TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH
- - - - - -
BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Phân tích tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng và
nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
Giáo viên hướng dẫn : Ngơ Thị Minh Nguyệt
Nhóm thực hiện: Nhóm 8
Mã lớp học phần: 2184HCMI0111
Năm học: 2021 – 2022
i
0
0
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 8
TT
HỌ VÀ TÊN
MÃ SV
7 Trần Thị Thảo
71
(Nhóm trưởng)
7
72
7
73
75
77
7
78
7
79
8
80
Hồn thành nhiệm
vụ.
Phần 1 (1.3)
Nguyễn Hồi Thu
20D110122
Thuyết trình Phần 1+ Hồn thành nhiệm
phần 2.2+2.3
vụ.
20D110124
Phần 1 (1.4)+Thuyết Hồn thành
trình 2.1.1
nhiệm vụ.
tốt
20D110192
Powerpoint
Hoàn thành
nhiệm vụ.
tốt
20D110262
Hoàn thành
Chỉnh word, biên bản nhiệm vụ.
thảo luận
tốt
Nguyễn Thị Thùy
20D110053
Phần 2 (2.1.2)+Thuyết Hồn thành nhiệm
trình phần 2.1.2
vụ.
Đào Thị Thu Thủy
20D110193
Phần 2 (2.2)
Hoàn thành
nhiệm vụ.
Vũ Lệ Thủy
20D110054
Phần 2 (2.3)
Hoàn thành nhiệm
vụ.
Phạm Anh Tiến
20D110114
Lời mở đầu + kết luận
Hoàn thành nhiệm
vụ.
Thị
Anh
Lê Thu Thủy
(Thư ký)
7
Hồn thành tốt
nhiệm
vụ.Tích
Phần 1 (1.1 + 1.2 )
cực đóng góp ý
Kiểm tra, chỉnh sửa nội
kiến.
dung thảo luận
20D110052
7 Trần Thị Thủy
76
NHẬN XÉT
Ngơ Minh Thu
7 Hồng
Thư
74
7
20D110260
CƠNG VIỆC
Phần 2 (2.1.1)
ii
0
0
tốt
Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
Phần 1: TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG
CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG.....................................................................2
1.1 Trung với nước, hiếu với dân..................................................................................2
1.2 Cần kiệm liêm chính chí cơng vơ tư.......................................................................3
1.3 Thương u con người, sống có tình nghĩa............................................................6
1.4 Tinh thần quốc tế trong sáng..................................................................................8
Phần 2: TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG
NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG............................................12
2.1 Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức...................................................12
2.1.1 Nói đi đơi với làm..............................................................................................12
2.1.2 Nêu gương về đạo đức.......................................................................................13
2.2 Xây đi đôi với chống..............................................................................................14
2.3 Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời............................................................................16
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................20
iii
0
0
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một tài sản tinh thần vô giá, đó là tư
tưởng của Người. Trong đó, nổi bật là tư tưởng đạo đức cách mạng. Bản thân Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã là một tấm gương mẫu mực, sáng ngời về thực hành đạo đức cách mạng để
toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Lãnh tụ Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Đạo đức luôn là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của
Bác trong sự nghiệp cách mạng. Người quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của
người cách mạng. Bắt nguồn từ chức năng điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người,
đạo đức cách mạng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí quyết tâm hồn thành
nhiệm vụ của con người. Từ đó Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là gốc của
người cách mạng.
Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng
cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”. Đạo đức là nguồn
nuôi dưỡng và phát triển con người, là yếu tố quan trọng và là nền tảng để hoàn thành
Cách mạng một cách vẻ vang. Đạo đức giúp cho con người khi gặp khó khăn, gian khổ,
thất bại mà vẫn ln giữ vững được tinh thần để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình mà
khơng mất đi bản chất cốt cách của con người. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện nào
thì người Việt Nam ta ln trung thành, kiên định với tư tưởng đạo đức của Bác, luôn
thấm nhuần những lời dạy của Bác. Với thời cuộc ngày nay, những phẩm chất đạo đức ấy
càng cần phải được giữ gì và phát huy, nhận thức rõ tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức Cách mạng. Do vậy nên nhóm 8 đã thực hiện đề tài “
Phân tích tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách
mạng và những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng” Nhằm giúp mọi người hiểu rõ
về những bài học, thông điệp quý báu về đạo đức trong Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
1
0
0
Phần 1
TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN
MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
1.1 Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh khơng phải là
những điều mới được đặt ra, mà đó là những phẩm chất đạo đức vốn có từ xa xưa trong tư
tưởng đạo đức truyền thống phương Ðơng nói chung và đạo đức truyền thống Việt Nam
nói riêng. Theo quan niệm truyền thống, trung là trung quân, là trung thành với vua mà
trung thành với vua là trung thành với nước. Ở đây vua với nước là một. Hiếu có nghĩa
con, cháu hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình.
Từ nội dung hẹp của các phạm trù đạo đức cũ, Người mở rộng, đưa vào đây một nội
dung tiến bộ, tư tưởng đạo đức cách mạng. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ
Chí Minh khơng chỉ kế thừa những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân
tộc mà còn vượt qua được hạn chế của truyền thống đó.
Người cho rằng “trung với nước phải gắn liền hiếu với dân” ,vì nước là nước của
dân cịn dân làm chủ đất nước. Về chữ “Trung”, Trung là trung với nước, là trung thành
với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Ðảng, với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Nước ở đây
với ý nghĩa "Dân là con nước, nước là mẹ chung", là nước của dân, của tồn dân tộc chứ
khơng phải của riêng ai, và chính mỗi người dân là những "chủ nhân ông" của đất nước.
Mối quan hệ nước-dân, dân-nước mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau
trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng đồng,
quốc gia, dân tộc. Về chữ “Hiếu”, Hiếu với dân không phải chỉ là hiếu với cha mẹ mình
như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với toàn dân tộc, thể hiện ở chỗ thương
dân, tin dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập nhân dân, lấy dân làm gốc, phục vụ
nhân dân hết lòng. Bác Hồ từng chỉ rõ: "Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân...
Trong xã hội khơng có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân"; "Nhân
dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và
giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình
nghĩa năm châu bốn biển một nhà... Trong nhận thức về đạo đức của Bác: Khơng phải chỉ
có hiếu với bố mẹ, mà trung với nước, hiếu với dân"; “Người kiên quyết cách mạng nhất
lại là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu khơng làm cách mạng thì chẳng những bố
mẹ mình mà hàng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc phong kiến giày vị”
(Trích Bài nói tại Lớp chỉnh đảng Trung ương khóa 2) .
2
0
0
“Trung với nước, hiếu với dân” theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong
mọi cơng việc cách mạng của Ðảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ,
đảng viên và mỗi người dân. Dù mục tiêu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng khác
nhau, nhưng yêu cầu về trung, hiếu luôn nhất quán và là tiêu chí chung cho cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân học tập và rèn luyện. Ðó là, lịng u nước thương nịi, tự
hào với truyền thống vẻ vang của dân tộc; là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người dân
với cộng đồng, với sự nghiệp của Ðảng và dân tộc, với sự hưng vong của đất nước; là ý
chí và nghị lực vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu
chung của sự nghiệp cách mạng; là sự tin u, kính trọng nhân dân. Vì vậy, trong suốt quá
trình xây dựng Ðảng, lãnh đạo cách mạng, Bác thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao
tinh thần trung, hiếu ở mỗi người dân Việt Nam yêu nước nói chung, cán bộ, đảng viên
nói riêng, và địi hỏi họ phải ln ghi sâu trong lịng những chữ "trung với nước, hiếu với
dân".
Khi người đặt vấn đề “ Bao nhiêu lợi ích điều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn điều của
dân… Nói tóm lại quyền hành và lực lượng điều ở nơi nhân dân”. Khi Đảng ta được
thành lập Người luôn luôn nhắc nhở: “Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ từ trên xuống dưới điều
phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đầy tớ cho nhân dân. Bác nhấn mạnh: làm đầy tớ
cho nhân dân chứ không phải là “quan” nhân dân”, Đảng và Chính phủ là “đầy tớ nhân
dân” chứ không phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”. Quan niệm về nước và
dân đã hồn tồn đảo lộn so với trước, rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy,
điều này càng làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước.
Trong Thư gửi thanh niên (1965), Người viết: “Phải ln nâng cao chí khí cách
mạng “trung với nước, hiếu với dân”, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Người mong muốn mỗi người dân Việt Nam phải
trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hi sinh vì đọc lập tự do của tổ quốc. Đó
vừa là một lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người
Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cánh mạng trước đây, mà còn cả cho hiện tại và
tương lại về lâu dài sau này. Ngay bản thân Hồ Chí Minh từ những ngày đầu ra đi tìm
đường cứu nước, hướng tới mục tiêu độc lập cho Tổ quốc, cơm no áo ấm cho đồng bào,
Bác đã vượt qua bao khó khăn, thử thách. Trước sự truy sát ráo riết và đe dọa của kẻ thù
khơng làm Bác nhụt chí. Hay khi phải ngồi trong lao tù của chính quyền Tưởng Giới
Thạch thì lịng kiên trung, quyết tâm giải phóng dân tộc, cơm no áo ấm cho đồng bào của
Bác như càng được bồi đắp thêm. Cho tới khi đã độc lập, Người tuyệt nhiên không ham
muốn công danh phú quý chút nào, khơng muốn dính líu gì với vịng danh lợi, mà Hồ Chí
Minh “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành.
3
0
0
Tóm lại “phải tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Trong đó “trung với nước, hiếu
với dân” là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác.
1.2 Cần kiệm liêm chính chí cơng vơ tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó
là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người. Văn hóa truyền
thống phương Đơng ln rất coi trọng bốn chữ “cần, kiệm, liêm, chính”. Nói theo cách
của Khổng Tử, đó là những phẩm chất tối cần để con người được thực sự là “người”.
Quân tử là phải biết làm tròn phận sự và "tri túc" (biết đủ), khơng tham những gì khơng
phải của mình, khơng chối từ sứ mệnh của mình, khơng làm hại người ngay và khơng bỏ
sót. Đặc biệt, ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục kht
dân, thì gọi là “Liêm”, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp.
Hồ Chí Minh đã kế thừa nững khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư từ
truyền thống phương Đông và làm rõ, rộng hơn so với ý nghĩa trước đây. Người chỉ rõ: “
Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng khơng bao giời làm mà lại
bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần,
kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho
dân”. Đây là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, là biểu hiện của một nội dung phẩm
chất “Trung với nước, hiếu với dân”. Người đã chọn lọc giữ lại nhưng nội dung tốt đẹp,
đồng thời cùng loại bỏ những nội dung không phù hợp và đưa những nội dung phù hợp
mới với yêu cầu của cách mạng. Trong bài viết “Thế nào là Cần”, ký bút danh Lê Quyết
Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, ra ngày 30 tháng 5 năm 1949, Người khẳng định:
“Trời có bón mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đơng
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì khơng thành trời
Thiếu một phương, thì khơng thành đất
Thiếu một đức, thì khơng thành người”
Theo đó người làm rõ tầm quan trọng của “tứ đức”, làm người thiếu một đức thì
khơng thành người. Cụ thể như sau:
4
0
0
“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng déo dai… Muốn cho chữ Cần có nhiều
kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi cơng việc”. Cần tức là lao động cần cù, siêng
năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh
sinh, không lười biếng. Phải thấy rõ “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, là
hạnh phúc của chúng ta”.
“Kiệm là thế nào, là tiết kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi. Cần
với Kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người”. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao
động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của nước, của bản thân mình,
khơng phơ trương hình thức, khơng liên hoan chè chén lu bù. “Tiết kiệm không phải là
bủn xỉn. khi không nên tiêu sài thì một đồng xu cũng khơng nên tiêu. Khi có việc đáng
làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của,
cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, chứ
không phải là kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ”.
Liêm “là trong sạch, không tham lam… Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng
như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được”. “ Liêm là không tham
địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Khơng ham người tâng bốc mình.
Vì vậy mà quang minh chính đại, khơng bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thức ham là ham học,
ham làm, ham tiến bộ”
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì khơng đứng đắn,
thẳng thắn, tức là tà”. Chí được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: “ĐỐI VỚI MÌNH- Chớ
tự kiêu tự đại…ĐỐI VỚI NGƯỜI…Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới.
Thái độ phải chân thành khiêm tốn…Phải thực hành chữ Bác Ái… ĐỐI VỚI VIỆC Phải
để công việc nước lên trên, trước việc tư việc nhà… việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm.
Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
Chí cơng vơ tư là hồn tồn vì lợi ích chung, khơng vì tư lợi, là hết sức công bằng,
không chút thiên tư, thiên vị, cơng tâm, ln đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân
tộc lên trên hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”. Chí cơng vơ tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Người nói: “Đem lịng chí cơng vơ tư mà
đối với người, đối với việc”; “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước…khi
hưởng thụ thì mình nên đi sau”. Về thực chất chí cơng vơ tư là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm
chính.
Hồ Chí Minh viết về “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” hàm chứ yêu cầu và mong mỏi của
Người về sự cần thiết phải rèn luyện đạo đức cách mạng nói chung, xây dựng và rèn “tứ
đức” nói riêng với mỗi cán bộ, đảng viên. Theo người, uy tín của Đảng cầm quyền, của
mỗi cán bộ, đảng viên và lòng tin của nhân dân gắn liền với sự tu dưỡng và gương mẫu
5
0
0
thực hành đạo đức cách mạng, cho nên mỗi cán bộ, đảng viên chỉ biết nói lời hay, ý đẹp
nhưng khơng gương mẫu thực hành “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” thì cũng không thể hấp
dẫn, quy tụ và lãnh đạo được quần chúng nhân dân. Vì vậy , thực hành “ Cần, Kiệm,
Liêm, Chính” khơng chỉ là u cầu cần thiết trong tu dưỡng đạo đức của mỗi người cách
mạng mà còn là biện pháp quan trọng xây dựng Đảng về đạo đức. Theo Bác, việc thực
hành “tứ đức” sẽ không chỉ giúp người cán bộ đảng viên tự soi, tự sửa, tự rèn mình mà
cịn tạo ra một sức mạnh mềm và sức hấp dẫn của một tổ chức, của cả một dân tộc. “ Một
dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một
dân tộc văn minh và tiến bộ”.
Cần, kiệm, liêm, chính cịn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua
yêu nước. Để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội tụ đủ các yếu tố cần,
kiệm, liêm, chính. Bác coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của con người,
giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất, “thiếu một đức, thì khơng thành người”.
Sinh thời, Bác sống rất giản dị, từ lời nói đến việc làm, phong cách làm việc, từ cách
ăn mặc cho đến những sinh hoạt hàng ngày. Bác ăn mặc rất giản dị và tiết kiệm. Quần áo
Bác mặc chỉ có vài bộ, may cùng kiểu. Mà khi cái áo rách, Bác cũng vá đi vá lại, thay cổ
mà vẫn không cho đổi. Đôi dép cao su của Bác, bộ quần áo ka-ki sờn Bác vẫn dùng hàng
ngày, khi biết các đồng chí phục vụ định thay, Bác cũng khơng đồng ý. Đến chiếc ô tô
Bác đi công tác hay đi thăm đồng bào và chiến sĩ trong cả nước cũng chỉ là loại xe bình
thường. Bác khơng dùng chiếc điều hồ nhiệt độ do các đồng chí cán bộ ngoại giao đang
cơng tác ở nước ngồi biếu, mà đề nghị chuyển chiếc điều hồ ấy cho các đồng chí
thương bệnh binh đang điều trị tại trại điều dưỡng hoặc quân y viện, mặc dù lúc đó Bác
đang ở trong ngơi nhà của người thợ điện rất nóng. Những bữa ăn thanh đạm của Người
Chủ Tịch nước cũng chí là dưa cà, bát cơm, tý rau và đơi khi có chút thịt. Kể cả những lần
đi thăm các địa phương, Bác thường không báo trước và mang theo cơm nắm để tránh sự
đón rước linh đình, gây phiền hà và tốn kém tiền của nhân dân. Có thể thấy qua mọi hành
động, suy nghĩ, việc làm của Bác cho thấy được đức tính kiệm của Người, Người kiệm là
vì dân, vì nước, khơng muốn xương máu, mồ hơi của nhân dân bị tiêu sài một cách lãng
phí.
Có thể nói rằng, rèn luyện phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư sẽ làm
cho con người vững vàng trước mọi thử thách. Tuy nhiên, vấn đề này rất phức tạp, bởi nó
liên quan đến nhiều mặt lợi ích cá nhân, nhất là chức, quyền, danh, lợi. Nếu ta không vượt
qua được chủ nghĩa cá nhân, thì bất cứ ai chăng nữa cũng có thể sa vào những hành vi vơ
đạo đức. Đây cũng là điều mà Hồ Chí Minh chăn trở nhiều nhất, đề cập nhiều nhất,
thường xuyên nhất.
6
0
0
1.3 Thương u con người, sống có tình nghĩa
Truyền thống nhân nghĩa của dân tộc ta được hun đúc từ ngàn đời xưa đến nay là đạo
lý làm người về sự giúp đỡ, tinh thần tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau, khơng màng
những khó khăn gian khổ. Lịng nhân ái, yêu thương lẫn nhau, nhường nhịn, vị tha khoan
dung độ lượng, sống với nhau có tình có nghĩa đã trở thành giá trị truyền thống, đạo lý
làm người tốt đẹp của nhân dân ta. Trong gia đình, giá trị truyền thống đó chúng ta có thể
thấy được chính là tình nghĩa cha mẹ và con cái “Máu chảy ruột mềm”, “Một giọt máu
đào hơn ao nước lã”, “Cây xanh thì lá cũng xanh/ Cha mẹ hiền lành để đức cho con”,
“Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”… Rộng hơn là
tình nghĩa làng xóm, quê hương, đất nước “Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí
cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Không
thầy đố mày làm nên”,… Hay trong những áng thiên cổ hùng văn đời đời bất diệt cũng
luôn đề cập đến giá trị truyền thống quý báu này. Trong tác phẩm “Bình Ngơ đại cáo” –
bản Tun ngơn độc lập thứ 2 của dân tộc, Nguyễn Trãi có viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” - Là một người quân tử, là đấng trượng phu
trong xã hội phải biết thương người, trọng người, lo việc yên dân.
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng
sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thập niên, cùng với việc thể
nghiệm chính bản thân mình qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu
thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người đã kế thừa
nhân nghĩa của ông cha, bởi vậy, trong Di chúc, Bác đã viết “Đầu tiên là công việc đối với
con người… phải có tình đồng chí u thương nhau”. Theo Hồ Chí Minh, người cách
mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu
thương nhân dân, yêu thương con người mà Hồ Chí Minh sẵn sàng chấp nhận mọi gian
khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân tộc, đem lại tự do hạnh phúc cho con người.
Chính vì vậy, Người dành cả cuộc đời mình để lo giải phóng cho dân tộc, đấu tranh cho
con người thoát khỏi áp bức, bất công. Tháng 6-1968, Bác khẳng định: “Nhân dân ta từ
lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa”, tiếp đó Người lại nói: “Từ khi có Đảng ta lãnh đạo
và giáo dục tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào – đồng chí,
tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà”. Luận điểm này của Hồ Chí Minh thể hiện sự thấu
triệt cái giá trị cốt lõi dân tộc – nhân văn trong sứ mạng lãnh đạo và giáo dục quần chúng
của Đảng ta, Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn, trước hết dành cho
những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức, bị bóc lột
7
0
0
không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu khơng có tình u thương như vậy
thì khơng thể nói đến cách mạng, càng khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước là tư tưởng lớn,
là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh, được thể hiện ở sự ham muốn tột bậc của Người
là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta
ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên
nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức
và lý tưởng nhân văn của Người. Bác đã khóc thương những người da đen nơ lệ bị áp bức,
bóc lột trên tồn thế giới. Năm 1912, Bác Hồ tới thành phố New York – nước Mỹ, vừa
kiếm sống vừa nghiên cứu lịch sử xã hội Mỹ. Thời gian này, Người tranh thủ đến tham
quan tượng Nữ Thần Tự do. Trong cuốn sổ ghi cảm tưởng, các chính khách đều ca ngợi
ngơi sao tỏa sáng trên vịng nguyệt quế là ánh sáng tự do. Duy có Bác nhìn xuống chân
tượng và ghi: “Ánh sáng trên đầu Thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân
tượng Thần Tự do thì người da đen đang bị chà đạp; số phận người phụ nữ cũng vậy. Bao
giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các
dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?...”. Năm 1945, nạn đói
xảy ra làm 2 triệu người chết. Bác cũng rất đau xót và đã kêu gọi: “Tơi xin đề nghị với
đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước cứ mười ngày thì nhịn ăn một bữa, một tháng
nhịn ăn ba bữa, lấy gạo đó mỗi bữa một bơ để cứu giúp dân nghèo”. Ngày 07/12/1945,
trong thư gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia
sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là cách thiết thực để chúng ta giữ vững quyền
tự do, độc lập”. Bác vừa kêu gọi đồng bào, vừa tự gương mẫu cùng các Bộ trưởng và nhân
viên Chính phủ cùng tham gia sản xuất sau giờ làm việc, tăng gia một cách thực sự,
không phải là tăng gia một cách hình thức.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln sẵn sàng hịa mình
vào cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ của các dân tộc trên thế giới,
kiếm sống bằng những nghề lao động rất bình thường như đầu bếp, chép tranh, cào
tuyết... Vì vậy, Người hiểu được nỗi vất vả của những người dân lao động nghèo khổ và
ln dành cho họ tình u thương bao la. Năm 1913, với tên gọi Văn Ba, Người làm phụ
bếp cho khách sạn Carlton (Luân Đôn, Anh), nơi đầu bếp nổi tiếng người Pháp Escoffier
làm bếp trưởng. Bất kỳ khi nào nhìn thấy một khoanh bít tết lớn hay miếng thịt gà to còn
chưa được đụng đến, Người lại chuyển chúng sang một chiếc đĩa sạch và gửi trở lại nhà
bếp. Một lần, Escoffier hỏi Ba: “Tại sao anh không vứt những thức đó vào thùng rác như
những người khác?”, anh Ba trả lời: “Những thứ này không nên vứt đi. Ơng có thể mang
8
0
0
chúng cho người nghèo”. Trên cương vị Chủ tịch nước, tình yêu thương bao la đối với
người dân lao động càng được vun đắp, Người càng quan tâm, gần gũi khơng hề có
khoảng cách giữa lãnh tụ và quần chúng.
Tình yêu thương con người theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng trên lập trường
của giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí,
anh em, phải được thể hiện ở hành động cụ thể thiết thực. Điều đó địi hỏi mỗi người phải
chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha đối với người
khác; phải có thái độ tơn trọng những quyền của con người, tạo điều kiện cho con người
phát huy tài năng; nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ khơng
phải thái độ “dĩ hịa vi q”, không phải hạ thấp càng không phải vùi dập con người.
Bằng hành động và ứng xử của mình, Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta một đạp lý
làm người là phải biết yêu thương và sống với nhau có tình có nghĩa. Theo Hồ Chí Minh,
“hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống khơng có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”. Đi
Chiến dịch Biên giới năm 1950, Người không cưỡi ngựa mà muốn cùng đi bộ với cán bộ,
chiến sĩ, để ngựa thồ hành lí, đạn dược đỡ nặng vai cho bộ đội. Có lần khi đến thăm trại tù
binh, do trời đang rét, Bác đã cho viên quan ba thầy thuốc của quân đội Pháp chiếc áo
khoác của mình… Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Trong đời hoạt động cách
mạng cũng như trong đời sống hằng ngày, Hồ Chủ tịch đối xử với mọi người ln có lí,
có tình. Bác Hồ mn vàn u thương đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình u đó, có
chỗ cho mọi người, khơng qn sót một ai và sắp xếp cho mỗi người vị trí chiến đấu,
cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc
đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt... Đối với kẻ lầm đường lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch còn
rộng hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì cảnh
ngộ mà lạc bầy…”. Câu chuyện về người cận vệ Tạ Đình Đề cũng là một minh chứng cho
điều này, từ kẻ ám sát trở thành người cận vệ trung thành của Bác Hồ. Hay những năm ở
và làm việc tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về tấm lòng
khoan dung độ lượng với cán bộ, đồng chí, anh em và những người giúp việc quanh mình.
Khi ai đó có khuyết điểm sai sót, Người nhẹ nhàng, ân cần nhắc nhở, bảo ban có lý, có
tình. Người thường phê bình cán bộ tật nóng nảy, cáu gắt với cấp dưới, hách dịch với
nhân dân và Người cho rằng nguồn gốc của những tật xấu ấy chính là khơng tơn trọng con
người.
Vì tình thương yêu con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hy sinh cuộc sống riêng của
mình cho Tổ quốc, nhân dân, Người chọn cho mình một cuộc sống giản dị, thanh đạm
9
0
0
cùng chia sẻ những khó khăn với đất nước và nhân dân. Có lần ngành văn hóa thơng tin
đến xin phép dựng nhà lưu niệm về Bác ở Nam Liên (Nghệ An), ở Pác Bó (Cao Bằng),
nhưng Người đã từ chối. Bác nói: “Các chú thương Bác thì nên lo lấy cái ở, cái ăn, cái
mặc của bà con ở đây. Dựng nhà lưu niệm tốt làm gì, nếu bà con ta ở vùng này ăn chưa
no, mặc chưa ấm, ở chưa sạch. Phải tổ chức nhà trẻ cho tốt, phải xây dựng trường học,
bệnh xá cho tốt. Phải chăm lo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho bà con xã viên.
Đó là cách lưu niệm tốt nhất”. Có thể thấy tấm lịng u thương con người là đức tính tự
nhiên của Bác. Điều đó được thể hiện qua từng cử chỉ, lời nói và việc làm cụ thể của
Người. Vì thế mà trước lúc đi xa Bác “khơng có điều gì phải hối hận” chỉ tiếc duy nhất
một điều - một điều cao cả, là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho dân,
cho nước.
1.4 Tinh thần quốc tế trong sáng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã giành trọn cả cuộc đời cho sự nghiệp
của Đảng và của dân tộc. Đi theo con đường Người đã chọn, nhân dân ta từ thân phận nô
lệ, lầm than đã trở thành những người làm chủ. Đất nước ta từ một đất nước chịu ách đô
hộ của thực dân, phong kiến không chỉ trở thành một quốc gia độc lập mà ngày càng phát
triển và khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế. Con đường ấy gắn liền với
hệ thống tư tưởng toàn diện và sâu sắc của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam. Trong đó, tư tưởng về đồn kết quốc tế trong sáng luôn được đề cao, và sau
này trở thành cơ sở để Nhà nước Việt Nam kế thừa và phát triển, xây dựng thành đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của đạo
đức cộng sản chủ nghĩa. Điều này bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân. Nhằm
vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia dân tộc. Hồ Chí Minh là tượng
trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuẩn nhuyễn với chủ nghĩa
quốc tế vô sản. Trong bài "Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế" (1953), Người đã
nhấn mạnh: "Tinh thần yêu nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ
đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hịa bình thế giới". Đối
với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồn kết quốc tế cịn phải gắn liền với chủ nghĩa yêu nước.
Nếu tinh thần yêu nước khơng chân chính và tinh thần quốc tế khơng trong sáng thì có thể
dẫn tới tư tưởng dân tộc hẹp hòi, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn, kỳ thị
dân tộc. Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc
hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh
chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu, thù địch.
10
0
0
Nội dung của chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc.
Đó là sự tơn trọng, hiểu biết, thương u và đồn kết với giai cấp vơ sản tồn thế giới, và
các dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến
bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc;
chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, sơ vanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Bác đã đến nhiều nước trên thế giới, các nước tư
bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân và
Nhân Dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của giai cấp tư sản. Thực tế
sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: “Nơi đâu cũng có người nghèo như
ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn
bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác”. Người đi tới kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai loại người: người áp bức và người bị áp bức. Cũng chỉ có một mối tính
hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vô sản”. "Mặc dầu chúng ta là những người khác
giống: khác nước, khác tơn gíáo... chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng
đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta" và trong cuộc chiến đấu đó
"chúng ta khơng đơn độc vì chúng ta có tất cả các dân tộc của chúng ta ủng hộ" trong Bài
Ðoàn kết giai cấp đăng trên báo Le Paria số 25 tháng 5 năm 1924. Kết luận này cho thấy
nhận thức của Người về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã vươn từ tầm nhìn quốc gia
lên tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu của tư tưởng đồn kết quốc tế của
Hồ Chí Minh - đồn kết với những người cần lao trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân
tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế. Theo Người, tinh thần quốc tế
trong sáng chính là tinh thần đồn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động
các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Theo Bác,
giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất
nước mình
Đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh theo tinh thần quốc tế trong sáng: “Quan sơn
muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em”. Trong điều kiện mà “cách mạng
giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ sản trong phạm vi tồn
thế giới” thì “thắng lợi của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc gắn liền với sự
ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào cơng nhân ở các
nước tư bản chủ nghĩa”. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ động “kết hợp phong
trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của
các dân tộc bị áp bức”. Ðiểm mới và sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người phát
hiện ra mối liên hệ hữu cơ giữa cách mạng vô sản ở các nước chính quốc và cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Người đã diễn tả rất sinh động và dễ hiểu mối
quan hệ này bằng việc ví chủ nghĩa đế quốc như con đỉa có hai vịi, một vịi hút máu giai
cấp vơ sản ở chính quốc, một vịi hút máu các dân tộc thuộc địa. Giai cấp vô sản, muốn
thắng lợi, phải cùng một lúc cắt bỏ cả hai vòi đi. Ngay từ năm 1921, Người khẳng định,
11
0
0
thực dân, đế quốc là kẻ thù của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao
động chính quốc. Bởi vậy, để chống lại kẻ thù chung, để giải phóng thân phận nơ lệ và bị
bóc lột, địi hỏi sự đồn kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao động ở thuộc địa và chính
quốc. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam chiến thắng được những kẻ thù hùng
mạnh cũng bởi nhờ toàn dân ln đồn kết một lịng; đồng thời, đã nhận được sự đoàn kết,
ủng hộ, giúp đỡ quý báu cả về tinh thần và vật chất của các nước anh em, của bạn bè u
chuộng hịa bình trên tồn thế giới. Vì thế, Người đã bày tỏ mong muốn đến ngày thắng
lợi “Sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ
nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta”. Đó là biểu hiện truyền thống đoàn kết, thủy chung của dân tộc
Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết
hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu
tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng,
giữ gìn và phát triển tình đồn kết gắn bó giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xơ và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; với nhân dân và các dân tộc Á, Phi, Mỹ La-tinh... coi
trọng, thắt chặt tình đồn kết, giúp đỡ của nhân dân thế giới và các tổ chức quốc tế đối với
Việt Nam; gắn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta với cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và con người còn được khẳng định trước
tồn thế giới qua Tun ngơn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người
khởi thảo, Hồ Chí Minh đã đi tới kết luận phản ánh nguyện vọng chung của dân tộc Việt
Nam, của các dân tộc, đồng thời thể hiện rõ tư tưởng của mình khi Người viết rằng: "Tất
cả các dân tộc trên thế gíới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do". Đồng thời, Người cịn ln nhắc nhở Nhân Dân Việt
Nam về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Nhân Dân các
nước này. Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập tự do của dân tộc mình, cho nên cũng rất trân
trọng độc lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước bất cứ
một hành động xâm lược nào và cho rằng: giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do
của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, “giúp bạn là tự giúp mình”, coi
trọng, thắt chặt tình đồn kết, giúp đỡ của nhân dân thế giới và các tổ chức quốc tế đối với
Việt Nam; gắn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta với cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây chính là một
bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày cơng xây đắp tinh
thần đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu
quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền “văn hóa hịa
bình” cho nhân loại; đó là di sản thời đại vơ giá của Người về hịa bình, hữu nghị, hợp tác
12
0
0
phát triển giữa các dân tộc. Bác lên án và đấu tranh chống chia rẽ, thù hằn, bất bình đẳng,
phân biệt chủng tộc, đoàn kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ khắp thế giới. Và
Hồ Chí Minh luôn gắn mục tiêu đấu tranh của Nhân Dân Việt Nam với mục tiêu chung
của nhân loại vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người đặc biệt coi
trọng việc mở rộng hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật với tất cả các nước để
tăng thêm sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Ngay sau khi nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa được thành lập, trong bối cảnh thù trong giặc ngoài câu kết với nhau
chống phá cách mạng, Hồ Chí Minh vẫn trước sau như một tỏ rõ thiện chí Việt Nam sẵn
sàng quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước trên thế giới. Hồ Chí Minh tha
thiết với độc lập, tự do của dân tộc mình, cho nên cũng rất trân trọng độc lập tự do của
các dân tộc khác.
Có thể nói, tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình
thương u đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thật sự cho con người. Từ chủ
nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tình
đồn kết quốc tế rộng lớn của Nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, góp phần
vào những thắng lợi to lớn của Nhân dân Việt nam và Nhân dân thế giới.
Phần 2
TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG NGUYÊN
TẮC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
2.1 Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức
2.1.1 Nói đi đôi với làm
Đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng đạo đức mới, nét đẹp trong
truyền thống đạo đức dân tộc được Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới. Nguyên tắc
cơ bản này là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nó đã trở thành phương pháp luận
trong cuộc sống và là nền tảng triết lý sống hết sức bình dị mà vô cùng sâu sắc của Người.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, khi đề cập tư cách một người cách mệnh, Hồ Chí
Minh u cầu: “Nói thì phải làm”. Cụ thể phải nói thế nào, làm thế ấy, là biểu hiện kết quả
của lời nói. Đó là sự thống nhất giữa suy nghĩ và hành động cụ thể, thể hiện lập trường tư
tưởng nhất quán, kiên định vững vàng và hiệu quả cơng tác cao. Nói đi đơi với làm tưởng
rằng dễ, nhưng lại là một yêu cầu rất cao, không phải ai, lúc nào, ở đâu cũng làm được.
13
0
0
Là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - đạo đức cách mạng;
hồn tồn đối lập với thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo, nói nhiều làm ít, thậm
chí nói mà khơng làm. Hồ Chí Minh đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh quan
liêu, coi thường quần chúng của một số cán bộ, đảng viên. Miệng thì nói dân chủ, nhưng
làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm
trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm, chính sách của Đảng
và Chính phủ, làm tổn hại đến uy tín của Đảng và Chính phủ trước nhân dân.
Nói đi đơi với làm là thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và
hành động, nhận thức và việc làm. Nói về đạo đức phải đi đơi với thực hành đạo đức có
hiệu quả. Trong cả quãng đường hoạt động cách mạng của Người, “nói đi đơi với làm”
chính là ngun tắc đạo đức, lẽ sống, phương châm hoạt động. Nói được làm được sẽ
mang lại những hiệu quả lớn, được nhiều người hưởng ứng và làm theo. Khi đề ra công
việc, phải tránh cách nói chung chung, đại khái và khó hiểu. Khi nói cần cụ thể, thiết thực.
Cán bộ, đảng viên phải nói đi đơi với làm, nói trước làm trước, khơng được nói nhiều làm
ít hoặc nói mà khơng làm. Nếu nói rằng phải cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư mà bản
thân lại lười biếng, khơng hồn thành cơng việc được giao, ln tìm cách tham tiền của
Nhà nước và nhân dân, khơng tiết kiệm, sống hoang phí, xa hoa… thì những lời nói đó sẽ
khơng có tác dụng giáo dục.
Hồ Chí Minh là tấm gương trong sáng về lời nói đi đơi với việc làm. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến cơng tác giáo dục, rèn luyện, đạo đức cho cán bộ,
đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân. Người là hiện thân của đạo đức cách mạng, là tấm
gương sáng về rèn luyện đạo đức cách mạng cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta noi
theo. Người khuyên cán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính, phải thật sự là người đầy tớ của
nhân dân, và chính Bác làm gương trước sống giản dị, thanh bạch, khiêm tốn để làm đúng
điều Người dạy: “Cán bộ Đảng, chính quyền ngay cả Bác là cán bộ cao nhất đều là đầy tớ
của nhân dân, phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phải cần, kiệm, liêm, chính”.
Năm 1945, trước nạn đói trên miền Bắc, Người đề xuất toàn dân tiết kiệm gạo để
giúp đồng bào bị đói và Người kêu gọi: “tơi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin
thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn 3 bữa. Đem gạo đó (một
bữa một bơ) để cứu dân nghèo”. Những năm Người làm việc tại Phủ Chủ tịch, khi kinh tế
khó khăn, đời sống nhân dân cịn nghèo, mọi người ăn cơm độn ngơ, khoai, sắn, Người đề
nghị nhà bếp là: cán bộ, nhân dân ăn độn bao nhiêu phần trăm, nấu cơm độn cho Người
từng ấy giống như cán bộ, nhân dân. Trong chuyến đi thăm các địa phương, nhất là các
chuyến đi trong ngày, Người thường mang theo cơm nắm với muối vừng vì khơng muốn
phiền hà đến cơ sở. Về chỗ ở, Người khước từ ở ngơi nhà sang trọng của Tồn quyền
Đông Dương trước đây mà chỉ ở ngôi nhà của người công nhân phục vụ. Người đi dép
lốp, mặc áo vá vai, dùng chiếc ơ tơ cũ, mà coi đó là “cái phúc của dân, đừng bỏ cái phúc
14
0
0
đó đi”. Mùa hè nóng bức, Hồ Chí Minh dùng chiếc quạt lá cọ, “Để dành điện phục vụ cho
sản xuất, dành điện phục vụ sinh hoạt cho nhân dân”.
Từ việc làm của Bác Hồ, dễ dàng nhận ra được ở Người thì lời nói đi đơi với hành
động, lý luận đi đơi với thực tiễn, nói là để mà làm, làm phải đúng như điều đã nghĩ, đã
nói. Hơn nữa, Người nói ít, nhưng làm nhiều, có những vấn đề đạo đức Người khơng nói
mà chỉ làm. Vậy mới thấy Bác đã thực hiện và giáo dục mọi người nguyên tắc ấy nghiêm
túc và đầy đủ như thế nào.
2.1.2 Nêu gương về đạo đức
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đơng. Từ
xưa, ở phương Đơng nói chung và Việt Nam nói riêng đều coi trọng phương thức “Dĩ
nhân nhi giáo, dĩ ngôn nhi giáo” (nghĩa là, trước hết phải giáo dục bằng tấm gương sống
của mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói), và đều nêu cao lý tưởng “vua sáng, tôi
hiền”, nghĩa là nêu cao tấm gương đạo đức của người lãnh đạo. Để đạo đức cách mạng
thấm sâu, bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành nền tảng tinh thần của nhân dân, Hồ
Chí Minh địi hỏi cán bộ , đảng viên: “Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương
trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh
thần, vật chất, văn hóa”.
Lời nói đi đôi với việc làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh
đã viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đơng đều giàu tình cảm, và đối với họ một
tấm gương cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Điều này được thể
hiện trước hết ở việc nói đi đơi với làm, nhất là đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Hồ Chí
Minh phê phán tình trạng nói mà khơng làm, thậm chí nói một đường làm một nẻo; nói thì
hay làm thì dở; nói thì “đầy đạo đức”, nhưng trong thực tế cuộc sống thì bng thả, xa
hoa, gian dối... Thứ hai, Người thường căn dặn chúng ta nên nói ít làm nhiều chứ khơng
phải nói nhiều làm ít. Hiệu quả công việc là thước đo và là minh chứng hùng hồn cho tư
tưởng. Thứ ba, ở Hồ Chí Minh, nhiều khi khơng biểu lộ bằng lời nói, mà mỗi hành vi,
việc làm của Người đều tiềm ẩn những tư tưởng đạo đức cách mạng. Người dạy rằng:
“Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu
mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Tự mình phải chính trước, mới
giúp người khác chính. Mình khơng chính, mà muốn người khác chính là vơ lý.
Trong Di chúc để lại, Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân ”. Rèn luyện thật sự là để chống lại
thói nói mà khơng làm, nói nhiều làm ít, nói ít làm ít, nói ít khơng làm, nói một đằng làm
một nẻo! Cán bộ, Đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và
15
0
0
dám chịu trước dân cả về lời nói và việc làm, phải luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu đựng gian
khổ, quyết tâm và tìm mọi cách giải quyết kịp thời, hiệu quả, những nhu cầu mà dân đặt
ra, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Người cịn nói: “Lấy gương người tốt,
việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng
Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Trong
gia đình, cha mẹ có thể là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối với các em;
trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trị; trong cơ quan, tổ chức thì
cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác.
Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có trách nhiệm tự
tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, mà còn phải là tấm gương giúp
nhân dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln là một tấm gương đạo đức mẫu mực cho mọi người học tập và noi theo. Tấm
gương đạo đức của Người đã đạt tới sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa giáo dục
đạo đức và nêu gương đạo đức, đạt tới sự nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo
đức vĩ nhân và đạo đức đời thường.
Sinh thời, khi nước nhà vừa giành được độc lập năm 1945, đứng trước nạn đói Bác
đã kêu gọi tồn dân diệt “giặc đói” bằng một hành động cụ thể là “cứ 10 ngày nhịn ăn một
bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Ðem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo.” Và cho dù
phải làm việc nhiều, sức khỏe lại giảm sút bởi vừa trải qua trận ốm nặng trước đó nhưng
Người vẫn nêu gương “tôi xin thực hành trước” và Người đã thực hiện một cách rất
nghiêm túc. Người chính là tấm gương đi đầu để cho mọi người học tập và noi theo.
Khơng chỉ gương mẫu, Bác cịn ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên ghi nhớ, học tập, noi
gương các đồng chí: Trần Phú, Ngơ Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hồng
Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai… Vì các đồng chí đó “đã nêu gương chói lọi của đạo
đức cách mạng chí cơng vơ tư cho tất cả chúng ta học tập.”
Trong kháng chiến chống Pháp (tháng 9/1950), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã y án tử
hình đối với Trần Dụ Châu, Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu phạm tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, bớt xén phần cơm áo của bộ đội để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Bác trừng trị kẻ
có tội để làm gương cho người khác, để mọi người biết sai mà sửa, biết xấu mà tránh, noi
gương tốt, bài trừ cái xấu.
Suốt cả cuộc đời, Người ln tâm niệm ý chí làm cho nhân dân ta, đồng bào ta, Tổ
quốc ta, dân tộc ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, mọi người đều được ấm no, tự do, hạnh
phúc, ai cũng được học hành; đất nước ta ngày càng giàu mạnh, sánh vai với các nước anh
em tiến bộ trên thế giới. Thực hiện lý tưởng ấy, Hồ Chí Minh đã hiến dâng cả đời mình từ
tuổi thanh niên đến lúc ra đi, chấp nhận cuộc dấn thân với bao thử thách, bao kẻ thù gian
manh, tàn bạo, hung hãn nhất thời đại và đã chiến thắng một cách vẻ vang. Cách mạng
tháng Tám 1945 thành công, đất nước phải đối mặt với mn vàn khó khăn, thử thách, thù
trong giặc ngồi, nạn đói, nạn mù chữ, tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng bằng trí
16
0
0
sáng tạo, khát vọng độc lập, tự do, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng và nhân dân ta vượt
qua tất cả để chiến đấu, chiến thắng giữ vững độc lập nhà nước non trẻ vừa thành lập.
Sở dĩ Hồ Chí Minh trở thành một nhà đạo đức chân chính đã để lại cho chúng ta
một tấm gương đạo đức tuyệt vời, là vì suốt đời Người khơng ngừng tự hồn thiện mình
theo lý tưởng Chân, Thiện, Mỹ; nêu gương từ việc lớn đến việc nhỏ, nên đã thực sự nhất
quán giữa đời công và đời tư, giữa đạo đức cách mạng với đạo đức hàng ngày. Như vậy,
một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một nền rộng lớn, vững chắc, khi những
chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hàng ngày của mội người và của tồn xã
hội.
2.2 Xây đi đơi với chống
Hồ Chí Minh cho rằng, nguyên tắc xây đi đôi với chống là địi hỏi của nền đạo
đức mới, thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Để hiểu
rõ được nguyên tắc này, trước hết ta phải hiểu được xây ở đây là gì và chống là như thế
nào. Xây tức là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới, chống là chống các biểu
hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức.
Bởi trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều hiện tượng tốt, nhưng
cũng có khơng ít những hiện tượng xấu xảy ra. Tốt và xấu, đúng và sai, đạo đức và vô đạo
đức xảy ra một cách đồng thời, đan xen nhau trong hoạt động hàng ngày của những con
người khác nhau, thậm chí trong cùng một cá thể. Cái xấu sẽ khơng vì cái tốt xuất hiện
mà mất đi, và cái tốt nếu khơng được bồi dưỡng xây đắp lại có thể mất dần. Bởi vậy ngoài
việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống
những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với những yêu cầu của đạo đức
mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, là nguyên
tắc được Hồ Chí Minh khẳng định và vận dụng thường xuyên linh hoạt, đầy sáng tạo
trong chỉ dẫn thực hiện.
Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
mạnh ở mỗi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng” Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lịng. Ta phải biết
làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần
đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Bản thân sự tự giác cũng là một phẩm chất đạo
đức cao quý đối với mỗi người và mỗi tổ chức, trước hết là Đảng. Tự giác là một hình
thức rèn luyện bản thân để biết cái nào đúng cái nào sai, cái nào nên làm và cái nào không
nên làm, tạo nên những thói quen mới trong cách suy nghĩ, hành động và diễn thuyết
nhằm mục đích nâng cao bản thân và hướng đến thành công cho bản thân mỗi người. Rèn
luyện ý thức tự giác là nhiệm vụ được định hướng và có chọn lọc, nó là kết quả của một
quá trình lặp đi lặp lại, kiên trì và bền bỉ nỗ lực chứ không phải là tự nhiên mà nó có sẵn
17
0
0
cùng chia sẻ những khó khăn với đất nước và nhân dân. Có lần ngành văn hóa thơng tin
đến xin phép dựng nhà lưu niệm về Bác ở Nam Liên (Nghệ An), ở Pác Bó (Cao Bằng),
nhưng Người đã từ chối. Bác nói: “Các chú thương Bác thì nên lo lấy cái ở, cái ăn, cái
mặc của bà con ở đây. Dựng nhà lưu niệm tốt làm gì, nếu bà con ta ở vùng này ăn chưa
no, mặc chưa ấm, ở chưa sạch. Phải tổ chức nhà trẻ cho tốt, phải xây dựng trường học,
bệnh xá cho tốt. Phải chăm lo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho bà con xã viên.
Đó là cách lưu niệm tốt nhất”. Có thể thấy tấm lịng u thương con người là đức tính tự
nhiên của Bác. Điều đó được thể hiện qua từng cử chỉ, lời nói và việc làm cụ thể của
Người. Vì thế mà trước lúc đi xa Bác “khơng có điều gì phải hối hận” chỉ tiếc duy nhất
một điều - một điều cao cả, là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho dân,
cho nước.
1.4 Tinh thần quốc tế trong sáng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã giành trọn cả cuộc đời cho sự nghiệp
của Đảng và của dân tộc. Đi theo con đường Người đã chọn, nhân dân ta từ thân phận nô
lệ, lầm than đã trở thành những người làm chủ. Đất nước ta từ một đất nước chịu ách đô
hộ của thực dân, phong kiến không0 chỉ trở thành một quốc gia độc lập mà ngày càng phát
0
triển và khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế. Con đường ấy gắn liền với
hệ thống tư tưởng toàn diện và sâu sắc của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam. Trong đó, tư tưởng về đồn kết quốc tế trong sáng luôn được đề cao, và sau
này trở thành cơ sở để Nhà nước Việt Nam kế thừa và phát triển, xây dựng thành đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của đạo
đức cộng sản chủ nghĩa. Điều này bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân. Nhằm
vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia dân tộc. Hồ Chí Minh là tượng
trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuẩn nhuyễn với chủ nghĩa
quốc tế vơ sản. Trong bài "Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế" (1953), Người đã
nhấn mạnh: "Tinh thần yêu nước và tinh thần Quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ
đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hịa bình thế giới". Đối
với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồn kết quốc tế còn phải gắn liền với chủ nghĩa yêu nước.
Nếu tinh thần u nước khơng chân chính và tinh thần quốc tế khơng trong sáng thì có thể
dẫn tới tư tưởng dân tộc hẹp hòi, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn, kỳ thị
dân tộc. Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ một quốc gia dân tộc
hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh
chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu, thù địch.
10
0
0
Nội dung của chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc.
Đó là sự tơn trọng, hiểu biết, thương u và đồn kết với giai cấp vơ sản tồn thế giới, và
các dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến
bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc;
chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, sơ vanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Bác đã đến nhiều nước trên thế giới, các nước tư
bản cũng như thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân và
Nhân Dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của giai cấp tư sản. Thực tế
sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: “Nơi đâu cũng có người nghèo như
ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn
bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác”. Người đi tới kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai loại người: người áp bức và người bị áp bức. Cũng chỉ có một mối tính
hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vô sản”. "Mặc dầu chúng ta là những người khác
giống: khác nước, khác tơn gíáo... chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng
đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta" và trong cuộc chiến đấu đó
"chúng ta khơng đơn độc vì chúng ta có tất cả các dân tộc của chúng ta ủng hộ" trong Bài
Ðoàn kết giai cấp đăng trên báo Le Paria số 25 tháng 5 năm 1924. Kết luận này cho thấy
nhận thức của Người về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã vươn từ tầm nhìn quốc gia
lên tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu của tư tưởng đồn kết quốc tế của
Hồ Chí Minh - đồn kết với những người cần lao trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân
tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế. Theo Người, tinh thần quốc tế
trong sáng chính là tinh thần đồn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động
các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Theo Bác,
giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất
nước mình
Đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh theo tinh thần quốc tế trong sáng: “Quan sơn
muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em”. Trong điều kiện mà “cách mạng
giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ sản trong phạm vi tồn
thế giới” thì “thắng lợi của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc gắn liền với sự
ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào cơng nhân ở các
nước tư bản chủ nghĩa”. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ động “kết hợp phong
trào cách mạng nước ta với phong 0trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của
0 sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người phát
các dân tộc bị áp bức”. Ðiểm mới và sâu
hiện ra mối liên hệ hữu cơ giữa cách mạng vô sản ở các nước chính quốc và cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Người đã diễn tả rất sinh động và dễ hiểu mối
quan hệ này bằng việc ví chủ nghĩa đế quốc như con đỉa có hai vịi, một vịi hút máu giai
cấp vơ sản ở chính quốc, một vịi hút máu các dân tộc thuộc địa. Giai cấp vô sản, muốn
thắng lợi, phải cùng một lúc cắt bỏ cả hai vòi đi. Ngay từ năm 1921, Người khẳng định,
11
0
0
thực dân, đế quốc là kẻ thù của nhân dân
thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao
động chính quốc. Bởi vậy, để chống lại kẻ thù chung, để giải phóng thân phận nô lệ và bị
bóc lột, địi hỏi sự đồn kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao động ở thuộc địa và chính
quốc. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam chiến thắng được những kẻ thù hùng
mạnh cũng bởi nhờ tồn dân ln đồn kết một lịng; đồng thời, đã nhận được sự đoàn kết,
ủng hộ, giúp đỡ quý báu cả về tinh thần và vật chất của các nước anh em, của bạn bè u
chuộng hịa bình trên tồn thế giới. Vì thế, Người đã bày tỏ mong muốn đến ngày thắng
lợi “Sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ
nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta”. Đó là biểu hiện truyền thống đoàn kết, thủy chung của dân tộc
Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết
hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu
tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng,
giữ gìn và phát triển tình đồn kết gắn bó giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; với nhân dân và các dân tộc Á, Phi, Mỹ La-tinh... coi
trọng, thắt chặt tình đồn kết, giúp đỡ của nhân dân thế giới và các tổ chức quốc tế đối với
Việt Nam; gắn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta với cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và con người còn được khẳng định trước
tồn thế giới qua Tun ngơn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người
khởi thảo, Hồ Chí Minh đã đi tới kết luận phản ánh nguyện vọng chung của dân tộc Việt
Nam, của các dân tộc, đồng thời thể hiện rõ tư tưởng của mình khi Người viết rằng: "Tất
cả các dân tộc trên thế gíới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do". Đồng thời, Người cịn ln nhắc nhở Nhân Dân Việt
Nam về những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Nhân Dân các
nước này. Hồ Chí Minh tha thiết với độc lập tự do của dân tộc mình, cho nên cũng rất trân
trọng độc lập tự do của các dân tộc khác. Bởi thế, Người hết sức căm giận trước bất cứ
một hành động xâm lược nào và cho rằng: giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do
của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình, “giúp bạn là tự giúp mình”, coi
trọng, thắt chặt tình đồn kết, giúp đỡ của nhân dân thế giới và các tổ chức quốc tế đối với
Việt Nam; gắn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta với cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây chính là một
bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày cơng xây đắp tinh
thần đồn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu
quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền “văn hóa hịa
bình” cho nhân loại; đó là di sản thời đại vơ giá của Người về hịa bình, hữu nghị, hợp tác
12
0
0