Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Giáo trình nội DUNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đạo đức CÁCH MẠNG của NGƯỜI cán bộ QUÂN đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.35 KB, 121 trang )

Giáo trình-NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO
ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA NGƯỜI CÁN BỘ QUÂN ĐỘI

LỜI GIỚI THIỆU
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt ba phần tư thế kỷ
vừa qua luôn gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của một con người đã
đi vào lịch sử của dân tộc như một huyền thoại. Đó là Nguyễn ái
Quốc - Hồ Chí Minh - "Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn
hóa thế giới". Người là hiện thân của những giá trị tốt đẹp nhất của
con người Việt Nam. Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác Lênin và trở thành một người cộng sản, Hồ Chí Minh khơng những đã
tiếp thu nội dung lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn
đặc biệt quan tâm tiếp thu và vận dụng sáng tạo nội dung lý luận và
thực tiễn đạo đức cách mạng của các vị lãnh tụ bậc thầy: C.Mác,
Ph.Ăngghen và nhất là V.I.Lênin. Là một nhà cách mạng phương
Đông, Hồ Chí Minh ln đề cao vai trị của đạo đức trong đời sống
xã hội và giá trị của nó trong nhân cách người cán bộ cách mạng:
"Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững
đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Mọi
việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức
cách mạng hay là khơng". Hồ Chí Minh là người đã khai sinh ra nền
đạo đức mới - Đạo đức cách mạng Việt Nam và cũng là người đi đầu


trong thực hiện các chuẩn mực đạo đức đó, nêu lên một mẫu mực về
sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, tư tưởng với hành vi đạo đức.
Sinh thời, dù bận bao công việc, Người vẫn luôn dành nhiều thời
gian để chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, hoàn thiện
nhân cách người cán bộ quân đội có đủ cả đức và tài, trong đó đức là
"gốc". Do vậy, mà từ ngày thành lập đến nay, cán bộ qn đội ln
xứng đáng với vai trị lực lượng nịng cốt trong xây dựng qn đội trở
thành cơng cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối


trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, xứng đáng với danh hiệu
"Bộ đội Cụ Hồ".
Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng về tăng cường "Giáo dục tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân" và Chỉ thị của Ban Bí thư Trung
ương Đảng: "Về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới", nhằm góp phần làm cho tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng giữ
vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, tư tưởng của xã hội ta hiện
nay, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự tổ chức viết cuốn sách:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ
quân đội để khẳng định giá trị đặc sắc của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh đối với sự nghiệp xây dựng qn đội nói chung và xây dựng cán
bộ quân đội nói riêng.
Trong cuốn sách này, các tác giả đã tập trung làm rõ nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội
với những quan điểm cơ bản, những phẩm chất và những hình thức,
biện pháp cơ bản nâng cao đạo đức cách mạng của người cán bộ


qn đội. Phân tích tồn diện các yếu tố tác động, khẳng định tính
cấp thiết nâng cao đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội
hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng nội dung nâng cao đạo
đức cách mạng của người cán bộ quân đội hiện nay dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu cuốn sách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ
quân đội với bạn đọc.

PHẦN THỨ NHẤT

NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CỦA NGƯỜI CÁN BỘ QUÂN ĐỘI
I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
Để giành và giữ vững quyền lực chính trị, giai cấp cơng nhân và đảng
tiền phong của nó nhất thiết phải biết đào tạo ra từ trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong, những cán bộ
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng. Quán triệt
sâu sắc tư tưởng cơ bản đó của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Cán bộ là cái "gốc" của mọi công việc". "Công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" 1. Cán bộ chính
"là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đồn thể thi hành
trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực
hiện được"2.


Cả lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam đều khẳng định vai
trò đặc biệt quan trọng của người cán bộ cách mạng. Cán bộ là vốn
quý của Đảng, có vai trị rất to lớn. Muốn hồn thành tốt mọi nhiệm
vụ Đảng giao, người cán bộ cách mạng phải có nhân cách phát triển
tồn diện về phẩm chất và năng lực, đủ cả đức và tài, trong đó đức
phải là "gốc". Cán bộ quân đội là một bộ phận cán bộ của Đảng hoạt
động trong quân đội, do đó trong mỗi bước đường tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng, trước hết cần phải quán triệt sâu sắc những
quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
1. Đạo đức cách mạng là phẩm chất nền tảng trong nhân cách
người cán bộ quân đội.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, thuộc lĩnh vực đời sống tinh
thần, xuất hiện và tồn tại cùng với sự hình thành và phát triển của xã
hội lồi người. Theo đó, đạo đức được xem là một yếu tố cơ bản để

xem xét, đánh giá sự phát triển của nhân cách. Con người chân chính,
đích thực ln được đánh giá trước hết bằng đạo đức. Đạo đức tiến bộ
góp phần sáng tạo nên những giá trị cơ bản - Chân - Thiện - Mỹ - nền
tảng tinh thần của nhân loại, thuộc tính bản chất của con người. Xã hội
lồi người từ buổi bình minh, khi chưa có tư hữu, giai cấp, nhà nước,
áp bức, bóc lột; chưa có cả những ý niệm về chính trị thì lồi người đã
có ý niệm về đạo đức. Khi đó, đạo đức là phương thức cơ bản được
dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, mặc dù còn rất đơn giản;
nhưng cùng với sự phát triển của sản xuất và phân hóa xã hội, đạo đức
cũng không ngừng phát triển trong những mâu thuẫn và đối kháng giai
cấp.


Xã hội lồi người từ khi có sự phân chia thành giai cấp, thì mỗi con
người đều thuộc về một giai cấp nhất định và bị chi phối bởi một ý
thức hệ nhất định. Điều đó có nghĩa là đạo đức ln có tính giai cấp.
Mỗi giai cấp đều có quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong đó, đạo
đức của giai cấp thống trị ln giữ vai trị chủ đạo, là đạo đức thống trị
xã hội; còn đạo đức của quần chúng lao động là sự phản ánh đời sống,
nhu cầu và lợi ích của người lao động, thể hiện sự phản kháng lại ách
thống trị, nô dịch của giai cấp thống trị. Trong tác phẩm Chống
Đuyrinh, khi phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình của O.Đuyrinh
về thứ đạo đức "vĩnh cửu", Ph.Ăngghen đã nêu ra quan điểm khoa học
về sự phụ thuộc của đạo đức vào những điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định: "Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước
đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy
giờ"1. "Cho đến nay, xã hội đã vận động trong những sự đối lập về giai
cấp, cho nên đạo đức cũng luôn là đạo đức của giai cấp: hoặc là nó
biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc là khi
giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy

chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của
những người bị áp bức"1.
Ngày nay, đạo đức tiêu biểu cho lợi ích tương lai ấy của những
người bị áp bức (như Ph.Ăngghen đã nói) chính là đạo đức mới - đạo
đức cộng sản - đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân. Theo
V.I.Lênin, sau khi giai cấp vơ sản giành được chính quyền, cuộc đấu
tranh giai cấp vẫn tiếp diễn, nhằm đập tan sự phản kháng của bọn bóc
lột, và đồn kết nhân dân cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã
hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại ấy, đạo đức cách


mạng có vai trị rất to lớn, như V.I. Lênin đã nói: "Và đạo đức cộng
sản của chúng ta cũng phải phục tùng nhiệm vụ ấy. Chúng ta nói
rằng: đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc
lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động chung quanh
giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng
sản"2.
Bóc trần bản chất phản động của đạo đức cũ, Hồ Chí Minh đã viết:
"Trong xã hội có giai cấp bóc lột thống trị, chỉ có lợi ích cá nhân của
một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là được thỏa mãn, cịn lợi
ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo" 1. Đồng thời,
Người chỉ rõ tính chất tiến bộ của đạo đức mới - đạo đức cách mạng
của giai cấp công nhân: "Đạo đức cách mạng. Đạo đức đó khơng phải
là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng phải
vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,
của lồi người"2.
Trau dồi đạo đức ln là u cầu nền tảng của mỗi con người trong
cuộc sống cộng đồng. Yêu cầu đó càng trở nên đặc biệt cần thiết đối
với người cán bộ cách mạng nói chung và người cán bộ qn đội nói
riêng. Khẳng định vai trị to lớn của đạo đức cách mạng trong nhân

cách người cán bộ cách mạng, Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: "Người
cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức
cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính... Mọi việc
thành hay là bại chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách
mạng hay là khơng"3.
Uy tín của người cán bộ được tạo nên khơng chỉ bởi tài năng, mà
trước hết cịn bởi đạo đức cách mạng trong sáng của họ. Người nói:


"Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu.
Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một đảng vì nước vì dân, đã là
một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa
bỏ những tính xấu. Vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho
người đó; cịn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến
Đảng, có hại đến nhân dân"1.
Đề cao ý thức cộng đồng, giá trị đạo đức đã sớm trở thành truyền
thống tốt đẹp của các dân tộc phương Đông và của dân tộc Việt Nam.
Cuộc sống của con người chỉ thực sự có ý nghĩa khi những giá trị đạo
đức được tôn vinh. Một con người chỉ thực sự vĩ đại, có sức hấp dẫn
lớn khi nhân cách đạo đức của họ được hoàn thiện. V.I. Lênin vĩ đại là
một mẫu mực như vậy. Khi viết bài để ca ngợi V.I.Lênin (1924), Hồ
Chí Minh đã nêu bật ý nghĩa xã hội của những phẩm chất đạo đức tốt
đẹp của Người: "Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính
coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp
sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã
ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của
họ hướng về Người và khơng gì ngăn cản nổi"2.
Là một người phương Đơng, Hồ Chí Minh hiểu rõ vai trị to lớn
của đạo đức trong đời sống xã hội và nhất là trong nhân cách người
cán bộ cách mạng. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,

Người đã có nhiều bài viết và nói về đạo đức. Hồ Chí Minh là người
đặt nền móng xây dựng nền đạo đức mới - Đạo đức cách mạng Việt
Nam. Người đã luôn dành nhiều thời gian cho việc giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Và chính
Người là một tấm gương đạo đức cách mạng mẫu mực, trong sáng để


mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người Việt Nam yêu nước chúng ta học
tập noi theo.
Khẳng định sự cần thiết phải trau dồi đạo đức cách mạng để tạo
dựng nền tảng vững chắc dẫn tới mọi thành công của người cán bộ
cách mạng, kế thừa và phát triển tư tưởng của Khổng Tử coi đạo
đức như cái gốc của cây, ngọn nguồn của suối, Hồ Chí Minh đã nêu
lên một tư tưởng có giá trị như một chân lý hiển nhiên đầy sức
thuyết phục: "Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có
nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho
dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tự
mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu
xa thì cịn làm nổi việc gì?" 1.
Trong nhân cách của một con người, đạo đức luôn quan hệ chặt chẽ
với tài năng, không thể tách rời. Nếu tài năng giúp con người hồn
thành được nội dung của cơng việc, thì đạo đức giúp con người định
hướng đúng đắn mục đích, giá trị xã hội của cơng việc đó. Hồ Chí
Minh là người hiểu sâu sắc về sự gắn bó chặt chẽ giữa đức và tài, giữa
phẩm chất và năng lực, giữa "hồng" và "chuyên". Sự kết hợp chặt chẽ
đó đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với mỗi đảng viên, cán bộ cách
mạng trong tu dưỡng, rèn luyện hàng ngày. Người căn dặn: "Có tài mà
khơng có đức... thì chẳng những khơng làm được gì ích lợi cho xã hội,

mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như ơng
Bụt khơng làm hại gì, nhưng cũng khơng lợi gì cho loài người"1.


2. Sự thống nhất giữa lý tưởng đạo đức và lý tưởng chính trị là
cơ sở vững chắc để xây dựng đạo đức cách mạng của người cán bộ
quân đội.
Chính trị và đạo đức là những hình thái ý thức xã hội khác nhau,
phản ánh những lĩnh vực, những khía cạnh khác nhau của đời sống xã
hội, nhưng giữa chúng ln có mối quan hệ chặt chẽ, tác động ảnh
hưởng chi phối nhau. Đạo đức là nền tảng tinh thần của xã hội, có
chức năng tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh của
dư luận xã hội và lương tâm của mỗi con người nhằm đem lại lợi ích
cho cộng đồng, xã hội (trong đó có lợi ích của bản thân mình). Cịn
chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, biểu hiện tập trung ở quyền
lực nhà nước, nhân danh toàn xã hội để điều chỉnh các quan hệ xã hội
sao cho phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Giữa chính trị và đạo đức ln có mối liên hệ chặt chẽ, tác động
lẫn nhau nhưng vai trị của chúng khơng ngang bằng nhau. Trong xã
hội có giai cấp, thì ý thức chính trị ln giữ vai trị chi phối xun
suốt, quy định tính chất giai cấp của các hình thái ý thức xã hội khác,
trong đó có ý thức đạo đức. Đạo đức ln thấm đẫm ý thức chính trị,
tồn tại và phát triển dưới ảnh hưởng của ý thức chính trị. Chính trị
khơng làm mất đi vai trị của đạo đức nhưng nó ln định hướng sự
phát triển của đạo đức. Trong các xã hội cũ, chính trị được dùng để
duy trì sự bất bình đẳng xã hội, bảo vệ đặc quyền của giai cấp thống
trị. Lý tưởng chính trị của giai cấp thống trị lỗi thời luôn mâu thuẫn
với lý tưởng đạo đức chân chính của quảng đại quần chúng lao động.
Chính vì lẽ đó mà chủ trương xây dựng một xã hội lý tưởng, hưng
thịnh dựa vào "Đức trị" của các nhà tư tưởng giàu tính nhân văn mặc



dù đã được nêu lên từ lâu, nhưng mãi mãi vẫn chỉ dừng lại ở ước mơ.
Bởi vì, trong các chế độ xã hội đó, khơng thể có cơ sở hiện thực,
những tiền đề kinh tế - xã hội cần thiết để duy trì sự thống nhất xã hội,
sự thống nhất giữa lý tưởng chính trị và lý tưởng đạo đức.
Sự thống nhất ấy chỉ có được trong những điều kiện chính trị, kinh
tế và xã hội nhất định. Chủ nghĩa tư bản ra đời, lao động công nghiệp
thay thế dần lao động thủ cơng và cùng với q trình đó là sự xuất
hiện một lực lượng xã hội mới - giai cấp vô sản hiện đại là giai cấp
tiên tiến, cách mạng triệt để nhất. Cuộc đấu tranh không ngừng của
giai cấp công nhân chống lại ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản
một khi được lý luận tiền phong là chủ nghĩa Mác - Lênin hướng dẫn
sẽ tạo ra bước ngoặt cách mạng căn bản đưa phong trào đấu tranh từ
tự phát lên tự giác, khẳng định vai trị sứ mệnh lịch sử của giai cấp
cơng nhân là tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Thắng lợi của cách mạng vô sản là điều kiện căn bản để từng bước cải
tạo đạo đức cũ của giai cấp bóc lột tư bản, phong kiến tàn dư và xây
dựng đạo đức mới - Đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân. Một
khi chế độ tư hữu tư bản và nền sản xuất nhỏ, cơ sở kinh tế - xã hội
của những đối kháng giai cấp dần bị xóa bỏ và chế độ kinh tế - xã hội
mới dần được hình thành, tạo ra nền tảng vật chất và những quan hệ
xã hội mới cho nền đạo đức mới hình thành và phát triển.
Trong chế độ xã hội mới do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, sẽ từng bước
tạo ra những tiền đề kinh tế - xã hội mới cho sự thống nhất giữa lý
tưởng chính trị và lý tưởng đạo đức cùng hướng tới mục tiêu giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Như



V.I.Lênin đã nói: "Đạo đức, đó là những gì góp phần phá hủy xã hội
cũ của bọn bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động
chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những
người cộng sản. Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu tranh
ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống mọi sự bóc
lột, chống mọi chế độ tư hữu nhỏ. Đối với những người cộng sản, tất
cả đạo đức là nằm trong cái kỷ luật đồn kết keo sơn đó, và trong cuộc
đấu tranh tự giác của quần chúng chống bọn bóc lột"1.
Với cách mạng Việt Nam, mục tiêu, lý tưởng chính trị cao nhất là
đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Và lý tưởng của
đạo đức cách mạng cũng hướng vào mục tiêu: "Quyết tâm suốt đời
phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người
cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính đảng, tính giai cấp, nó
bảo đảm cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của nhân dân" 2.
Người tích cực đấu tranh đem lại hạnh phúc cho nhiều người nhất sẽ
là người hạnh phúc nhất, có đạo đức nhất như Bác Hồ đã nói: "Có gì
sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng
lồi người"3. Với ý nghĩa đó, khi phân tích giá trị, ý nghĩa to lớn của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh đã chỉ cho
chúng ta thấy cuộc kháng chiến ấy khơng chỉ có ý nghĩa dân tộc, mà
nó cịn có giá trị thời đại; hơn nữa những nội dung chính trị cách
mạng nhất cũng chính là những nội dung đạo đức nhất. Người nói:
"Các chú có biết rằng dân tộc ta vĩ đại, Đảng ta vĩ đại, ta được anh em
bầu bạn khắp năm châu yêu mến và ca ngợi là vì cái gì khơng? Vì


cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta do Đảng ta lãnh
đạo là chí cơng vơ tư, mình vì mọi người"1.
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không

chỉ là những chuẩn mực, quy tắc sống của cá nhân trong sinh hoạt
hằng ngày, mà cịn hàm chứa trong nó thái độ của mỗi người trong
giải quyết các mối quan hệ giữa cá nhân với những hoạt động xã hội
phong phú, đòi hỏi một tinh thần tự nguyện, đức hy sinh của mỗi
người. Sự hy sinh đó, chứa đựng những giá trị xã hội lớn lao, mang
nội dung nhân đạo, nhân văn, vị tha hết mình. Hồ Chí Minh là một
kiểu mẫu, là hiện thân của sự thống nhất đó. Trọn cuộc đời, Người đã
làm theo đúng điều mình nói: "Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành"1. Cái ham muốn ở đây, là tình cảm đạo đức trong
sáng, động cơ đạo đức mạnh mẽ để xây dựng nên lý tưởng đạo đức
cách mạng ở Người phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đó cũng
là mục tiêu, lý tưởng chính trị của Đảng, của cách mạng: Độc lập, tự
do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Sự gặp gỡ, thống nhất giữa lý tưởng chính trị và lý tưởng đạo đức
cách mạng trong xã hội mới, tạo tiền đề cho mỗi người giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và
nghĩa vụ công dân, giữa nghĩa vụ pháp lý và nghĩa vụ đạo đức trước
vận mệnh của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Đó là lý tưởng cao
quý nhất của đạo lý làm người, định hướng tư tưởng cho các phong
trào cách mạng xã hội chủ nghĩa thực sự là ngày hội của quần chúng
nhân dân lao động. Sự thống nhất đó đã trở thành đặc trưng, nội dung


cốt lõi ln giữ vai trị định hướng hoạt động của quân đội ta - quân
đội kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam.
3. Giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích là cơ sở tồn tại và phát
triển của đạo đức cách mạng.
Xuất phát từ quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen: "Nếu

như lợi ích đúng đắn là ngun tắc của tồn bộ đạo đức, thì do đó, cần
ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích
của tồn thể lồi người"1. Đó là điều kiện cơ bản để duy trì sự phát
triển bình thường của xã hội, mà trong đó ln có sự hài hịa giữa cá
nhân và xã hội. Trong xã hội tồn tại đồng thời nhiều loại lợi ích khác
nhau, đan xen nhau giữa lợi ích chung và lợi ích riêng; lợi ích cá nhân
- tập thể - xã hội; lợi ích trước mắt và lâu dài; lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần... Các lợi ích này ln có liên hệ với nhau, vừa thống
nhất, vừa đấu tranh với nhau. Vì vậy phải giải quyết hài hịa các lợi
ích và các mối quan hệ giữa người với người. Đạo đức cách mạng
ln địi hỏi: "Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng,
của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết" 2. Đây chính là quan
điểm cơ bản để xác định đúng đắn vị trí, vai trị của các lợi ích chung
và riêng. Trong đời sống, đây là yêu cầu ứng xử hợp đạo lý làm người
của mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội mới ấy, "mọi người mới có điều kiện để cải thiện đời
sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng của mình"3.
Năm 1947, Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc",
trong đó Người chỉ rõ "Phận sự của đảng viên và cán bộ" là phải:
"Trọng lợi ích của Đảng hơn hết. Ngồi lợi ích của dân tộc, của Tổ


quốc, thì Đảng khơng có lợi ích gì khác... Vì vậy, mỗi người trong
Đảng phải hiểu rằng: lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi
ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi
ích của tồn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu
dài. Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì
lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc. Vô luận lúc
nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra
trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của

Đảng. Đó là "tính Đảng". Nếu gặp khi lợi ích chung của Đảng mâu
thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích
của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh của mình
cũng phải vui lịng hy sinh cho Đảng" 1.
Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm tới giáo dục, giác ngộ quần chúng
về vấn đề lợi ích, coi đó là cơ sở quyết định các quan hệ xã hội, trong
đó có các quan hệ và hành vi đạo đức. Kết hợp giữa giáo dục nâng cao
nhận thức và tổ chức hoạt động thực tiễn đem lại lợi ích thiết thực cho
nhân dân, quan tâm tới đời sống, sự tiến bộ, trưởng thành của mỗi con
người. Qua đó, làm tăng sức mạnh đồn kết đấu tranh, nhiệt tình của
mỗi người và của tồn dân.
Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ bộ mặt thật của chủ nghĩa cá nhân là kẻ
thù của đạo đức cách mạng, là nguồn gốc sinh ra mọi thói hư, tật xấu
và cả tội ác. Chủ nghĩa cá nhân đối lập với chủ nghĩa tập thể. Muốn
nâng cao đạo đức cách mạng thì phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ chủ
nghĩa cá nhân. Người nói: "Tư tưởng khơng đúng, cũng cịn có nhiều.
Nhưng có một tư tưởng mẹ: đó là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá


nhân là trái với chủ nghĩa tập thể. Do chủ nghĩa cá nhân mà đẻ ra các
tư tưởng sai lệch khác"1.
Chủ nghĩa cá nhân phát sinh, phát triển gắn liền với chế độ tư
hữu và tàn dư của nó trong xã hội mới. V.I.Lênin đã từng chỉ rõ: "Xã
hội cũ xây dựng trên nguyên tắc sau đây: anh cướp đoạt của người
khác hoặc là người khác cướp đoạt lại của anh; anh làm cho người
khác hưởng hoặc người khác làm cho anh hưởng... tóm lại, là một
người chỉ lo nghĩ về của riêng của mình chứ khơng quan tâm đến
người khác"2. Trong các xã hội đó, nhân tính là giá trị đạo đức tốt
đẹp của con người bị vứt bỏ, lối sống vị kỷ: "Sống chết mặc bay,
tiền thày bỏ túi" - chủ nghĩa cá nhân được tôn thờ, cá nhân và xã hội

đối lập nhau; mỗi bước tiến của con người trong chinh phục tự
nhiên, lại đồng thời tạo ra mỗi bước lùi trong quan hệ xã hội, gia
tăng bóc lột, đối kháng, thù hận tràn lan. "Mỗi người tự lo cho mình,
Chúa sẽ lo cho tất cả" là phương châm xử thế của các xã hội cũ, tư
hữu, bóc lột, tư bản. Hồ Chí Minh gọi chủ nghĩa cá nhân "là một thứ
vi trùng rất độc" của xã hội mới, từ đó sinh ra các thói hư tật xấu,
khuyết điểm nghiêm trọng như: bệnh tham lam, lười biếng, kiêu
ngạo, ham địa vị, thiếu kỷ luật, óc hẹp hịi, óc địa phương, óc lãnh
tụ, bệnh "hữu danh vô thực", kéo bè kéo cánh, bệnh cận thị khơng
biết nhìn xa trơng rộng... Qua đó, Người khẳng định: "Vết tích xấu
nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân. Chủ
nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng, nếu nó cịn lại
trong mình, dù là ít thơi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để che lấp
đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự
nghiệp cách mạng"1. "Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo,


xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết
rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm" 2.
Một trong những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, phổ biến trong
cán bộ, đảng viên, những người có chức, có quyền là bệnh tham ơ,
lãng phí, quan liêu xa rời nhân dân. Đó là một tội ác xấu xa, ai cũng
gớm, cũng ghét. Cần phải đấu tranh trừ bỏ tội ác đó.
Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân nhưng Hồ Chí Minh bao giờ
cũng phân biệt được rạch ròi sự khác biệt giữa lợi ích cá nhân chân
chính cần bảo vệ với chủ nghĩa cá nhân. Người nói: "Đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá
nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống
riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân
đó khơng trái với lợi ích của tập thể thì khơng phải là xấu" 1. Khẳng

định vai trị động lực của lợi ích và lợi ích đúng đắn là ngun tắc
của tồn bộ đạo đức, Người xây dựng nên hệ thống những phẩm
chất đạo đức mới có nội dung phù hợp chế độ xã hội mới, lấy con
người được giải phóng, phát triển tồn diện làm mục tiêu phấn đấu.
Và điều đó đã được thực hiện từng bước cùng với mỗi bước thắng
lợi của công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa, mà trong
đó: "Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người".
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG PHẨM CHẤT CƠ
BẢN TRONG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA NGƯỜI CÁN BỘ
QUÂN ĐỘI


Để hiểu sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về những phẩm chất cơ
bản trong đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội, trước
khi nghiên cứu những nội dung cụ thể, chúng ta cần thống nhất
nhận thức về mối tương quan giữa các phẩm chất đạo đức cách
mạng nói chung với phẩm chất đạo đức của người cán bộ quân đội
nói riêng. Đây là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái
phổ biến và cái đặc thù. Điều đó có nghĩa là giữa chúng vừa có sự
thống nhất để tạo nên tính chỉnh thể của đạo đức cách mạng, vừa
có sự khác biệt đủ để phân biệt đạo đức của người cán bộ quân đội
với đạo đức cách mạng nói chung. Nhận thức được những khía
cạnh khác nhau về tính phổ biến, tính đặc thù, tính đơn nhất trong
mỗi phẩm chất của đạo đức cách mạng sẽ tạo cơ sở để từng bước
nhận thức sâu sắc về đạo đức cách mạng của người cán bộ quân
đội. Hệ thống phẩm chất, chuẩn mực đạo đức người cán bộ quân
đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh những yêu cầu
chung của nhiệm vụ cách mạng, vừa phản ánh đặc điểm, yêu cầu
nhiệm vụ cụ thể của quân đội. Các phẩm chất đó được thể hiện

trong 3 mối quan hệ cơ bản: đối với người, đối với việc, đối với tự
mình. Một số phẩm chất đặc trưng, tiêu biểu nhất của đạo đức
người cán bộ quân đội được khái quát là:
1. Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân.
Trung, Hiếu vốn là những khái niệm cơ bản, những phẩm chất
hàng đầu trong hệ thống phẩm chất đạo đức Nho giáo du nhập vào
Việt Nam đã từ lâu, và được nhân dân ta tiếp nhận và cải biến phù hợp
với yêu cầu đạo đức truyền thống của dân tộc. Nó phản ánh những
mối quan hệ rường cột, cơ bản nhất của xã hội phong kiến. "Trung với


Vua", "Hiếu với cha mẹ" là những chuẩn mực, giá trị đạo đức truyền
thống đã được xác lập và phát huy vai trị to lớn trong duy trì trật tự, kỷ
cương xã hội làm cơ sở cho sự tồn vong của chế độ phong kiến phương
Đơng nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Trước kia, "Trung" là phẩm chất đạo đức hàng đầu, phản ánh yêu
cầu cao nhất luôn được đặt ra đối với mỗi thần dân phải tuyệt đối
trung thành với Vua. Mà Vua là biểu tượng của chế độ phong kiến,
nên trung đó cũng đồng thời là trung thành tuyệt đối với chế độ phong
kiến đến chết cũng không được thay đổi để bảo vệ quyền lợi của tập
đồn phong kiến. Cịn "Hiếu" là u cầu con, cháu phải thực hiện
nghĩa vụ đạo đức hiếu thảo, chu toàn với bố mẹ, ơng bà; thể hiện lịng
biết ơn, tơn kính với những người đã có cơng sinh thành, ni dưỡng,
dạy bảo mình nên người. Hiếu - trung có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, hiếu là gốc của trung, còn trung là đầu mối, rường cột của cả hệ
thống phẩm chất, chuẩn mực đạo đức phong kiến. Tuy nhiên, trung hiếu của đạo đức phong kiến chỉ có giá trị hạn hẹp, thụ động, một
chiều trong phạm vi phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân;
chỉ địi hỏi bầy tơi, kẻ dưới thực hiện nghĩa vụ đem lại lợi ích cho
thiểu số vua quan phong kiến.
Hồ Chí Minh đã nhận thấy những hạn chế căn bản của đạo đức

phong kiến nói chung và quan niệm trung - hiếu nói riêng. Người vừa
biết tiếp thu tinh hoa, vừa biết loại bỏ hạn chế, qua đó nâng chúng lên
một chất lượng mới, từ phản ánh các mối quan hệ xã hội cơ bản giữa
cá nhân với cá nhân (vua - tơi, cha - con) có ý nghĩa hạn hẹp sang
phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội mang ý nghĩa xã hội lớn
lao, nội dung chính trị - đạo đức sâu sắc. Tiếp nối lịch sử, bảo tồn giá


trị đạo đức truyền thống, đồng thời bổ sung vào đó những thuộc tính
mới, Hồ Chí Minh đã đem lại cho khái niệm trung - hiếu những nội
dung mới, chất lượng mới nhưng hình thức thể hiện vẫn được bảo tồn,
tạo nên mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, sự gần gũi giữa truyền
thống và hiện đại. Người nói: "Cái gì cũ mà xấu, thì ta bỏ...Cái gì cũ
mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: ta phải tương thân tương ái,
tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước" 1. Người cịn nói:
"Ngày xưa Trung là trung với vua. Hiếu là hiếu với cha mẹ mình
thơi"; cịn ngày nay, "Trung là trung với Tổ quốc, Hiếu là hiếu với
nhân dân"1.
Như vậy, trung - hiếu đã mang ý nghĩa, giá trị đạo đức mới, chuyển
hóa từ đạo đức "tu thân" sang đạo đức mới - đạo đức cách mạng khẳng định thái độ trách nhiệm chính trị và nghĩa vụ đạo đức của mỗi
người dân đối với đất nước, với hạnh phúc của nhân dân. Với quan
niệm mới ấy, Hồ Chí Minh đã phá vỡ cái khuôn mẫu nhỏ hẹp của đạo
đức cũ, mở ra chân trời rộng lớn của đạo đức cách mạng, đòi hỏi
người cách mạng phải luôn chăm lo tới quyền độc lập của dân tộc, tự
do và hạnh phúc của nhân dân.
Trung với nước, là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc - cái nôi
để mỗi con người Việt Nam tồn tại và phát triển. Do đó, nghĩa mới
của "trung" thật rộng lớn. Người chỉ rõ yêu cầu của "trung" là:
"Trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng,

với Đảng". Lòng trung thành ấy, ln được ni dưỡng từ lịng u
nước truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Mỗi con người Việt
Nam chân chính, từ trong sâu thẳm tâm hồn, ln mang theo tình yêu


quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc. Từ tình cảm yêu nước
thiết tha đến thái độ trách nhiệm, nghĩa vụ đạo đức cao cả đã trở
thành động lực tinh thần to lớn, quyết tâm xả thân, nguyện hiến dâng
cả tuổi thanh xuân cho nền độc lập và sự trường tồn của dân tộc Việt
Nam. Đó là giá trị hiện thực của truyền thống yêu nước Việt Nam và
là cơ sở tạo nên phẩm chất trung thành tuyệt đối của người quân nhân
đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân.
Trung với nước đối với người cán bộ quân đội cũng là: "Trung với
Đảng", tuyệt đối trung thành với Đảng. Nước và Đảng là hai khái
niệm khác nhau nhưng từ khi ra đời, Đảng ln là lãnh tụ chính trị tối
cao của đất nước, đại biểu cho lợi ích hiện tại và tương lai của quốc
gia, dân tộc. Đảng đã và đang dẫn dắt con thuyền cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa dân tộc ta từ thân
phận nô lệ trở thành người làm chủ chân chính q hương, đất nước
và bản thân mình. "Trung với nước" và "Trung với Đảng" ln có sự
thống nhất không thể tách rời. Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất
nước nên "Trung với nước" trước hết và tập trung nhất phải là "Trung
với Đảng". Sự nhận thức sâu sắc về phẩm chất trung thành tuyệt đối
ấy là cơ sở tạo thành niềm tin vững chắc và sức mạnh to lớn của mỗi
người cán bộ quân đội trong tổ chức, chỉ huy bộ đội thực hiện nhiệm
vụ.
Trung với nước không tách rời hiếu với dân.
Hiếu với dân, là mỗi người khơng chỉ u thương cha mẹ mình như
trước đây quan niệm, mà còn phải yêu thương cha mẹ người, mọi
người cùng yêu thương cha mẹ, yêu thương nhân dân. Hồ Chí Minh

chỉ rõ: "Người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình, chí hiếu


nhất. Vì sao? Nếu khơng làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình
mà hàng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc, phong kiến
giày vị. Mình khơng những cứu bố mẹ mình mà cịn cứu bố mẹ người
khác, bố mẹ của cả nước nữa. Phải hiểu chữ hiếu của cách mạng rộng
rãi như vậy"1.
Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng, của dân tộc, Người cha thân yêu
của các lực lượng vũ trang nhân dân. Người đặc biệt quan tâm, chăm
lo giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong quân
đội và đòi hỏi mỗi cán bộ quân đội phải luôn quán triệt sâu sắc nội
dung cốt lõi của đạo đức cách mạng là: "Nhận rõ Phải, Trái. Giữ vững
lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân" 2. Cán bộ quân đội
phải là những người quân nhân cách mạng, những cán bộ lãnh đạo, chỉ
huy mẫu mực, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân. Đó là
biểu hiện cao nhất của lịng u nước, gắn bó thiết tha với cội nguồn
dân tộc; quyết tâm chiến đấu, hy sinh vì quê hương đất nước, vì hạnh
phúc của nhân dân.
Với quân đội, mà trước hết là đối với người cán bộ quân đội, Hồ
Chí Minh đã nhiều lần chỉ dẫn về nghĩa vụ đạo đức "hiếu với dân", về
trách nhiệm tăng cường mối quan hệ giữa quân đội với nhân dân.
Trong chế độ xã hội mới, nước với dân hòa làm một. Nước là của dân
và dân là chủ nhân của nước. Do đó, "trung với nước" khơng tách rời
"hiếu với dân". Nước ta là nước dân chủ, dân là chủ, cán bộ là đầy tớ
của nhân dân, phải trung thành tuyệt đối với lợi ích của nhân dân. Bác
nhắc nhở quân đội: "Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình
như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết. Phải làm cho dân mến,
khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiễn, chớ vác mặt làm quan cách



mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ"1. Người cịn dạy:
"Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình khơng phải là "cứu tinh" của
dân; mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân" 2. "Nhân dân là nền
tảng, là cha mẹ của bộ đội. Cán bộ phải dạy cho đội viên biết kính
trọng dân, thương yêu dân, giúp đỡ dân"3.
Đó là những nội dung cơ bản quyết định tính nhân dân trong bản
chất giai cấp cơng nhân của quân đội ta - một quân đội của dân, do dân,
vì dân. Đó cịn là cơ sở sâu xa của mọi thắng lợi mà quân đội ta đã
giành được trong suốt sáu mươi năm qua kể từ ngày thành lập. Trung
với nước, trung với Đảng, hiếu với dân đã trở thành phẩm chất đạo đức
hàng đầu, chuẩn mực đạo đức cơ bản, định hướng hoạt động cách
mạng của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Quân đội ta là quân đội nhân dân anh
hùng, thật xứng đáng với lời khen ngợi của Bác Hồ: "Quân đội ta trung
với nước, hiếu với dân". "Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm
vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng"1. Phẩm chất đạo đức cách mạng cao quý ấy cần được lưu
giữ trong nhận thức tư tưởng, trong tình cảm và cả trong hoạt động
thực tiễn sinh động của mỗi cán bộ quân đội trên các mặt trận sẵn sàng
chiến đấu, chiến đấu, công tác và lao động sản xuất.
2. Đồn kết nội bộ, hết lịng thương u chiến sĩ, cán bộ và
chiến sĩ coi nhau như anh em ruột thịt.
Tất cả các quân đội của giai cấp bóc lột, giữa sĩ quan và binh lính
ln có sự khác biệt nhau căn bản. Bởi vì, ở các qn đội đó, mối
quan hệ giữa sĩ quan và binh lính được duy trì dựa trên sự phân biệt về


đẳng cấp. Binh sĩ là con em nhân dân lao động, thuần túy là công cụ
của giai cấp thống trị. Sự bắt buộc, cưỡng bức, mua chuộc là phương

thức để duy trì các mối quan hệ cán - binh, đó là thực chất của kỷ luật
quân đội của giai cấp bóc lột.
Ngược lại, với các quân đội cách mạng (trong đó có quân đội ta),
sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng chính trị cách mạng triệt để và các
mối quan hệ nội bộ được duy trì dựa trên sự thống nhất về lợi ích căn
bản đã quy định tính chất tốt đẹp của các quan hệ nội bộ. Đó cũng là
cơ sở khách quan để xác lập các quan hệ đạo đức mới, giữa cán bộ và
chiến sĩ luôn thương yêu nhau như anh em ruột thịt, trên tình đồng chí,
đồng đội. Đối với qn đội cách mạng, đồn kết là cơ sở để tạo nên
sức mạnh vô địch. Hồ Chí Minh đã thường xun nhắc nhở bộ đội:
"Đồn kết là sức mạnh nhất của ta. Phải đoàn kết nội bộ, giữa cán bộ
và chiến sĩ"1. Người còn căn dặn: "Các chú cần phải đoàn kết hơn nữa,
đoàn kết chặt chẽ giữa chiến sĩ với nhau, giữa cán bộ với nhau, giữa
chiến sĩ và cán bộ, giữa quân và dân. Đồn kết là một lực lượng vơ
địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi... Nói
tóm lại: giữ vững và phát triển đạo đức cách mạng của Quân đội nhân
dân"2.
Hồ Chí Minh đã từng ân cần căn dặn: "Cán bộ khơng có đội viên,
lãnh tụ khơng có quần chúng, thì khơng làm gì được. Bởi vậy cần phải
thương yêu đội viên. Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở
xuống phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên, phải
xem đội viên ăn uống như thế nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc
của đội viên. Bộ đội chưa có ăn, cán bộ khơng được kêu mình đói. Bộ
đội chưa đủ áo mặc, cán bộ khơng được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ


chỗ ở, cán bộ khơng được kêu mình mệt. Thế mới dân chủ, mới đồn
kết, mới tất thắng"1.
Bác ln theo sát, nắm vững và căn dặn từng loại cán bộ quân đội,
mà trước hết là những cán bộ quân - chính: "Người đội trưởng, người

chính trị viên phải là người anh, người chị, người bạn của đội viên. Chưa
làm được như vậy là chưa hết nhiệm vụ... Cán bộ có thân đội viên như
chân tay, thì đội viên mới thân cán bộ như ruột thịt. Có như thế thì chỉ
thị, mệnh lệnh và kế hoạch cấp trên đưa xuống, đội viên sẽ tích cực và
triệt để thi hành"2.
Hồ Chí Minh đặt ra những yêu cầu rất cao đối với người cán bộ
chính trị (mà Người coi đó là linh hồn của đơn vị) phải luôn làm kiểu
mẫu về mọi mặt cho quần chúng noi theo. Người còn căn dặn: "Tư
cách của chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người
chính trị viên tốt, thì bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên khơng làm
trịn nhiệm vụ thì bộ đội ấy khơng tốt". "Chính trị viên phải làm người
kiểu mẫu trong mọi việc". "Đối với bộ đội, chính trị viên phải thân
thiết như một người chị, cơng bình như một người anh, hiểu biết như
một người bạn... Chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân
yêu bộ đội. Phải làm sao cho bộ đội được dân tin, dân phục, dân yêu"1.
Cả với người tướng, cũng nhận được ở Người những lời chỉ dẫn quý
báu trong quan hệ với bộ đội là "thương yêu cấp dưới, phải đồng cam
cộng khổ với họ"2.
3. Tinh thần quốc tế vô sản cao cả, trong sáng, thủy chung.
Là một nhà cách mạng có nhiều năm hoạt động ở nước ngồi,
người chiến sĩ tiên phong trong phong trào cộng sản và công nhân


quốc tế, nhất là sau khi trở thành lãnh tụ của Đảng, người đứng đầu
Nhà nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý giáo dục, hướng dẫn nhân dân,
nhất là cán bộ, chiến sĩ quân đội thực hiện tốt những nhiệm vụ quốc tế
nặng nề và vẻ vang. Những tư tưởng sâu sắc về tinh thần quốc tế vô
sản vô tư, trong sáng của Người đã trở thành những giá trị, chuẩn mực
đạo đức cách mạng chung của mỗi người cách mạng Việt Nam. Người
thường xuyên giáo dục cho mọi người hiểu rằng, cách mạng Việt Nam

là một bộ phận của cách mạng thế giới, do đó, mỗi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam là thiết thực góp phần bảo vệ hịa bình và thúc đẩy
cách mạng thế giới phát triển. Mỗi cán bộ, chiến sĩ lại càng cần phải
có ý thức sâu sắc về nghĩa vụ quốc tế của mình, đề cao trách nhiệm và
ln sẵn sàng đi làm nhiệm vụ quốc tế khi có yêu cầu.
Trước đây, nhiều chiến sĩ cách mạng, đảng viên của Đảng đã từng
tự nguyện đứng trong hàng ngũ quân đội Hồng quân Liên Xơ, Qn
giải phóng nhân dân Trung Quốc chiến đấu qn mình, nêu cao tinh
thần quốc tế vơ sản. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, quân đội ta đã luôn luôn làm tốt nghĩa vụ quốc tế cao cả, xây
dựng nên mối tình đồn kết, thủy chung đặc biệt giữa ba dân tộc và
quân đội ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia anh em. Hồ Chí Minh
đã từng căn dặn các cán bộ, chiến sĩ ta đi làm nhiệm vụ quốc tế: "Giúp
nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình" 1. Lời căn dặn đó của
Người là một tư tưởng sâu sắc có giá trị đạo đức mẫu mực đã trở
thành phương châm hành động của mỗi người cách mạng. Mỗi cán bộ,
chiến sĩ cần phải phát huy cao độ tinh thần yêu nước chân chính, kết
hợp với tinh thần quốc tế vơ sản. Người cịn ln nhắc nhở cán bộ
chiến sĩ và nhân dân ta phải mãi mãi biết ơn sự giúp đỡ quốc tế to lớn


×