Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

BUỔI THẢO LUẬN THỨ năm môn NHỮNG vấn đề CHUNG về LUẬT dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.82 KB, 33 trang )

Khoa Luật Hình sự
Lớp Hình sự 46A1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM
MÔN: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT DÂN
SỰ
Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hồng Hải
Nhóm: 01
Thành viên:
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

Họ và tên
Nguyễn Đỗ Tâm An
Nguyễn Huỳnh Tường An
Nguyễn Thị Bảo An
Võ Trần Hoài An
Dương Thị Huế Anh (nhóm trưởng)
Nguyễn Bùi Vân Anh
Nguyễn Ngọc Tú Anh
Nguyễn Huỳnh Tuyết Nhi

MSSV
2153801013002


2153801013003
2153801013004
2153801013005
2153801013006
2153801013012
2153801013014
2153801013190

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 4 năm 2022


DANH MỤC VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật dân sự

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

HĐXX

Hội đồng xét xử


Mục lục

VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ...............................................................1
1.1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời...........................................................................................2
1.2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một
tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản khơng? Vì sao?......................3
1.3. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người
quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời..................................................................................4
1.4. Trong Bản án số 08, Tồ án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản khơng? Đoạn nào của bán án có
câu trả lời?.....................................................................................................4
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tồ án trong Bản án số 08
về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất..............5
1.6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao?..........................................................................5
1.7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K
có được coi là di sản để chia khơng? Vì sao?.................................................6
1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần
diện tích đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K........................................6
1.9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản
để chia khơng? Vì sao?...................................................................................6
1.10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện
tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?.................................................................7
1.11. Việc Tịa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2
có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng? Vì
sao?................................................................................................................7
1.12. Việc Tịa án quyết định “cịn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần cịn lại”
có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng? Vì
sao?................................................................................................................7


VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN...............................................................9


2.1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của
ơng Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục khơng, vì sao?.............9
2.2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý
di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..................................................10
2.3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di
sản có thuyết phục khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..............................10
2.4. Khi người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tơn đạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời................11
2.5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con
trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................11
2.6. Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý khơng có quyền tự
thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời..........................................................................................12

VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ................13
3.1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam...............13
3.2. Pháp luật nước ngồi có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản không?
...................................................................................................................... 13
3.3 Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?...................14
3.4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao? 14
3.5. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được cơng bố có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?14

3.6 Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên...........................15

VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU.......................................................16


1

VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ
* Tóm tắt bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 V/v tranh chấp thừa kế
tài sản:
- Ngun đơn là ơng Trần Văn Hịa kiện bị đơn là anh Trần Hoài Nam và chị
Trần Thanh Hương về việc chia di sản thừa kế của bà Cao Thị Mai. Tài sản
tranh chấp là nhà, đất tại phường Đống Đa, thành phố Vĩnh n. Tài sản của
ơng Hịa bà Mai gồm 1 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và 1 lán bán hàng
xây dựng năm 2006 trên diện tích đất 169,5m 2 (trong đó diện tích được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 84m 2, còn lại 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng ơng Hịa đã sử dụng ổn định, khơng
tranh chấp, có ranh giới và khơng thuộc diện quy hoạch).
- Về tài sản các đương sự có tranh chấp:
+ Tiền cho thuê nhà và lán bán hàng từ tháng 3/2018 đến thời điểm xét xử do
ơng Hịa đang quản lý, do khơng có đủ căn cứ để khẳng định số tiền thuê nhà
và lán bán hàng hiện ông Hịa đang quản lý tính đến tháng 8/2020 là
300.000.000đ (40.000.000đ + 120.000.000đ nhận của chị Thanh và
140.000.000đ nhận của anh Trinh) nên đồng nghĩa với đề nghị của chị Hương
về số tiền th cao hơn 14.000.000đ/tháng là khơng có căn cứ, không được
HĐXX chấp nhận.
+ Tiền cho thuê lán bán hàng của năm 2017, 2018 do chị Hương quản lý, lời
khai của các đương sự đều mâu thuẫn vì vậy việc quy kết chị Hương đã nhận
số tiền thuê nhà 120.000.000đ của anh Trinh là khơng có đủ căn cứ vững chắc.
Căn cứ vào lời khai nhận của chị Hương, chỉ đủ căn cứ để khẳng định số tiền

thuê nhà và lán bán hàng hiện chị Hương đang quản lý là 30.000.000đ. Lập
luận này cũng đồng nghĩa với đề nghị của ơng Hịa về số tiền chị Hương đang
quản lý 120.000.000đ khơng được HĐXX chấp nhận.
+ Đối diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thì anh Nam và chị Hương yêu cầu xác định diện tích đất trên là tài sản
chung của gia đình (ơng Hịa, bà Mai, anh Nam và chị Hương). Đó là tài sản
hình thành từ năm 1993 và cả anh Nam và Chị Hương thời điểm đó vẫn sống
phụ thuộc vào gia đình. Do đó có đủ căn cứ để khẳng định tài sản nêu trên là tài
sản chung của vợ chồng ơng Hịa bà Mai. Do sau đó ơng Hịa đã xây nhà trên
diện tích đất trên và có một phần đóng góp cụ thể của anh Nam cho nên ½ của
số tiền là 306.050.500đ được trích trả cho anh Nam còn lại mới là tài sản chung
của vợ chồng ơng Hịa.


2

- Về phân chia tài sản: Sau khi bà Mai mất ơng Hịa đã có vợ mới đồng thời
mua đất có nhà ở đã đăng ký tạm trú, đến 3/2018 do mâu thuẫn bố con ơng Hịa
đã đập vỡ bát hương của bà Mai, thiếu tôn trọng vong linh người đã khuất.
Trong khi đó anh Nam cũng đóng góp ½ giá trị để xây nhà nên việc giao lại
nhà cho anh quản lý là hợp lý.
- HĐXX chia ngôi nhà, sân trường bao loan và quyền sử dụng diện tích đất có
liên quan đến ngơi nhà (đã được cấp giấy chứng nhận) cho anh Nam sử dụng
và sở hữu. Đối với phần đất chưa có giấy chứng nhận giao cho anh Nam quản
lý và sử dụng nhưng phải có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận. Chia lán bán hàng, quyền sử dụng đất có
liên quan đến phần lán bán hàng cho ơng Hịa nhưng ơng phải có trách nhiệm
liên hệ với cơ quan Nhà nước để cấp giấy chứng nhận. Chia cho chị Hương
quản lý, sử dụng và sở hữu số tiền 30.000.000đ cho thuê nhà. Buộc các bên
phải thanh toán chênh lệch về tài sản cho nhau.

Quyết định xử: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật
của ơng Trần Văn Hịa.
1.1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Căn cứ vào Điều 612, BLDS năm 2015 về Di sản thì:
“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong
tài sản chung với người khác”.
Việc xác định di sản có nhiều cách hiểu khác nhau:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng di sản bao gồm tài sản và các nghĩa vụ về tài
sản của người chết như nghĩa vụ trả nợ, nộp thuế,... và khi người thừa kế hưởng
di sản thì cũng phải gánh nghĩa vụ này, có như vậy mới bảo đảm sự công bằng
xã hội, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các “chủ nợ”. “Quan điểm này chỉ có
thể phù hợp khi mà tài sản của người chết và tài sản của gia đình khơng tách
bạch được, cũng như nợ của gia đình và nợ của người chết không phân bởi các
khoản nợ phát sinh từ việc tham gia của gia đình chứ khơng phải chỉ cho cá
nhân. Điều này có nghĩa là các khoản tài sản có của người chết cũng là nợ của
những người thừa kế, bất kể tài sản của người chết có đủ để thanh tốn hay
khơng”. Quan điểm có lẽ khơng phù hợp khi chúng ta hướng tới xây dựng một
nhà nước pháp quyền, đề cao trách nhiệm của cá nhân đối với xã hội, mỗi
người phải chịu trách nhiệm với hành vi của chính mình. Quan điểm này vơ


3

hình dung lại bảo vệ tàn tích của chế độ phong kiến “Nợ truyền đời truyền
kiếp” cha không trả nợ hết thì con trả, con trả khơng hết thì cháu trả.
+ Quan điểm thứ hai thì di sản thừa kế bao gồm tài sản của người chết và nghĩa
vụ về tài sản trong phạm vi di sản thừa kế. Người thừa kế chỉ thực hiện nghĩa
vụ về tài sản trong phạm vi di sản thừa kế. Người thừa kế chỉ thực hiện nghĩa

vụ trong phạm vi di sản mà họ được nhận. Quan điểm này tiến bộ hơn quan
điểm trước ở chỗ là xóa bỏ được tàn tích của chế độ phong kiến là “Nợ truyền
đời truyền kiếp” nhưng vẫn xác định di sản bao gồm các nghĩa vụ về tài sản
của người chết để lại. Tuy nhiên, quan điểm này không được đa số các nhà
khoa học pháp lý ủng hộ, bởi lẽ, di sản được hiểu là tài sản của người chết để
lại, người sống được thừa hưởng di sản của người chết, và lẽ thường không ai
muốn thừa hưởng nghĩa vụ, thừa hưởng công việc của người khác dù người
thân thích.
+ Quan điểm thứ ba cho rằng di sản bao gồm tài sản của người chết để lại mà
không bao gồm nghĩa vụ tài sản. Quản điểm này được nhiều nhà khoa học
đồng ý và được thể hiện trong BLDS năm 2015 tại Điều 612: “Di sản bao gồm
tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với
người khác” và các Điều 659 đến 662 BLDS năm 2015 thì hiểu rằng trước khi
chia di sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của người chết
để lại xong còn lại mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ không phải với tư
cách là chủ thể của nghĩa vụ do họ xác lập mà thực hiện các nghĩa vụ của người
chết để lại bằng chính tài sản của người chết.1
1.2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản khơng? Vì sao?
Trả lời:
Trong thời gian tồn tại, di sản có thể bị thay thế bằng tài sản khác. Chẳng hạn,
trong vụ việc của Quyết định số 88/2009/DS-GĐT ngày 27-2-2009 của Tòa án
dân sự Tòa án nhân dân tối cao, phần di sản do ông Phẳng để lại bị giải tỏa làm
đường và được đền bù “đất tại bờ vùng (rặng nhãn) là đất nông nghiệp chưa
chuyển đổi mục đích sử dụng”. Ở đây, một phần di sản đã được thay thế bằng
một di sản mới. Tương tự như vậy đối với vụ việc của Quyết định số
636/2011/DS-GĐT ngày 22-8-2011 của Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao:
Diện tích 2.334m2 đất vườn thổ cư tại ấp 5 có nguồn gốc của cha mẹ cụ Phận
1


1

Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật
Tp.HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương IV tr.414 đến 415.


4

cho vợ chồng cụ Phận và cụ Kiêu sử dụng. Năm 1995 cụ Phận chết nên ½ diện
tích đất này bị Nhà nước thu hồi và được đền bù bằng 300m 2 đất thổ cư hoán
đổi và 183.06m2 đất thổ cư hỗ trợ. Cũng như vụ việc trước, di sản đã được thay
thế bởi một di sản trước.
Di sản bị thay thế không thuộc những người thừa kế nữa và câu hỏi đặt ra tài
sản thay thế (xuất hiện sau thời điểm mở thừa kế) có được coi là di sản không?
Trong vụ việc của Quyết định số 88/2009/DS-GĐT ngày 27-2-2009 của Tòa án
dân sự Tòa án nhân dân tối cao, đương sự không yêu cầu nữa nên chúng ta
chưa rõ hướng xử lý. Tuy nhiên, trong Quyết định số 636/2011/DS-GĐT ngày
22-8-2011 của Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án giám đốc thẩm
xác định rất rõ về vấn đề này: “diện tích đất tranh chấp là do Nhà nước bồi
thường khi thu hồi diện tích đất của cụ Phận và cụ Kiêu, nên cần xác định
300m2 đất thổ cư hoán đổi là tài sản của cụ Phận và cụ Kiêu. Cụ Phận chết thì
½ diện tích nói trên (150m2) là di sản thừa kế của cụ Phận”. Đối với phần đất
thổ cư hỗ trợ, nếu “hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi thì phải xác định diện tích
đất này cũng là di sản thừa kế của cụ Phận và cụ Kiêu”. Đây cũng là hướng giải
quyết trong một vụ việc khác được giám đốc thẩm năm 2011. Liên quan đến
đất đã quy hoạch và đền bù, một quyết định năm 2013 rất đáng được lưu tâm
liên quan đến xác định tài sản. Cụ thể theo HĐTP, “đối với phần đất Nhà nước
đã quy hoạch và đền bù để làm Trạm bơm Rạch Ngỗng năm 2004 nay khơng
cịn đất, chỉ cịn tiền đền bù và đất tái định cư mới ngang giá đất bị quy hoạch
thì phải xác định cả tiền đền bù và đất tái định cư là di sản.

Như vậy, thực tiễn, tài sản thay thế di sản là “di sản thừa kế”. Hướng giải quyết
này chưa được quy định trong văn bản nhưng rất thuyết phục và được áp dụng
đối với trường hợp di sản được thay thế bằng một khoản tiền như tiền đền bù,
tiền bảo hiểm tài sản được bảo hiểm... Thực tế còn cho thấy khi di sản bị bán
cho người khác, Tòa án nhân dân tối cao cũng giải quyết theo hướng tiền từ
việc bán (chuyển nhượng) là di sản và trong trường hợp Tòa án đã giao di sản
cho một người không được hưởng (và bản án đã có hiệu lực pháp luật), người
được giao sỡ hữu tài sản phải thanh toán giá trị tài sản và giá trị này cũng được
chia như tài sản. Tương tự như vậy khi Tòa án quyết định bán đấu giá di sản và
di sản đã được bán hợp pháp cho người khác hay Tòa án giao di sản cho một
người thừa kế và người thừa kế chuyển nhượng di sản cho người khác nhưng
sau đó quyết định giao di sản bị hủy thì di sản được chuyển thành tiền và người
nhân tiền phải chia cho những người thừa kế đã nhận.


5

Khi tài sản do người quá cổ để lại ở thời điểm mở thứa kế bị thay thế bởi một
tài sản mới sau đó thì tài sản mới khơng là di sản.
Vì tại thời điểm mở thừa kế thì tài sản của người quá cố đã trở thành di sản,
nếu bị thay thế bởi một tài sản mới thì tài sản đó khơng phù hợp với ý chí của
người q cố và tài sản đó cũng khơng thuộc quyền sỡ hữu của người quá cố
(nếu đó là động sản có đăng ký quyền sỡ hữu hoặc bất động sản). Thêm vào đó,
BLDS khơng có quy định về điều này. Do vậy, khi tài sản do người quá cố để
lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới
khơng là di sản.2
1.3. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:

Theo Điều 612 Bộ Luật Dân sự 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng củangười
chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”. Như
vậy, để được xem là di sản thì trước hết đó phải là tài sản của người chết lúc họ
cịn sống.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013: “Giấy
chứngnhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. ” Như
vậy, người sử dụng đất đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được
nhà nước cơng nhận quyền sử dụng đất về mặt pháp lý.
Theo Điều 168 Luật Đất đai 2013: “Người sử dụng đất được thực hiện các
quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn
quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận.” Như vậy, về nguyên tắc chỉ khi có
Giấy chứng nhận người sử dụng đất mới có đầy đủ quyền và nghĩa vụ củangười
sử dụng đất, trong đó bao gồm quyền để lại di sản thừa kế. Hay nói cách khác,
để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người
quá cố cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam 2019.
22


6

1.4. Trong Bản án số 08, Tồ án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án
có câu trả lời?
Trả lời:

Trong bản án số 08, Tịa án khơng coi diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản.
Đoạn của bản án có câu trả lời là: Đối với diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát
nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa kế, cần tiếp tục
tạm giao cho ơng Hịa có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà
nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Toà án trong Bản án số
08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trả lời:
Theo tơi hướng xử lý nêu trên của Tịa án trong Bản án số 08 về diện tích đất
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý. Bởi vì theo như
kết quả xác minh tại UBND phường Đống Đa, Phịng Tài ngun và Mơi
trường thành phố Vĩnh Yên, Chi cục thuế Nhà nước thành phố Vĩnh Yên thể
hiện: Gia đình ơng Hịa đã xây dựng ngơi nhà 3 tầng, sân và lán bán hàng trên
một phần diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhưng diện tích đất này ơng Hịa đã quản lý và sử dụng nhiều năm. Thêm vào
đó là cũng khơng có tranh chấp nào xảy ra, có xây dựng mốc giới rõ ràng và
cũng không nằm trong diện đất quy hoạch phải di dời. Vị trí đất tăng giáp với
phía trước ngơi nhà và lán bán hàng của hộ ông Hòa, đất thuộc diện được cấp
giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Do đó, nó vẫn là tài sản
của ơng Hịa, bà Mai nhưng đương sự phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với
Nhà nước. Chính vì vậy, nếu khơng xác định là di sản thừa kế và phân chia thì
sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
1.6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Ở Án lệ số 16/2017/AL, phần di sản của Phùng Văn N là 1 ngôi nhà cấp 4 cùng
cơng trình phụ trên diện tích đất 398m2.



7

Bởi vì: Ngơi nhà cấp 4 cùng cơng trình phụ trên diện tích đất 398m 2 là tài sản
chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G. Vì khơng có thỏa
thuận rằng số tài sản trên bao nhiêu phần là của ông N và bao nhiêu là của bà G
chính vì vậy đây là sở hữu chung hợp nhất. Điều 210 BLDS 2015 quy định:
“1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu
của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung.
...
2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài
sản thuộc sở hữu chung.”
Điều 213 BLDS 2015 cũng quy định:
“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
....”
Trong trường hợp này ông N và bà G là vợ chồng và cùng ở hữu khối tài sản
chung bao gồm 1 ngôi nhà cấp 4 cùng cơng trình phụ trên diện tích đất 398m 2,
đây là tài sản chung hợp nhất nên ông N và bà G có quyền ngang nhau. Trước
khi chết tuy ông N không để lại di chúc nhưng bà G vẫn có quyền định đoạt vì
đó là tài sản chung của vợ chồng bà, thêm vào đó là do khối tài sản ấy là tải sản
chung nên không thể xác định và phân chia.
1.7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn
K có được coi là di sản để chia khơng? Vì sao?
Trả lời:
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản vì việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông
Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng khơng ai có ý kiến phản
đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo

cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các
con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích
131m2 nêu trên cho ơng Phùng Văn K. Vì thế, phần diện tích đất của ơng
Phùng Văn K khơng phải là di sản để chia là có căn cứ.


8

1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
Trả lời:
Theo quan điểm cá nhân thì tơi hồn tồn đồng ý với hướng giải quyết trong
Án lệ vì theo Án lệ thì năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông
Phùng Văn K diện tích 131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên.
Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà
Phùng Thị G đều biết, nhưng khơng ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà
Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các
con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và chứng tỏ được mảnh đất đó được chuyển nhượng là
khơng trái pháp luật. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã
đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m 2 nêu trên cho ơng
Phùng Văn K.
=> Vì thế, phần diện tích đã chuyển nhượng cho ơng K không được coi là di
sản để chia theo nhận định của Tịa án là vơ cùng hợp tình, hợp lí.
1.9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di
sản để chia khơng? Vì sao?
Trả lời:
- Theo quan điểm cá nhân thì nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo

cuộc sống của các con mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số
tiền đó khơng được coi là di sản để chia vì:
+ Đầu tiên, theo Điều 33 và theo khoản Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 thì ơng Phùng Văn N và bà Phùng Thị G là vợ chồng và có tài sản
chung là 398m2 đất và khi chia đơi thì vợ chồng mỗi người được phần đất với
diện tích là 199m2 và theo điểm a khoản 1 Điều 651 của BLDS năm 2015 thì
hàng thừa kế thứ nhất được chia như nhau và có quyền ngang nhau đối với tài
sản của ông N là 199m2.
+ Tiếp theo, nếu bà G bán cho ơng K 131m 2 vì mục đích riêng và khơng có sự
đồng ý của các con thì có nghĩa bà G đã bán phần đất thuộc trong khối tài sản
của 2 vợ chồng đã chia là 199m2 và việc giao dịch mua bán này sẽ không xâm
phạm đến phần đất cịn lại của ơng N sẽ chia cho các đồng thừa kế là 199m 2 vì
phần đất bán cho ông K vẫn nằm trong phần tài sản định đoạt của bà. Theo
nguyên tắc nếu bà không bán cho ơng K thì phần đất đó sẽ là di sản để chia.


9

=> Như vậy trong trường hợp này thì số tiền mà bà G bán để lo cho cuộc sống
riêng thì đó khơng phải là di sản để chia.
1.10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện
tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích
đất trên là ½ diện tích 398 m 2 đất (133,5 m2 đất) vì theo nhận định của Tồ, tài
sản tuy mang tên của bà Phùng Thị G nhưng vì được hình thành trong thời kỳ
hơn nhân nên phải xác định đây là tài sản chung của ông Phùng Văn N và bà
Phùng Thị G (Khoản 1 điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014). Vì vậy, bà Phùng
Thị G chỉ có quyền định đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m 2 đất
chung của vợ chồng bà và khi bà G chết, phần di sản của bà Phùng Thị G chính

là ½ diện tích đất trên (133,5m2) (Điều 612 BLDS 2015).
1.11. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
khơng? Vì sao?
Trả lời:
Việc Tịa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2 là
không thuyết phục vì di sản lúc này của ơng N (đã trừ đi phần đất bán cho ông
K) là 267m2 : 2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất (căn cứ
theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015) là bà G và 6 người con, nên phần
mà bà G nhận được là: 133,5 : 7 = ~19,07m2. Vậy trên thực tế, phần di sản mà
bà G để lại (trừ đi phần diện tích bà cho chị H1) là: 133,5m 2 + 19,07m2 - 90m2
= 62,57m2.
Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì án lệ này chỉ có nội dung xoay
quanh việc cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản
thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.
1.12. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần cịn
lại” có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng?
Vì sao?
Trả lời:
Việc Tịa án quyết định “còn lại 43,5m 2 được chia cho 5 kỷ phần cịn lại” là
khơng thuyết phục.


10

Vì phần đất 43,5m2 cịn lại là phần di sản được chia theo pháp luật, đáng ra
phải được chia đều cho 06 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức bao gồm
cả chị Phùng Thị H1. Việc chị Phùng Thị H1 được bà Phùng Thị G chia di sản
theo di chúc không hề ảnh hưởng đến quyền thừa kế của chị, bởi vậy Tòa án
quyết định chỉ chia cho 05 người con cịn lại là khơng đảm bảo quyền lợi cho

chị Phùng Thị H1.
Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16/2017/AL.
Vì nội dung của Án lệ số 16 nằm ở đoạn 2 phần Nhận định của Tịa án, là về
việc cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế
do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và
khơng phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được
dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 3 Tức là về việc bà Phùng Thị G đã
chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất cho ông Phùng Văn K.

33

/>

11

VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN
* Tóm tắt bản án số 11/2020/DS-PT, ngày 10/06/2020 của Tòa án nhân tỉnh
Sơn La về V/v: Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế:
Bố mẹ của nguyên đơn Phạm Tiến Hiệu là ông Đ và bà T khi còn sống để lại di
sản gồm 311m2 đất và ngôi nhà gỗ 4 gian. Khi ông bà chết không để lại di chúc
và không giao quyền quản lý thừa kế cho ai. Khi anh Hiệu được sự ủy quyền
của chị em trong gia đình sửa chữa, cải tạo nhà thì cháu Phạm Tiến Nghĩa (bị
đơn) được bố đẻ là anh Phạm Tiến Thiện giao cho quản lý di sản này trong khi
anh Thiện đi chấp hành án.
Tại bản án sơ thẩm: Xử tạm giao cho anh Hiệu quản lý tài sản của ông Đ và bà
T, anh Hiệu sửa chữa phần bị hư hỏng, nghiêm cấm việc anh Hiệu tự ý phá dỡ
khi chưa có sự đồng ý các anh chị em trong gia đình; Buộc anh Nghĩa giao nhà,
nghiêm cấm mọi hành vi cản trở.
Tại phiên Tòa phúc thẩm: Xác định quan hệ tranh chấp là: “Tranh chấp quyền

quản lý di sản và thừa kế”; Giao cho anh Hiệu quản lý di sản.
* Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 147/2020/DS-GĐT, ngày
09/07/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP.HCM về V/v: Tranh chấp
lối đi:
Ơng Trà Văn Đạm (ngun đơn) có 1.497m 2 diện tích đất nằm phía trong thửa
đất của ông Phạm Văn Ngót do ông Phạm Văn Sơn Nhỏ (bị đơn) quản lý, sử
dụng. Giữa ông Đạm và ông Nhỏ có thỏa thuận cho ơng Đạm mở một lối đi
qua đất của ông Nhỏ. Thửa đất 525 là một trong số thửa đất hương hỏa do ơng
Ngót để lại, hiện nay ông Nhỏ trực tiếp canh tác quản lý sử dụng. Việc mở lối
đi là ý kiến cá nhân của ơng, khơng có sự đồng ý từ gia đình. Ông Nhỏ tự
nguyện mở lối đi đến hết đời không đồng ý việc ông Đạm mở mãi mãi.
Tại bản án dân sự sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đạm, buộc bị
đơn mở lối đi.
Tại bản án dân sự phúc thẩm: Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn.
Tại bản án giám đốc thẩm: Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm. Giao hồ sơ
cho Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử.
2.1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản
của ơng Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục khơng, vì sao?
Trả lời:


12

Trong Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn
La, Tòa án xác định anh Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của
ông Đ và bà T, cụ thể trong phần “Quyết định”: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của anh Phạm Tiến H. Giao cho anh Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản
thừa kế của ông Phạm Tiến Đ và bà Đoàn Thị T gồm nhà, đất và tài sản trên đất
mang tên bà Đoàn Thị T số 0010/QSDĐ/323/QĐUB do UBND huyện M cấp
ngày 02/4/2004 tại Tiểu khu C, thị trấn nơng trường M, huyện M, tỉnh Sơn La.

(Có sơ đồ trích đo hiện trạng khu đất kèm theo).”
Tịa án xác định như vậy là hợp lý.
Vì lý do sau: Các đương sự đều thừa nhận anh Phạm Tiến H thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của ông Đ và bà T. Ơng Đ và bà T chết khơng để lại di chúc nên anh
Hiệu có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định tại
Điều 636 BLDS 2005 về Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người
thừa kế: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền,
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Trong đó quyền quản lý di sản thừa kế
được quy định tại Điều 616 BLDS 2015 về người quản lý tài sản:
“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những
người thừa kế thỏa thuận cử ra.
2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người
thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng,
quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử
được người quản lý di sản…”
Trong quá trình giải quyết vụ án, ngồi ơng Thiện, những người cịn lại ở hàng
thừa kế thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của
ông Đ và bà T. Các anh, chị, em trong gia đình (ơng bà Hiệu, Liền, Nhi,
Nhường, Hồi, Hài) đều có đủ năng lực hành vi dân sự, quyết định dựa trên cơ
sở hồn tồn tự nguyện, khơng bị lừa dối, ép buộc, không vi phạm điều cấm
của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Do đó, việc Tịa án cấp sơ thẩm
giao quyền quản lý di sản cho anh Phạm Tiến H là phù hợp.
2.2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản
lý di sản khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Trong Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tịa án nhân dân tỉnh Sơn
La, ơng Thiện trước khi đi chấp hành án là người quản lý di sản. Cụ thể, trong


13


“Nhận định của Tòa án”: “Năm 2012, sau khi bà T chết, ông Thiện là người
đang trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản ông bà Đ T.”
Căn cứ theo khoản 2 Điều 616 BLDS 2015: “Trường hợp di chúc không chỉ
định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý
di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản
đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản…”
2.3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý
di sản có thuyết phục khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Trong Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn
La, Tòa án giao cho anh Phạm Tiến H quyền quản lý di sản là có thuyết phục.
Căn cứ vào Điều 616 BLDS 2015 về Người quản lý tài sản:
“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những
người thừa kế thỏa thuận cử ra.
2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người
thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng,
quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử
được người quản lý di sản…”
Trong quá trình giải quyết vụ án, ngồi ơng Thiện, những người cịn lại ở hàng
thừa kế thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của
ông Đ và bà T. Các anh, chị, em trong gia đình (ơng bà Hiệu, Liền, Nhi,
Nhường, Hồi, Hài) đều có đủ năng lực hành vi dân sự, quyết định dựa trên cơ
sở hồn tồn tự nguyện, khơng bị lừa dối, ép buộc, không vi phạm điều cấm
của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Do đó, việc Tịa án cấp sơ thẩm
giao quyền quản lý di sản cho anh Phạm Tiến H là phù hợp.
Hơn nữa, anh Phạm Tiến T tuy là con trai trưởng trong nhà và là người đang
tiếp tục sinh sống tại nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản của ông bà Đ T sau khi
ông bà Đ T mất nhưng anh Phạm Tiến T đang trong q trình chấp hành án.
Anh T có ủy quyền cho con trai là bị đơn Phạm Tiến N trước khi chấp hành án

nhưng theo khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 quy định: “Người quản lý di sản là
người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử
ra.” và giấy ủy quyền cho con trai Phạm Tiến N của ông Phạm Tiến T khơng có
giá trị pháp lý, khơng phải là cơ sở để phát sinh quyền quản lý tài sản của anh
Phạm Tiến N đối với di sản của ông bà Đ T.


14

Vì những cơ sở trên, Tịa án quyết định giao cho anh Phạm Tiến H quyền quản
lý di sản là có thuyết phục và có căn cứ.
2.4. Khi người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn đạo, tu sửa lại
di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Theo khoản 2 Điều 617 BLDS năm 2015 người quản lý di sản không được bán,
trao đổi tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác
Người quản lí di sản thừa kế khơng phải là sở hữu chủ nên khơng có quyền
định đoạt tài sản mà mình đang quản lí. Việc định đoạt những tài sản đó thuộc
về những người thừa kể, do đó nếu muốn bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế
chấp... thì phải được tất cả những người thừa kế đồng ý bằng văn bản.
2.5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho
con trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Điều 618. Quyền của người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật
này có quyền sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan
đến di sản thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

c) Được thanh tốn chi phí bảo quản di sản.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều
616 của Bộ luật này có quyền sau đây:
a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại
di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh tốn chi phí bảo quản di sản.
3. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù
lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.
Như vậy người quản lý di sản không có quyền giao lại cho người khác quản lý


15

2.6. Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý khơng có quyền
tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục khơng? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Tịa án xác định người quản lý khơng có quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho
người khác qua di sản là thuyết phục
Điều 618. Quyền của người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật
này có quyền sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan
đến di sản thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh tốn chi phí bảo quản di sản.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều
616 của Bộ luật này có quyền sau đây:
a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại

di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
3. Trường hợp khơng đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù
lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.


16

VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ
* Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL
Nguyên đơn bà Cấn Thị N2 kiện bị đơn là cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh C
yêu cầu chia tài sản chung của Cụ T và chia di sản thừa kế của cụ K theo quy
định của pháp luật. Cụ T và Cụ K là cha mẹ của nguyên đơn sinh thời tạo lập
được 612 m2 đất trên đất có 2 căn nhà 3 gian. Năm 1972 cụ T chết, cụ K kết
hôn với cụ Nguyễn Thị L. Năm 2002 cụ K chết, khối tài sản do cụ L và ông
Cấn Anh C quản lý. Bản án dân sự sơ thẩm quyết định: chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn. Ngày 13-8-2012, bị đơn kháng cáo. Bản án dân sự phúc
thẩm: chấp nhận kháng cáo của bị đơn sửa bản án sơ thẩm, trao nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Cấn Thi N2 đề nghị xem xét theo thủ tục
giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân
dân tối cao nhất trí với đề nghị của Chánh án Tịa án nhân dân tối cao là kháng
nghị Bản án dân sự phúc thẩm. Quyết định: chấp nhận kháng nghị của Chánh
án toàn án nhân dân tối cao với Bản án dân sự phúc thẩm, hủy tòan bộ bản án
dân sự phúc thẩm và sơ thẩm, giao lại hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.
3.1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015, có 03 loại thời hiệu trong
lĩnh vực thừa kế:

- Một là, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện
chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36
Pháp lệnh thừa kế 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
19/10/1990 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao.
- Hai là, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa
kế;
- Ba là, thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.


17

3.2. Pháp luật nước ngồi có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản
không?
Trả lời:
Pháp luật nước ngồi khơng áp đặt thời hạn để người thừa kế phải tiến hành
chia di sản (tức nếu quá thời hạn này thì u cầu chia di sản khơng được chấp
nhận). Ví dụ pháp luật dân sự Pháp về phân chia tài sản chung thì về ngun
tắc khơng thể buộc chủ sở hữu chung phải đặt tài sản của mình trong tình trạng
khơng thể phân chia, do họ đã khơng u cầu phân chia trong một thời hạn nào
đó. Điều 815 BLDS Pháp quy định: “Khơng ai có thể bị buộc phải chấp nhận
trong tình trạng di sản chưa chia và bất cứ lúc nào cũng có thể yêu cầu chia di
sản trừ trường hợp việc này được tạm hoãn theo bản án hoặc theo thỏa thuận”.
3.3 Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Trả lời:
Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là ngày công bố Pháp lệnh thừa

kế 30-8-1990 (tức ngày 10-9-1990).
Trong Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL có đoạn: “Như vậy kể từ
ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều
623 BLDS năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế ngày
01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 308-1990 và BLDS năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di
sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật”.
3.4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?
Trả lời:
Tịa án cấp phúc thẩm xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế của cụ T đã hết
và không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia tài sản chung đối
với phần di sản của cụ T là đúng (theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2
phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của HĐTP Tòa án
nhân dân tối cao), nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại tuyên cho các đồng thừa kế
đang quản lý các di sản của cụ T là cụ L và ông C được tiếp tục quản lý, sử
dụng và sở hữu là không đúng.
Việc Án lệ số 26/2018/AL, áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS cho di sản của
cụ T có quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS 2015.


18

Có thuyết phục.
Vì theo quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015 (có hiệu lực thi hành
từ ngày 01-01-2017), thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30
năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Việc áp dụng thời hiệu trên trong Án lệ 26/2018/AL là hợp lí vì thời điểm khởi
kiện là 02/11/2010 thì phải áp dụng Điều 165 BLDS 2005 để giải quyết, nếu
vậy thì đã vượt qua thời hiệu khởi kiện cho di sản của cụ T. Tuy nhiên, để đảm
bảo quyền lợi của các đương sự, Tòa quyết định áp dụng hiệu lực hồi tố vào án

lệ để giải quyết việc tranh chấp về di sản của cụ T.
3.5. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được cơng bố có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?
Trả lời:
- Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được cơng bố chưa có cơ sở văn bản.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS 2015: “Thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ
thời điểm mở thừa kế”. BLDS lấy thời hiệu 30 năm bắt đầu kể từ thời điểm mở
thừa kế và không hề đề cập đến thừa kế mở trước khi ban hành Pháp lệnh thừa
kế ngày 30/8/1990 thì có áp dụng thời điểm bắt đầu là kể từ thời điểm mở thừa
kế hay kể từ ngày công bố Pháp lệnh trên.
- Tuy việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được cơng bố chưa có cơ sở văn bản nhưng nó thuyết phục. Nội dung Án lệ là
sự kết hợp giữa BLDS 2015 và khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế 1990. Như
vậy, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế từ ngày Pháp
lệnh thừa kế năm 1990 công bố ngày 10/9/1990. Với quy định trên thời hiệu
chia di sản thừa kế vẫn còn, được Tòa án kéo dài thêm nhằm mục đích bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người thừa kế.
3.6. Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.
Trả lời:
- Án lệ số 26/2018/AL tồn tại một số điểm bất hợp lý như sau:


19

+ Viện dẫn điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS 2015: “Thời hiệu được áp dụng

theo quy định của bộ luật này.” Nhưng khoản 1 Điều 688 được áp dụng đối với
“giao dịch dân sự”. Mà theo Điều 116 BLDS 2015 thì: “Giao dịch dân sự là
hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Trong vụ án tranh chấp “thừa kế tài sản và chia
tài sản chung” mà HĐTP đang xem xét khơng có “Giao dịch dân sự” nào cả.
Vậy nên viện dẫn điều này làm căn cứ pháp lý là bất hợp lý.
+ Viện dẫn tới khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990, nhưng lại
bỏ quên Nghị quyết số 02/1990/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990 hướng dẫn áp
dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế 1990, theo đó tại điểm b Điều 10
Nghị quyết số 02 đã quy định rõ như sau Đối với những việc thừa kế đã mở
trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990, do
đó:
– Sau ngày 10-9-2000, đương sự khơng có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di
sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người
khác;
– Sau ngày 10-9-1993, đương sự khơng có quyền khởi kiện để yêu cầu người
thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh tốn các chi
phí từ di sản”
Nhưng HĐTP lại áp dụng Điều 623 BLDS 2015 để hồi tố lại quyền khởi kiện
đối với các trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/09/1990 lại tạo ra sự bất công
bằng trong xã hội.4

44

/>

20

VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU
1.Bạch Thị Nhã Nam, “Những bất cập của các quy định pháp luật về quyền lợi

có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản”, Tạp chí Luật học, số 10/2018, tr.
17-25.
2. Bạch Thị Nhã Nam, “Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm tài
sản”, Tạp chí Nghề luật, Số 5/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.32-37.
3. Ban biên tập Tạp chí Kiểm sát, “Kết luận trao đổi về bài viết “Lừa đảo hay
cướp giật tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, số 18 năm 2017, tr.54-56.
4. Bùi Ngọc Thanh, “Hoàn thiện các chế tài để công khai, minh bạch tài sản và
thu nhập”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 12 (364)/Kỳ 2, tháng 6/2018,
tr.35-40.65
5. Bùi Thị Thanh Hằng, Nguyễn Anh Thư, “Ảnh hưởng của một số học thuyết
pháp lý đến chế định vật quyền trong Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, Số 1/2017, tr. 50-59.
6. Cao Anh Nguyên, "Di sản dùng vào việc thờ cúng- nhìn từ góc độ thực tiễn
xét xử và thi hành án (Kỳ 1)", Tạp chí Tịa án nhân dân số 1/2018, tr.39-41.
7. Cao Anh Nguyên, "Di sản dùng vào việc thờ cúng- nhìn từ góc độ thực tiễn
xét xử và thi hành án (Tiếp theo kì trước và hết)", Tạp chí Tòa án nhân dân số
2/2018, tr.41-42.
8. Cao Thị Kim Trinh, “Bình luận các sai sót trong q trình kê biên, xử lý tài
sản thế chấp để thi hành bản án, quyết định kinh doanh thương mại”, Tạp chí
Nghề luật, Số 09/2020 - Năm thứ Mười Lăm, tr.57-60.
9. Châu Thị Vân, “Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản khơng xác định
được chủ sở hữu”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý, Số 1/2018, tr. 33-42.
10.Chu Thị Thanh An, “Quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ của
tổ chức tín dụng”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2019, tr.25.
11. Đặng Ngọc Dư, “Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành án dân sự
đối với việc thu hồi tài sản về tham nhũng, thu hồi tài sản cho nhà nước, việc
thi hành án có liên quan đến tổ chức tín dụng”, Tạp chí Kiểm sát, số 24 năm
2017, tr.33-40.
12. Đặng Phước Thông, “Đăng ký quyền sở hữu căn hộ chung cư theo yêu cầu
và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý,

Số 3/2020, tr. 37-49.
55

/>

21

13. Đặng Thu Hà, “Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam và một số
nước trên thế giới”, Tạp chí Nghề luật, Số 5/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.85-90.
14.Đinh Văn Quế, “Một số vấn đề về tội ‘Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản’ quy định trong Bộ Luật Hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 18 năm
2017, tr.42-47.
15. Đinh Văn Quế, “Phân biệt một số tội phạm có hành vi chiếm đoạt tài sản”,
Tạp chí Kiểm sát, Số 03/2021, tr.17-22.
16.Đỗ Lường Thiện, “Hồn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội trộm
cắp tài sản”, Tạp chí Nghề luật, Số 4/2017 - Năm thứ Mười Hai, tr.71-73.
17.Đỗ Ngọc Bình - Vũ Minh Giám, “Bùi Xuân N phạm tội lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 14-2017, tr.37-38.
18.Đỗ Thị Hải Yến, “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có vơ hiệu hay
khơng khi khơng đăng ký giao dịch bảo đảm”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 242017, tr.41-44.
19.Đỗ Thu Huyền, “Thu hồi tài sản tham nhũng: kinh nghiệm quốc tế và giá trị
tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 20 (348)/Kỳ 2,
tháng 10/2017, tr.55.6
20. Đỗ Văn Chinh, “Thừa kế - Thời hiệu thừa kế và thực tiễn", Tạp chí tồ án
nhân dân số 11/2017, tr.27 – 30.
21.Đỗ Văn Chỉnh, “Thừa kế-thời hiệu thừa kế và thực tiễn”, Tạp chí Tồ án
nhân dân, số 11-2017,tr. 27-30.
22.Đồn Thị Phương Diệp, “Cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu theo Bộ
luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 17 (341)/Kỳ 1, tháng
9/2017, tr.42-47.

23.Đoàn Thị Phương Diệp, “Pháp luật Việt Nam hiện hành về chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận và các kiến nghị hồn thiện”, Tạp chí Luật học,
số 02/2017, tr. 3-12.
24.Hồ Thị Vân Anh, “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành
trong tương lai”, Tạp chí Nghề luật, Số 4/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.56-62.
25.Hoàng Giang Linh, “ Thẩm quyền về bất động sản theo pháp luật công
chứng, chứng thực”, Tạp chí Nghề luật, Số 4/2018 - Năm thứ Mười Ba, tr.5255.
26.Hồng Nam Hải, “Kiểm sốt tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền
hạn – Điểm mới quan trọng của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018”,
Tạp chí Nội chính, số 69, tháng 8/2019, tr.29.
66

/>

×