TIỂU LUẬN:
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG TRƯỚC YÊU CẦU CỦA
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Trong bài viết này, tác giả đã luận giải để góp phần làm rõ tầm quan trọng cũng như
tính cấp thiết của nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng nhằm đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Theo tác giả, để nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng, cần chú ý một số yêu cầu sau: 1/Đảng phải xây dựng được đường lối lãnh
đạo đúng đắn, phù hợp; 2/ Thường xuyên chăm lo công tác xây dựng và bồi dưỡng
cán bộ; 3/ Coi trọng những nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng;
4/ Chú ý tổng kết kinh nghiệm và vận dụng kinh nghiệm đó để lãnh đạo nhân dân
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số kiến
nghị, như xây dựng Cương lĩnh mới trên cơ sở kế thừa và phát triển Cương lĩnh năm
1991, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020, tiếp tục đổi mới
công tác cán bộ, phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội, nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng.
Đại hội lần thứ X của Đảng, sau khi tổng kết 20 năm đổi mới đã rút ra 5 bài học của
quá trình đổi mới, trong đó có bài học “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới”(1). Đây là kết quả tổng kết và khái quát hóa từ thực tiễn lãnh
đạo cách mạng của Đảng, đồng thời là sự tổng kết về mặt lý luận của các bài học
được rút ra qua các kỳ đại hội.
Như chúng ta đều biết, ngay từ Đại hội VI, khi xuất phát từ thực tiễn đất nước, nhất
là từ những sai lầm, khuyết điểm mà Đảng đã phạm phải, Đảng ta đã nhận định: "Tất
cả những gì đã làm được cũng chứng tỏ rằng sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm
những nhiệm vụ của giai đoạn mới. Đảng chưa đáp ứng được yêu cầu trong việc giải
quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, trong phong cách lãnh đạo và cả trong việc rèn
luyện phẩm chất cán bộ, đảng viên. Nguồn gốc sâu xa của sự không ngang tầm ấy là
ở chỗ, trong nhiều năm, chúng ta đã coi nhẹ và có khuyết điểm trong công tác xây
dựng Đảng"(2). Vì vậy, Đại hội VI đã coi nhiệm vụ "phải xây dựng Đảng ngang tầm
nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa" là một trong bốn bài học chủ yếu.
Kể từ sau Đại hội VI đến nay, Đảng ta đó tập trung xây dựng Đảng trên cả phương
diện tư tưởng, lý luận lẫn tổ chức. Từ thực tiễn của quá trình lãnh đạo cách mạng,
đặc biệt là của công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức một cách sâu sắc vai
trò lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã
nêu ra những bài học cơ bản, trong đó có bài học vềsự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thực ra, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng nói chung, đối với
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng không phải đến Đại hội VI mới được
đề cập đến mà trái lại, đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và Hồ
Chí Minh nhắc đến từ lâu, đồng thời được thực tiễn cách mạng thế giới và Việt Nam
chứng minh một cách hết sức hùng hồn.
Lúc sinh thời, C.Mác, Ph.Ăngghen và đặc biệt là V.I.Lênin thường xuyên khẳng định
rằng, trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và lãnh đạo nhân dân lao động xây
dựng xã hội mới, giai cấp công nhân không có vũ khí nào quan trọng hơn là tổ chức.
Hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản. Theo các ông,
nếu không có một Đảng vô sản cách mạng có thể đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn,
biết tập hợp quần chúng thì giai cấp công nhân không thể tiến hành cuộc đấu tranh giai
cấp có ý thức và không thể trở thành giai cấp lãnh đạo quần chúng lao động bị áp bức,
bóc lột lật đổ giai cấp tư sản, cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nhờ tiếp thu lý luận Mác - Lênin, ngay từ khi vận động thành lập Đảng, Hồ Chí
Minh đã nhận thấy sự cần thiết phải có Đảng cách mạng và khẳng định Đảng có
vững thì cách mạng mới thành công. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người
khẳng định rằng, muốn làm cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong
thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái
có vững thuyền mới chạy”(3).
Tiếp thu quan điểm đó, ngay từ khi mới thành lập, trong Cương lĩnh đầu tiên của
mình, Đảng ta đã chỉ rõ: "Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng là cần phải có
một Đảng cộng sản có một đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật
thiết liên lạc với quần chúng và từng trải trong chiến tranh mà trưởng thành"(4).
Khi nói đến sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách
mạng thì điều đó có nghĩa là thành công hay thất bại của cách mạng phụ thuộc vào
sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn hay sai lầm của Đảng. Điều 4 Hiến pháp nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật”.
Ở đây, chúng ta thấy có 2 điểm cần lưu ý: thứ nhất, Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội và thứ hai, mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ của
Hiến pháp và pháp luật.
Vấn đề đặt ra là Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như thế nào và làm thế nào Đảng
vừa lãnh đạo Nhà nước và xã hội lại vừa tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Nói cách
khác, làm rõ được hai vấn đề này sẽ giúp chúng ta hiểu được phương thức lãnh đạo
của Đảng.
Xét về mặt nội dung, Đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện các mặt và các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội: từ lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tới đối
ngoại và quốc phòng, an ninh; từ nhà nước đến các tổ chức chính trị – xã hội. Chỉ có
lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện như vậy, Đảng mới đảm bảo được sự lãnh đạo xã hội
của mình. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là khâu mấu chốt nhất.
Nhưng, vấn đề đặt ra là sự lãnh đạo của Đảng về các mặt và các lĩnh vực khác nhau
của xã hội được thực hiện bằng phương thức nào? Làm thế nào Đảng lãnh đạo Nhà
nước nhưng không làm thay Nhà nước mà trái lại, phát huy được vai trò chủ động,
sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội?
Cương lĩnh năm 1991 đã khẳng định: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến
lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác, bằng công tác tuyên
truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của
đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào
hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm
thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên
hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
của Hiến pháp và pháp luật”(5).
Như vậy, Cương lĩnh năm 1991 đã cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng và
hoàn toàn nhất quán với điều 4 Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Theo đó, phương thức lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở những điểm chủ yếu
sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược và bằng các định hướng
về chính sách và chủ trương công tác.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo bằng hành động gương mẫu của đảng viên; bằng cách giới
thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, bằng tổ
chức kiểm tra.
Thực ra, phương thức lãnh đạo của Đảng đã được trình bày trên đây là kết quả đúc
rút kinh nghiệm hơn nửa thế kỷ lãnh đạo cách mạng của Đảng cả khi Đảng chưa
giành được chính quyền lẫn khi Đảng có chính quyền nhà nước trong tay, cả khi
Đảng lãnh đạo chiến tranh giải phóng dân tộc lẫn lãnh đạo toàn xã hội trong điều
kiện hòa bình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng, như chúng ta đều biết, trước hết được thực hiện thông qua
cương lĩnh, chiến lược và bằng các định hướng về đường lối, chủ trương của Đảng,
cũng như thông qua hoạt động chỉ đạo việc thực hiện đường lối, chủ trương đó.
Thực tiễn hơn 80 năm hoạt động của Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây chỉ ra rằng, sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể giành được thắng lợi khi và chỉ khi Đảng đề ra được cương lĩnh, chiến
lược, đường lối và chủ trương đúng đắn; còn khi Đảng phạm phải sai lầm về cương
lĩnh, chiến lược, về đường lối và chủ trương thì cũng là lúc sự nghiệp đấu tranh giải
phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội gặp phải khó khăn, chịu thất bại hoặc
thậm chí bị đổ vỡ.
Thực tiễn hơn nửa thế kỷ lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập và xây dựng xã
hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã chứng minh vai trò quyết định đối
với sự thành công hay thất bại của công cuộc giải phóng và xây dựng đất nước. Thực
vậy, trong gần 80 năm qua, kể từ ngày có Đảng, dân tộc ta và nhân dân ta đã giành
được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX.
Cách mạng Tháng Tám là thành quả vĩ đại của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, lật
đổ ách thống trị thực dân, xây dựng nên Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á. Tiếp theo Cách mạng Tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta đã giành được thắng lợi to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập dân tộc và
dân chủ. Có thể nói, tất cả những thành tựu đó đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng. Đó là một thực tế không thể phủ nhận.
Sau khi đất nước thống nhất, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Quá trình đó có thể chia làm hai giai đoạn:giai
đoạn 1975 - 1985 và giai đoạn từ 1986 đến nay.
Trong giai đoạn 1975 - 1985, cả nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện nền kinh tế lạc hậu, với những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh.
Trong giai đoạn này, nhân dân ta cũng đã giành được một số thắng lợi quan trọng.
Vai trò của Đảng được thể hiện ở quá trình tìm tòi đường lối đổi mới, xác định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra, trong quá
trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ 1975 - 1985), Đảng ta không
chỉ có những ưu điểm, thành tựu, mà còn có cả những khuyết điểm, yếu kém. Với
tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội cho
rằng, trong mười năm đó, Đảng ta đã phạm phải nhiều sai lầm trong việc xác định
mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
quản lý kinh tế(6). Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng, kéo dài về
chủ trương và chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Đại
hội VI của Đảng đã chỉ rõ: "Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,
đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy
nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh
hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối
và nguyên tắc của Đảng". "Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế - xã
hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác
lãnh đạo của Đảng", do "sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các qui luật
đang hoạt động trong thời kỳ quá độ"(7).
Nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, trong hơn 20 năm qua, Đảng đã đề ra được đường lối đúng đắn, phù hợp với
điều kiện thực tế của nước ta. Đường lối đó từng bước đang được bổ sung, hoàn thiện.
Đường lối đúng đắn là một trong những yếu tố hết sức quan trọng dẫn tới sự thành
công của cách mạng. Thực tế lịch sử của những năm trước và sau đổi mới đã chứng
minh rằng, nếu thiếu đường lối đúng đắn của Đảng lãnh đạo, cách mạng có thể bị
mất phương hướng, thậm chí bị chệch hướng, nhưng đồng thời, nếu thiếu sự linh
hoạt về chính trị, sự nghiệp cách mạng có thể bị mất thời cơ, vận hội hoặc lún sâu
vào nguy cơ. Do ý thức được điều đó, ngay từ sau Đại hội VI, Đảng ta đã tập trung
vào việc hoàn chỉnh đường lối đổi mới, hoạch định những chủ trương, chính sách lớn
nhằm cụ thể hoá đường lối trên từng lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội của đất
nước. Có thể nói, đường lối đổi mới là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh lịch sử - cụ thể và điều kiện mới của
nước ta. Đường lối đó phù hợp với mục tiêu và định hướng xã hội chủ nghĩa, xác
định rõ những nguyên tắc chỉ đạo đổi mới, cũng như những hình thức và bước đi phù
hợp. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới tư duy lý
luận, nhất là tư duy kinh tế; mà muốn đổi mới tư duy lý luận thì phải nắm vững, tôn
trọng các qui luật khách quan. Đó cũng chính là một trong bốn bài học đã được Đại
hội VI của Đảng tổng kết.
Kể từ sau Đại hội VI, Đảng ta đặc biệt chú ý công tác lý luận của Đảng. Đảng ta đã ý
thức một cách rõ ràng rằng, để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đến
thắng lợi, Đảng phải thường xuyên nâng cao trình độ lý luận bằng cách triển khai
rộng rãi, thực hiện có chất lượng việc nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống. Đổi mới không có nghĩa là xa rời hoặc
từ bỏ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội, mà là sự vận dụng sáng tạo lý luận đó vào hoàn cảnh và điều kiện lịch sử - cụ
thể của nước ta.
Bên cạnh đó, Đảng ta thường xuyên chú trọng việc cụ thể hoá đường lối, nhạy cảm
nắm bắt cái mới, độc lập, tự chủ và linh hoạt, sáng tạo trong đường lối. Ở những thời
điểm gay go nhất, như thời kỳ biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu, Đảng ta đã
tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng của một Đảng dày dạn và từng trải trong lãnh đạo
và chỉ đạo cách mạng. Nhờ đường lối đó, sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã
vượt qua được khủng hoảng, tránh được sự đổ vỡ như Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa khác ở Đông Âu, đồng thời tránh được sự bảo thủ và trì trệ như một số
nước xã hội chủ nghĩa khác còn lại.
Chính vì vậy, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới được xem là một trong những bài học quan trọng mà Đại hội lần thứ IX và
lần thứ X của Đảng đã nhấn mạnh(8).
Thứ hai, sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện bằng hành động gương mẫu của đảng
viên, bằng cách giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào
hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Bởi vì, một khi
đã có đường lối, chủ trương đúng đắn rồi thì việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương ấy mang lại hiệu quả đến mức nào điều đó do đội ngũ cán bộ quyết định.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác cán bộ. Người
khẳng định rằng, "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "muôn việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Người thường xuyên căn dặn: Đảng phải coi công
tác huấn luyện, giáo dục, đào tạo là công việc đầu tiên của Đảng. Người viết: "Đảng
phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quí báu. Phải
trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc chung của chúng
ta"(9).
Thực hiện lời căn dặn đó, trong những năm qua, Đảng ta đã đặc biệt coi trọng công
tác đào tạo, bồi dưỡng và tuyển chọn cán bộ. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc,
Đảng ta đã đào tạo được đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách
mạng, hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì sự tồn vong
của dân tộc. Đó là một trong những yếu tố quyết định dẫn tới thắng lợi của hai cuộc
kháng chiến vĩ đại.
Tuy nhiên, từ khi đất nước ta hoàn toàn được giải phóng đến nay, do những điều kiện
khách quan có nhiều thay đổi, một bộ phận cán bộ, đảng viên không còn đáp ứng
được những yêu cầu của công cuộc đổi mới. Thêm vào đó, do sự thay đổi cơ chế,
không ít đảng viên đã bị thoái hoá, biến chất trong điều kiện cơ chế thị trường.
Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ IX và Đại hội lần thứ X của Đảng đã nêu lên sự
cần thiết phải có cơ chế và chính sách phát hiện, đào tạo, tuyển chọn và bố trí cán bộ;
đồng thời thực hiện tốt khâu quy hoạch và chính sách cán bộ, trọng dụng những
người có đức, có tài. Đó là việc làm vừa dân chủ, công bằng, vừa là yêu cầu đối với
sự lãnh đạo của Đảng và có ảnh hưởng quyết định đến sự sống còn của Đảng. Bởi lẽ,
nếu Đảng không tinh tường phát hiện ra những người có khả năng để bồi dưỡng
thành các cán bộ lãnh đạo, quản lý, nếu không sử dụng cán bộ đúng lúc, đúng sở
trường thì sẽ thiệt hại cho Đảng, cho tổ chức. Trái lại, nếu không có cơ chế tuyển
chọn khách quan, công khai, công tâm thì những người tốt, có năng lực có thể bị loại,
còn những kẻ cơ hội, kém phẩm chất, năng lực yếu có thể chui sâu vào bộ máy lãnh
đạo của Đảng. Kết quả là bộ máy lãnh đạo của Đảng sẽ bị suy yếu và mất sức chiến
đấu. Do đó, công tác tuyển chọn cán bộ phải căn cứ vào nhu cầu về cán bộ, phải dựa
trên sự đánh giá chính xác cán bộ, đồng thời thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ trong quy hoạch và nâng cao chất lượng cán bộ. Đại hội IX và Đại hội X còn chỉ
ra rằng, đánh giá và tuyển chọn cán bộ phải trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công
tác thực tế và sự tín nhiệm của đảng viên, nhân dân làm thước đo chủ yếu.
Thứ ba, Đảng ta luôn coi trọng việc nâng cao sức chiến đấu dựa trên cơ sở củng cố,
tăng cường sức mạnh về tổ chức, tăng cường sự đoàn kết, kỷ luật và kiểm tra của
Đảng.
Với tư cách là một đảng cách mạng, giữ vai trò lãnh đạo, Đảng ta rất coi trọng những
nguyên tắc về tổ chức và phương thức hoạt động. Nói về nguyên tắc và phương thức
hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: "Nguyên tắc tổ chức thì cực
kỳ nghiêm, tức là bất kỳ ở hoàn cảnh nào, mọi đảng viên và cán bộ phải thật thà và
triệt để chấp hành chính sách và nghị quyết Đảng, phải làm đúng chế độ gửi báo cáo
và xin chỉ thị"(10). Người đề ra ba nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt
Đảng là: nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo và nguyên tắc
Đảng phải tăng cường mối liên hệ mật thiết với quần chúng. Trong Di chúc, Người
căn dặn Đảng ta phải "thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” lấy
đó làm “cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của
Đảng"(11). Người cho rằng, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự kiểm điểm,
tự phê bình, tự sửa chữa khuyết điểm như mỗi ngày phải rửa mặt. Người khẳng định:
"Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có
gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết
điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa
khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính"(12).
Trên thực tế, Người đã nêu một tấm gương sáng về phê bình và tự phê bình để toàn
Đảng, toàn dân noi theo.
Thực ra, những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
ra đã được Đảng ta quán triệt trong suốt gần 80 năm hoạt động của Đảng. Tuy nhiên,
kể từ khi đổi mới đến nay, bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên cương vị khởi xướng
và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta cũng đã bộc lộ những yếu kém và khuyết
điểm trong công tác tổ chức, lãnh đạo. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII đã nhận định: "Tổ chức và kỷ luật của Đảng lỏng lẻo. Hệ thống tổ
chức có khâu trì trệ ách tắc, chưa bảo đảm được sự lãnh đạo thông suốt trên tất cả
các lĩnh vực. Một số tổ chức cơ sở Đảng rệu rã, tê liệt, không giữ được vai trò lãnh
đạo"(13). Trước tình hình đó, Hội nghị đã nêu lên sự cần thiết phải chính đốn Đảng
về tổ chức và khẳng định lại những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đó là:
"Thực hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, trước hết là
nguyên tắc tập trung dân chủ, ngăn chặn và khắc phục tệ vô tổ chức, vô kỷ luật, độc
đoán, chuyên quyền trong Đảng. Tiếp tục mở rộng dân chủ trong Đảng, phát huy
tính tích cực, hoặc chủ động của đảng viên và các tổ chức đảng, đồng thời thực hiện
đúng nguyên tắc: thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới phục
tùng cấp trên, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội toàn quốc và Ban Chấp
hành Trung ương. Trong các cơ quan lãnh đạo, ngoài những nguyên tắc đó còn phải
quán triệt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách"(14).
Thực hiện chủ trương của Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VII
và nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kỷ niệm 70
năm thành lập Đảng, Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII đã thông qua Nghị quyết Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công
tác xây dựng Đảng hiện nay. Hội nghị một lần nữa khẳng định rằng, sự lãnh đạo đúng
đắn và sáng suốt của Đảng trong suốt bảy thập kỷ qua là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, Đảng
cần có những biện pháp kiên quyết để sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố,
chỉnh đốn làm cho Đảng ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ. Hội nghị cũng đã đề ra một số nhiệm vụ
cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, như tăng cường sự thống
nhất về nhận thức; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận; đổi
mới công tác giáo dục trong Đảng và trong xã hội về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng
cường giáo dục rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; tập trung
chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, v.v Đó chính là những nhiệm vụ mà Đảng
cần thực hiện trong thời gian tới nhằm nâng cao sức chiến đấu, vai trò và hiệu quả lãnh
đạo của Đảng để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Cuối cùng, để lãnh đạo một cách có hiệu quả, Đảng ta thường xuyên coi trọng việc
tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ trước và tìm cách vận dụng
những kinh nghiệm đó vào công tác lãnh đạo công cuộc đổi mới.
Trước đây, trong từng chặng đường cách mạng, Đảng ta đã thường xuyên tổng kết
nhằm rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho các thời kỳ sau. Kể từ khi đổi mới đến nay,
trong mỗi kỳ đại hội, Đảng ta thường rút ra những bài học bổ ích cho sự nghiệp đổi
mới. Chẳng hạn, Đại hội VI của Đảng đã nêu lên 4 bài học chủ yếu trong quỏ trình
lãnh đạo cách mạng giai đoạn 10 năm trước đổi mới (1975 - 1985). Tiếp theo Đại hội
VI, Đại hội lần thứ VII đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm về đổi mới, rèn luyện bản lĩnh
chính trị vững vàng trước những khó khăn, thách thức mới. Đồng thời, khi tổng kết
chặng đường 10 năm đổi mới, Đại hội VIII đã rút ra 6 bài học chủ yếu. Trong đó, bài
học tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt được xem là bài học chung xuyên suốt cả ba kỳ đại hội. Tiếp theo Đại hội VIII,
Đại hội IX một lần nữa khẳng định những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII,
VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn giá trị lớn. Qua thực tiễn của sự nghiệp đổi
mới, Đại hội IX nhấn mạnh 4 bài học chủ yếu, trong đó có bài học đường lối đúng
đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Tiếp theo
Đại hội IX, Đại hội X của Đảng khi tổng kết 20 năm đổi mới cũng nêu lên 5 bài học
của quá trình đổi mới mà một trong năm bài học đó đó được chúng tôi nhắc lại ở trên
là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là khâu
then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới
Những bài học mà các Đại hội đã nêu ra là hết sức cần thiết. Chính những bài học ấy
đã giúp Đảng ta tránh được những sai lầm, vấp váp, đồng thời nâng cao được sức
chiến đấu và vai trò lãnh đạo của mình. Tất nhiên, việc tổng kết, đúc rút những bài
học không phải là công việc đơn giản; trái lại, nó đòi hỏi trình độ trí tuệ cao về lý luận
và khả năng tổng kết thực tiễn. Công tác tổng kết thực tiễn càng khoa học, đúng đắn
bao nhiêu thì sự lãnh đạo của Đảng càng có hiệu quả thiết thực bấy nhiêu. Tuy nhiên,
vấn đề không chỉ là ở chỗ tổng kết, đúc rút những bài học, mặc dù, như trên đã trình
bày, đó là việc làm hết sức cần thiết, mà ở chỗ làm thế nào sửa chữa được những thiếu
sót và yếu kém đã nhận ra. Nói cách khác, điều quan trọng chính là làm thế nào để
đưa những bài học đã được các đại hội Đảng rút ra vào thực tế cuộc sống. Đây chính
là vấn đề đáng quan tâm trong thời gian tới.
Đánh giá một cách tổng quát công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong thời gian qua,
Đại hội XI đã chỉ rõ: trong quá trình lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã
kiên trì và nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây dựng Đảng trên cả ba mặt
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Các chủ trương, giải pháp về chỉnh đốn Đảng đã kịp
thời giải quyết những vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng nội bộ Đảng và nâng cao
vai trò lãnh đạo của Đảng, đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng chung của toàn Đảng,
toàn dân. Những chủ trương và biện pháp mà Đảng đã đề ra vừa mang tính thiết thực,
vừa toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, nên đã tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong các
mặt của công tác xây dựng Đảng.
Tuy nhiên, như Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng đã nhận định, "…Nhìn
chung, cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong các
cơ quan, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đặt ra. Tình trạng suy thoái về tư
tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ
nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán
bộ công chức còn diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức
chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo và chỉ đạo giải quyết những vấn đề phức tạp
nảy sinh. Công tác tư tưởng còn nhiều bất cập và thiếu tính thuyết phục, tính chiến
đấu. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công
cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Chất lượng
và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao”(15).
Từ sự phân tích trên đây, chúng ta có thể khẳng định rằng, sự lãnh đạo của Đảng là
một yêu cầu tất yếu góp phần tạo nên thắng lợi của công cuộc đổi mới. Sự lãnh đạo
của Đảng được thể hiện ở cả nội dung và phương thức lãnh đạo. Nội dung lãnh đạo
quy định phương thức lãnh đạo của Đảng, nhưng phương thức lãnh đạo lại là cách
thức để nội dung được hiện thực hóa. Trên thực tế, rất khó có thể tách rời giữa nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo toàn diện xã hội và Nhà
nước. Đảng chính là người đề ra đường lối, chủ trương cũng như chiến lược và sách
lược cụ thể của cả một giai đoạn cách mạng hoặc trong từng thời kỳ cụ thể. Sự lãnh
đạo của Đảng chỉ có thể dẫn tới thành công khi Đảng xác định đúng đắn mục tiêu,
nắm vững nội dung của lý luận, biết xuất phát từ thực tế khách quan, biết thay đổi
sách lược đúng lúc, thực hiện ngày càng tốt hơn công bằng và bình đẳng xã hội, v.v.,
nói tóm lại là, khi Đảng có đường lối, chủ trương đúng đắn. Nhưng để có đường lối,
chiến lược và sách lược đúng đắn cần phải có đội ngũ cán bộ có khả năng và trình độ.
Mặt khác, bản thân đội ngũ cán bộ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hiện
thực hoá các đường lối, chủ trương đó, tức là biến những đường lối, chủ trương đó
thành hiện thực cuộc sống. Ngoài ra, sức mạnh của Đảng còn được thể hiện ở những
nguyên tắc tổ chức, công tác tư tưởng và kỷ luật của Đảng. Để có sự lãnh đạo đúng
đắn và sáng suốt, Đảng phải biết rút ra những bài học bổ ích cho từng giai đoạn hay
từng thời kỳ của cách mạng.
Song, một vấn đề được đặt ra là, trong điều kiện mới của quá trình toàn cầu hóa đang
tác động một cách mạnh mẽ đến tất cả các nước trên thế giới; sự hội nhập một cách
toàn diện của Việt Nam vào khu vực và thế giới, sự đổi mới và phát triển kinh tế của
Việt Nam trong hơn 20 năm qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đã được trình bày
trong Cương lĩnh năm 1991 có còn phù hợp hay không? Ngoài những nội dung của
phương thức lãnh đạo đó mà chúng tôi đã trình bày và phân tích ở trên cần tính đến
yếu tố nào?
Chúng tôi cho rằng, phương thức lãnh đạo của Đảng như đã trình bày trong Cương
lĩnh năm 1991 hiện nay vẫn còn có giá trị. Điều đó có nghĩa là, để lãnh đạo xã hội
trong điều kiện mới hiện nay, Đảng cần có cương lĩnh, chiến lược và các định hướng
và chủ trương công tác đúng đắn. Đảng cần làm tốt công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức kiểm tra và các đảng viên phải gương mẫu trong việc chấp
hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng phải giới thiệu được những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh
đạo chính quyền và các đoàn thể. Làm tốt những nội dung đó sẽ góp phần quan trọng
vào nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng.
Tất nhiên, trong điều kiện lịch sử mới, những nội dung trong phương thức lãnh đạo
cũng cần được đổi mới. Chẳng hạn, Đảng cần có một cương lĩnh mới nhằm bổ sung,
hoàn thiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã được Đại hội VII thông qua năm 1991. Trên thực tế, từ thực tiễn phong phú và
những thành tựu đạt được qua gần 20 năm thực hiện Cương lĩnh, Đảng ta đã bổ sung,
hoàn chỉnh nhiều luận điểm của Cương lĩnh, đồng thời đề xuất thêm hàng loạt luận
điểm mới, làm cho nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ngày càng trở nên rõ ràng hơn.
Tuy nhiên, trong chặng đường mới của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, do
những biến đổi to lớn cả ở trong và ngoài nước hiện nay cũng như trong những thập
niên tới, hàng loạt vấn đề mới đã và đang tiếp tục nảy sinh đòi hỏi phải được nghiên
cứu, giải đáp để phục vụ cho sự phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam. Do vậy,
việc xây dựng một Cương lĩnh phát triển đất nước trong giai đoạn mới trên cơ sở kế
thừa và phát triển Cương lĩnh năm 1991 là hết sức cần thiết.
Tương tự như vậy, hiện nay, đất nước ta đang bước vào một giai đoạn phát triển mới
với nhiệm vụ cơ bản là nhanh chóng đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng một nước
kém phát triển, có thu nhập thấp, trong điều kiện nền kinh tế đã hội nhập sâu và gắn
kết chặt chẽ với nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong giai đoạn mới đó, đất nước
phát triển với thế và lực mới, trong bối cảnh mới, cơ hội nhiều hơn nhưng thách thức
và khó khăn cũng tăng lên gấp bội. Vì vậy, Đảng cần có Chiến lược phát triển kinh
tế – xã hội 2011 – 2020 nhằm định hướng cho sự phát triển của đất nước.
Cùng với việc xây dựng Cương lĩnh và Chiến lược, công tác cán bộ có vai trò cực kỳ
quan trọng. Khi đã có Cương lĩnh và Chiến lược đúng đắn thì sự thành công của việc
hiện thực hóa Cương lĩnh và Chiến lược, cũng như các chủ trương và quyết sách lớn
của Đảng lại phụ thuộc vào năng lực của cán bộ, những người được Đảng giới thiệu
vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và của Nhà nước.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, kiểm tra trong điều kiện
hiện nay cũng cần đổi mới cho phù hợp với điều kiện mới. Nhiều hình thức trước đây
phù hợp và mang lại hiệu quả thì hiện nay không còn phù hợp nữa. Do đó, để đổi mới,
cần có sự tìm tòi và sáng tạo ra các hình thức hợp lý và có hiệu quả. Chúng ta không
thể nói một cách chung chung và chắc chắn hình thức như thế nào là hiệu quả và hình
thức như thế nào thì không có hiệu quả. Chỉ có thực tiễn mới có thể giúp chúng ta có
được câu trả lời chính xác.
Nói tóm lại, những nội dung trong phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn phù hợp với
điều kiện hiện nay. Song, vấn đề là ở chỗ làm thế nào cho các nội dung đó có chất
lượng và mang lại hiệu quả thiết thực.
Tuy nhiên, ngoài 3 nội dung thể hiện phương thức lãnh đạo của Đảng trên đây, để
phương thức lãnh đạo của Đảng được thực thi một cách có hiệu quả, theo chúng tôi,
cần tính đến một vấn đề hết sức quan trọng, đó là vấn đề phát huy dân chủ trong Đảng
và trong xã hội.
Dân chủ là một trong những thành tựu và giá trị của nhân loại; đồng thời mang tính
lịch sử - cụ thể. Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới về mặt chính trị là
dân chủ hóa đời sống xã hội; dân chủ được xem là mục tiêu và động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Phát huy dân chủ là điều kiện hết sức quan trọng để thực hiện
phương thức lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc của
Đảng. Nhưng, để có những quyết định đúng đắn thì việc phát huy dân chủ là hết sức
cần thiết. Dân chủ trong mối quan hệ với tập trung là điều kiện cần thiết và không thể
thiếu được. Trong mối quan hệ với phương thức lãnh đạo của Đảng, dân chủ vừa là
môi trường, vừa là điều kiện để phát huy khả năng sáng tạo không chỉ của các đảng
viên, mà còn của cả các thành viên trong xã hội trong việc xây dựng cương lĩnh, chiến
lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác, trong công tác tuyên
truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra của Đảng. Đồng thời, dân chủ còn là
phương tiện hữu hiệu để Đảng thực hiện việc giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong cơ quan lãnh đạo chính quyền và đoàn thể.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo đã tiến hành được hơn hai thập kỷ. Những thành
tựu mà chúng ta thu được là có ý nghĩa lịch sử và vô cùng đáng phấn khởi. Chúng ta
đã bước sang thế kỷ mới với những cơ hội và thách thức mới. Những cơ hội và thách
thức ấy sẽ tạo cho chúng ta những động lực mới trên con đường xây dựng một đất
nước "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đó là một khả
năng hoàn toàn thực tế. Nhưng khả năng đó có biến thành hiện thực hay không thì
điều đó lại hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của Đảng.
(*) Phó giáo sư, Tiến sĩ, Viện trưởng Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam,
Tổng biên tập Tạp chí Triết học.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 72.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1987, tr.123.
(3) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 267, 268.
(4) Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương. Văn kiện Đảng 1930-1945, t.1. Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1977, tr.74.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 21.
(6) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.19.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 26-27.
(8) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 82.
(9) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.273.
(10)Hồ Chí Minh. Sđd.,t.7,tr.335.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr. 510.
(12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 261.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII. Hà Nội, 1992, tr. 26.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.33.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 48.
ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ĐỂ PHÁT HUY DÂN CHỦ
ĐOÀN MINH DUỆ (*)
Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng để làm rõ rằng, đổi mới hệ thống chính trị
là yếu tố quan trọng để thực hành và phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay. Trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị khác; trong đó, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng là mấu chốt. Việc đổi mới hệ thống chính trị phải
được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó cũng là nhân tố bảo đảm xây
dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong điều kiện hiện nay.
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều đảo lộn, đất nước
ta rơi vào khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Nguyên nhân chủ quan của
khủng hoảng kinh tế – xã hội ở nước ta là do những sai lầm trong chủ trương, chính
sách cũng như trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện của Đảng và Nhà nước. Để đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng, tại Đại hội lần thứ VI, Đảng đã nhấn mạnh vấn đề
sống còn của đất nước là phải đổi mới(1). Đổi mới trong tình hình như vậy thật sự là
một cuộc cách mạng nhằm mục tiêu từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp
với điều kiện Việt Nam trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Để công cuộc đổi mới đi tới thắng lợi, việc phát huy
tính chủ động, sáng tạo, tự giác tham gia một cách tích cực của mỗi người, làm cho
mọi tiềm năng sáng tạo được tự do phát triển, mọi người dân được tham gia vào các
quá trình chính trị, xã hội trên tất cả các khâu, từ hoạch định đường lối đến triển khai
tổ chức thực hiện, giám sát, kiểm tra và tổng kết thực tiễn… là vấn đề đặc biệt quan
trọng. Điều đó càng thể hiện rõ khi đổi mới là sự nghiệp mới mẻ, nhiều vấn đề nảy
sinh cần có nhận thức mới, giải pháp mới về nguyên tắc, khi những khó khăn xuất
hiện trên con đường tiến tới mục tiêu là khó lường hết được. Chính trong quá trình
ấy, việc dựa vào dân, phát huy tính sáng tạo của nhân dân… là chìa khoá của thành
công. Vì vậy, Văn kiện Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ rằng, trong toàn bộ hoạt động
của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động”(2). Quan điểm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh
giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” và “lấy dân làm gốc” của Đại hội VI đã tạo nên một
động lực mới, một phong trào cách mạng mới cho đất nước.
Trong công cuộc đổi mới, các văn kiện của Đảng đã định ra các phương thức: “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”(3). Về lý luận, như vậy là dân chủ. Nhưng trong đời sống xã hội, để thực
sự có dân chủ và triển khai được quyền làm chủ của nhân dân, chúng ta phải xây
dựng Hiến pháp, pháp luật, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và giáo dục nhân
dân biết thực hiện quyền làm chủ. Hiến pháp, luật pháp dân chủ là một công cụ nhằm
khẳng định, bảo vệ chế độ dân chủ. Hướng dẫn, tổ chức đời sống dân chủ và giáo
dục nhân dân thực hiện quyền làm chủ có vai trò quan trọng trong tổ chức thực tiễn
và phát triển dân chủ. Nhưng yếu tố quan trọng để thực hành dân chủ, tạo điều kiện
thực tế để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là đổi mới hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là khái niệm được Hội nghị Trung ương 6 khoá VI của Đảng
(3/1989) đưa ra để thay cho khái niệm chuyên chính vô sản đã được dùng phổ biến
trong thời kỳ trước đổi mới. Hệ thống chính trị của xã hội ta là hệ thống các tổ chức
chính trị – xã hội trụ cột của nền chính trị xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thông
qua hệ thống chính trị, nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình trong xã hội.
Mục tiêu tổng quát của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
nước ta là “nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”(4).
Trên cơ sở đổi mới kinh tế có hiệu quả, chúng ta đã tiến hành đổi mới chính trị mà
thực chất là đổi mới hệ thống chính trị. “Thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ
thống chính trị” là “thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa”(5). “Dân chủ xã hội chủ
nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, thể hiện quan hệ gắn
bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”(6). Cần phải đổi mới hệ thống chính trị để
nhân dân thực sự thấy mình là “người có quyền” và các quyền chính đáng, hợp pháp
luôn được bảo vệ.
Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là nhằm làm cho chế độ chính trị đã
được kiến lập sau Cách mạng Tháng Tám ngày càng bền vững hơn, thể hiện đúng
đắn và đầy đủ hơn bản chất xã hội chủ nghĩa, phát huy tính ưu việt và vai trò tích cực
của chính trị đối với sự phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời, làm cho các bộ phận
cấu thành hệ thống hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn, khắc phục bệnh quan liêu,
hình thức trên cơ sở xác định rõ, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ
chức và xác lập cơ chế vận hành thông suốt, chặt chẽ của cả hệ thống dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng là hạt
nhân lãnh đạo, Nhà nước là “tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân
dân”. Ngoài ra, hệ thống chính trị nước ta còn bao gồm một số tổ chức chính trị – xã
hội khác, như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ
nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh,
Quá trình đổi mới hệ thống chính trị phải gắn liền với quá trình bảo đảm quyền lực
chính trị thực sự thuộc về nhân dân, từng bước hoàn thiện và nâng cao trình độ nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phải xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng về dân
chủ của nhân dân; căn cứ vào trình độ giác ngộ và năng lực thực hành dân chủ của
nhân dân mà tiến hành đổi mới hệ thống chính trị. Phải từ sự tiến bộ trong việc nhân
dân nắm và sử dụng quyền làm chủ của mình đối với xã hội, cộng đồng mà đánh giá
kết quả đổi mới hệ thống chính trị.
Yêu cầu của đổi mới hệ thống chính trị trước hết là xác định rõ vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức chính trị – xã hội và mối quan hệ giữa các tổ chức đó
trong một thiết chế chung thống nhất, khắc phục tình trạng trùng lặp, “lấn sân” hoặc
đùn đẩy lẫn nhau, không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình. Ở đây, Đảng là hạt
nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống; Nhà nước có chức năng thể chế hoá, cụ thể hoá và tổ
chức thực hiện đường lối của Đảng, quản lý toàn diện xã hội; Mặt trận Tổ quốc là
“liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp
và tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân” nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phản biện và giám sát xã hội, góp
phần xây dựng Đảng, Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc. Trong đổi mới phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt là đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng. Để lãnh đạo đạt kết quả cao, Đảng không chỉ cần có đường lối đúng đắn mà
còn “phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng… để Đảng thật sự là lực lượng
lãnh đạo ở tầm chiến lược, bao quát toàn diện nhưng không rơi vào bao biện làm
thay Nhà nước, phải làm cho Nhà nước mạnh lên, quản lý có hiệu lực, hiệu quả”,
đồng thời làm cho “Mặt trận Tổ quốc… thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã
hội”(7). Phương thức lãnh đạo phù hợp của Đảng trong tình hình hiện nay, theo
chúng tôi, là:
Trước hết, việc xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách phải xuất phát từ thực tế,
tổng hợp được các ý kiến, kinh nghiệm thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Khi đã có nghị quyết phải tuyên truyền, giải thích, thuyết phục mọi người thông suốt,
ý Đảng trở thành ý dân. Trong quá trình thực hiện, Đảng phải theo dõi xem chủ
trương đề ra có đúng không, cần điều chỉnh như thế nào trước khi nhân ra diện rộng.
Người lãnh đạo, tập thể lãnh đạo tài giỏi mấy cũng không thể nghĩ thay, nghĩ hơn được
toàn thể đảng viên và nhân dân. Do đó “biết lãnh đạo”, “cách lãnh đạo cực kỳ tốt”, theo
Hồ Chí Minh, là dựa vào trí tuệ, kinh nghiệm và sức mạnh của nhân dân.
Thứ hai, phải biết cụ thể hoá, vận dụng sáng tạo Nghị quyết của Đảng vào từng cấp,
từng lĩnh vực. Đảng lãnh đạo Nhà nước trước hết là bằng Cương lĩnh, chiến lược và
các định hướng về chính sách và chủ trương công tác lớn. Tổ chức Đảng ở từng cấp,
từng ngành, từng cơ quan phải nắm vững đường lối, quan điểm chung của Đảng, căn
cứ vào đặc điểm từng địa phương, từng ngành, từng cơ quan mà đề ra chủ trương, kế
hoạch, biện pháp sát hợp. Trước khi triển khai ra diện rộng một chủ trương quan
trọng nào đó, cần tiến hành làm thí điểm để rút kinh nghiệm.
Thứ ba, hiện nay, hệ thống chính trị của chúng ta có Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam từ Trung ương đến cơ sở; các tổng công ty, các cơ quan sự nghiệp
cũng có hệ thống tổ chức theo ngành dọc. Do vậy, phải tạo lập sự phối hợp chặt chẽ,
nhịp nhàng giữa các tổ chức, giữa các ngành và các địa phương, tức là kết hợp sự
lãnh đạo theo hệ thống dọc với lãnh đạo theo hệ thống ngang cho đúng.
Thứ tư, trong khi thực hiện sự lãnh đạo toàn diện, thường xuyên, Đảng phải biết lựa
chọn và tập trung lãnh đạo những công việc trọng yếu.
Thứ năm, phải phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước,
các đoàn thể nhân dân. Trong điều kiện Đảng Cộng sản là đảng duy nhất cầm quyền,
các tổ chức, cấp uỷ đảng phải vừa giáo dục, vừa quản lý và phát huy vai trò của lực
lượng này trong việc thực hiện sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ sáu, phải thường xuyên tiến hành kiểm tra và kiểm tra đúng cách. Cách tốt nhất là
phải làm thường xuyên và kết hợp kiểm tra “từ trên xuống” và “từ dưới lên”, đặc biệt
“người kiểm tra phải là người có uy tín”.
Xét về hiệu quả lãnh đạo chính trị trong những năm đổi mới, tư duy lý luận của Đảng
đã tạo nên những bước tiến mới về phương thức lãnh đạo và đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị cơ sở. Đảng ta chủ trương hướng về cơ
sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của chính trị, đề cao các sáng kiến từ cơ sở. Nhấn
mạnh vai trò của cơ sở thực chất là nhấn mạnh vai trò của nhân dân, tác dụng to lớn
và quyết định của nhân dân trong xây dựng chế độ mới, xây dựng chế độ dân chủ,
thực hiện quyền lực của nhân dân.
Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân là một trong bảy định hướng cơ bản nhằm tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay (8). Để làm cho Nhà nước mạnh lên, quản lý có hiệu lực và hiệu quả, theo
chúng tôi, cần có nhiều giải pháp. Cụ thể là:
- Trước hết, phải đổi mới hoạt động của Quốc hội. Quốc hội do cử tri cả nước trực
tiếp bầu bằng phương thức bỏ phiếu kín, nên Quốc hội là cơ quan đại biểu ý chí và
đại biểu quyền lực nhân dân cao nhất, là cơ sở lập pháp. Nhiệm vụ trọng yếu của
Quốc hội là lập pháp, đồng thời là hoạt động giám sát đối với tất cả các tổ chức
quyền lực nhà nước, các hành vi của các tổ chức và cá nhân công dân trong xã hội,
đảm bảo cho sự tôn nghiêm của pháp luật được thực thi, quyền bình đẳng trước pháp
luật của tất cả mọi người được tuân thủ. Đổi mới hệ thống chính trị vừa phải đổi mới
nội dung và phương pháp lãnh đạo của Đảng, vừa phải đổi mới tổ chức và hoạt động
của Nhà nước, trong đó có Quốc hội, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc… Nhà nước là thành phần cốt yếu của chế độ chính trị và hệ thống chính trị;
Quốc hội là cơ quan cốt yếu của Nhà nước, là thiết chế biểu thị đầy đủ, tập trung,
thống nhất quyền lực và sự uỷ quyền của nhân dân. Thực chất của chế độ dân chủ
là chế độ uỷ quyền của dân cho Nhà nước. Thông qua bầu cử, dân trực tiếp lựa chọn,
bầu cử những đại biểu xứng đáng với sự uỷ quyền của mình ở Quốc hội để lập pháp.
Cũng như vậy, nhân dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu hợp thành cơ quan đại diện
cho quyền lực của mình ở địa phương và cơ sở – các Hội đồng nhân dân. Do yêu cầu
của công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu và trên quy mô lớn, Quốc hội phải tiếp
tục đổi mới ở hai lĩnh vực quan trọng: đó là tổ chức nên một Quốc hội thực sự dân
chủ, thể hiện đúng đắn tính đại diện, đại biểu cho ý chí và quyền lực của dân, tạo ra
một cơ cấu tổ chức sao cho Quốc hội thực sự có khả năng hoạt động lập pháp và
giám sát, một Quốc hội có thực lực, thực quyền để thực thi dân chủ; đồng thời, đó là
một Quốc hội có nội dung, phương pháp hoạt động một cách dân chủ, chủ động,
sáng tạo, tích cực và năng động, thể hiện rõ sức mạnh của dân chủ trong cuộc đấu
tranh chống lại sự phản dân chủ, như vi phạm quyền dân chủ của dân, tập trung quan
liêu, thói tự do vô chính phủ, dân chủ hình thức… Tiêu điểm của các hoạt động dân
chủ ấy là dân chủ hoạt động lập pháp, tạo ra một hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ,
kiểm tra và giám sát việc thực thi pháp luật trong tất cả các cơ quan công quyền,
trong các tổ chức và cá nhân công dân, thực hiện chức năng của Quốc hội là quyết
định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Để đổi mới hai lĩnh vực trên có
hiệu quả, về nhận thức, phải làm cho tư tưởng nhà nước của dân, do dân, vì dân được
chuyển từ quan niệm chung, tổng thể sang từng bộ phận cụ thể của Nhà nước, làm
cho nó có sức mạnh của tính hiện thực – cụ thể – trực tiếp chứ không phải là một
mệnh đề trừu tượng chung, dễ hình thức hoá. Quốc hội dân chủ phải là Quốc hội của
dân, do dân, vì dân và nói rộng ra, hệ thống chính trị cũng phải như vậy. Về nhiệm vụ
cơ bản, cấp bách lâu dài mà thực tiễn cuộc sống đặt ra, cần tập trung giải quyết có
hiệu quả: 1) Việc cải cách và hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu nhân dân, trước hết
là đại biểu Quốc hội; 2) Xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa đại biểu Quốc hội với
cử tri, với dân chúng; 3) Có những quy định, cơ chế và chế tài rõ ràng khi đại biểu
gặp gỡ, tìm hiểu cuộc sống, nguyện vọng của nhân dân…; 4) Đổi mới phương thức
hoạt động của Quốc hội, từ Quốc hội tham luận sang Quốc hội thảo luận, tranh luận;
5) Tăng thời gian chất vấn của đại biểu Quốc hội với các thành viên Chính phủ; 7)
Áp dụng thường xuyên, mạnh mẽ chế độ Quốc hội xem xét, bỏ phiếu tín nhiệm đối
với các thành viên chính phủ;…
- Thứ hai, phải xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước
hiện đại hoá trong một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Chính phủ và
hệ thống cơ quan hành pháp gắn trực tiếp nhất với quá trìnhcải cách hành chính của
Nhà nước. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của việc thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ,
quyền con người, quyền lực của nhân dân trên thực tế của mọi lĩnh vực xã hội. Để có
một nền hành chính Nhà nước đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, chúng ta phải đổi mới thể chế hành chính, bộ máy hành chính, nâng cao
chất lượng đội ngũ công chức hành chính; ra sức ngăn chặn và đẩy lùi nạn tham
nhũng, quan liêu của bộ máy hành chính các cấp. Về thể chế hành chính, cần hợp lý
hoá sự phân công và phối hợp quyền lực của hệ thống hành chính nhà nước trên
những căn cứ thật khoa học. Đây là khâu quan trọng của công cuộc cải cách thể chế
hành chính, pháp chế hoá bộ máy, biên chế công chức và hoạt động hành chính. Đến
nay, cần tăng cường pháp luật hành chính liên quan tới kết cấu bộ máy, tiêu chuẩn,
số lượng biên chế, phương thức hoạt động của các cơ quan hành chính; cần hiện đại
hoá phương thức quản lý hành chính và hiệu quả hoá các hoạt động hành chính.
Đồng thời,hoàn thiện bộ máy hành chính theo hướng gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả
và hiệu lực cao. Hiện nay, bộ máy hành chính của nước ta còn quá cồng kềnh, chồng
chéo về chức năng, nhiệm vụ, hiệu lực và hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Về nâng
cao chất lượng đội ngũ công chức hành chính, cần phải xây dựng một đội ngũ công
chức chuyên nghiệp, giỏi nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị và đạo đức, thực sự là
“công bộc”, là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hiện nay, nhìn chung, đội ngũ
công chức của nước ta còn yếu về nghiệp vụ, một bộ phận không nhỏ thoái hoá về tư
tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống. Trong bộ máy công quyền còn một số phần tử
cơ hội, biến chất vẫn tồn tại, chưa bị phát hiện và loại bỏ. Để có được một đội ngũ
công chức mạnh, trong sạch, cần phải đổi mới cơ chế phát hiện, tuyển chọn, đề bạt
và đãi ngộ, đồng thời phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
- Thứ ba, nâng cao trình độ làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực, từ kinh tế,
chính trị và tư tưởng đến các lĩnh vực khác. Đồng thời, phải đổi mới cơ chế để nhân
dân phát huy quyền làm chủ. Hiện nay, việc thực hiện yêu cầu này còn yếu. Nhiều
người dũng cảm đấu tranh chống các biểu hiện mất dân chủ nhưng lại chưa được bảo
vệ, thậm chí còn bị trù dập, chà đạp. Tình hình này đã làm thui chột tinh thần đấu
tranh của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, còn phải đổi mớihoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị theo hướng đa dạng hoá về
hình thức, về chức năng, nhiệm vụ và nêu cao tính thiết thực và hiệu quả, làm tốt
chức năng phản biện, giám sát xã hội. Mặt trận Tổ quốc là tổ chức rộng rãi, mang
tính đại diện rất lớn, có vai trò đoàn kết toàn dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân. Thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội, Mặt trận Tổ quốc sẽ góp phần
quan trọng hàng đầu trong việc tạo ra sự đồng thuận xã hội. Do đó, cần thúc đẩy việc
hoàn thiện cơ chế quản lý các quá trình này. Điều quan trọng hiện nay là các tổ chức
thành viên Mặt trận Tổ quốc phải tránh đượccăn bệnh nhà nước hoá, hành chính
hoá. Vì muốn phản biện thì phải đứng ở một vị trí khác, ở góc nhìn khác với người
có dự án cần phản biện. Một khi hoạt động của Mặt trận Tổ quốc đã bị nhà nước hoá
và hành chính hoá thì họ chỉ có thể làm được công việc chuyển tải các chủ trương,
chính sách của Nhà nước đến dân chúng, chứ không làm được chức năng tạo ra
tương tác sống động giữa nhân dân và Nhà nước. Muốn vậy, phải thể chế hoá và hiện
thực hoá chức năng phản biện của Mặt trận Tổ quốc.
Việc đổi mới hệ thống chính trị nhằm tạo điều kiện để phát huy dân chủ ở nước ta
phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giữ vững sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là điều kiện tiên quyết
để nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hành động cách mạng có ý thức, thấu hiểu về lý luận
và có tính tổ chức cao, chứ không phải là một cuộc bạo động tự phát. Chỉ có Đảng
Cộng sản chân chính mới có thể đưa ra được tư tưởng chủ nghĩa cộng sản khoa học
và tính tổ chức cao cho phong trào quần chúng, mới kết hợp được nhiệt tình cách
mạng với niềm tin khoa học vào tính tất thắng của nền dân chủ đó, mới làm cho cuộc
đấu tranh giải phóng con người được thực hiện triệt để. Trong tình hình hiện nay,
nhân tố bảo đảm xây dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta chỉ có
thể là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ được trang bị chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đưa ra được những quyết sách đúng cho
quá trình đổi mới. Đó là cơ sở cho sự đoàn kết, thống nhất về quan điểm, ý chí và
hoạt động trong toàn Đảng, toàn dân; phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của
nhân dân trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng mang tính tự giác cao. Sự
lãnh đạo của Đảng là mang lại tính tự giác đó cho quá trình này. Hơn nữa, dựa vào
bản lĩnh chính trị và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, Đảng không chỉ có khả năng
hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn, mà còn có kỹ năng đưa các quyết định
đó vào quần chúng và hoạt động của Nhà nước, biến những chủ trương đúng đắn đó
thành hiện thực sinh động, phù hợp với quy luật phát triển xã hội.
Nói tóm lại, đổi mới hệ thống chính trị là giải pháp mang tính nền tảng để thực hành
và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó phải được đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản. Đến lượt mình, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy lại
là một cơ sở thực tiễn vững chắc bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa.
(*) Tiến sĩ, Chủ nhiệm Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.
(1) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 132 – 133.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.29.