Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

LUẬN VĂN: Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.24 KB, 67 trang )













LUẬN VĂN:

Chứng cứ và vấn đề chứng minh
trong Bộ luật Tố tụng dân sự









mở đầu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Năm 1989 ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự; tiếp đến năm 1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế; năm 1996 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động. Ba Pháp lệnh trên


đã phần nào đáp ứng đòi hỏi bức thiết trong tố tụng phi hình sự và là cơ sở cho các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình. Tuy vậy, các quy phạm pháp luật của ba pháp lệnh trên dần đã lộ rõ
hạn chế, mâu thuẫn. Đặc biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh không có quy phạm
nào chuẩn hóa khái niệm chứng cứ và chứng minh, và không quy định đầy đủ về chế định
này, điều đó gây khó khăn trong sử dụng, đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng không nhỏ
trong việc giải quyết vụ án.
Thực tiễn đặt ra cần phải có một Bộ luật Tố tụng dân sự hoàn thiện hơn, ngày 15
tháng 6 năm 2004 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Bộ luật có
phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao gồm nhiều quan hệ pháp luật tố tụng thuộc nhiều lĩnh vực
như dân sự, hôn nhân, kinh tế, lao động và thi hành án.
Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2005
đến nay vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự vẫn còn nhiều quan điểm
khác nhau cần phải sáng tỏ như:
Về lý luận: Đã có nhiều cách hiểu khác nhau thậm chí trái ngược nhau về chứng
cứ và chứng minh. Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định tới 20 điều luật, từ Điều 79 đến
Điều 98.
Về thực tiễn: Trong công tác xét xử ở mỗi Tòa án, Viện kiểm sát, luật sư có
cách vận dụng khác nhau, đánh giá về nguồn và xác định chứng cứ và vấn đề chứng
minh còn khác nhau. Điều đó đã dẫn đến cùng một vụ án, cùng một loại chứng cứ, có
chung cơ sở chứng minh mà mỗi Tòa án lại xử một kiểu, mỗi Viện kiểm sát, Luật sư
có quan điểm, nhìn nhận trái ngược nhau.

Từ thực trạng trên, với mong muốn nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách đầy đủ cả
về lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong các vụ việc dân sự, tác giả chọn
đề tài: "Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự" làm luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi có Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, mọi thủ tục tố tụng phi hình sự
đều thực hiện theo ba Pháp lệnh trên. Bởi vậy, một số bài viết, luận văn được nghiên cứu

dựa theo các Pháp lệnh đó. Từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng
01 năm 205 vấn đề chứng minh và chứng cứ mới chỉ có một số bài viết như "Chế định
chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự" tác giả Thạc sĩ Nguyễn Công Bình,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 02 năm 2004; "Một vài suy nghĩ về chứng cứ trong Bộ
luật Tố tụng dân sự" tác giả Tưởng Duy Lượng, Tạp chí Tòa án số 20, 21/2004. Những bài
viết trên mới chỉ giải quyết một vài khía cạnh về chứng minh và chứng cứ, chứ chưa
nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với phạm vi của một luận văn thạc sĩ luật học tác giả chưa có đủ điều kiện nghiên
cứu hết các vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tất cả các vụ việc dân sự theo phạm vi
điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy tác giả chỉ nghiên cứu chuyên sâu về chứng
cứ và chứng minh trong phạm vi các vụ án dân sự truyền thống (dân sự và hôn nhân gia
đình), còn trong các lĩnh vực khác tác giả hy vọng sẽ có cơ hội thực hiện đầy đủ nội dung
của chế định này trong các công trình nghiên cứu sau này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
một số phương pháp cụ thể như: Lịch sử phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và
phương pháp xã hội, phương pháp khảo sát thăm dò v.v
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu một cách có hệ thống toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Từ mục đích này, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất, giúp cho việc nhận thức
một cách rõ nét về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
- Từ việc nghiên cứu những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn đề xuất
những kiến nghị trong việc hoàn thiện các quy định về chứng cứ.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Xây dựng khái niệm khoa học về chứng cứ và khái niệm chứng minh trong tố
tụng dân sự.
- Chỉ ra những đặc trưng của chứng cứ trong tố tụng dân sự.

- Chỉ ra những bất cập của luật thực định và những vướng mắc về chứng cứ và
chứng minh trong thực tiễn cần phải giải quyết và nêu những kiến nghị cho việc hoàn thiện
pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1
một số vấn đề lý luận về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

1.1. Khái niệm chứng cứ
1.1.1. Định nghĩa về chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng dân sự. Có thể nói, mọi
hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai đoạn
của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ. Có thể
nói, chứng cứ là phần quan trọng, lớn nhất để chứng minh vụ việc dân sự. Dựa vào chứng
cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình;
các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ hay không đủ điều kiện để xác định tình tiết của vụ
việc dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và bảo vệ
pháp luật. Vì vậy, việc nhận định chứng cứ có vai trò quan trọng nhất trong hoạt động
chứng minh của tố tụng dân sự, từ đó giúp việc nhận thức đúng đắn về hoạt động thực tiễn.
Cơ sở về lý luận: Quan điểm vật chất sinh ra không bao giờ mất đi, mà nó chỉ
chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác và mọi sự vật, hiện tượng có mối liên hệ phổ biến.
Từ đó, các tài liệu, sự kiện, hiện vật được coi là chứng cứ cũng là một dạng vật chất, nó
phản ánh vào đầu óc con người và lưu lại trong đầu óc, trí nhớ.
Do vậy, nếu đương sự muốn chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm hại, phải cung cấp cho Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền những
chứng cứ mà Bộ luật Tố tụng dân sự coi đó là một trong các nguồn của chứng cứ. Để làm
rõ sự thật khách quan khi thụ lý vụ việc dân sự, Tòa án phải làm sáng tỏ những tình tiết
liên quan đến vụ kiện như: Việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự trên cơ sở nào? Các đương

sự đã cung cấp được các chứng cứ gì? Và có khả năng thu thập thêm được một số chứng
cứ gì khác? Từ đó, Tòa án sẽ tiếp nhận vụ việc và thực hiện tất cả các biện pháp để nhằm
thu thập đầy đủ, toàn diện, chính xác, đúng đắn các loại nguồn của chứng cứ mà pháp luật
có quy định để có cơ sở giải quyết khách quan, đúng đắn vụ việc dân sự.

Có nhiều định nghĩa về chứng cứ của một số nước trên thế giới: Trong Bộ luật Tố
tụng dân sự của Liên bang Nga có quy định: "Chứng cứ trong tố tụng dân sự là những sự
thật khách quan và theo đó mà Tòa án có cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án dân sự"; hay Bộ
luật Tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: "Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó một tình
tiết được Tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó Tòa án được thuyết phục
là một tình tiết nhất định tồn tại hay không".
Về nội hàm của khái niệm một số nước trên tựu chung là khẳng định: Chứng cứ là
sự thật khách quan.
ở Việt Nam, khái niệm chứng cứ được xây dựng dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn
lọc những quan điểm khoa học về chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự ở các nước, đó
là xuất phát từ thực tế khách quan của bản thân chứng cứ không lệ thuộc vào ý thức con
người; đánh giá chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc
dẫn đến sự hình thành nên nó, sự tồn tại của chứng cứ luôn ở dạng động, liên quan đến
nhau. Từ đó Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam định nghĩa về chứng cứ như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được
theo trình tự thục tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để
xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay
không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ
việc dân sự (Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Có thể hiểu chung: chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự dùng để làm căn cứ giải quyết đúng đắn vụ án.
Định nghĩa chứng cứ (tại Điều 81) Bộ luật Tố tụng dân sự nhìn nhận dưới góc độ
khoa học pháp lý thì khái niệm này cần được xem xét kỹ hơn. Qua thực tiễn xét xử và các
loại chứng cứ được quy định tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự, theo tác giả có một số

quan điểm sau:
Cụm từ "những gì có thật" chưa thực sự chính xác, đầy đủ và khoa học. Cụm từ
này trừu tượng khó hiểu, nghĩa dân dã trong câu từ; thuật ngữ pháp lý đòi hỏi trong
sáng, minh bạch, chuẩn xác và hàn lâm. Trước đó, đã có quan điểm góp ý dự thảo Bộ

luật Tố tụng dân sự cho rằng nên dùng cụm từ "những tin tức có thật". Có thể cụm từ này
sẽ làm cho định nghĩa về chứng cứ cụ thể hơn, sát với thực tế cuộc sống hơn. Nó giúp
cho các chủ thể nhận thức về chứng cứ dễ dàng hơn vì chứng cứ là những cái có thể xác
định được, nghe được, nhìn được, thậm chí chiếm giữ được trên thực tế. Tóm lại, dù tồn
tại dưới dạng vật hay vật có giá trị mang tin thì nó đều tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể,
tựu chung nó mang một thông tin, một số thông tin khách quan có thật.
Việc quy định " do Tòa án thu thập được theo trình tự thủ tục do Bộ luật này quy
dịnh mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự ", quy
định này còn bỏ sót chủ thể.
Việc quy định phần sau " cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết đúng đắn sự vụ việc dân sự". Quy định này tạo nên sự rời rạc của định nghĩa. Khái
niệm hoàn chỉnh phải tuân thủ đủ ba đặc điểm cơ bản: phản ánh toàn diện về đối tượng;
phản ánh tương đối chính xác về đối tượng; là sự hiểu biết tương đối có hệ thống về đối
tượng.
Trên lập trường, quan điểm thế giới quan duy vật, xem xét chứng cứ xuất phát từ
thực tế khách quan của chính bản thân nó chứ không lệ thuộc vào ý thức của con người.
Trong mối liên hệ biện chứng, nhìn nhận và xem xét chứng cứ trong sự vận động,
phát triển và toàn diện. Trong thế giới khách quan, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc, có
nguyên nhân dẫn đến hình thành ra nó. Sự tồn tại của chứng cứ không ở dạng tĩnh lặng, bất
động, riêng lẻ mà chúng có sự liên quan lẫn nhau.
Từ những ý kiến bình luận trên, tác giả xin đưa ra định nghĩa như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những sự kiện, tình tiết, tin tức phản ánh sự
thật khách quan do đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cá nhân, cơ quan,
tổ chức, người tham gia tố tụng giao nộp hoặc Tòa án thu thập theo trình tự, thủ tục Bộ
luật này quy định mà Tòa án dựa vào đó để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.

1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ
a) Tính khách quan của chứng cứ

Chứng cứ trước hết là những gì có thật tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý
thức chủ quan của con người. Đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng không được tạo
ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không còn; do đó không thể coi là chứng cứ. Con
người phát hiện tìm kiếm và thu thập chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá để sử
dụng nó.
b) Tính liên quan của chứng cứ
Tính liên quan: Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998: "Tính liên
quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số tính chất".
Tính liên quan trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vụ việc dân sự mà Tòa án đâng giải quyết.
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết, tài liệu tồn tại khách quan và có liên quan
đến vụ việc mà Tòa án cần giải quyết. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam quy định cụ thể
các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn lọc và đánh giá những gì có thật
liên quan đến vụ việc mà thôi. Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián
tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối quan hệ dựa vào đó có thể xác định được ngay những
tình tiết, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự xem đây là tình tiết, sự kiện không cần
phải chứng minh. Mối liên hệ gián tiếp là qua khâu trung gian mới tìm được tình tiết, sự
kiện. Tuy nhiên, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì cũng phải có mối quan hệ nội tại, có
mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tòa án có thể xác định đúng
chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự mà không để xảy ra trường
hợp thừa, hoặc không đầy đủ chứng cứ.
c) Tính hợp pháp của chứng cứ
Các tình tiết, sự kiện phải được thu thập, bảo quản, xem xét, đánh giá, nghiên cứu
theo thủ tục luật định, có như vậy mới bảo đảm giá trị của chứng cứ. Trước hết, chứng cứ
phải được pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sự kiện chỉ được coi là chứng cứ khi mà pháp
luật dân sự quy định nó là một trong các loại nguồn của chứng cứ. Vật chứng phải luôn là
vật gốc có tính đặc định, liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý, nếu sao

chép, tái hiện lại vật chứng thì không được coi là vật chứng. Vì vậy, Tòa án không chỉ thu

thập đúng trình tự mà phải bảo quản, giữ gìn, đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ, toàn
diện để đảm bảo đúng đắn tính hợp pháp của chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định cụ thể:
- Phải là một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
- Phải từ phương tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
- Phải được giao nộp trong một thời hạn hợp pháp (Bộ luật Tố tụng dân sự đang để
trống quy định này).
- Phải được công bố công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Phải được thu thập, cung cấp đúng pháp luật tố tụng dân sự.
1.1.3. Phân loại chứng cứ
Trên thực tế, chứng cứ thường được phân thành các loại khác nhau. Những tình
tiết, sự kiện tồn tại trong thế giới vật chất chung quy lại tồn tại dưới hai dạng sau:
- Các dấu vết phi vật chất liên quan đến các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự
được phản ánh vào đầu óc con người, từ đó con người ghi lại, chụp lại và phản ánh có ý
thức lại chính nó.
- Các dấu vết, vật chứng là vật chất.
Dựa vào hai dạng cơ bản trên mà có các cách gọi khác nhau như: chứng cứ gián tiết,
chứng cứ thuật lại, chứng cứ gốc, chứng cứ miệng, chứng cứ phủ định, chứng cứ khẳng định,
chứng cứ viết ; nhưng dù có gọi như thế nào thì cũng không làm thay đổi giá trị của nó. Việc
phân loại có giá trị trong việc nghiên cứu và ban hành các quy định về chứng cứ để giải quyết
vụ việc dân sự có hệ thống và minh bạch.
- Chứng cứ theo người: Là chứng cứ được rút ra từ lời khai của đương sự, người làm
chứng.
- Chứng cứ theo vật: Là chứng cứ được rút ra từ những vật như vật chứng, tài liệu,
giấy tờ.
1.1.4. Nguồn của chứng cứ

Nguồn chứng cứ ở trong tố tụng dân sự là nguồn được thu thập, cung cấp theo

trình tự Bộ luật Tố tụng dân sự và được liệt kê tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự thì được
coi là nguồn. Bởi vậy, nếu không có nguồn chứng cứ sẽ không chứng minh làm sáng tỏ để
giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì nguồn của chứng cứ bao gồm: "Các
tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự, lời khai của
người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết
quả định giá tài sản; các nguồn khác mà pháp luật có quy định" (Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân
sự). Có thể hiểu nguồn của chứng cứ là nơi chứa đựng chứng cứ. Nó tồn tại hai loại nguồn chủ
yếu là nguồn vật và tài liệu. Nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là hai khái niệm
khác nhau; nhưng thực tế là thường được hiểu chung. Vì một số trường hợp các phương
tiện chứng minh cũng chính là cái có thể rút ra các tin tức và vụ việc dân sự như vật
chứng, tài liệu chứa đựng chứng cứ tức cũng là nguồn của chứng cứ.
Tòa án chỉ có thể thu thập các nguồn chứng cứ, từ đó rút ra các chứng cứ. Bất kỳ
loại chứng cứ nào cũng phải nằm trong một loại nguồn chứng cứ nhất định; nhưng không
có nghĩa là khi thu thập một nguồn chứng cứ nào đó thì nhất định trong đó sẽ chứa đựng
chứng cứ, vì vậy sẽ phạm sai lầm trong đánh giá, sử dụng. Ví dụ, vật chứng đương sự cung
cấp cho Tòa án là nguồn nhưng là vật chứng được đương sự làm giả, gian dối thì không
thể coi vật chứng này là nguồn được; hay kết luận giám định là nguồn chứng cứ nhưng kết
luận giám định sai thì không thể coi là nguồn của chứng cứ được.
Theo pháp luật Việt Nam ban hành, có các loại nguồn cụ thể:
- Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
Các tài liệu đó phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp
pháp hoặc do tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc
bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Các tài liệu nghe được, nhìn được phải xuất
trình kèm theo văn bản xác định xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản và sự liên quan tới
cuộc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi hình, phim ảnh
Nếu đương sự không xuất trình được các văn bản nêu trên thì tài liệu nghe, đọc, nhìn được
mà đương sự giao nộp không thể được coi là chứng cứ.

- Các vật chứng

Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự, nếu không phải là
hiện vật gốc nhưng phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó. Do vậy, vật chứng phải luôn
có tính đặc định liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý. Vì vậy, Tòa án
không chỉ thu thập vật chứng theo trình tự luật định mà phải bảo quản, giữ gìn để bảo đảm
giá trị đặc tính của vật chứng. Nếu đương sự cung cấp vật chứng, Thẩm phán phải lập biên
bản miêu tả chi tiết hình thức cũng như đặc tính lý hóa của sự vật, đặc biệt dấu vết thể hiện
trên vật chứng đó. Đối với vật không thể di chuyển được thì phải xem xét tại chỗ; vật mau
hỏng phải xem xét kịp thời và phản ánh đầy đủ trong quá trình xem xét như ghi biên bản,
chụp hình, ghi hình để lưu.
- Lời khai của đương sự
Đương sự là người có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự, họ tham gia trực
tiếp vào quan hệ pháp luật đang có tranh chấp hay giải quyết của mình tại Tòa án. Lời khai
của đương sự dựa trên trí nhớ và sự kiện, tình tiết nên thường mang tính chủ quan. Tâm lý
trong lời khai của đương sự thường thiên về bảo vệ cái quyền lợi cá nhân, nên xem xét yếu tố
này để Tòa án thận trọng khi đánh giá.
Lời khai của đương sự có thể bằng văn bản hay ghi âm, ghi hình theo đúng trình tự
và ký tên của mình. Lưu ý tuổi của đương sự khi lấy lời khai.
- Lời khai của người làm chứng
Người làm chứng là người biết rõ những thông tin liên quan đến vụ kiện nhưng lại
không có quyền lợi trong việc việc đó, vì vậy lời khai của người làm chứng thường thể
hiện yếu tố khách quan hơn. Có thể do một số yếu tố nào đó như bị dụ dỗ, bị mua chuộc,
bị đe dọa, hành hung mà đưa ra những lời khai sai lệch, thiếu chính xác. Lời khai của
người làm chứng theo quy định phải được ghi bằng văn bản hoặc ghi âm, ghi hình, nhưng
phải ký tên xác nhận. Người làm chứng phải đủ 18 tuổi, có đủ năng lực hành vi dân sự;
nếu bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự phải có người đại diện.
- Kết luật giám định

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu cần sự kết luận của cơ quan chuyên
môn để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nào đó. Theo yêu cầu của một bên đương sự hoặc
theo thỏa thuận của các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Kết

luận giám định chính xác có tầm quan trọng rất lớn, thậm chí có nhiều vụ kiện có thể quyết
định toàn bộ vụ án. Ví dụ, vụ kiện tranh chấp về thừa kế. Bản di chúc bị tố cáo là giả mạo,
nếu xác định của cơ quan giám định tư pháp là giả hay không, nó quyết định toàn bộ vụ án.
Bởi vậy, các kết luận giám định có thể được giám định lại, giám định bổ sung ở các cơ
quan có chức năng giám định khác.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ
Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng
thủ tục do pháp luật quy định và phải có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định. Cụ
thể, Tòa án đến tận nơi có sự việc để làm việc cùng có đại diện của cơ quan sở tại có thẩm
quyền. Tòa án phải báo cho đương sự biết trước để họ chứng kiến việc xem xét, thẩm định.
- Tập quán là nguồn của chứng cứ
Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và được
công chúng thừa nhận. Đối với một tập quán được coi là chứng cứ trong một vụ án cụ thể
thì Thẩm phán phải yêu cầu đương sự trình bày rõ nguồn gốc của tập quán đó và chứng
minh tập quán đó bằng cách ghi nhận nó bằng văn bản thể hiện việc cả cộng đồng dân cư
nơi có tập quán đó thừa nhận, như xác nhận vào văn bản cả cộng đồng dân cư và được
chứng thực cũng như xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tập quán đó được thừa
nhận.
Thực chất, phong tục, tập quán chỉ là cơ sở để đánh giá chứng cứ. Bởi lẽ, nó không
có giới hạn cụ thể, rạch ròi, ở một mức độ nào đó nó có tính ước lệ và suy đoán. Ví dụ, ở một
cộng đồng dân cư, tính cục bộ tại địa phương đó dẫn đến vì giúp cho một cá nhân nào đó mà
cộng đồng dân cư có thể ký và xác thực vào văn bản mà việc này vẫn không trái với đạo đức
xã hội. Tóm lại, về cơ bản, tập quán không được trái với các nguyên tắc của pháp luật và
đạo đức xã hội và đương nhiên tập quán đó chưa được khái quát để cụ thể hóa trong luật.
- Kết quả định giá tài sản

Định giá có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Định giá có thể do
đương sự yêu cầu, hay tự Tòa án nhận thấy cần định giá.
Kết quả định giá là nguồn của chứng cứ nên việc định giá do Hội đồng định giá
được lập thành văn bản và thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Khi định giá tài sản, Hội đồng định giá tiến hành định giá riêng từng tài sản. Để
xác định đúng giá trị tài sản của vụ việc dân sự phải căn cứ vào mức phố biến giá cả thị
trường địa phương tại thời điểm định giá mà có vật, tài sản cần định giá.
1.2. Khái niệm về chứng minh
1.2.1. Thế nào là hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, trang 178: "Chứng minh là
dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó đúng hay không đúng".
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003, tr. 192 ghi: "Chứng minh là làm
cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ".
Mỗi vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thường chứa đựng những mâu thuẫn nhất
định giữa các bên đương sự nên rất phực tạp. Để giải quyết được vụ việc dân sự thì mọi
vấn đề của vụ việc dân sự dù ai nêu ra cũng phải được làm rõ trước khi Tòa án quyết định
giải quyết vụ việc dân sự. Vú dụ, trong vụ án thừa kế yêu cầu chia di sản theo di chúc thì
làm rõ có di chúc không? Người viết di chúc đã chết chưa? Di chúc có hợp pháp hay
không?
Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án
nên có nội hàm rất rộng. Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng
không chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà còn thể hiện
ở chỗ phải làm cho mọi người thấy rõ là có thật, là đúng với thực tế. Do đó, các phương
thức được các chủ thể chứng minh sử dụng để chứng minh rất đa dạng. Nhưng để thực
hiện được mục đích, nhiệm vụ của chứng minh, các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải
chỉ ra được tất cả các căn cứ pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự.

Quá trình chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Hoạt động chứng minh trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự bao gồm nhiều
hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng. Trong đó, hoạt động cung cấp, thu thập,
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa của các chủ thể là chủ yếu và mang tính
quyết định:
- Cung cấp chúng cứ: Là nghĩa vụ chủ yếu là do đương sự giao nộp cho Tòa án,
đương sự muốn làm rõ được yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ là có căn cứ hợp pháp

thì trách nhiệm của họ là phải cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án để chứng minh.
Việc cung cấp chứng cứ còn có thể do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp.
- Thu thập chứng cứ là trách nhiệm của các đương sự, hoặc một số trường hợp Tòa
án thu thập. Việc thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ để chứng minh trong giải quyết
vụ việc dân sự phải đúng hạn, nhanh chóng và kịp thời.
- Nghiên cứu và đánh giá là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng minh. Nó là
một quá trình lôgíc nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù hợp của các chứng cứ - sự
phù hợp của chứng cứ ở đây là sự phù hợp giữa những tình tiết, sự kiện đã thu thập được
với thực tế khách quan. Thông qua nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, Tòa án hình thành
các đối tượng chứng minh và sắp xếp các sự kiện theo một trình tự nhất định. Việc suy
đoán chứng cứ có thể được sử dụng trong quá trình đánh giá chứng cứ, nhưng việc suy
đoán này phải dựa trên các chứng cứ khác hoặc trên tổng thể các chứng cứ có trong hồ sơ
chứ không được theo nhận thức chủ quan của người đánh giá.
Chứng minh trong tố tụng dân sự có ý nghĩa làm rõ, xác định các sự kiện, tình tiết
của vụ việc dân sự, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Chứng minh là biện
pháp duy nhất để xác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự.
Thông qua hoạt động chứng minh, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các chủ thể
khác thấy rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được giải quyết. Đối với các đương
sự, chứng minh là vấn đề rất quan trọng để các đương sự làm rõ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tòa bảo vệ. Trước Tòa án, nếu đương sự không chứng
minh được sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ
có thể sẽ không được Tòa án bảo vệ. Trên thực tế, Tòa án có thể sai lầm trong việc xác

định, đánh giá chứng cứ, không làm sáng tỏ được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự.
Điều đó dẫn đếu việc giải quyết vụ việc dân sự không đúng với sự thật và làm cho đương
sự không được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Chứng minh không chỉ có ý nghĩa
đối với việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự của Tòa án, mà còn có ý nghĩa bảo đảm
cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để giải quyết bất kỳ một vụ việc dân sự thì đều được phải làm rõ những sự việc,
tình tiết về cơ bản trước khi Tòa án tiến hành giải quyết. Mà thực chất của hoạt động

chứng minh phần lớn bao gồm việc cung cấp chứng cứ của đương sự và việc Tòa án xem
xét toàn bộ hệ thống văn bản, tài liệu liên quan được áp dụng nhằm có cơ sở giải quyết vụ
việc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân và của Nhà nước.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự mà theo đó việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của
vụ việc là cần thiết; trong đó còn bao gồm cả hoạt động áp dụng luật của Tòa án đối với
vụ việc dân sự cụ thể cần giải quyết.
1.2.2. Chủ thể của hoạt động chứng minh
Chứng minh làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự để giải quyết đúng đắn
vụ việc dân sự. Nhưng ở đây phải xác định ai thực hiện việc chứng minh? Nói rõ hơn, ai là
người đứng ra để nghiên cứu, thu thập, giao nộp, đánh giá chứng cứ trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự?
Trong tố tụng dân sự, đương sự tham gia tố tụng là chủ thể trung tâm. Tuy vậy,
chứng minh không chỉ giới hạn ở việc xác định chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu hay
phản đối yêu cầu của đương sự mà còn phải làm rõ được tất cả các vấn đề liên quan đến vụ
việc dân sự Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Khi đưa ra yêu cầu, đương sự không chỉ phải
đưa ra những tình tiết, sự kiện dựa vào đó mà họ yêu cầu, mà còn đưa ra cả những căn cứ
pháp lý của các yêu cầu. Khi quyết định giải quyết vụ việc dân sự, trong bản án, quyết
định giải quyết vụ việc dân sự của mình Tòa án cũng phải chỉ rõ quyết định được dựa trên
những căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý nào.

Vấn đề xác định rõ chủ thể chứng minh, quyền và nghĩa vụ của họ như thế nào? Vì
mỗi chủ thể tham gia tố tụng dân sự đều xuất phát từ những mục đích, nhiệm vụ khác nhau
nên quyền và nghĩa vụ của họ cũng khác nhau. Trong đó, xác định nghĩa vụ chứng minh
của đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự và Tòa án trong việc làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ án dân sự.
Chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự gồm đương sự, ngưòi đại diện cho
đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác và Tòa án. Trong đó, đương sự có vai trò chủ yếu để chứng minh cho yêu
cầu hay phản đối yêu cầu của mình theo trình tự thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng

dân sự.
Theo quy định tại các điều 06, 58, 63 64, 74, 79, 117, 118, 165, 230 của Bộ luật
Tố tụng dân sự, chủ thể của hoạt động chứng minh bao gồm đương sự và Tòa án cũng như
cá nhân, cơ quan, tổ chức, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, người đại diện hợp pháp
của đương sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, việc cung cấp chứng cứ và chứng minh
cho yêu cầu của mình thuộc về đương sự. Đây là một trong những nguyên tắc xuất phát từ
quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi kiện. Đương sự có yêu cầu bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh yêu cầu đó là hợp
pháp. Ngược lại, nếu đương sự phản đối yêu cầu của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để
phản đối. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh đặt ra cho cả
hai bên đương sự, bên khởi kiện, bị kiện và người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Bộ luật Tố tụng dân sự đề cao vai trò, trách nhiệm chứng minh của đương sự. Mỗi
bên đương sự tham gia tố tụng đều phải chứng minh tất cả các tình tiết, sự kiện của vụ việc
dân sự mà trên cơ sở đó họ đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu cầu của người khác.
Trước hết, nguyên đơn phải chứng minh trước, nghĩa là bên có yêu cầu phải đưa ra các
chứng cứ để được Tòa án xem xét chấp thuận thụ lý vụ việc dân sự. Sau đó bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới phải chứng minh bằng việc đưa ra chứng cứ phải đối
lại yêu cầu của nguyên đơn (khoản 1, 2 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự).

Ngoài các đương sự, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định các cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng phải
chứng minh (khoản 3 Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tuy không có quyền và lợi ích gắn
liền với vụ việc dân sự như đương sự, nhưng các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu
cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác nếu không thực hiện nghĩa vụ chứng minh thì sẽ dẫn đến sự bất lợi cho các
đương sự.
Đối với người đại diện hợp pháp của đương sự, trong Bộ luật Tố tụng dân sự
không có quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ chứng minh của họ. Nhưng tại Điều 74 Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định người đại diện của đương sự thay mặt tố tụng của đương sự

nên quyền và nghĩa vụ của họ được hình thành trên cơ sở và nghĩa vụ của đương sự. Bởi
vậy, nên người đại diện cho đương sự nào thì họ có nghĩa vụ chứng minh của đương sự đó.
Người đại diện theo pháp luật, người đại diện do Tòa án chỉ định có quyền và nghĩa vụ
thực hiện tốt các nghĩa vụ chứng minh đương sự họ đại diện. Người đại diện theo ủy quyền
của đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong phạm vi ủy
quyền.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng với mục đích
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng có quyền và nghĩa vụ chứng minh
(khoản 2 Điều 64 Bộ luật Tố tụng dân sự). Ngoài việc giúp đương sự về mặt pháp lý để
đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự chứng minh bằng việc đưa ra các chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho
các yêu cầu hoặc phản đối các yêu cầu là có cơ sở.
Tòa án là chủ thể có nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự không có nghĩa vụ chứng
minh. Tuy vậy, để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự, trong một số trường hợp, Tòa án
vẫn phải chứng minh để làm rõ. Ví dụ, đối với trường hợp đương sự không thể thu thập
được chứng cứ thì có thể yêu cầu Tòa án có thể tiến hành thu thập chứng cứ (khoản 2 Điều
85 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tòa án thực hiện việc đánh giá, công bố công khai chứng cứ
trước khi sử dụng (Điều 96, Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự). Mặt khác, Tòa án phải chỉ rõ
cơ sở của quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, việc chứng minh của Tòa án

mang tính hỗ trợ cho việc chứng minh của đương sự và phục vụ cho việc giải quyết vụ
việc đúng đắn của Tòa án.
Việc thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ chứng minh của một chủ thể có
ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Do vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định các chủ thể chứng minh phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ chứng
minh của họ.
1.2.3. Quá trình chứng minh
Chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Như hoạt
động cung cấp, thu thập, xác định, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại Tòa án. Trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của

mình mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định trong quá trình tố tụng. Kết quả giải quyết vụ
việc dân sự phụ thuộc phần lớn vào việc chứng minh; vì vậy, trong quá trình này đòi hỏi
phải thận trọng, tỷ mỷ và có đủ thời gian để đạt kết quả tốt nhất.
Theo quy định tại Điều 165, 175 Bộ luật Tố tụng dân sự thì ngay khi khởi kiện thụ
lý vụ án, đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh bằng việc nguyên đơn gửi
kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình; bị
đơn, người có nghĩa vụ liên quan nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án phải gửi cho
Tòa án văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và chứng cứ kèm theo. Trong quá
trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ
cho Tòa án (Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tại phiên tòa, các bên đương sự tham gia
tranh luận để chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình, thời gian tranh luận của họ không
hạn chế (Điều 233 Bộ luật Tố tụng dân sự). Khi có kháng cáo, người kháng cáo phải gửi
cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình
là có căn cứ và hợp pháp (khoản 3 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Theo Điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự, trong trường hợp đương sự không thể tự
mình thu thập chứng cứ và họ có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số
biện pháp thu thập chứng cứ. Khi áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ, Thẩm phán
phải ra quyết định bằng văn bản, trừ việc lấy lời khai của đương sự, người làm chứng theo
quy định của Điều 95, Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc đánh giá chứng cứ phải khách

quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác; Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ; mọi chứng cứ
phải được công bố và sử dụng công khai như nhau, trừ trường hợp có liên quan đến bí mật
nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính
đáng của đương sự (Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự).
1.2.4. Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự
Trong Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, tr. 274 ghi: Đối tuợng, được
hiểu: 1- Cái người ta nhằm tới để tìm hiểu, hành động. 2- Người đang tìm hiểu để kết hôn
hoặc kết nạp vào tổ chức.
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2003, tr. 328 ghi: Đối tượng là
người, vật, hiện tượng mà con người nhằm vào trong suy nghĩ và hành động.

Trong tố tụng dân sự, đối tượng chứng minh là một vấn đề hết sức quan trọng,
do đó khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án phải xác định được tất cả các tình tiết, sự
kiện liên quan, những tình tiết này là đối tượng chứng minh trong việc việc dân sự.
Đối tượng chứng minh là tổng hợp những tình tiết sự kiện liên quan đến vụ việc
dân sự, dùng nó làm cơ sở giải quyết vụ kiện dân sự.
Các quan hệ cần giải quyết trong các vụ việc dân sự rất đa dạng nên các tình tiết,
sự kiện cần phải xác định trong các vụ việc dân sự cụ thể rất phong phú. Do vậy, trong quá
trình giải quyết, việc xác định những tình tiết, sự kiện nào cần phải chứng minh. Để xác
định được đối tượng chứng minh của mỗi vụ việc dân sự, Tòa án phải dựa vào yêu cầu hay
phản đối của đương sự. Đương sự dựa vào tình tiết, sự kiện nào để có yêu cầu, hay phản
đối yêu cầu. Nói tóm lại, đối tượng chứng minh bao gồm những tình tiết, sự kiện khẳng
định của bên có yêu cầu và tình tiết, sự kiện có tính phủ định của bên phản lại yêu cầu liên
quan đến vụ việc dân sự cần xác định trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Để giải quyết đúng được các vụ việc dân sự theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 79
Bộ luật Tố tụng dân sự, đương sự phải đưa ra các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
đó là hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối vói mình phải chứng
minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải đưa ra chứng cứ để chứng minh
cho việc khởi kiện, yêu cầu cvủa mình là có căn cứ và hợp pháp. Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định tại Điều 80 về những tình tiết, sự kiện có tính rõ ràng thì không phải chứng
minh như: tình tiết sự kiện mọi người đều biết; những tình tiết, sự kiện đã được xác định
trong bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền; những tình
tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản được công chứng, chứng thực hợp pháp. Đối với
những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết thì không phải chứng minh. Tuy nhiên, tất cả
các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh phải được Tòa án thừa nhận. Do đó, khi giải
quyết các vụ việc dân sự, trách nhiệm của Tòa án phải xem xét từng tình tiết, sự kiện
trong các trường hợp cụ thể và trên cơ sở yêu cầu phải công khai, minh bạch trong các
hoạt động xét xử mà đồng ý, thừa nhận hay không về các tình tiết, sự kiện không phải

chứng minh. Ví dụ, sự thừa nhận của đương sự phía bên này đối với các chứng cứ mà
đương sự phía bên kia có yêu cầu đưa ra xem như có giá trị miễn nghĩa vụ chứng minh
đối với bên có yêu cầu. Một trong vấn đề thuộc bản chất của chứng minh là làm cho
đương sự bên kia thấy được sự tồn tại của tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự
để họ thừa nhận hay không thừa nhận; quyết thừa nhận còn là quyết tự định đoạt của
đương sự.
1.2.5. Các phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, tr. 610, phương tiện được
hiểu: "cái dùng để tiến hành công việc gì". Mỗi vụ việc dân sự đều có đối tượng chứng
minh riêng. Việt sử dụng phương tiện chứng minh nào trong vụ việc dân sự là tùy thuộc
vào những tình tiết, sự kiện thuộc đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự cần giải quyết.
Một số công cụ thường được thực hiện như lấy lời khai của đương sự, lời khai của người
làm chứng, kết luện của cơ quan giám định gọi là phương tiện chứng minh.
Phương tiện chứng minh là những công cụ được sử dụng để làm rõ các tình tiết,
sự kiện của vụ việc dân sự thông qua các chủ thể chứng minh thực hiện theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Hoạt động chứng minh có quyết định đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Để
đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định những

phương tiện chứng minh cụ thể để các chủ thể lấy đó làm công cụ chứng minh cho mình:
Các tài liệu đọc được phải là bản chính, các tài liệu nghe được, nhìn được phải có văn bản
xác định xuất xứ; các vật chứng, lời khai của đương sự; người làm chứng phải được ghi lại
dưới một hình thức nhất định theo luật định.
Trong một vụ việc dân sự cụ thể, các đương sự có thể dùng nhiều phương tiện
chứng minh trong đó được làm rõ các sự kiện, tình tiết phải được xác định đúng, rõ ràng và
cần thiết.
1.3. một số nét về lịch sử hình thành các quy định và chứng minh trong tố tụng
dân sự việt nam
- Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa ra đời. Thời kỳ đó chính quyền cách mạng còn non trẻ, nền tư pháp của nước ta
bắt đầu hình thành, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật rất khó khăn, nhưng
nhận thức được vai trò, ý nghĩa của pháp luật trong đời sống xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký Sắc lệnh số 90/SL ngày 10-10-1945 cho phép áp dụng luật lệ của chế độ cũ trừ
những điều khoản trái với nền độc lập và dân chủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sau khi Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước ta ra đời thì nguyên tắc cơ bản về
quyền và nghĩa vụ của công dân đã được chính thức ghi nhận tại chương II Hiến pháp
1946. Thời gian này, văn bản pháp luật tố tụng dân sự đã được ban hành; chế định chứng
cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự đã được quy định trong một số văn bản luật. Tại
Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 14-7-1960 quy định: "Các Tòa án nhân dân là
những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tòa án nhân dân xét xử
những vụ án hình sự và dân sự trừng trị những kẻ phạm tội và giải quyết những việc tranh
chấp về dân sự trong nhân dân". Trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 15-7-
1960 có quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân; tại khoản g Điều
3 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố, hoặc tham gia tố tụng trong những vụ
án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích nhà nước và của nhân dân. Thông tư số 2386-
NCPL ngày 19-12-1961 của Tòa án nhân dân tối cao quy định:

Trong bản án sơ thẩm dân sự phải chỉ ra: nguyên đơn yêu cầu được giải
quyết những quyền lợi cụ thể gì và nêu ra những bằng chứng gì làm căn cứ - ý
kiến của bị đơn đối với lời thỉnh cầu của bên nguyên đơn: có chấp nhận hay là
không lời thỉnh cầu ấy, hoặc chỉ chấp nhận đến mức độ nào thôi, dẫn những
bằng chứng gì làm căn cứ cho ý kiến đó
Đề án năm 1964 của Tòa án nhân dân tối cao về hướng tổ chức các Tòa án địa
phương quy định cụ thể về nghĩa vụ chứng minh của đương sự: "Trong các vụ kiện về dân
sự, các bên đương sự có trách nhiệm chứng minh các yêu cầu của mình và đề xuất chứng
cứ. Nếu các chứng cứ do các bên đương sự xuất trình chưa đầy đủ thì Tòa án sẽ yêu cầu họ
xuất trình các chứng cứ bổ sung ".
Thông tư số 3-NCPL ngày 03-3-1966 của Tòa án nhân dân tối cao về trình tự giải
quyết việc ly hôn thì căn cứ để Tòa án xét công nhân cho đôi vợ chồng được thuận tình ly

hôn là sự tự nguyện thật sự ly hôn của cả đôi bên, vì họ không còn có thể sống chung với
nhau được nữa và họ đã thỏa thuận với nhau hợp pháp về các vấn đề về con cái và tài sản.
Đơn thuận tình ly hôn phải do cả hai vợ chồng ký.
Thông tư số 06/TĐ-TC ngày 25-2-1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
việc điều tra trong tố tụng dân sự có quy định rõ hơn:
Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn và người dự sự) có quyền đề xuất
những yêu cầu và có nhiệm vụ trình bày những chứng cứ, lý lẽ để chứng minh
những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mình
Trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân khởi tố vụ kiện về dân sự để
bảo vệ những quyền lợi của Nhà nước, của tập thể và của nhân dân, Tòa án nhân
dân cũng phải yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cung cấp những tài liệu căn cứ
cần thiết
Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là phải kiểm tra kỹ lưỡng những chứng
cứ mà các đương sự đã đề xuất cần thiết để làm sáng tỏ sự thật.

Thông tư số 25-TATC ngày 20-11-1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
việc hòa giải trong tố tụng dân sự nêu rõ: Tòa án nhân dân không hòa giải đối với việc
thuận tình ly hôn. Tuy nhiên, cần chú ý phân biệt những trường hợp sau đây:
a)
b) Nếu điều ta thấy một bên kiên quyết muốn ly hôn, còn bên kia thị không thực
sự tự nguyên, nhưng do là tự ái, nông nổi, hoặc đã bị ép buộc mà thuận tình ly hôn, thì Tòa
án nhân dân có thể:
- Hoặc coi là một việc thuận tình ly hôn chưa tự nguyên và sẽ ra quyết định bác
đơn xin thuận tình ly hôn.
- Hoặc
Trong bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông tư số
96-NC/PL ngày 08-02-1977 của Tòa án nhân dân tối cao quy định: "Để bảo vệ những
quyền lợi của mình các đương sự phải có nhiệm vụ đề xuất chứng cứ, nhưng Tòa án nhân
dân không được phép chỉ dựa vào các lời khai của đương sự và những giấy tờ mà họ xuất
trình làm căn cứ cho việc xét xử mà phải dùng mọi biện pháp cần thiết để làm sáng tỏ sự

thật".
Ngày 29-11-1989, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự. Có thể xem đây là bước thay đổi, phát triển rõ nét của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam. Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định rõ về
nghĩa vụ cung cấp, thu thập chứng cứ: "Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo
vệ quyền, lợi ích của mình. Tòa án có nhiệm vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần
thiết có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác".
Tại khoản 3 Điều 20 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự xác định: "Các
đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án".
Khoản 3 điền 34 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ghi nhận: "Người
khởi kiện phải làm đơn ghi rõ họ tên, địa chỉ của mình, của bị đơn và của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan; nội dung vụ việc, yêu cầu của mình và những tài liệu, lý lẽ chứng
minh cho những yêu cầu đó".

Đối với người đại diện của đương sự tham gia tố tụng, Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự cũng quy định quyền và nghĩa vụ của họ tại khoản 2, 3 Điều 21:
Người chưa thành niên phải có người đại diện thay mặt trong tố tụng.
Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đã tham gia lao động theo
hợp đồng được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan
hệ lao động, nhưng khi cần thiết Tòa án có thể triệu tập đại diện của họ tham gia
tố tụng. Đối với những việc khác, người chưa thành niên chưa đủ 18 tuổi phải
có người đại diện tham gia tố tụng, nhưng khi cần thiết Tòa hỏi thêm ý kiến của
người chưa thành niên
Khoản 3 Điều 21 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ghi:
Nếu đương sự là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần không
thể tham gia tố tụng được thì phải có người đại diện tham gia tố tụng.
Nếu không có ai đại diện cho người chưa thành niên, người có nhược
điểm về thể chất hoặc tâm thần, người vắng mặt không có tin tực thì Tòa án cử
một người thân thích của đương sự hoặc một thành viên của một tổ chức xã hội
làm người đại diện cho họ.

Quyền và nghĩa vụ của người đại diện được ủy quyền được quy định tại Điều 23
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự: "Người đại diện được ủy quyền thực hiện
quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi được ủy quyền"; khoản 3 Điều 25
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định: "Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm sáng
tỏ sự thật của vụ án; giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
họ".
Tại Điều 29 ghi nhận quyền và nghĩa vụ tố tụng của tổ chức xã hội: "Tổ chức xã
hội khởi kiện vì lợi ích chung có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, trừ quyền hòa
giải".

Khoản 3 Điều 28 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định trường
hợp Viện kiểm sát khởi kiện vì lợi ích chung: "Nếu Viện kiểm sát khởi tố vụ án thì Viện
kiểm sát có nhiệm vụ cung cấp chứng cứ".
- Giai đoạn từ 1990 đến 2004
Theo Thông tư liên ngành số 09/TT-LN ngày 01-10-1990 của Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, hướng dẫn thi hành một số quy định của
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự:
1. Khi Viện kiểm sát khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát có trách nhiệm
cung cấp các tài liệu cần thiết đối với việc giải quyết vụ án cho Tòa án có thẩm
quyền giải quyết vụ án.
Trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án, nếu thấy cần thiết thì
Tòa án có thể tiến hành điều tra thu thập thêm chứng cứ. Tòa án có thể trao đổi
với Viện kiểm sát để Viện kiểm sát cung cấp thêm tài liệu hoặc rút quyết định
khởi tố.
Bộ luật Tố tụng dân sự được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15-6-2004, có hiệu lực từ ngày 01-01-2005. Tại
chương VII, từ Điều 79 đến Điều 98 của Bộ luật Tố tụng dân sự kế thừa và phát triển của
pháp luật hiện hành về chứng cứ và chứng minh, đồng thời quy định nhiều điểm mới tiến
bộ, Tòa án không tự làm thay cho các đương sự trong việc thu thập chứng cứ, các đương

sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ hợp pháp
- Giai đoạn từ 2005 đến nay
Ngày 17-9-2005 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị
quyết số 04/2005/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự về "chứng minh và chứng cứ". Nghị quyết đã hướng dẫn cụ thể, rõ hơn về quy định
về chế định chứng minh và chứng cứ trong Bộ luật Tố tụng dân sự gồm các điều: 6, 7, 79,
81, 83, 84, 85, 86, 87, 88, 89, 90, 91, 92, 93, 94, 166, 244, 255 và 312.

×