Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Đề tài người nông dân trong truyện ngắn Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.14 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
1. Giới

thiệu về tác giả.............................................................................................2

1.1. Cuộc đời.................................................................................................................2
1.2. Sự nghiệp sáng tác.................................................................................................2
2. Đề tài nông thôn và người nông dân.......................................................................2
2.1. Hiện thực đời sống.................................................................................................2
2.1.1. Nông thôn............................................................................................................2
2.1.2. Nông dân.............................................................................................................3
2.2. Thế giới nhân vật...................................................................................................5
2.2.1. Nhân vật người nơng dân có cuộc sống đói rét, bóc lột..................................6
2.2.2. Người nơng dân khát khao cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần.........7
2.2.3. Những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân...............................................7
2.3. Cốt truyện của Nam Cao......................................................................................8
2.4. Kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu..............................................................................9
2.4.1. Kết cấu.................................................................................................................9
2.4.2. Ngôn ngữ...........................................................................................................10
2.4.3. Giọng điệu ........................................................................................................11
KẾT LUẬN.................................................................................................................13


MỞ ĐẦU
Đề tài nông thôn và người nông dân từ lâu đã trở thành đề tài quen thuộc trong nền
văn học Việt Nam, là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn đi sâu vào khai thác. Giai đoạn
1930-1945 là giai đoạn văn học nói chung và văn xi viết về người nơng dân nói
riêng phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều thành tựu quan trọng. Hàng loạt các tác phẩm
viết về nông thôn và người nông dân gắn liền với những tên tuổi nổi tiếng như Vũ
Trọng Phụng (Vỡ đê, Giông tố), Nguyễn Công Hoan ( Bước đường cùng), Ngơ Tất Tố


(Tắt đèn, Tập án cái đình,...). Nam Cao được xem là đại diện tiêu biểu nhất của văn
học ở chặng đường cuối, nổi bật với những trang viết sâu sắc về bi kịch của những
kiếp người đau khổ trong bóng đêm xã hội cũ, đặc biệt là hình ảnh người nông dân
Việt Nam nghèo khổ và bất hạnh. Với quan niệm “khơi những nguồn chưa ai khơi và
sáng tạo những gì chưa có”, ơng đã để lại sự ám ảnh trong lòng người đọc về bức
tranh làng quê đang quằn quại trong đói rách, ngột ngạt và tù túng.

2


1. Giới thiệu về tác giả
1.1. Cuộc đời:
- Nam Cao (1915-1951), tên khai sinh là Trần Hữu Tri.
- Sinh ra trong một gia đình nơng dân làng Đại Hồng, tổng Cao Đà, huyện Nam
Sang, phủ Lý Nhân.
- Là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực 1930-1945.
- Là người có tấm lịng đơn hậu và u thương con người.
1.2. Sự nghiệp sáng tác:
- Trước 1945, tài năng Nam Cao kết tinh trong gần 60 truyện ngắn, một truyện vừa “
Chuyện người hàng xóm” và tiểu thuyết “Sống mịn”.
- Tác phẩm của ông xoay quanh 2 đề tài: người trí thức và người nơng dân.
=> Thể hiện nỗi băn khoăn day dứt trước số phận con người và thường lấy nguyên
mẫu về quê hương bản thân.
- Sau cách mạng vẫn tiếp tục viết về người trí thức nghèo và người nông dân.
2. Đề tài nông thôn và người nông dân
2.1. Hiện thực đời sống
2.1.1. Nông thôn:
Không gian:
Không gian nông thôn trong tác phẩm của Nam Cao khá đặc biệt, ở đây khơng
phải khơng có những cảnh đẹp thơ mộng, đẹp đẽ: dịng sơng trong mát, những vườn

chuối vườn trầu trên vùng đất bãi, những đêm trăng, gió thổi rười rượi,…nhưng các
cảnh ấy khơng có nhiều, xuất hiện với mật độ không cao. Không gian sáng tác của
Nam Cao trước hết là những vùng nông thôn, những căn nhà nơi thơn dã, những con
đường làng với khơng khí xác xơ, hoang vắng và nghèo đói đến rợn người. Khơng
gian trong sáng tác của Nam Cao chủ yếu là không gian riêng tư cá nhân, đó là những
căn buồng, ngơi nhà chật chội hay không gian sinh tồn của những làng quê cổ hủ.
3

Ta có thể bắt gặp trong sáng tác của Nam Cao khi ơng nói về làng Vũ Đại (chính
là làng Đại Hồng q hương của ơng) một ngơi làng đầu tỉnh cuối huyện vừa hẻo
lánh vừa xơ xác, một mảnh đất quần ngư tranh thực với biết bao nhiêu bất công,


nhũng nhiễu, là không gian sinh tồn của những người nơng dân với thân phận của con
sâu, con kiến.
Là xóm Bài Thơ (Truyện người hàng xóm) với “những mái lá xác xơ trơng tiều
tuỵ như những cái nón rách trên gáy những người ăn mày ngồi xúm xít với nhau, ngủ
gục cho đỡ lạnh”, là không gian làng quê với “Nhà cửa lưa thưa. Toàn những nhà tre
úp xúp giữa những khu vườn rộng thì có rộng, nhưng xấu lắm: mía đốt như lau hoặc
khẳng khiu như chân gà, chuối lè tè như những cây rau diếp ngồng,…”
Âm thanh:
Cái ồn ào của những vụ rạch mặt ăn vạ, đâm chém và la làng. Chính trên nền cảnh
tĩnh lặng này càng làm nổi lên tiếng chửi tức tối của Chí Phèo hay giọng hờ con của
những người đàn bà goá.
 Trong không gian tù hãm ấy, nhân vật của Nam Cao bị cầm tù, bị đầy ải, chịu nhẫn
nại trong chết đói, trong cay đắng vì bệnh tật và chết trong khốn khổ. Ơng để cho nhân
vật của mình ra đi khỏi chốn quê đến với thị thành để thoả ước mơ của mình và rồi sau
đó lại quay trở về chỗ cũ. Ở đấy họ mới tìm lại được điểm tựa sau cuộc phiêu lưu dài
kia “chốn thôn quê yên tĩnh này sẽ làm cái tổ ấm áp của con chim bấy lâu bay mỏi ở
những rừng xa, xứ lạ, vẩn vơ tìm cái hạnh phúc nó vẫn đợi sẵn ở đây”.


2.1.2. Nơng dân:
Văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù, quan tâm và thể hiện đời sống con người
ở nhiều góc độ, nhiều phương diện. Nói cách khác văn học là nhân học, là những câu
chuyện về cuộc đời, về những con người cụ thể. Ở mỗi thời kì, mỗi giai đoạn văn học
khác nhau, số phận con người cũng được quan tâm khác nhau, như văn học thời kì
trung đại quan tâm đến con người xã hội, con người cộng đồng. Trong khi đó văn học
hiện đại chuyển xu hướng qua từng cá nhân cụ thể. Văn học Việt Nam hiện đại, tiêu
biểu là xu hướng văn học hiện thực phê phán, quan tâm, khám phá sâu sắc đời sống
vật chất và đời sống tinh thần của từng cá nhân cụ thể, đi sâu vào khám phá thế giới
nội tâm bí ẩn của từng số phận con người. Trong đó, nhà văn Nam Cao – một hiện
tượng văn học đặc biệt, ông không chỉ thể hiện nỗi đau của con người trong xã hội
hiện tại, ơng cịn bộc lộ nỗi đau của mình trước sự tha hóa của con người. Nam Cao
ln băn khoăn, trăn trở tìm kiếm lối thốt cho những số phận ln bị dằn vặt bởi cái
nghèo, cái đói. Họ bị biến đổi cả hình hài lẫn nhân tính cũng bởi những lo toan cơm,
áo, gạo, tiền và cả ý nghĩa cuộc sống. Những bi kịch luôn xảy ra với các tầng lớp trong
4
đời sống xã hội từ người nơng dân đến người trí thức. Những trang viết của Nam Cao
đã thu hút rất nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu văn học.


Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài: người nơng dân và người trí thức
nghèo trước cách mạng tháng tám. Ở đề tài người nông dân Nam Cao đã dựng lên bức
tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trên con đường phá sản, bần cùng, không lối
thoát, hết sức thê thảm vào những năm trước cách mạng. Và nổi lên trong bức tranh ấy
là hình tượng những người nông dân hiền lành, lương thiện bị đẩy vào tình trạng tha
hóa, lưu manh hóa, bị hủy hoại cả nhân hình và nhân tính (Chí Phèo,Tư Cách Mõ, Một
bữa no, Trẻ con khơng được ăn thịt chó…). Những sáng tác về đề tài người trí thức
của ơng tập trung thể hiện những tấn bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản có
hồi bão, khát vọng, giàu tài năng nhưng lại bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất, trở thành

những mảnh “đời thừa”, những kiếp “sống mịn”. Nam Cao khơng chỉ dừng lại ở việc
phản ánh tình trạng thê thảm của xã hội và con người trước cách mạng mà cịn trực
tiếp phân tích, cắt nghĩa, truy tìm ngun nhân dẫn tới tình trạng đó. Dù ở đề tài người
nơng dân hay người trí thức Nam Cao đều bộc lộ sự cảm thơng, thương xót trước
những đau khổ, bất hạnh của con người. Tác phẩm của ông là lời kết án đanh thép xã
hội thực dân nửa phong kiến bất công chà đạp nhân phẩm của con người, đồng thời là
tiếng kêu khẩn thiết: hãy cứu lấy nhân phẩm con người.
Viết về người nông dân, Nam Cao đặc biệt quan tâm đến vấn đề miếng ăn,cái đói điều mà nhiều cây bút hiện thực đã chú ý phản ánh. Song nếu như Ngô Tất Tố viết về
cái đói là tiếng kêu khẩn thiết, cấp bách cứu đói cho người nơng dân (Mớ rau trong
hịm, Làm no, Cái ăn trong những ngày nước ngập) thì Nam Cao viết về cái đói,
miếng ăn như một nỗi nhục nhã, ê chề làm hủy hoại cả nhân hình và nhân tính của con
người. Ơng nhấn mạnh nỗi nhục hơn là nỗi khổ.
Viết về người nông dân Nam Cao tập trung viết về tình trạng những con người
hiền lành, lương thiện luôn bị lăng nhục, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị đẩy vào tình
trạng tha hóa, lưu manh hóa. Lộ trong Tư cách mõ vốn là người hiền lành, thật thà,
chăm chỉ làm ăn, vậy mà chỉ vì sự nhục mạ, khinh ghét của những người xung quanh
mà trở nên trơ trẽn, đê tiện, khơng cịn biết xấu hổ, nhục nhã là gì.
Hiện thực đời sống rõ nhất của Nam Cao chính là tình trạng khốn khổ của nhân
dân lao động, tác phẩm văn học phải biết bảo vệ yêu thương con người khốn khổ:
“Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới
hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả lồi người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn
lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lịng thương, tình bác ái, sự
cơng bình... Nó làm cho người gần người hơn.” (Trích trong truyện ngắn Đời thừa.)
Ví dụ:
Chí Phèo: Hiện thực đời 5sống tăm tối, đau khổ của người nông dân, người lao
động lương thiện được thể hiện tập trung qua số phận của nhân vật Chí Phèo.
Chí là đại diệnđiển hình cho bi kịch bị chà đạp cả nhân hình, nhân tính: từ một người
lao động lương thiện, bị tha hoá thành kẻ lưu manh và trở thành “con quỷ dữ của làng



Vũ Đại”, cuối cùng chết một cách thảm khốc trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống
lương thiện.
=> Chí Phèo đã khái quát hiện thực mang tính quy luật trong xã hội cũ: có áp bức, có
đấu tranh, đấu tranh tự phát thường dẫn đến kết cục bi thảm. Và những cuộc đấu tranh
như thế này chưa thể kết thúc được vì “tre già măng mọc”. Bá Kiến chết cịn Lí
Cường, cịn nhiều tên cường hào ác bá khác thì cịn những “hiện tượng Chí Phèo” và
cịn những cuộc đấu tranh tự phát…
Trẻ con khơng ăn thịt chó: “Trẻ con khơng được ăn thịt chó” là tác phẩm xuất
sắc của Nam Cao, khắc họa một cách chân thực khung cảnh làng q nghèo và tình
cảnh bi kịch trước cái đói của nhân dân Việt Nam trước năm 1945. Cái nghèo, cái đói
từ lâu đã trở thành nỗi ám ảnh của nhân dân ta, nó đi vào trong trang văn của Nam Cao
thật tự nhiên, chỉ qua những chi tiết nhỏ nhặt như việc trong nhà của hắn chẳng có bát
đũa gì nhiều, hai cái chậu là cả gia tài rồi. Người vợ đau khổ nhìn người chồng giết
con chó chỉ để thỏa cái thói tham ăn của hắn, thị than thân phận mình sao khốn nạn
mới lấy phải người như thế, chẳng những khơng biết lo toan cho gia đình mà cịn đem
nợ về chồng chất.
Nam Cao so sánh tình cảnh của gia đình này như những thân phận con sâu, cái
kiến bị áp bức bởi một ông bạo chúa, để lột tả hết cái cùng cực của thân phận phụ nữ
trong xã hội trọng nam khinh nữ. Tác phẩm khép lại với những giọt nước mắt vì thất
vọng và đói khát của những đứa con cùng với sự đắng cay, chua chát của người vợ.
Ngòi bút của Nam Cao thực sự rất tài tình khi qua tác phẩm “Trẻ con khơng được
ăn thịt chó” đã khái qt được khơng chỉ những bi kịch của xã hội Việt Nam trước
Cách mạng tháng Tám mà cịn nói lên được số phận khốn khổ của con người, đặc biệt
là phụ nữ.
Từ ngày mẹ chết: Mẹ Ninh trong “Từ ngày mẹ chết”, trước khi chết cũng tỏ ra
hết sức lo lắng rằng: khi chị chết rồi, sẽ chẳng có ai chăm sóc những đứa con thơ:
“Vừa rửa rau u vừa bảo: xảy mẹ ra một cái là khổ ngay, con ạ. Ấy là mới rời tao ra
hơn một tháng…chúng mày đã gầy trơ xương, mình mẩy, tay chân thì ghẻ gúm. Ngộ
tao chết thì có lẽ chúng mày rã xương ra được. Này, cổ tay…có khác gì cái cẳng gà
hay khơng?…”

Như vậy, qua nhiều nhân vật, Nam Cao đã miêu tả hết sức chi tiết nỗi sợ hãi về cái
chết của con người. Ai cũng lo cho cái chết của mình. Dù trong hồn cảnh nào, dù có
ốm đau, khổ cực họ vẫn ln ham sống, ln muốn gắn bó với cuộc đời này.
2.2. Thế giới nhân vật:

6

Nhân vật trong tác phẩm văn học có vai trị hết sức quan trọng vì nó là phương
tiện để khái quát các tính cách, số phận con người và các quan niệm của chúng. Trong


tác phẩm văn học, hình tượng người nơng dân cũng được đề cập đến nhiều, được xây
dựng và khắc hoạ qua số phận cuộc đời đầy bi thảm, nhất là trong giai đoạn văn học
1930 – 1945 với nhiều cây bút hiện thực xuất sắc trong đó có Nam Cao.
2.2.1. Nhân vật người nơng dân có cuộc sống đói rét, bóc lột:
Nam Cao đã dựng lên một bức tranh chân thực về nơng thơn Việt Nam trước 1945
qua hình tượng người nơng dân sống trong cảnh đời đói rét, tối tăm, bị chà đạp, bóc lột
khơng chút thương tiếc; bị lăng nhục tàn nhẫn dẫn đến con đường tha hoá, lưu manh
hoá dưới xã hội tối tăm bấy giờ.
Trong tác phẩm “Chí Phèo”, nhân vật Chí Phèo là một điển hình. Chí hiện lên là
một kẻ lưu manh hố, bị xã hội vùi lấp đi những gì mà đáng ra con người phải có. Hắn
là một đứa con rơi, ra đời trong cái lị gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của
những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền cho nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến
gọi lên bóp chân. Bá Kiến sanh lịng ghen tng nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí
Phèo trở thành con quỹ dữ của làng Vũ Đại tác oai tác qi dân lành. Chí chìm đắm
trong cơn say, chỉ một lần hắn tỉnh thật sự là vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh
thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, hắn đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến
rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng
và thống hiện ra cái lị gạch cũ. Một Chí Phèo con sắp ra đời. Là một người nông dân
lương thiện, lẽ ra với khả năng lao động và tính cách hiền lành, Chí phải được ấm no

hạnh phúc nhưnglại bị Bá Kiến vu oan và phải đi tù 7, 8 năm. Tính chất lưu manh,
ngang ngược khi trở về làng khơng phải là bản chất của Chí, mà chính là do xã hội
thối nát tạo ra. Chí bị từ chối, bị cự tuyệt quyền làm người. Xã hội cũ không cho người
nông dân nghèo thực hiện ước mơ được sống hạnh phúc lương thiện, phũ phàng chà
đạp lên ước mơ chân chính của Chí, bằng chứng là thái độ của bà cơ Thị và lời từ chối
tình u của Thị Nở. Chí căm thù cao độ và khơng cịn lối thốt, giết Bá Kiến và tự
sát. Chí lấy sự huỷ diệt đời mình để giải quyết cái bế tắc, cái bi kịch. Điều đó đã phản
ánh sự bế tắc của một số nhân dân cùng khổ chưa gặp cách mạng, bị dồn vào con
đường cùng.
Trong tác phẩm “Lão Hạc”, hình ảnh Lão Hạc hiện lên là một người nông dân chất
phác, hiền lành, gố vợ và có một đứa con trai nhưng vì q nghèo nên khơng thể lo
cho con cưới được vợ. Con trai lão do quẫn chí đã đăng kí đi làm ở đồn điền cao su.
Lão ln trăn trở suy nghĩ về tương lai của đứa con. Lão sống bằng nghề làm vườn,
7
mảnh vườn mà vợ lão đã mất bao công sức để mua về và để lại cho con trai lão.
Nhưng do một trận bão mà cả một sào hoa màu đã mất trắng. Lại bởi do một trận ốm
nên bao nhiêu tiền bạc lão dành dụm đã mang ra dùng gần hết vì lão cũng đã tàn sức


rồi, người ta tranh làm hết việc của lão. Lão có cậu Vàng – một con chó mà lão vừa
coi như con vừa coi như một ngừoi bạn trung thành. Nhưng vì cần tiền để lo cho con,
khơng đủ sức để nuôi nữa nên lão đã quyết định bán con chó đi trong sự giằn vặt của
bản thân. Lão khơng nhận bất kì sự giúp đỡ của ai. Lão chọn cái chết bằng bã chó, một
cái chết đau đớn và dữ dội để trừng phạt bản thân mình vì đã đánh lừa một con chó và
để giải thốt sau bao tháng ngày cùng cực, đau khổ. Kết thúc bi kịch cũng là chấm dứt
những dằn vặt riêng tư của Lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận con người
nghèo khổ, lương thiện trong xã hội cũ. Đó là bức tranh hiện thực sâu sắc mà trong
bức tranh ấy người nông dân chân chất hiện lên với những suy nghĩ, lo toan, tính tốn
cho tương lai, cái nghèo đói vẫn ln đeo đuổi trong cái xã hội cũ.
2.2.2. Người nông dân khát khao cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần:

Tiếng chửi của Chí Phèo mở đầu truyện ngắn cùng tên không hẳn là lời chửi của
một kẻ đang say mà đó cịn là tiếng kêu thống thiết, là tiếng lên án mạnh mẽ xã hội bất
nhân, khơng cơng lí của nước ta thời kì đó. Mặt khác tiếng chửi đó cịn chứa đựng một
khát khao lớn, khát khao được giao tiếp với cộng đồng, được mọi người quan tâm,
được nhìn thấy dẫu chỉ qua tiếng chửi vì khơng có gì đau khổ bằng nỗi đau bị tách ra
khỏi xã hội. Đó là nỗi khát khao rất con người rất lương thiện. Hắn đã từng có ước mơ
bình dị như bao ngừơi. Khi bị tha hố, bát cháo hành của Thị Nở đã đưa Chí rẽ vào
bước ngoặc mới, đó là khát khao trở lại làm người lương thiện.
Còn “Lão Hạc” lão chỉ ước mơ được sống bình yên và đủ tiền cưới vợ cho con lão.
Cái mơ ước thật giản đơn nhưng trong cái xã hội đó, muốn thực hiện cũng vơ cùng
khó khăn. Lão Hạc chết bi thảm như thế nào nhưng vẫn giữ lại cho chúng ta bức thông
điệp về nỗi trăn trở của mỗi con người trong niềm đau nhân cách. Người cha thà chết
chứ không chịu bán đi một sào, cái mảnh vườn thân yêu dành cho đứa con khốn khổ,
đó là mong ước của người cha dành cho con trai mình, mong muốn thế hệ sau chúng
khơng khổ như mình nữa.
2.2.3. Những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân:
Họ là những tầng lớp của xã hội phong kiến có đời sống bần cùng, nhưng lại có
phẩm chất vơ cùng tốt đẹp.
Chí Phèo dù bị lưu manh hố nhưng ban đầu hắn vẫn là một cố nơng lương thiện,
có ước mơ bình dị như bao người,
khi bị bà ba gọi đến bóp chân thấy nhục hơn là
8
thích!, hắn có lịng tự trọng cao. Hắn ước mơ, khát khao trở thành người lương thiện
nhưng chính xã hội, chính Bá Kiến đã đẩy hắn đến con đường tha hoá. Sự xuất hiện,
sự quan tâm, chăm sóc, bát cháo hành của Thị làm Chí trở nên khao khát hồn lương


một lần nữa. Vì vậy, cái vở “quỷ dữ” của Chí chỉ là tính cách tha hố chứ khơng phải
là bản chất.
Lão Hạc phải dằn vặt từ ngày con bỏ đi phu đồn điền cao su, phải đau lịng vì cho

rằng đi lừa một con chó, phải ăn củ chuối, củ khoai rồi đến cuối cùng phải ăn bã chó.
Lão thà chết chứ không đụng vào tiền để cho con, không đụng vào mảnh vườn. Lão bị
dồn đến bước đường cùng,nhưng suốt đời làm những cơng việc chân chính chứ khơng
bao giờ làm việc xấu xa, tha hố bắt trộm chó như Binh Tư. Là một người cha hết mực
thương con, một người nông dân suốt đời lương thiện, dù sống trong hồn cảnh khốn
cùng vẫn khơng để phẩm chất bị hoen ố.
2.3. Cốt truyện của Nam Cao:
Trong văn học truyền thống cốt truyện là vấn đề quan tâm hàng đầu của nhà văn
bởi vì nó là yếu tố đầu tiên tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm.
Các nhà văn cùng thời với Nam Cao vẫn hết sức coi trọng cốt truyện. Họ đều có ý
thức xây dựng một cốt truyện với những tình tiết hấp dẫn, nhiều sự kiện, biến cố bất
ngờ, tạo nên tính chất giàu kịch tính cho tác phẩm. (ví dụ: Cốt truyện của “Tắt
đèn” dồn dập những sự kiện, biến cố, rất căng thẳng và giàu kịch tính.)
Trong tác phẩm của Nam Cao,cốt truyện có vai trị khiêm tốn hơn, ơng khơng coi
đó là yếu tố hàng đầu tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Trong nhiều tác phẩm của
ông cốt truyện được hư cấu rất đơn giản, dường như không cần đến sự tổ chức, sắp
xếp. Có nhiều truyện của Nam Cao khơng có cốt truyện.
Nếu như trong truyện của Nguyễn Cơng Hoan, Vũ trọng Phụng cốt truyện thường
được xây dựng trên cơ sở miêu tả những hành động bên ngoài của nhân vật vào những
thời điểm quan trọng, có tính chất bước ngoặt làm thay đổi cuộc đời, số phận nhân vật.
Cuộc sống được miêu tả là những chuỗi biến cố, sự kiện, những tình huống ngẫu
nhiên, đầy bất ngờ làm đảo lộn tất cả.Thì Nam Cao thường xây dựng cốt truyện trên
cơ sở miêu tả những cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật. Trong Giăng sáng, Đời
thừa, Mua nhà, Nước mắt, Sống mòn…những sự kiện xuất hiện thường là nguyên
nhân, là nguồn gốc của những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật. Nhân vật
bộc lộ thái độ, tư tưởng, tình cảm của mình chủ yếu là qua hành vi (cử chỉ, nét mặt, lời
nói) và qua lời độc thoại nội tâm chứkhơng có những hành động dứt khốt để làm nên
những thay đổi bên ngồi. Sự vận động của hành động không phải diễn ra ở bên ngoài
mà chủ yếu chỉ xảy ra ở bên trong, xảy ra trong thế giới nội tâm của nhân vật.
Ý thức được vai trị của người nghệ sĩ, Nam Cao khơng chấp nhận tác phẩm của

mình chỉ phản ánh được cái bề ngồi của xã hội, bề ngồi của hiện thực.
Ơng muốn thể hiện cuộc sống tự nhiên, chân thật, khách quan như nó vốn có với
9
những cái hàng ngày bình thường,
xồng xĩnh, với tất cả những gì gần gũi, quen thuộc
nên cốt truyện của ông thường được nới lỏng, được giãn ra chứ không chặt chẽ, tập
trung như trong cốt truyện truyền thống.


Ví dụ: Bà cái Tý trong “Một bữa no” vì q đói mà đành phải từ bỏ cả danh dự,
lịng tự trọng và nhân cách của con người để mong kiếm một bữa no. Trong “Tư cách
mõ”, miếng ăn cùng với sự xúc phạm của những người xung quanh đã biến anh cu Lộ
từ một người nông dân thật thà thành một kẻ đê tiện, tham lam. Như vậy qua những
câu chuyện nhỏ nhặt, tầm thường, xoay quanh chuyện cái đói, miếng ăn Nam Cao đã
phản ánh chân thực cuộc sống khốn khổ, bần cùng ở nông thôn Việt Nam trước cách
mạng, cảm thơng, thương xót trước nỗi cơ cực của những người nông dân đồng thời
đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Đó là lời kêu khẩn thiết hãy cứu
lấy nhân phẩm con người.
Viết về người nông dân, Nam Cao tập trung viết về tình trạng những con người
hiền lành, lương thiện ln bị lăng nhục, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị đẩy vào tình
trạng tha hóa, lưu manh hóa. Lộ trong “Tư cách mõ” vốn là người hiền lành, thật thà,
chăm chỉ làm ăn, vậy mà chỉ vì sự nhục mạ, khinh ghét của những người xung quanh
mà trở nên trơ trẽn, đê tiện, khơng cịn biết xấu hổ, nhục nhã là gì.
Có thể nói đẩy cốt truyện xuống bình diện sau, xây dựng những cốt truyện chủ yếu
được hình thành từ những hành động bên trong của nhân vật là một sự cách tân của
Nam Cao, góp phần phát triển nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
2.4. Kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu
2.4.1. Kết cấu:
Trong sáng tác của Nam Cao ta không chỉ gặp một kiểu kết cấu mà thường thấy
xuất hiện nhiều kiểu kết cấu. Đối với ông kết cấu là con đường và phương tiện làm sâu

sắc hơn tư tưởng của tác phẩm vì vậy ơng đã tổ chức những kiểu kết cấu hợp lý, phóng
túng mà chặt chẽ, tạo dựng những tình huống, xếp đặt các sự kiện, tổ chức hệ thống
tính cách hợp lý, biến chúng trở thành những phương tiện để thể hiện tư tưởng của tác
phẩm.
Trong nhiều truyện Nam Cao sử dụng kiểu kết cấu đi thẳng vào vấn đề trung tâm
của tác phẩm (Chí Phèo, Tư cách mõ, Từ ngày mẹ chết…) Ngay từ những dịng đầu
tiên của tác phẩm đã nói tới chi tiết, sự kiện thể hiện bản chất, vấn đề cốt lõi của câu
chuyện và sau đó nhà văn mới quay lại phía sau, miêu tả quá khứ của nhân vật. Mở
đầu truyện Tư cách mõ, Nam Cao nói thẳng vào vấn đề anh cu Lộ đã trở thành một
thằng mõ điển hình, một thằng mõ chính tơng rồi sau đó mới quay lại lý giải nguyên
nhân khiến cho Lộ bị tha hóa: “Bây giờ thì hắn đã thành mõ hẳn rồi. Một thằng mõ đủ
tư cách mõ chẳng chịu kém những anh mõ chính tơng một tý gì: cũng đê tiện, cũng lầy
là, cũng tham ăn…”.
Một số truyện của Nam Cao
10 có kiểu kết cấu theo trình tự thời gian như “Nghèo”,
“Ở hiền”, “Dì Hảo”.... Các sự kiện diễn ra trong cuộc đời của nhân vật đều được sắp
xếp theo trật tự thời gian nhờ vậy mà người đọc dễ theo dõi sự phát triển số phận của
nhân vật, đồng thời tạo ấn tượng sâu đậm, theo dòng thời gian ấy cuộc sống của nhân
vật càng chìm sâu hơn trong khổ đau, tủi cực.


Trong truyện của Nam Cao ta còn thấy xuất hiện kiểu kết cấu lắp ghép. Đây là
kiểu kết cấu phổ biến trong điện ảnh. Sử dụng kiểu kết cấu này Nam Cao thường sắp
xếp, tổ chức lại thời gian, tạo nên sự luân phiên giữa các cảnh với nhau. Những sự sắp
xếp này làm cho những cảnh đời, những bức tranh hiện thực của đời sống lần lượt hiện
ra. Truyện ngắn “Chí Phèo”thuộc kiểu kết cấu như thế. Những cảnh đời, những mảng
hiện thực khác nhau, mới thống nhìn tưởng chẳng có liên hệ gì với nhau được tác giả
sắp xếp, lắp ghép vào tác phẩm, cứ lần lượt xuất hiện như những cảnh trong phim,
cùng tập trung thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, qua đó nhà văn phản ánh được
tính chất phong phú, phức tạp của cuộc sống.

Hướng ngòi bút vào việc miêu tả thế giới tinh thần bên trong của nhân vật, Nam
Cao thường xuyên lựa chọn kiểu kết cấu tâm lý. Có thể coi đây là kiểu kết cấu đặc
trưng, cơ bản nhất trong tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là những sáng tác về chủ đề
tiểu tư sản. Những truyện ngắn “Lão Hạc”, “Chí Phèo” là những mẫu mực về kiểu
kết cấu này.
Trên đây là những kiểu kết cấu thường gặp trong sáng tác của Nam Cao, tuy nhiên
trong một tác phẩm ông không chỉ sử dụng đơn thuần một kiểu kết cấu nào, mà
thường kết hợp linh hoạt nhiều kiểu kết cấu phối hợp với nhau tạo nên một hệ thống
hoàn chỉnh, trong đó có một kiểu kết cấu chính giữ vai trị chủ đạo. Có thể xem “Chí
phèo” là tác phẩm tiêu biểu hơn cả cho cách tổ chức kết cấu như thế. Đọc truyện “Chí
Phèo” ta thấy xuất hiện nhiều kiểu kết cấu: kết cấu đi thẳng vào vấn đề trung tâm, kết
cấu vịng trịn, kết cấu lắp ghép…góp phần tạo nên tính hấp dẫn của tác phẩm.
Tóm lại, sáng tác của Nam Cao thể hiện sự cách tân quan trọng trong nghệ thuật tổ
chức kết cấu. Với mong muốn khám phá cuộc sống ở bề sâu ý nghĩa tư tưởng, ông
thường cố gắng kết hợp nhiều kiểu kết cấu trong một tác phẩm để tạo cho tác phẩm
nhiều lớp ý nghĩa. Chính điều này góp phần tạo nên sức hấp dẫn trong tác phẩm của
Nam Cao.
2.4.2.Ngôn ngữ:
Trong tác phẩm của Nam Cao ngôn ngữ không chỉ là công cụ, là phương tiện miêu
tả mà còn là đối tượng miêu tả. Ngôn ngữ trong sáng tác của Nam Cao là ngơn ngữ đa
âm, phức điệu, hiện đại. Ơng khơng chỉ sử dụng đắc địa đại từ nhân xưng: nó, hắn, y,
thị, gã mà cịn có khả năng hóa thân, nhập vai vào tất cả các nhân vật, suy nghĩ và nói
năng bằng tiếng nói của nhân vật.
11 có sự hịa quyện giữa ngơn ngữ người kể chuyện và
Trong sáng tác của Nam Cao
ngơn ngữ nhân vật, có sự chuyển hóa, trao đổi từ ngơn ngữ người kể chuyện sang
ngơn ngữ nhân vật. Trong “Chí Phèo” diễn ra mạch ngầm đối thoại giữa người kể
chuyện với Chí Phèo, giữa nhân vật Chí Phèo với làng Vũ Đại. Nam Cao để một đoạn



cụ Bá kể chuyện bà Tư nhưng thực chất là bày tỏ tâm trạng của mình. Đó là ngơn ngữ
đối thoại nội tại, một đặc trưng của ngôn ngữ trong sáng tác Nam Cao.
Sự thành thạo trong sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao cịn thể hiện ở ngơn ngữ đối
thoại mang đầy chất văn xi đời thường, ngồi việc thực hiện chức năng tự sự còn là
để khắc họa tính cách nội tâm nhân vật (Chí Phèo, Lão Hạc…).
Bên cạnh đó Nam Cao có nhiều đóng góp trong việc miêu tả lời thoại nội tâm, tạo
điều kiện đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật, khiến nhân vật đối diện với chính mình
tự phơi bày, tạo ra những cuộc tranh luận ngầm, bộc lộ ý kiến cá nhân của nhân vật về
vấn đề nhân cách con người, sáng tạo nghệ thuật.
2.4.3. Giọng điệu:
Giọng điệu là một yếu tố quan trọng đối với một tác giả. Mỗi một nhà văn thường
cố gắng tạo cho mình một giọng điệu riêng, phù hợp với thái độ nghệ thuật của mình.
Nguyễn Cơng Hoan nổi bật với giọng điệu suồng sã, giễu cợt, châm biếm sâu cay. Vũ
Trọng Phụng là giọng điệu mỉa mai, cay độc, đầy phẫn uất, Nguyên Hồng đầy yêu
thương thống thiết thì giọng điệu chủ yếu trong tác phẩm Nam Cao là giọng buồn
thương, da diết. Đó là âm điệu chủ đạo làm nên tiếng nói nghệ thuật riêng, độc đáo của
ơng thể hiện sự cảm thơng, thương xót của nhà văn trước những số phận nhỏ bé, bất
hạnh, những kiếp sống mịn mỏi, quẩn quanh khơng lối thốt (Dì Hảo, lão Hạc, Một
đám cưới,…). Cùng là giọng buồn thương, da diết nhưng ở mỗi tác phẩm Nam Cao lại
thể hiện một sắc thái giọng điệu riêng. “Một đám cưới” là giọng buồn thương, chua
xót ngậm ngùi, gợi lên nỗi niềm day dứt khôn nguôi về những kiếp sống mịn mỏi, dật
dờ trong bóng tối, trong “Điếu văn” là giọng điệu buồn thương ai oán khi kể về cuộc
đời nhục nhằn và cái chết tội nghiệp của một người bạn. Ở “Lão Hạc”lại là giọng
buồn thương chua chát xen lẫn nỗi xót xa, tội nghiệp trước cuộc đời bất hạnh, đáng
thương. Cùng là nhà văn có trái tim nhân đạo, hướng ngịi bút mình vào những con
người nhỏ bé, những số phận đáng thương trong xã hội cũ nhưng giọng điệu chủ đạo
của Nam Cao vẫn có âm sắc riêng khác với Thạch Lam. Trong truyện Thạch Lam ta
bắt gặp giọng điệu nhỏ nhẹ, điềm đạm, dịu dàng thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng
với tất cả những gì bình dị của cuộc sống. Cịn ở Nam Cao trong cái giọng điệu buồn
thương da diết ấy luôn chứa đựng những suy ngẫm triết lý sâu xa về cuộc đời, về con

người. Ơng khơng chỉ xót thương những kiếp người nhỏ bé, những con người dưới
đáy của xã hội mà ln day dứt, trăn trở, ráo riết truy tìm ngun nhân của những tấn
bi kịch khơng lối thốt của con người.
Trong truyện của Nam Cao ta thường bắt gặp một giọng điệu có sắc thái tưởng
chừng đối lập nhau. Ấy là giọng khách quan lạnh lùng, tàn nhẫn bên ngồi mà cảm
thơng, thương xót bên trong. Bề
12 ngồi Nam Cao tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn với cái nhìn
tỉnh táo, sắc sảo, nhà văn luôn giữ khoảng cách, tách sự đồng cảm của mình ra khỏi
đối tượng được miêu tả. Sử dụng giọng điệu này Nam Cao không tạo ra một giọng
điệu chủ đạo, thống lĩnh. Ơng đã có đóng góp lớn trong việc đa thanh hóa giọng điệu


tự sự. Trong một tác phẩm cụ thể, mỗi đoạn, mỗi tứ vẫn có sự chuyển hóa giọng điệu
tạo nên sức hấp dẫn trong tác phẩm của Nam Cao. Trong mỗi tác phẩm của ơng có sự
pha trộn tài tình các kiểu giọng điệu. Người đọc có thể nhận ra trên những trang viết
của Nam Cao giọng khách quan lạnh lùng, giọng cảm thơng thương xót, giọng buồn
thương da diết, giọng triết lý…
Có thể nói Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất trong nền văn học
hiện đại Việt Nam có tư tưởng, phong cách và thi pháp sáng tạo riêng độc đáo, có
những cách tân lớn lao, góp phần quan trọng vào tiến trình hiện đại hóa nền văn học
dân tộc.

13


KẾT LUẬN
Qua các sáng tác của nhà văn Nam Cao, bức tranh nông thôn và chân dung người
nông dân hiện lên chân thực và sống động, đó là những con người bằng xương bằng
thịt được kết tinh dưới ngòi bút văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Nam Cao
không chỉ nói đến tình cảnh bị bóc lột về thể chất mà đi sâu vào nhân phẩm bị xúc

phạm, giá trị làm người bị tước đoạt, nỗi khổ tâm hồn con người bị đày đọa. Viết về
những con người dưới đáy xã hội, Nam Cao đã bộc lộ sự cảm thông lạ lùng của một
tấm lòng đau đời và thương đời da diết, của một trái tim nhân đạo lớn.

14



×