi thường thiệt hại thông thường: tức là phải có hành vi vi phạm, có thiệt
hại và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại); và (ii) phạt vi phạm
10


(clause pénale) áp dụng bất kỳ khi nào có vi phạm mà khơng phụ thuộc vào việc có
thiệt hại xảy ra hay khơng. Bên bị vi phạm có thể cùng lúc đòi bồi thường thiệt hại
thực tế và khoản tiền phạt vi phạm. Riêng đối với hình thức bồi thường thiệt hại theo
mức định trước, nếu khoản tiền bồi thường theo mức định trước là quá vô lý so với
thiệt hại thực tế (quá cao hoặc quá thấp) thì thẩm phán có thể can thiệp để điều chỉnh

mức này cho hợp lý hơn. Như vậy là chế định phạt vi phạm là để răn đe còn bồi
thường thiệt hại theo mức định trước là nhằm mục đích "bồi thường thiệt hại" theo
đúng nghĩa của nó.
Việc quy định chế tài nào và mối quan hệ giữa các chế tài do đó phải được thực hiện
thận trọng. Nếu chỉ áp dụng bồi thường thiệt hại (như luật anglo-saxon) thì sẽ rất đơn
giản nhưng khơng thực hiện được mục đích răn đe (mà cũng cần cân nhắc xem tính
"răn đe" trong luật tư có thật sự cần thiết khơng!). Nếu áp dụng như luật Hợp đồng của
Pháp thì cần xem xét lại các điều kiện áp dụng từng loại chế tài (phạt vi phạm hay bồi
thường thiệt hại theo mức định trước) và mối quan hệ giữa chúng với nhau chứ không
nên để tình trạng lẫn lộn như chế tài phạt vi phạm của ta hiện nay.

2.2. Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm
Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng phải có hiệu lực: Đây là điều kiện đầu tiên và có tính quyết
định của vấn đề phạt vi phạm hợp đồng. Hợp đồng có hiệu lực pháp luật mới làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ tương ứng, trực tiếp giữa các chủ thể giao kết hợp đồng,
trong đó có phạt vi phạm hợp đồng. Do vậy, chế định phạt vi phạm hợp đồng chỉ xảy
ra khi hợp đồng có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, có hành vi vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng được hiểu: “là
việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của luật này” (Khoản 12
Điều 3 Luật thương mại 2005). Tuy nhiên, với tư cách là căn cứ để áp dụng chế tài
phạt vi phạm nói chung và các chế tài thương mại khác thì cần phải xem xét vấn đề
hành vi vi phạm hợp đồng là vi phạm cơ bản hay không cơ bản. Khoản 3 Điều 13 Luật
Thương mại 2005 đưa ra khái niệm: “Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một
bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia khơng đạt được mục đích của
việc giao kết hợp đồng. Để chế định phạt vi phạm hợp đồng có thể phát huy hết khả
11



năng trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các bên thì trong hợp đồng khi tiến
hành soạn thảo các thỏa thuận, các bên cần có quy định về các trường hợp phạt vi
phạm cũng như điều kiện tiến hành phạt vi phạm một cách chi tiết và cụ thể nhất. Để
khi có vi phạm xảy ra các bên khơng phải lúng túng trong việc xác định tính đúng sai
của sự việc, cũng như xảy ra các tranh chấp khơng đáng có trong quan hệ hợp tác,
cũng như dẫn đến những hậu quả không mong muốn trong quan hệ làm ăn hiện tại
cũng như trong tương lai.
Thứ ba, theo quy định của Luật Thương mại 2005 phạt vi phạm chỉ có thể xảy ra
trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng. Điều này có nghĩa
phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên nên một bên không thể yêu cầu bên kia
phải chịu phạt vi phạm nếu các bên khơng có sự thỏa thuận trong hợp đồng.
Thứ tư, trong quan hệ hợp đồng thương mại, bên vi phạm hợp đồng có thể là cá
nhân hoặc tổ chức. Vì vậy, vấn đề xác định lỗi trong việc vi phạm hợp đồng thương
mại đối với chủ thể là tổ chức thì căn cứ vào lỗi của người đại diện cho tổ chức đã giao
kết và thực hiện hợp đồng. Đó là lỗi trong việc không thực hiện, thực hiện không đầy
đủ hoặc thực hiện không đúng với những thỏa thuận trong hợp đồng đều được suy
đốn là có lỗi (trừ trường hợp bên vi phạm chứng minh được là mình khơng có lỗi).
Khi áp dụng chế tài thương mại bên bị vi phạm khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của
bên vi phạm.

2.3. Mức phạt vi phạm.
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.
Điều 266. Phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết quả giám định sai
1. Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có
kết quả sai do lỗi vơ ý của mình thì phải trả tiền phạt cho khách hàng. Mức phạt do các
bên thỏa thuận, nhưng không vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định.
2. Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có

kết quả sai do lỗi cố ý của mình thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho khách hàng
trực tiếp yêu cầu giám định.
3. Khách hàng có nghĩa vụ chứng minh kết quả giám định sai và lỗi của thương nhân
kinh doanh dịch vụ giám định.
12


Còn theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mức phạt vi phạm hợp
đồng được áp dụng cho các quan hệ dân sự thì mức vi phạm do các bên tự thỏa thuận
(Khoản 2 Điều 422 LDS). Điều này có thể hiểu là các bên có quyền tự ý lựa chọn mức
phạt vi phạm mà không hề bị khống chế bởi quy định của pháp luật.

3. Chế tài buộc bồi thường thiệt hại
3.1. Khái niệm BTTH và mục đích của việc bồi thường
Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây
thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất
về tinh thần cho bên bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về vật
chất thực tế, được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về
tài sản, chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm
sút.Quy định này nhằm bù đắp những tổn thất thực tế bị mất mát do hành vi vi phạm
của một bên trong hợp đồng một cách nhanh chóng, kịp thời. Vì thực tế cho thấy, nếu
để thời gian kéo dài càng lâu thì thiệt hại có thể càng gia tăng nghiêm trọng. Việc đặt
ra nguyên tắc bồi thường thiệt hại kịp thời không những giúp bên bị vi phạm nhanh
chóng khắc phục thiệt hại, phục hồi hoạt động kinh doanh bình thường, mà cịn giúp
cho bên vi phạm giảm bớt một phần thiệt hại phải bồi thường. Bên cạnh đó, chế tài này
cịn có tác dụng như là một thơng điệp mang tính răn đe tất cả những chủ thể khác
khiến họ phải kiềm chế, tự giữ mình khơng vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm
hợp đồng trong thương mại nói riêng. Đây cũng là một biện pháp giáo dục các tổ chức
và các cá nhân có ý thức tơn trọng và thực hiện nghiêm minh pháp luật, đảm bảo cơng

bằng xã hội, góp phần ổn định trật tự trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng và các quan hệ dân sự
nói chung.

3.2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH
Điều 303 Luật thương mại 2005 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại: trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật
này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, có hành vi vi phạm hợp đồng – đây là điều kiện tiên quyết để làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường. Hành vi vi phạm hợp đồng được biểu hiện ở hành vi
13


không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những nghĩa vụ đã thoả
thuận, cam kết trong hợp đồng.
Thứ hai, có thiệt hại thực tế: những thiệt hại phải là sự giảm sút, mất mát lợi ích vật
chất thực tế hoặc những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại.
Thiệt hại phải là khách quan, không được suy diễn, chủ quan. Bên vi phạm hợp đồng
chỉ phải bồi thường cho bên vi phạm nếu hành vi vi phạm đã gây ra thiệt hại thực tế và
chỉ phải bồi thường phần thiệt hại thực tế đó.
Thứ ba, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại: phải có
mối quan hệ nhân quả, trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế.
Thiệt hại phát sinh là do kết quả trực tiếp, tất yếu của việc vi phạm, khơng có hành vi
vi phạm thì khơng phát sinh thiệt hại.
Thứ tư, có lỗi của người vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, có thể là lỗi cố ý hoặc vơ
ý. Theo đó có thể hiểu rằng, chế tài BTTH trong thương mại sẽ mặc nhiên phát sinh
khi có đủ các căn cứ theo Điều 303 Luật Thương Mại năm 2005 mà khơng cần có thỏa
thuận áp dụng kèm theo thỏa thuận phạt vi phạm. Hay nói cách khác, bên bị vi phạm
trong hợp đồng không cần phải dựa trên một thỏa thuận trước nào đó để có thể có
được quyền u cầu địi bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp có lý do bất khả kháng,

do lỗi của bên bị vi phạm hợp đồng, do các bên thỏa thuận, do cơ quan nhà nước quyết
định mà tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bên không biết được thì khơng phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

3.3. Mối quan hệ giữa chế tài BTTH và phạt vi phạm
Chế tài phạt vi phạm hợp đồng có mục đích chủ yếu là trừng phạt, tác động vào ý
thức của các chủ thể nhằm giáo dục ý thức thượng tơn pháp luật, phịng ngừa vi phạm
hợp đồng; cịn chế tài BTHH có mục đích chủ yếu là bồi hồn, khơi phục, bù đắp
những lợi ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng mua bán. Xét về bản chất,
cả phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại đều là trách nhiệm dân sự mà hậu quả pháp lý
của nó về mặt tài sản được xác định dựa trên thiệt hại thực tế đã xảy ra và phát sinh
khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và BTTH
được điều chỉnh bởi cả BLDS và LTM. Theo quy định tại Điều 307 Luật thương mại
2005: “1. Trường hợp các bên khơng có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác; 2.
Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng
14


cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy
định khác”. Theo đó, chế tài BTTH mặc nhiên phát sinh khi xuất hiện các dấu hiệu
quy định tại Điều 303 LTM 2005, còn chế tài phạt vi phạm chỉ phát sinh khi các bên
đã có thoả thuận. Như vậy, bên bị vi phạm có thể đồng thời có quyền địi BTTH và
phạt vi phạm đối với bên có hành vi xâm phạm lợi ích của mình (nếu các bên đã có
thoả thuận về phạt vi phạm khi giao kết hợp đồng); trong trường hợp các bên khơng có
thoả thuận, bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trong khi đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015, mối quan
hệ giữa phạt vi phạm và BTTH được chia làm các trường hợp:
TH1: nếu trong hợp đồng chỉ có thoả thuận về phạt vi phạm, khơng thoả thuận về
bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm chỉ bị phạt vi phạm.

TH2: nếu trong hợp đồng chỉ thoả thuận về BTTH mà không thoả thuận về phạt vi
phạm thì bên vi phạm chỉ phải BTTH.
TH3: nếu trong hợp đồng thoả thuận cả phạt vi phạm và BTTH thì bên vi phạm
phải chịu cả phạt vi phạm và BTTH.
TH4: nếu trong hợp đồng khơng có thoả thuận gì về phạt vi phạm và BTTH thì khi
có vi phạm gây ra thiệt hại, bên vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm BTTH.
Có thể thấy, cách tiếp cận mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
trong Luật Thương mại năm 2005 hợp lý hơn và phù hợp với ý nghĩa, mục đích của
bồi thường thiệt hại. Bởi ý nghĩa của chế tài phạt vi phạm là nhằm mục đích răn đe,
trừng phạt nên việc có muốn thực hiện mục đích này khơng thì phụ thuộc vào ý chí
của các bên khi thiết lập hợp đồng. Trong khi ý nghĩa của chế tài bồi thường thiệt hại
lại là bù đắp những tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do hành vi vi phạm của
bên vi phạm, có thể xem là “quy luật tự nhiên” gây thiệt hại thì phải bồi thường cho
những tổn thất mình gây ra. Việc bên bị vi phạm khơng có câu chữ “bên vi phạm vừa
phải chịu phạt vi phạm vừa phải bồi thường thiệt hại” không có nghĩa họ từ bỏ quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại của mình.

III/ Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện chế tài trong thương mại
Chế tài thương mại ra đời đã giải quyết cơ bản các yêu cầu thực tiễn về việc bảo vệ
quyền lợi của bên vi phạm hợp đồng, đảm bảo tính khả thi trong quá trình áp dụng và
phù hợp với thực tiễn thương mại. Bên cạnh đó việc áp dụng chế tài vẫn cịn những
tồn tại chưa thể khắc phục như các quy định của luật pháp hiện hành còn khá cứng
15


nhắc, mâu thuẫn với nhau thể hiện tính hạn chế của một số điều luật hiện hành, đồng
thời gây ra những lúng túng, khó khăn cho các thương nhân khi áp dụng.
Điều 295 Luật Thương mại 2005 các nhà làm luật đã đề cập đến khái niệm “Buộc
thực hiện đúng hợp đồng”, khái niệm này gây ra nhiều khó khăn khi thực tế khó có thể
thực hiện đặc biệt là trường hợp vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn. Đến khoản 2 Điều

299 lại quy định: “Trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp
dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình”. Quy định như vậy đã
làm cho chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trở thành vô giá trị, bởi vì ngay cả
trường hợp bên vi phạm khơng thực hiện chế tài này thì cũng khơng chịu bất kỳ trách
nhiệm bổ sung nào mà chỉ chịu các hình thức chế tài như phạt hợp đồng, bồi thường
thiệt hại hoặc tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng. Quy định này đã biến chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng thành kẽ hở rất lớn để lợi dụng nhằm trì hỗn thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng.
Ngồi ra Điều 301 Luật Thương mại 2005 quy định mức phạt vi phạm "không được
quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm". Ở đây, "giá trị phần nghĩa vụ hợp
đồng bị vi phạm" không hẳn là "giá trị hợp đồng ''. Cũng như mức phạt “không quá
8%” cũng đã gây nên các cách hiểu khác nhau và thiếu đồng nhất. Chúng ta có thể
hiểu rằng việc thỏa thuận này là vơ hiệu, vì vậy khi giải quyết tranh chấp về yêu cầu
phạt vi phạm hợp đồng, không chấp nhận yêu cầu này bởi vì xem như hai bên khơng
có thỏa thuận. Song cũng có cách hiểu ở đây rằng, việc thỏa thuận vượt quá 8% chỉ vô
hiệu một phần đối với mức phạt vượt quá 8% còn điều khoản phạt vi phạm hợp đồng
hồn tồn có hiệu lực, trong trường hợp này có thể áp dụng mức tối đa 8% yêu cầu của
bên bị vi phạm, phần vượt quá không được chấp nhận.Ta thấy thật sự ở điều luật này
vẫn chưa rõ ràng, còn khá mơ hồ trong một số trường hợp để áp dụng luật.
Chúng ta cũng chưa thực hiện rộng rãi việc công bố khai bản án, không áp dụng
ứng dụng hệ thống án lệ. Những vấn đề này khơng những gây khó khăn về định
hướng và áp dụng pháp luật đối với những người làm công tác pháp lý , mà còn làm
cho cho những chủ doanh nghiệp khó có thể hiểu và vận dụng hiệu quả quy định của
pháp luật trong hoạt động, kinh doanh. Bên cạnh đó việc Luật thương mại 2005 quy
định việc tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng chỉ được áp dụng khi đã xảy ra hành
vi vi phạm hợp đồng là khá cứng nhắc và không phù hợp trong nhiều trường hợp. Các
16



chế tài nhiều khi các nhà kinh doanh vẫn chưa nắm rõ, hiểu hết và áp dụng đúng. Còn
một số trường hợp vi phạm hợp đồng nhưng vẫn dùng những hành vi trốn tránh bồi
thường hay phạt vi phạm.
Các nhà quản lý, tổ chức, cá nhân khi tham gia hợp đồng còn lỏng lẻo thờ ơ khi áp
dụng các quy định pháp luật, nó khơng chỉ gây nhiều trường hợp thiệt hại, thậm chí
cịn có nhiều vụ việc dẫn đến tranh chấp kiện cáo.
Do đó việc tuyên truyền pháp luật thương mại rộng rãi và nghiêm khắc áp dụng các
chế tài đối với các trường hợp vi phạm cần được chặt chẽ hơn nữa. Như vậy pháp luật
thương mại nói chung và các quy định chế tài nói riêng vẫn rất cần có sự linh hoạt áp
dụng phù hợp với thực tiễn vì các chế tài thương mại ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà
kinh doanh, doanh nghiệp.

Kết Luận
Thương mại ở nước ta đã có sự phát triển qua từng giai đoạn phù hợp với thực tiễn
phát triển chung của thế giới để nâng tầm vị thế kinh tế của quốc gia thì chế tài thương
mại là yếu tố khơng thể thiếu trong hệ thống các công cụ pháp lý giúp điều chỉnh quan
hệ kinh doanh thương mại nhằm bảo vệ việc tuân thủ các quy định pháp luật của
thương mại và phương thức hình thành chủ yếu thơng qua các quan hệ hợp đồng. Các
quan hệ hợp đồng thương mại do vậy cũng trở nên đa dạng và có những mặt tích cực
cũng như phát sinh các vi phạm hợp đồng.
Do đó để cam kết giữa các bên được thực hiện hoặc đền bù lại những tổn thất đã
gây ra ra cho bên bị thiệt hại do hành vi của bên vi phạm hợp đồng thì pháp luật về chế
tài thương mại đã dần được các nhà làm luật hồn thiện hơn. Tuy nhiên vẫn cịn một số
hạn chế chưa thể khắc phục đã gây ra những khó khăn, tổn thất cho các thương nhân
và doanh nghiệp. Vì vậy, đề tài “ Chế Tài thương mại” đã phần nào chỉ ra những đặc
điểm riêng của các chế tài, căn cứ áp dụng cũng như thiếu sót của pháp luật trong nội
dung của từng chế tài như phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, buộc thực hiện đúng hợp
đồng; đồng thời đưa ra các giải pháp để giải quyết những vướng mắc của các chế tài
đó để các bên tham gia thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tốt hơn, bảo vệ những quyền lợi
và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng thương mại. Từ đó góp

phần tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế, hội nhập quốc tế tạo nhiều cơ hội đưa nền
kinh tế của nước ta phát triển sâu rộng.
17


Tài liệu tham khảo
1. Quốc hội (2005), Luật Thương mại số 36/2005/QH11, Hà Nội.
2. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13, Hà Nội.
3. Nguyễn Đăng Duy (2012), Chế tài thương mại trong Luật thương mại Việt
Nam 2005, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật ĐHQGHN.
4. Ngô Văn Hiệp (2007), Chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng kinh
doanh, thương mại, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
5. Đinh Văn Cường (2020), Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng thương mại và mối quan hệ giữa hai chế tài, Tập 3 Số 38 (2020), Tạp chí
Khoa học Kiểm sát số 03 (38)/2020, phát hành ngày 06/01/2021.
6. />7. />8. />%20ph%E1%BA%A1m%20h%E1%BB%A3p%20%C4%91%E1%BB%93ng
%20l%C3%A0%20m%E1%BB%99t%20ch%E1%BA%BF,trong%20quan%20h
%E1%BB%87%20th%C6%B0%C6%A1ng%20m%E1%BA%A1i.&text=Lu
%E1%BA%ADt%20th%C6%B0%C6%A1ng%20m%E1%BA%A1i
%202005%20quy,h%E1%BB%A3p%20%C4%91%E1%BB%93ng%20c
%C3%B3%20quy%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%E2%80%9D.
9. />18


10. />11. />12. Hoàn thiện các quy định về chế tài trong thương mại theo Luật Thương mại
năm 2005 (tks.edu.vn)

19




×