Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

THU HOẠCH phạm trù hình thái kinh tế xã hội trong lời tựa “góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” của mác ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới đất nước của đảng ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.64 KB, 30 trang )

THU HOẠCH-Phạm trù hình thái kinh tế- xã hội trong Lời tựa
“góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” của Mác. ý nghĩa đối
với sự nghiệp đổi mới đất nước của đảng ta hiện nay

1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Lời tựa tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”
được Mác viết từ tháng 8 năm 1858 đến tháng 02 năm1859, được xuất
bản và phát hành thánh 6 năm 1859. Tuy chỉ có 5 trang song là một văn
kiện cực kỳ quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển triết học
Mác. Trong đó Mác đã trình bày khái quát nhưng rất rõ ràng quan niệm
về chủ nghĩa duy vật lịch sử - một sự khái qt thiên tài mà tồn bộ triết
học trước đó chưa đạt tới được. Các quan niệm đó được Mác coi là kim
chỉ nam cho mọi sự nghiên cứu sau này của mình. Ơng viết: “Kết quả
chung mà tơi đã đạt được và đã trở thành kim chỉ nam cho mọi sự nghiên
cứu sau này của tơi”1. ở đó chủ nghĩa duy vật đã được áp dụng một cách
triệt để vào lĩnh vực xã hội, làm cho triết học Mác trở nên cách mạng,
khoa học, triệt để và hoàn bị nhất trong lịch sử tư tưởng triết học.
Mặt khác, những năm 50 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân
phát triển rất cao, chuyển dần từ tự phát sang tự giác. Cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản để giành dân chủ có xu hướng chuyển thành đấu
tranh cho chủ nghĩa xã hội và đã xuất hiện các tổ chức cộng sản. Trong
1

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr.14


lúc đó, giai cấp tư sản nhất là những nhà kinh tế học tư sản đưa ra
những luận điểm sai lầm về kinh tế, họ đang tìm mọi cách biện hộ cho
địa vị của giai cấp tư sản và bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn cho chế độ tư
hữu. Họ cho rằng: tư hữu là thuộc tính vốn có của con người, sự tồn tại
của những người vô sản (những người khơng có của) là hợp lý, là lẽ tự


nhiên. Trước tình hình đó, địi hỏi phải có một thế giới quan khoa học
soi đường cho giai cấp công nhân trong đấu tranh cách mạng, do đó
Mác viết tác phẩm này nhằm phê phán các quan điểm sai trái này. Đặc
biệt là giúp cho giai cấp vô sản hiểu đúng địa vị, sứ mệnh lịch sử của
mình là phải đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản. Như Ăngghen kết
luận: Giai cấp vô sản không chỉ là giai cấp đau khổ mà địa vị kinh tế xã hội của nó buộc nó phải đấu tranh giải phóng đến cùng.
Để phê phán quan điểm phản động, phản khoa học trên, Mác tập
trung nghiên cứu những quy luật, phát triển kinh tế của hình thái kinh
tế xã hội tư bản chủ nghĩa và tác dụng của chúng nhằm phát triển thế
giới quan khoa học của giai cấp vô sản. Mác chỉ rõ: Phải nghiên cứu
kinh tế chính trị học ở một trình độ cao hơn để phân tích phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa; chính điều đó sẽ làm cơ sở cho việc phát triển
thế giới quan khoa học của giai cấp vơ sản. Phải xố bỏ chế độ tư hữu để
trả lại bản chất đích thực cho con người.
Trước khi viết tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính
trị” và lời tựa của nó Mác đã có cả 15 năm lao động và nghiên cứu
khoa học toàn diện với một khối lượng tài liệu đồ sộ. Ông đã nghiên
2


cứu một khối lượng lớn các tác phẩm về kinh tế - xã hội và soạn thảo
những nguyên lý cơ bản, phát triển học thuyết của mình.
Trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” đây là
sự tổng kết, hệ thống hoá tri thức của Mác về chủ nghĩa duy vật lịch
sử, đặt tiền đề cho Mác viết tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh
tế chính trị” và Bộ “Tư bản” sau này.
2. Kết cấu của tác phẩm
Lời tựa “Góp phần phê phán khoa học kinh tế chính trị” gồm 3
phần:
Phần mở đầu: Mác nêu khái quát ý định kết cấu tác phẩm “Góp

phần phê phán khoa học kinh tế chính trị”.
Phần nội dung: Mác nêu khái lược q trình nghiên cứu kinh tế
chính trị của mình, trong đó trình bày kết quả nghiên cứu, chủ yếu là
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phần kết luận: Mác khẳng định kết quả nghiên cứu là khách
quan, nghiêm túc, trung thực. Đúng như Mác đã khẳng định trong tác
phẩm của mình: “Các quan điểm của tơi, dù có bị người ta xét đốn như thế
nào chăng nữa và dù chúng có ít nhất trí như thế nào chăng nữa với những
thiên kiến tự tư tự lợi của các giai cấp thống trị - thì chúng vẫn là kết quả
của những sự nghiên cứu trung thực trong nhiều năm”2.

2

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 18.

3


Lời tựa tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”
được in trong: C.Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, Tập 13, Nxb CTQG,
Hà Nội 1993 (từ trang 13 đến trang 18).
3. Nội dung triết học trong tác phẩm:
Nội dung cơ bản trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa
kinh tế chính trị” đó là học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội.
Thứ nhất, về phương pháp tiếp cận nghiên cứu xã hội của
Mác
Để hiểu và thấy được giá trị của tác phẩm chúng ta xem
phương pháp tiếp cận nghiên cứu xã hội của Mác. Đó là, Mác nghiên
cứu xã hội từ sản xuất vật chất và phương thức sản xuất. Trước đó
trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” Mác đã khẳng định vai trò quyết

định của sản xuất vật chất với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội,
vai trò của phương thức sản xuất với sự tồn tại, phát triển của lịch sử
xã hội. Mác viết: “Hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất trong
những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản
thân đời sống vật chất” và “Phải xuất phát từ chính ngay sự sản xuất
vật chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực của sản
xuất và hiểu hình thức giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất
ấy sản sinh ra- tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác nhau
của nó- là cơ sở của tồn bộ lịch sử” 3. Lúc này Mác sử dụng các khái
niệm “hình thức giao tiếp” và “xã hội cơng dân”.
3

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr 40, tr.54

4


Chúng ta thấy rằng trong nửa cuối những năm 50 thế kỷ 19, Mác
đã tích cực nghiên cứu kinh tế chính trị học. Trong tiến trình nghiên
cứu, Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu kinh tế
để tiếp cận đến sự khái quát lý luận cơ bản, sự khái quát đó tiếp tục
được Mác khẳng định trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị”. ở đó Mác xem xét hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu
từ điều kiện sinh hoạt kinh tế. Mác viết “Tôi xem xét hệ thống kinh tế
tư sản theo thứ tự sau đây; Tư bản, sở hữu ruộng đất lao động làm
thuê nhà nước, ngoại thương thị trường thế giới. Trong ba mục đầu,
tôi nghiên cứu điều kiện sinh hoạt kinh tế của ba giai cấp lớn hợp
thành xã hội tư sản hiện đại; còn mối liên hệ lẫn nhau giữa ba mục sau
thì rất rõ ràng”4. Mác viết tiếp: “Những công việc nghiên cứu của tôi
đã dẫn tôi đến kết quả là: không thể lấy bản thân những quan hệ cũng

như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung
của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái
đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn
từ những điều kiện sinh hoạt vật chất” 5. Vậy, nguyên tắc phương pháp
luận rút ra là: nghiên cứu các hiện tượng xã hội phải xuất phát từ điều
kiện sinh hoạt vật chất xã hội chứ khơng thể tìm trong tinh thần tư
tưởng.
Mác đã vận dụng triệt để phép biện chứng duy vật vào nghiên
cứu lĩnh vực kinh tế xã hội. Với phương pháp tiếp cận khoa học khi
nghiên cứu các hiện tượng xã hội, phải đi từ xã hội hiện thực, đi từ nền
4
5

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr.14
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 14

5


sản xuất vật chất, từ điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội, chứ không
phải xuất phát từ hiện tượng tinh thần. Từ phương pháp luận trên, Mác
nghiên cứu và giải phẫu “xã hội công dân” theo cách gọi của Hêghen
(tức xã hội tư bản chủ nghĩa) và đi đến khái quát lý luận khoa học về
hình thái kinh tế - xã hội. Ơng viết: “Phải giải thích ý thức ấy bằng
những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa
các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội” 6. Như
vậy, với quan điểm tiếp cận “giải phẫu” xã hội bằng chính đời sống vật
chất, bằng lực lượng sản xuất xã hội, Mác là người đầu tiên trong lịch
sử tư tưởng triết học đề cập tới, ông đã vận dụng một cách nhuần
nhuyễn chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu xã hội, làm cho

triết học Mác trở nên cách mạng, khoa học và hồn bị.
Giải thích vấn đề này Ăngghen đã cho rằng: phải lựa chọn
phương pháp nào để nghiên cứu hoặc là phương pháp của Hêghen
hoặc phương pháp siêu hình. Theo ơng phương pháp siêu hình của
Cantơ bị Hêghen đập tan rồi, nhưng chính phương pháp của Hêghen
lại không dùng được. Vậy, mà chưa ai dám đảm đương nhiệm vụ lớn
lao là phê phán phương pháp Hêghen một cách triệt để. Ông nhận xét:
Mác là người duy nhất có khả năng đảm đương cơng việc ấy, phê phán
Hêghen một cách tồn diện và triệt để, tìm ra “hạt nhân hợp lý” để
khôi phục lại phép biện chứng, giải thốt nó ra khỏi cái vỏ duy tâm
thần bí.
Thứ hai, về phạm trù hình thái kinh tế- xã hội
6

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr15.

6


Trong lời tựa tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính
trị”, mặc dù chưa đưa ra một định nghĩa đầy đủ về hình thái kinh tế- xã
hội, về lực lượng sản xuất, về quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng, kiến
trúc thượng tầng... nhưng Mác đã chỉ ra cho chúng ta thấy được những
nội dung cơ bản, cốt lõi nhất, chỉ ra được nội hàm của các vấn đề được
đặt ra như: thế nào là hình thái kinh tế- xã hội, kết cấu của hình thái
kinh tế- xã hội, mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố cấu thành hình
thái kinh tế xã hội...và đó là phương pháp luận để tiếp cận và giải phẫu
xã hội, nó là kim chỉ nam cho nghiên cứu xã hội của Mác. Ơng viết:
“Kết quả mà chúng tơi đã đạt được và đã trở thành kim chỉ nam cho
mọi sự nghiên cứu sau này của tơi, có thể trình bày vắn tắt như sau.

Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những
quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ
nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những
quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ
sở hiện thức trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và
chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ
sở hiện thực đó”7.
Như vậy, Mác đã chỉ cho chúng ta hiểu thế nào là hình thái kinh
tế- xã hội, các yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành của nó
trong một chỉnh thể thống nhất như một cơ thể sống đó là: lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mác đã vạch ra
7

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 14- tr 15.

7


thực chất sự tồn tại và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội trong
kết cấu khách quan của chúng. Đó là một chỉnh thể thống nhất bao
gồm những yếu tố và các mối liên hệ được hình thành và vận động
tuân theo những quy luật khách quan vốn có của chúng. Các yếu tố lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng xã hội
không tách rời nhau. Trên thực tế không thể phân chia rạch rịi các yếu
tố đó mà ln có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Theo Mác, trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con
người ta dù muốn hay khơng cũng buộc phải duy trì và thực hiện
những quan hệ nhất định với nhau. Những quan hệ này mang tính tất
yếu và khơng phụ thuộc vào bất cứ ý muốn chủ quan của ai cả. Đó

chính là những quan hệ sản xuất. Mác còn chỉ ra rằng, tồn bộ những
quan hệ sản xuất đó hợp thành một cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cơ
sở hiện thực (cơ sở hạ tầng) và trên cơ sở hiện thực đó sẽ được tạo
dựng nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với cơ sở hiện thực đó.
Trong tác phẩm: “Những “người bạn dân” là như thế nào và họ
đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao?” Lênin chỉ rõ
phương pháp khoa học và cách mạng của Mác trong xây dựng phạm
trù hình thái kinh tế- xã hội: “Trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội, ông đã làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế, bằng cách là
trong tất cả mọi quan hệ xã hội ông đã làm nổi bật riêng quan hệ sản
xuất. Coi đó là những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả mọi
quan hệ khác”8. Ơng khẳng định: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã
8

V,I.Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb TB, M.1974, tr 159.

8


hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất
vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có cơ sở
vững chắc để quan niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử tự nhiên. Và dĩ nhiên khơng có một quan điểm
như thế thì khơng thể có một khoa học xã hội được”9.
Như vậy, Mác đã xem quan hệ sản xuất là “cái sườn” của tồn bộ
cơ thể xã hội, nó phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất nhất định của mỗi hình thái kinh tế- xã hội và có một kiến trúc
thượng tầng được thiết lập tương ứng với những quan hệ sản xuất ấy.
Khi bàn về vấn đề này Lênin đã viết: “Nhưng điều chủ yếu là ở chỗ
Mác không thoả mãn với cái sườn đó, khơng chỉ dừng lại ở cái “lý

luận kinh tế” hiểu theo nghĩa thông thường của danh từ mà thơi: là ở
chỗ tuy rằng Mác chỉ dùng độc có những quan hệ sản xuất để giải
thích cơ cấu và sự phát triển của một hình thái xã hội nhất định, song ở
mọi nơi và mọi lúc, ông đều phân tích những kiến trúc thượng tầng
tương ứng với những quan hệ sản xuất ấy, và đã thêm thịt, thêm da cho
cái sườn đó”10.
Điều chủ yếu đối với Mác là quan niệm duy vật về lao động về
vai trò quyết định của lao động của sản xuất vật chất trong việc sáng
tạo ra mọi của cải vật chất bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển
cũng như việc sáng tạo ra chính bản thân con người. Trong mỗi giai
đoạn lịch sử con người lại có cách thức sản xuất riêng và theo Mác:
9

V,I.Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb TB, M.1974, tr 163.
V,I.Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb TB, M.1974, tr 164- tr 165.

10

9


“Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các q trình sinh
hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”11.
Từ phương pháp tiếp cận và những luận điểm nêu ra của Mác,
chính là cơ sở khoa học để sau này chủ nghĩa duy vật lịch sử đi đến
một khái qt hồn chỉnh về hình thái kinh tế- xã hội: “Hình thái kinh
tế- xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định
của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng

được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy”12.
Mặt khác, trong khi nghiên cứu về sự vận động, phát triển của
các hình thái kinh tế- xã hội, Mác cũng đã đưa ra những kết luận hết
sức quan trọng đó là: “Khơng một hình thái xã hội nào diệt vong trước
khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn
đầy đủ cho phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng
không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của
những quan hệ đó chưa chín muồi trong lịng bản thân xã hội cũ”13.
Theo Mác, xã hội lồi người ln ln vận động phát triển không
ngừng, trong sự vận động phát triển đó sẽ diễn ra sự thay thế nhau của
các hình thái kinh tế xã hội. Một hình thái kinh tế xã hội lỗi thời, lạc
hậu sẽ bị diệt vong và được thay thế bằng một hình thái kinh tế xã hội
mới tiến bộ hơn. Nhưng hình thái kinh tế xã hội cũ chỉ bị diệt vong khi
11
12
13

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.
Triết học Mác- Lênin, Tập 3, Nxb QĐND, Hà Nội 1995, tr 54.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15- tr 16.

10


lực lượng sản xuất trong xã hội đó đã phát triển, tạo điều kiện chín
muồi cho sự ra đời của những quan hệ sản xuất mới cao hơn. Sự thay
thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội là khách quan, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà nó phụ thuộc vào sự
phát triển của lực lượng sản xuất, do lực lượng sản xuất quyết định.
Theo Mác xã hội cũ chưa mất đi khi tiền đề vật chất của nó chưa

mất đi, xã hội mới chưa ra đời khi tiền đề vật chất của nó chưa xuất
hiện. Mác viết: “Từ chỗ là hình thức phát triển của các lực lượng sản
xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng
sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” 14. Ơng
viết tiếp: “Khơng một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả
những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ
cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới,
cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn
tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lịng bản thân
xã hội cũ”15.
Mác cịn chỉ ra tính khách quan của lịch sử xã hội, nó khơng phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một lực lượng chính
trị xã hội nào. Ơng viết: “Nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình
những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao
giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi

14
15

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15- tr 16.

11


những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra
cũng đang ở trong quá trình hình thành”16.
Đặc biệt trong lời tựa này, Mác còn chỉ rõ: “Các quan hệ sản xuất
tư sản là hình thức đối kháng cuối cùng của quá trình sản xuất xã hội,
đối kháng không phải với ý nghĩa là đối kháng cá nhân, mà với ý nghĩa

là đối kháng nảy sinh từ những điều kiện sinh hoạt xã hội của các cá
nhân; nhưng những lực lượng sản xuất phát triển trong lòng xã hội tư
sản đồng thời cũng tạo ra những điều kiện vật chất để giải quyết đối
kháng ấy. Cho nên với hình thái xã hội tư sản, thời kỳ tiền sử của xã
hội loài người đang kết thúc”17. Luận điểm này của Mác nói lên rằng,
hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa là hình thái kinh tế xã hội
cuối cùng trong lịch sử có quan hệ sản xuất với hình thức đối kháng, là
hình thái xã hội cuối cùng trong lịch sử có sự đối kháng trong q trình
sản xuất xã hội: cịn chiếm hữu tư nhân, cịn áp bức bóc lột, và chính
sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lòng xã hội tư sản sẽ tạo
điều kiện vật chất để xoá bỏ quan hệ sản xuất, thiết lập quan hệ sản
xuất mới- quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Nói cách khác, Mác đã
dự báo rằng hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ bị
diệt vong do chính sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất
ở ngay trong lịng xã hội đó và sự diệt vong là không thể tránh khỏi.
Mặt khác chính giai cấp tư sản đã tạo ra những cơ sở vật chất để tự thủ
tiêu mình. Đây là sự phát hiện thiên tài của Mác. Sự phát hiện đó là cơ
16
17

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.

12


sở khoa học quan trọng để học thuyết hình thái kinh tế- xã hội của Mác
ra đời và tiếp tục có những bước phát triển hồn thiện hơn.
Trên đây là những luận chứng ban đầu để sau này Mác khẳng
định sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình

lịch sử tự nhiên. Mác viết: “Tơi coi sự phát triển của những hình thái
kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”18.
Thứ ba, về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất
Đây là một quy luật cơ bản chi phối sự vận động, phát triển của
các hình thái kinh tế- xã hội được Mác khái quát trong lời tựa. Mác
khẳng định sự phụ thuộc của quan hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất,
mối quan hệ phụ thuộc đó khơng thể đảo lộn. Nội dung khái quát đó
của Mác cho đến nay vẫn chưa thể thay thế. Mác viết: “Tới một giai
đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của
xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay- đây chỉ là
biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó- mâu thuẫn với
những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản
xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực
lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực
lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại, một cuộc cách mạng xã hội”19.
Như vậy, Mác đã chỉ rõ cơ chế vận hành của quy luật, vai trò của
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo Mác, con người sống,
18
19

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb CTQG, H.1993, tr 21.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.

13


tồn tại và phát triển không chỉ dựa vào tự nhiên, mà cịn sử dụng cơng
cụ lao động sản xuất cải tạo tự nhiên làm ra của cải phục vụ cho bản
thân mình (trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” Mác đã đề cập tới vấn

đề này). Trong quá trình đó con người chủ động đi sâu vào nhận thức
thế giới hiện thực, tích cực cải tiến cơng cụ sản xuất và do đó lực
lượng sản xuất khơng ngừng phát triển. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất “tới một giai đoạn” nhất định sẽ mâu thuẫn với “quan hệ sản xuất
hiện có”, mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt dẫn đến một cuộc cách
mạng xã hội nổ ra quan hệ sản xuất cũ bị thủ tiêu, quan hệ sản xuất
mới ra đời, phương thức sản xuất cũ được thay thế bằng phương thức
sản xuất mới, xã hội chuyển sang một hình thái kinh tế xã hội khác cao
hơn. Và chỉ khi quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” đối với lực
lượng sản xuất khi đó cách mạng xã hội mới nổ ra, quan hệ sản xuất
hiện có mới bị phá vỡ, quan hệ sản xuất mới ra đời, một hình thái kinh
tế- xã hội mới được hình thành.
Do lực lượng sản xuất quyết định, song quan hệ sản xuất khơng
phải là yếu tố bị động mà có vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy kinh tế xã hội
phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất khơng phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và
kinh tế xã hội.

14


Thực tiễn cho chúng ta thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể
phát triển khi có một quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp với
nó. Quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn cũng sẽ kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết
nhưng con người không phát hiện được, cũng như khi mâu thuẫn đã
được phát hiện mà không được giải quyết hoặc giải quyết một cách sai

lầm, chủ quan duy ý chí...thì tác động kìm hãm của quan hệ sản xuất
sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Như vậy, trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính
trị”, Mác đã khái quát tương đối đầy đủ nội dung quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Thứ tư, về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng
Nội dung khái quát lý luận về hình thái kinh tế xã hội Mác không
chỉ làm rõ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất mà còn làm rõ quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng - một trong hai quy luật cơ bản chi phối sự vận động
phát triển của xã hội.
Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến

15


trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”20.
Mặc dù Mác chưa gọi là cơ sở hạ tầng mà ông gọi là “cơ sở hiện
thực”, cơ sở hiện thực ấy về thực chất nó đã bao hàm nội dung rất cơ
bản để sau này chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành “cơ sở hạ
tầng”. Mác đã trừu tượng hoá tách quan hệ xã hội thành hai loại quan
hệ đó là: quan hệ về vật chất và quan hệ khác (như quan hệ về chính
trị, tư tưởng, nhà nước, pháp luật, tơn giáo...). Trước đó chưa có nhà
triết học nào tách ra thành hai quan hệ đó. Khổng Tử cũng bàn đến
mối quan hệ xã hội nhưng chỉ ở bộ phận kiến trúc thượng tầng: ở mối
quan hệ về chính trị, đạo đức (đào tạo ra thế hệ “quần chùng, áo dài”

không quan tâm đến vấn đề sản xuất vật chất); Phoiơbắc chỉ quan tâm
đến mối quan hệ xã hội với “tình yêu”, tạo ra thứ tơn giáo tình u,
giải quyết mối quan hệ người với người bằng tình u...do đó các ơng
đều rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, Mác đã làm rõ các khái niệm, vị trí của “cơ sở hiện
thực” xã hội và kiến trúc thượng tầng xã hội. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ
những quan hệ sản xuất- những quan hệ vật chất khách quan của con
người trong hoạt động lao động sản xuất vật chất. Tổng hợp những
quan hệ sản xuất ấy tạo thành cơ cấu kinh tế- cái cơ sở hiện thực của
một kiến trúc thượng tầng ứng với nó. Kiến trúc thượng tầng là tồn
bộ những cái thuộc về “pháp lý, chính trị” những quan hệ tinh thần tư
tưởng biểu hiện tập trung đời sống tinh thần xã hội, nó được hình
20

C.Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.

16


thành trên những quan hệ vật chất xã hội, phản ánh cơ sở hạ tầng. Bao
giờ kiến trúc thượng tầng cũng là của một cơ sở hạ tầng nhất định.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát khái niệm cơ sở hạ tầng: “Cơ
sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội
trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội đó”21.
Vế kiến trúc thượng tầng, theo Lênin khẳng định: “Kiến trúc
thượng tầng gồm những quan hệ xã hội về tư tưởng - ở trên những
quan hệ vật chất”22.
Theo Mác, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
ln gắn bó hữu cơ với nhau, tác động qua lại hình thành quy luật chi

phối sự vận động, phát triển của xã hội. Trong mối quan hệ ấy cơ sở hạ
tầng quyết định kiến trúc thượng tầng về mọi mặt. Khi phân tích về
mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, ông cho rằng
cơ sở hạ tầng là yếu tố quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Vai
trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể
hiện ở chỗ: nếu cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn sự thay đổi
kiến trúc thượng tầng cũng sẽ diễn ra. Quá trình đó thực hiện khơng
chỉ trong giai đoạn chuyển tiếp có tính chất cách mạng- từ xã hội này
sang xã hội khác- mà còn được thực hiện ngay trong bản thân mỗi hình
thái xã hội. Mác chỉ rõ: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ cái kiến
trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” 23. Theo
21
22
23

Giáo trình Triết học Mác- Lênin, Nxb CTQG, Hà Nội 1999, tr 448- tr 449.
V.I.Lênin,Toàn tập, tập 1, Nxb TB, M.1974, tr.219
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.

17


Mác khi cơ sở kinh tế thay đổi thì kiến trúc thượng tầng đồ sộ ấy cũng
bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng, nó khơng thể thay đổi tức thì mà có
bộ phận thay đổi ngay (như nhà nước, pháp luật, hệ tư tưởng thống
trị...), có bộ phận cịn tồn tại dai dẳng (như tâm lý, phong tục tập
quán...).
Mặt khác, Mác đã phê phán quan điểm sai lầm phản khoa học
của chủ nghĩa duy tâm- xem xét sự vận động biến đổi của cơ sở kinh tế
trên cơ sở và chịu sự quyết định của sự biến đổi từ ý thức tư tưởng.

Quan niệm duy tâm giải thích sự vận động của đời sống kinh tế- xã hội
bằng những nguyên nhân thuộc về vai trò của nhà nước và pháp
quyền. Ngược lại, Mác đã chỉ ra vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng
đối với kiến trúc thượng tầng. Mác viết: “Không chỉ lấy bản thân
những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay
lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải
thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những
quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật
chất”24.
Mác còn cho rằng đấu tranh giải quyết mâu thuẫn nội tại của “xã
hội công dân” không thể bằng các yếu tố tinh thần tư tưởng mà bằng
chính các yếu tố vật chất. Mác chỉ rõ: “Khi xét những cuộc đảo lộn ấy,
bao giờ cũng cần phân biệt cuộc đảo lộn vật chất- mà người ta có thể
xác nhận với một sự chính xác của khoa học tự nhiên- trong những
điều kiện kinh tế của sản xuất, với những hình thái pháp lý, chính trị,
24

C.Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 14.

18


tơn giáo, nghệ thuật hay triết học, tóm lại với những hình thái tư tưởng
trong đó con người ý thức được cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải
quyết cuộc xung đột ấy”25.
Thứ năm, về quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức
xã hội.
Về vấn đề này Mác đã đề cập trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”
ông đã vạch ra thực chất mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội và ông cho rằng tồn tại xã hội là hiện thực của sản xuất xã hội.

Ông viết: “Những tư tưởng thống trị khơng phải là cái gì khác mà chỉ
là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị, chúng là
những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện dưới hình thức tư
tưởng”26.
Trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, Mác
đã giải quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của
ý thức xã hội. Ông đã chỉ ra rằng: đời sống tinh thần của xã hội được
hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, chúng ta
khơng thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân
nó, nghĩa là, khơng thể tìm trong đầu óc của con người, mà phải tìm
ngay trong hiện thực- đời sống vật chất. Sự biến đổi của một thời đại
nào đó cũng sẽ khơng thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức
của thời đại ấy. Mác viết: “Nếu ta không thể nhận định về một người
căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta cũng
25
26

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr 66- tr 67.

19


không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức
của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu
thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực
lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội” 27. Luận điểm
này của Mác đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm
muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong chính bản thân của ý
thức tư tưởng, coi tinh thần tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng

xã hội, quyết định sự vận động phát triển của xã hội và cho rằng các
hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở kinh tế- xã hội hiện thực. Theo
Mác muốn tìm hiểu hay giải thích các hiện tượng ý thức tư tưởng phải
đi từ đời sống hiện thực, từ cơ sở kinh tế, từ các quan hệ vật chất trong
xã hội. Bởi vì, ý thức của con người nói riêng, ý thức xã hội nói chung
có quan hệ chặt chẽ với tồn tại xã hội, ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh
tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Chính vì vậy, Mác đã
khẳng định: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các
quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Khơng phải
ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội
của họ quyết định ý thức của họ”28.
Theo Mác quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, đây là hai phạm trù rất cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ hai mặt có quan hệ chặt chẽ với nhau- đời sống vật chất và đời
sống tinh thần xã hội, được Mác khái quát và làm rõ trên tinh thần biện
chứng duy vật. Mác cho rằng: tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện
27
28

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.

20


sinh hoạt vật chất xã hội. Trong quan hệ với ý thức xã hội, tồn tại xã
hội giữ vai trò quyết định. Ơng phân tích và làm sâu sắc hơn nhận định
trên bằng cách so sánh việc người ta không thể nhận định về sự biến
đổi của một thời đại căn cứ vào ý thức của thời đại ấy với việc không
thể nhận định về một con người căn cứ vào ý kiến của chính người đó

đối với bản thân và khẳng định: phải giải thích ý thức ấy bằng chính
những mâu thuẫn của đời sống vật chất.
Với sự khẳng định này, Mác đã phát triển chủ nghĩa duy vật đến
đỉnh cao, “đã tống cổ chủ nghĩa duy tâm ra khỏi nơi ẩn náu cuối cùng
của nó”.
Thứ sáu, về cách mạng xã hội
Trong khi luận giải nội dung những quy luật cơ bản chi phối sự
vận động, phát triển của xã hội thì đồng thời Mác cũng chỉ rõ nguyên
nhân xét đến cùng quyết định sự bùng nổ cách mạng xã hội- đó là
nguyên nhân kinh tế, từ sự phát triển của lực lượng sản xuất tới mức
mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất vốn tạo địa bàn cho nó phát
triển và mâu thuẫn đó trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển
của nó khi ấy bùng nổ một cuộc cách mạng xã hội. Mác viết: “Không
một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng
sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn
chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới cao hơn, cũng không
bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những
quan hệ đó chưa chín muồi trong lịng bản thân xã hội cũ”29.
29

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15- tr 16.

21


Vì vậy, theo Mác nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra cho mình
những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được cái nhiệm vụ ấy chỉ nảy
sinh khi những điều kiện vật chất cần thiết để giải quyết nhiệm vụ ấy
đã có rồi hoặc chí ít cũng đang trong q trình hình thành.
Trên cơ sở đó Mác chỉ rõ: sự phát triển của xã hội loài người đã

và đang trải qua các hình thái kinh tế- xã hội: cộng sản nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa. Mác viết: “Về đại
thể, có thể coi các phương thức sản xuất Châu á, cổ đại, phong kiến và
tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của hình thái kinh
tế xã hội”30. Đồng thời Mác cũng khẳng định với quan hệ sản xuất tư
sản - hình thức đối kháng cuối cùng của quá trình sản xuất xã hội và
những lực lượng sản xuất phát triển trong lòng xã hội tư bản cũng tạo
ra điều kiện vật chất giải quyết đối kháng đó. Điều đó khẳng định tính
tất yếu diệt vong của xã hội tư bản chủ nghĩa và sự ra đời của xã hội
cộng sản chủ nghĩa cũng là một tất yếu lịch sử. Mác viết: “Với hình
thái xã hội tư sản, thời kỳ tiền sử của xã hội loài người đang kết
thúc”31.
Tóm lại, những quan niệm về chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác
trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, đây là một
thành quả vĩ đại của tư tưởng khoa học mà chỉ đứng trên lập trường của
giai cấp vơ sản mới có thể đạt tới được, bởi vì nó đưa tới kết luận có tính

30
31

C.Mác và Ph. Ăngghen, Tồn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.

22


chất cách mạng về sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất
yếu của giai cấp vô sản.
3. ý nghĩa của tác phẩm
Như vậy, mặc dù mới chỉ là sự khái quát những kết quả nghiên

cứu ban đầu của mình, nhưng Mác đã đưa ra những nguyên lý, tư
tưởng về chủ nghĩa duy vật lịch sử đã được ông khái quát hết sức cô
đọng, thể hiện trình độ trừu tượng hố và khái qt cao, những nội
dung hết sức cơ bản đó nó có tính chất bước ngoặt, nó có giá trị hồn
thiện thế giới quan, hoàn thiện nội dung và đánh dấu sự phát triển của
chủ nghĩa duy vật lịch sử (các tư tưởng trước đó cịn tách rời nhau).
Những nội dung Mác khái quát trong lời tựa “Góp phần phê phán
khoa kinh tế chính trị” nó là nền tảng thế giới quan, phương pháp luận, là
kim chỉ nam cho mọi nghiên cứu sau này của ông, đặc biệt cho ra đời “Bộ
Tư bản”. Mác khẳng định: đó là kim chỉ nam để nghiên cứu những vấn đề
tiếp theo.
Những nội dung trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị”, giúp chúng ta có cơ sở khoa học, là vũ khí để đấu tranh phê
phán những quan điểm duy tâm về xã hội bảo vệ bản chất cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và chủ nghĩa Mác- Lênin
nói chung; là cơ sở giúp chúng ta tiếp tục đi sâu nghiên cứu và nhận
thức sâu sắc, đầy đủ hơn về hệ thống lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch
sử.

23


Ngày nay, cho dù chủ nghĩa xã hội hiện thực rơi vào khủng
hoảng, thoái trào, kẻ thù đang ra sức xuyên tạc, chống phá, nhưng
những nội dung triết học trong tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị khoa
học và hiện thực của nó. Muốn có câu trả lời về xã hội hiện nay, muốn
tiếp cận xã hội tư bản ngày nay, muốn nghiên cứu sự phát triển và thay
thế chủ nghĩa tư bản ngày nay... vẫn phải dựa vào kim chỉ nam trong lời
tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” đã trang bị.
Kim chỉ nam trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế

chính trị”, đó vẫn là cơ sở lý luận khoa học để các đảng cộng sản xác
định con đường đúng đắn cho dân tộc mình. Đây là cơ sở để tiếp cận,
xác định mơ hình chủ nghĩa xã hội, xây dựng quan hệ sản xuất mới, phát
triển lực lượng sản xuất...để xây dựng thành cơng chủ nghĩa cộng sản
trên phạm vi tồn thế giới, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Kết quả nghiên cứu của Mác thể hiện sự thiên tài của ơng dự đốn
về xã hội tương lai- xã hội cộng sản chủ nghĩa- tính chất nghiêm túc
trong khoa học, những luận chứng có cơ sở khoa học đã chỉ ra quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ trở thành “xiềng xích” đối với lực
lượng sản xuất và cách mạng xã hội sớm hay muộn nhất định sẽ nổ ra.
Đúng như Mác đã khẳng định trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa
kinh tế chính trị”của mình: “Các quan điểm của tơi, dù có bị người ta xét
đốn như thế nào chăng nữa và dù chúng có ít nhất trí như thế nào chăng
nữa với những thiên kiến tự tư tự lợi của các giai cấp thống trị - thì chúng
vẫn là kết quả của những sự nghiên cứu trung thực trong nhiều năm”32.
32

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 18.

24


Những tư tưởng trong lời tựa “Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị” của Mác, đặc biệt là học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội là cơ
sở để Đảng ta đưa ra đường lối đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.
Chúng ta khẳng định rằng: học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là cơ
sở khoa học để Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới tồn diện đất nước và giải
quyết thành cơng những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Biểu hiện trên các nội dung cơ bản sau đây:
Một là, học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là cơ sở khoa học để nhận

thức đặc trưng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua việc xác lập quan hệ sản xuất
thống trị và kiến trúc thượng tầng chính trị tư bản chủ nghĩa. Chế độ chính
trị của chúng ta là chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, chúng ta chỉ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, còn thành quả cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học
cơng nghệ, trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh...chúng ta phải
tiếp thu, kế thừa cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội là phát triển kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, điều này không trái với các nguyên lý của chủ
nghĩa Mác- Lênin: chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, trải qua mấy cuộc chiến tranh tàn khốc...do vậy phải phát
triển sức sản xuất xã hội, phát triển đa thành phần kinh tế, có các thành
phần kinh tế trung gian quá độ trong đó kinh tế nhà nước giữa vai trò chủ
đạo. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố bảo đảm các
thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
25


×