Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh quảng trị - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.48 KB, 110 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Trị thuc miền Trung Vit Nam, phía đông giáp biển Đông, phía
tây giáp nớc CHDCND Lào, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế và phía bắc
giáp tỉnh Quảng Bình; diện tích tự nhiên 4.745,77 km
2
, dân số tính đến
31/12/2005 là 628.954 ngời.
Quảng Trị từng là vùng đất bị tàn phá nặng nề trong 2 cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc. Sau ngày đất nớc đợc giải phóng, Đảng bộ và nhân dân
Quảng Trị đã nỗ lực phấn đấu, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và
phát triển kinh tế - xã hội, tái thiết quê hơng. Dới sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh, kinh tế Quảng Trị đã có bớc phát triển khá. Tốc độ tăng trởng GDP giai
đoạn 2000-2005 đạt bình quân 8,5%/năm, cao hơn tốc độ tăng trởng bình
quân chung của cả nớc. Kết cấu hạ tầng đợc đầu t, đời sống nhân dân đợc cải
thiện đáng kể.
Tuy vậy, Quảng Trị vẫn là tỉnh nghèo. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế đang là
một thách thức lớn đối với Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị.
Để khắc phục tình trạng kém phát triển, Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ
lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2005-2010) đã đề ra mục tiêu tổng quát là: phấn đấu
tốc độ tăng trởng kinh tế bình quân đạt 11-12%/năm; đến năm 2010 cơ cấu
kinh tế của tỉnh: dịch vụ chiếm tỷ trọng 38-40%, công nghiệp-xây dựng 33-
35%, nông-lâm-ng nghiệp 25-27%, thu nhập bình quân đầu ngời đạt trên 10
triệu đồng (khoảng 620-650 USD), tăng gấp 2 lần năm 2005; i hi ra
mc tiờu phỏt trin cụng nghip-xõy dng ca tnh n nm 2010 l: Phỏt
trin cụng nghip-xõy dng l nhim v trng tõm, u tiờn s mt ca quỏ
trỡnh cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ nhm to ng lc quan trng v c bn
cho chuyn dch c cu v phỏt trin kinh t ca tnh. Phn u tc tng
giỏ tr sn xut cụng nghip-xõy dng t 25%/nm [10].
Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 05/01/2004 của Tỉnh uỷ Quảng Trị về
phát triển công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp đến năm 2010 đã nêu rõ hớng u


1
tiên phát triển: Tập trung phát triển công nghiệp để đẩy nhanh tăng trởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh các ngành
nông nghiệp, dịch vụ-thơng mại theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá [9].
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, việc xây dựng và tổ chức thực hiện
có hiệu quả các giải pháp phát triển kinh tế-xã hội nói chung và công nghiệp
nói riêng đang là nỗi băn khoăn, trăn trở của Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân trong tỉnh. Đề tài Phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
- Thực trạng và giải pháp, vì vậy, có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, nhằm giải
quyết vấn đề bức thiết hiện nay của tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian gần đây, ở những mức độ nhất định với những góc độ khác
nhau, vấn đề phát triển công nghiệp đã đợc nhiều nhà khoa học quan tâm. Đặc
biệt, khi đất nớc bớc vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH thì các
vấn đề về cơ chế chính sách, biện pháp và vai trò tác động của công nghiệp đã
đợc đặt ra trong nhiều công trình nghiên cứu.
Giáo trình "Kinh tế học phát triển" của Viện Kinh tế và Phát triển thuộc
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã đề cập khá sâu sắc và toàn diện
vai trò của công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc.
Một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ bảo vệ tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh trong thời gian qua đã bàn về những đề tài liên quan
đến phát triển công nghiệp, đó là các đề tài:
- Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn tỉnh Đồng Nai
của NCS Phạm Văn Sáng.
- Xu hớng phát triển của ngành công nghiệp chế biến ở Thành phố Hồ
Chí Minh của NCS Vũ Anh Tuấn.
- Tích tụ và tập trung vốn trong nớc để phát triển công nghiệp ở nớc ta
hiện nay của NCS Nguyễn Xuân Kiên.
- Kinh nghiệm công nghiệp hoá của NIEs - Đông á và vận dụng vào Việt
Nam của NCS Trần Thị Tri.

2
- Phát triển công nghiệp nông thôn ở đồng bằng sông Hồng theo hớng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay của NCS Vũ Thị Thoa.
- Phát triển công nghiệp nông thôn ở ngoại thành thành phố Hồ Chí
Minh của NCS Hà Văn ánh.
- Công nghiệp Thành phố Đà Nẵng, thực trạng và giải pháp phát triển
của NCS Lê Hữu Đốc.
Các luận văn đó đã áp dụng lý luận vào thực tiễn phát triển công nghiệp
của các địa phơng cũng nh trong cả nớc; điều đó đã khẳng định mối quan tâm
của xã hội đối với việc phát triển công nghiệp.
Đối với tỉnh Quảng Trị, từ trớc đến nay cha có công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống về vấn đề phát triển công nghiệp trên địa bàn, vì vậy tôi
chọn đề tài này với mong muốn đóng góp tri thức của mình để thực hiện ch-
ơng trình phát triển công nghiệp của tỉnh nhà.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của một số địa
phơng trong nớc về phát triển công nghiệp và xuất phát từ mục tiêu phát triển
công nghiệp của tỉnh, luận văn có mục đích xác định phơng hớng chủ yếu và
kiến nghị những giải pháp cơ bản để đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở tỉnh
Quảng Trị.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề chung về phát triển công nghiệp ở một tỉnh
nông nghiệp.
- Phân tích làm rõ thực trạng công nghiệp Quảng trị giai đoạn 1995-2005.
- Đề ra phơng hớng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển công
nghiệp ở tỉnh Quảng Trị.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tợng nghiên cứu đợc giới hạn trong các ngành công nghiệp tỉnh
có u thế với quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Quảng Trị. Đề tài
3

không đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu phát triển những cơ sở công nghiệp quy mô
lớn đợc đầu t theo quy hoạch và kế hoạch chung của Chính phủ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu: địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Về thời gian nghiên cứu: Trong phạm vi 25 năm, bao gồm phân tích,
đánh giá thực trạng giai đoạn 1995 - 2005, phơng hớng và giải pháp đến năm
2010, tầm nhìn đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
-Vận dụng kiến thức kinh tế chính trị học Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh về kinh tế và những kiến thức về quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng XHCN để phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản về phát
triển công nghiệp ở một địa phơng nông nghiệp - tỉnh Quảng Trị.
-Luận văn sử dụng số liệu thống kê, báo cáo của các ngành các cấp ở địa
phơng, các Nghị quyết của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
của nhà nớc để phân tích, tổng hợp, khái quát hoá trong quá trình thực hiện.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đề tài hệ thống, khái quát những xu hớng chủ yếu và làm rõ các nhân tố
tác động đến phát triển công nghiệp ở một tỉnh nông nghiệp.
- Đề tài nghiên cứu đề xuất một hệ thống các giải pháp hỗ trợ phát triển
công nghiệp ở tỉnh Quảng Trị.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đợc sử dụng làm tài liệu
tham khảo để xây dựng các đề án và thực hiện các giải pháp phát triển công
nghiệp địa phơng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chơng, 8 tiết.
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
Ở MỘT TỈNH NÔNG NGHIỆP

1.1. NHỮNG XU HƯỚNG CHỦ YẾU VÀ VAI TRÒ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP Ở MỘT TỈNH NÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm công nghiệp
- Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của nền kinh tế quốc
dân, bao gồm ba hoạt động chủ yếu: một là, hoạt động khai thác tài nguyên
thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ; hai là, hoạt động chế biến
nguyên liệu từ công nghiệp khai thác và sản phẩm nông nghiệp thành các loại
sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội; ba là, hoạt động sửa chữa, khôi phục giá trị
sử dụng của sản phẩm công nghiệp được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và
sinh hoạt của đời sống xã hội.
- Công nghiệp là một ngành kinh tế chủ lực thuộc lĩnh vực sản xuất vật
chất, là một hệ thống gồm nhiều ngành sản xuất chuyên môn hoá với các đặc
trưng cơ bản:
+ Trong sản xuất công nghiệp, đối tượng lao động là toàn bộ các nguồn
tài nguyên thiên nhiên và sản phẩm của nông nghiệp, được khai thác và chế
biến chủ yếu bằng phương pháp tác động cơ lý hoá lên đối tượng lao động tạo
ra các sản phẩm khác về chất so với đặc tính ban đầu của chúng. Trong sản
xuất nông nghiệp, phương pháp chủ yếu là áp dụng quy luật sinh học tác động
vào những cơ thể sống để sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp. Công nghệ
sinh học cũng được sử dụng ở một số ngành công nghiệp nhất định nhưng chỉ
với tác dụng là chất xúc tác cho quá trình sản xuất công nghiệp.
+ Các sản phẩm của nông nghiệp về cơ bản vẫn giữ nguyên những đặc
tính tự nhiên của chúng. Trong khi đó, dưới sự tác động của khoa học - công
5
nghệ, sản phẩm công nghiệp ngày càng phong phú về phương pháp sản xuất
và cấu trúc sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, phong phú và đa dạng
của đời sống xã hội.
+ Công nghiệp là ngành chủ yếu tạo ra các công cụ sản xuất tiên tiến
trang bị cho các ngành kinh tế. Đặc trưng này thể hiện vị trí chủ đạo của
ngành công nghiệp trong nền kinh tế. Hơn nữa, trong công nghiệp, trình độ

khoa học - công nghệ, tổ chức sản xuất ngày càng được nâng cao, một đội ngũ
lao động có tính tổ chức kỹ luật, có tác phong lao động công nghiệp và năng
suất lao động ngày càng cao. Vì vậy, công nghiệp ngày càng có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội.
1.1.2. Những xu hướng phát triển công nghiệp chủ yếu ở một tỉnh
nông nghiệp
Phát triển công nghiệp là tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá với xu thế chung mang tính phổ biến là: khi giá lao động rẻ và tài
nguyên phong phú thì các ngành sử dụng nhiều lao động và khai thác tài
nguyên sẽ phát triển; khi trình độ công nghệ và lao động được nâng lên,
các ngành có hàm lượng công nghệ và vốn cao sẽ phát triển. Tuy vậy, để
thúc đẩy tiến trình phát triển đúng hướng và hiệu quả, cần xác định rõ
những xu hướng phát triển cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của công
nghiệp. Ở một tỉnh nông nghiệp còn nhiều hạn chế, xu hướng phát triển
công nghiệp chủ yếu là:
Thứ nhất, khôi phục và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp,
trong đó có các ngành nghề thủ công truyền thống ở nông thôn, chủ yếu phục
vụ nhu cầu tại chổ và phục vụ chế biến sản phẩm của nông nghiệp. Đây là
những ngành nghề truyền thống vốn có, sản phẩm được sản xuất ra phục vụ
thiết thực cho sản xuất và đời sống của dân cư; chi phí đầu tư không lớn, kỹ
thuật chủ yếu là thủ công nên có khả năng thu hút nhiều lao động, giải quyết
việc làm, sớm tăng thu nhập cho dân cư.
6
Khôi phục và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp theo hướng
tăng cường việc dạy nghề, truyền nghề, hình thành và mở rộng các làng nghề,
xã nghề, vùng nghề; đồng thời từng bước hiện đại hoá kỹ thuật thủ công, công
nghệ truyền thống theo hướng vừa tinh xảo, vừa hiện đại; duy trì và phát triển
các đặc sản truyền thống địa phương.
Thứ hai, phát triển công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn tài
nguyên sẵn có tại địa phương, bao gồm công nghiệp chế biến sản phẩm nông,

lâm, ngư nghiệp và khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Các xí nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và
nhỏ, được đặt ngay tại vùng nguyên liệu, tận dụng nguồn nguyên liệu tại địa
phương. Các sản phẩm từ nông, lâm, ngư nghiệp được chế biến không chỉ
nhằm tiện ích trong bảo quản và vận chuyển, tiêu dùng mà còn làm tăng giá
trị sản phẩm, qua đó kích thích phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
Tài nguyên thiên nhiên là những nguồn lực sẵn có tại địa phương, được
thiên nhiên ban tặng cho con người. Việc khai thác, chế biến và sử dụng hợp
lý nguồn tài nguyên thiên nhiên tạo nguồn lực quan trọng cho phát triển, giải
quyết việc làm, tạo nguồn thu cho ngân sách.
Thứ ba, phát triển các ngành công nghiệp trực tiếp phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn, bao gồm các ngành sản xuất các loại tư liệu sản xuất
thông thường và sửa chữa tư liệu sản xuất phục vụ nhu cầu địa phương.
Cùng với quá trình cơ giới hoá nông nghiệp và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn, nhu cầu trang bị các loại tư liệu sản xuất từ kim
loại và sữa chữa máy móc, thiết bị tăng lên nhanh chóng. Tuy không hình
thành các trung tâm lớn nhưng ở quy mô toàn tỉnh, ngành công nghiệp sửa
chữa tư liệu sản xuất chiếm tỷ trọng khá lớn.
Thứ tư, phát triển các ngành sản xuất vật liệu xây dựng trên cơ sở khai
thác nguồn nguyên liệu sẵn có, phục vụ nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội và nhu cầu xây dựng của các tầng lớp nhân dân ở địa phương.
7
Thứ năm, hình thành và phát triển các cơ sở công nghiệp gia công hoặc
các cơ sở vệ tinh cho các doanh nghiệp, tập đoàn công nghiệp lớn ở trong và
ngoài nước. Đây là hướng phát triển nhằm giải quyết vấn đề lao động chưa có
việc làm của địa phương; đồng thời tranh thủ vốn, kỹ thuật - công nghệ tiên
tiến, kinh nghiệm tổ chức quản lý và đào tạo nghề cho người lao động, chuẩn
bị tiền đề cho việc hình thành và phát triển các ngành công nghiệp mới và
hiện đại trong tương lai.
Thứ sáu, phát triển công nghiệp trên cơ sở huy động mọi nguồn lực của

toàn xã hội, bao gồm các cơ sở sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế, được
triển khai theo nhiều quy mô, nhiều trình độ khác nhau, từ kỹ thuật thô sơ đến
hiện đại; vừa đi ngay vào hiện đại đồng thời vừa tận dụng những cơ sở hiện
có. Vì vậy, sản phẩm của công nghiệp ở địa phương phong phú cả về mẫu mã,
chủng loại và chất lượng.
Thứ bảy, cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, công
nghiệp ở địa phương luôn có sự vận động và chuyển hoá. Trình độ phát
triển công nghiệp sẽ được nâng cao dần cùng với sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương. Khi trình độ phát triển kinh tế - xã hội tăng lên, sẽ làm
chuyển hoá các vùng kém phát triển thành các khu vực phát triển hơn. Đến
lúc đó, các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ và vốn đầu tư cao
sẽ phát triển, làm thay đổi cơ cấu công nghiệp ở địa phương. Như vậy, phát
triển công nghiệp địa phương với mục tiêu xa hơn là để chuyển biến các
khu vực kém phát triển trở thành các khu vực có trình độ phát triển cao,
cùng cả nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
1.1.3. Vai trò của phát triển công nghiệp đối với một tỉnh nông nghiệp
Phát triển công nghiệp có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của các tỉnh nông nghiệp trên các mặt sau đây:
Một là, công nghiệp phát triển thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát
triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp phát triển
8
trước hết sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, vừa phục
vụ nhu cầu tiêu dùng cho dân cư hoạt động trong ngành công nghiệp, vừa
chế biến nâng cao giá trị của sản phẩm nông nghiệp, qua đó nâng cao khả
năng tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp không chỉ ở thị trường trong nước
mà còn mở rộng tiêu thụ ở thị trường nước ngoài. Mặt khác, công nghiệp
cung cấp các yếu tố “đầu vào” cần thiết để nâng cao trình độ công nghệ sản
xuất nông nghiệp, nhờ đó, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành và
nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp, tăng năng lực cạnh tranh của

các sản phẩm nông nghiệp.
Hai là, công nghiệp phát triển góp phần quan trọng vào vấn đề giải quyết
việc làm, thực hiện xoá đói giảm nghèo. Sự phát triển của công nghiệp là điều
kiện để thu hút lao động dư thừa trong nông nghiệp vào các ngành công
nghiệp và gián tiếp tạo thêm việc làm mới ở các ngành có liên quan, thực hiện
tổ chức và phân công lại lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Nông thôn nước ta hiện nay đang đứng trước những yêu cầu kinh tế - xã
hội bức thiết cần giải quyết, đó là: đất đai canh tác hạn chế, năng suất cây
trồng vật nuôi có giới hạn, giá cả nông sản thấp, lao động nông thôn thiếu
việc làm Để phát triển nông nghiệp, nông thôn cần có một chương trình và
giải pháp đồng bộ: vừa phải duy trì tăng trưởng nông nghiệp trong điều kiện
giới hạn về đất đai, tài nguyên; đồng thời phải giảm bớt lao động nông nghiệp
để tạo điều kiện tăng năng suất lao động nông nghiệp. Để giải quyết vấn đề
này, phát triển công nghiệp là giải pháp chủ đạo.
Ba là, phát triển công nghiệp hợp lý trên mỗi vùng lãnh thổ, mỗi địa
phương sẽ tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nguồn lực, lợi thế của mỗi
vùng lãnh thổ, đảm bảo sự phát triển cân bằng, hợp lý giữa các vùng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của dân cư, làm giảm sự phát triển chênh lệch giữa các vùng,
miền; qua đó hạn chế di dân đến các đô thị lớn gây nên tình trạng quá tải về
9
dân số, về cơ sở hạ tầng, tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường, các tệ
nạn xã hội phát sinh không kiểm soát được gây mất ổn định xã hội
Bốn là, công nghiệp phát triển thúc đẩy mở rộng quy mô thị trường, đa
dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu, mở rộng hợp tác và liên kết quốc tế.
Song song với quá trình phát triển công nghiệp, đời sống kinh tế - xã hội
ngày càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng trong sinh hoạt và sản xuất ngày càng
phong phú, đa dạng. Để đáp ứng nhu cầu của xã hội, ngoài việc tăng cường
phát triển sản xuất trong nước, cần phải đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu.
Việc gia tăng xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu đòi hỏi đa dạng hoá

mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là các sản phẩm công nghiệp chế biến, phát triển
các ngành có lợi thế cạnh tranh theo hướng chuyển dần từ các ngành có giá trị
thấp sang các ngành có giá trị gia tăng cao; qua đó mở rộng hợp tác, liên kết
kinh tế khu vực và quốc tế.
Năm là, công nghiệp phát triển đóng góp quan trọng và bền vững vào
tích luỹ của nền kinh tế trên các mặt: vốn, khoa học - công nghệ, nguồn nhân
lực và những nhân tố cơ bản khác. Công nghiệp là ngành có năng suất lao
động và giá trị gia tăng cao nên công nghiệp phát triển sẽ tăng nguồn thu cho
ngân sách nhà nước, tăng tích luỹ cho các doanh nghiệp, tăng thu nhập cho
nhân dân, tạo điều kiện tăng đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh
tế. Công nghiệp phát triển còn làm tăng năng lực khoa học - công nghệ của
đất nước; đồng thời vừa là yêu cầu đòi hỏi, vừa tạo môi trường rèn luyện, đào
tạo nâng cao chất lượng nguồn lực lao động của đất nước.
Sáu là, phát triển công nghiệp trên các vùng, miền gắn liền với quá trình
phân bố lực lượng sản xuất, tăng cường tích tụ, tập trung sản xuất theo lãnh
thổ, làm cơ sở cho quá trình hình thành các đô thị nhỏ và giảm sự khác biệt về
trình độ phát triển, sự phân hoá xã hội và các tác động tiêu cực khác.
Với lợi thế về đất đai, tài nguyên và chi phí lao động so với các thành phố,
các tỉnh nông nghiệp có nhiều tiềm năng trở thành địa điểm lựa chọn của các nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Vốn đầu tư từ nước ngoài và từ các thành phố trung
10
tâm đổ đến, tạo ra quá trình công nghiệp hoá lan toả, hình thành các khu đô thị
mới gắn với các khu công nghiệp tập trung, thúc đẩy tiến trình chuyển đổi cơ cấu
kinh tế từ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp.
1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP Ở
MỘT TỈNH NÔNG NGHIỆP
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp. Việc xác định
các nhân tố ảnh hưởng có ý nghĩa rất lớn đến việc hoạch định đường lối, kế
hoạch và chính sách phát triển công nghiệp của địa phương. Sau đây là những
nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp ở một tỉnh nông nghiệp:

1.2.1. Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên
- Về vị trí địa lý: Một quốc gia hay một địa phương bất kỳ nào cũng đều
được xác định bởi một tọa độ địa lý nhất định, có quan hệ về khoảng cách,
đường ranh giới và các quan hệ về chính trị, kinh tế, xã hội với các vùng, các
quốc gia khác. Theo tiến sĩ Lê Văn Trưởng,“Vị trí địa lý là quan hệ của một
địa điểm hoặc một khu vực phân bố đối tượng với những cứ liệu nào đó, lấy ở
bên ngoài địa điểm hoặc khu vực phân bố đó” [55, tr. 355].
Vị trí địa lý là một nguồn lực quan trọng để định hướng phát triển các
ngành, vùng kinh tế của từng địa phương cũng như của toàn bộ nền kinh tế
của một quốc gia. Nếu có vị trí địa lý thuận lợi như ở đầu mối giao thông, đầu
mối giao lưu kinh tế quốc tế, gần các trung tâm phát triển, sẽ là lợi thế tạo khả
năng cạnh tranh trong phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp.
Từ lợi thế vốn có, có thể xác định vùng kinh tế trọng điểm để phát triển
công nghiệp, dịch vụ, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các vùng khác và trở
thành vùng động lực phát triển kinh tế của toàn vùng và của cả nước. Có thể
xác định các vùng kinh tế trọng điểm ở các cấp độ khác nhau, có quy mô quốc
gia và có quy mô cấp tỉnh.
Có thể dựa vào lợi thế nằm trên một tuyến trục giao thông huyết mạch để
tập trung xây dựng và phát triển các cơ sở công nghiệp, dịch vụ dọc hai bên
11
tuyến trục đó. Với lợi thế về giao thông vận tải nên các hoạt động kinh tế có
hiệu quả cao.
- Về tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên thiên nhiên là tất cả những gì
thuộc về thiên nhiên mà con người có thể khai thác, sử dụng để thoả mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của mình. Giáo trình kinh tế học phát triển đã định
nghĩa: “Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai, được
hình thành và tồn tại trong tự nhiên” [63, tr.158].
Tài nguyên thiên nhiên là một trong các nguồn lực cơ bản của quá trình
sản xuất, song chúng chỉ có thể trở thành yếu tố của sản xuất khi được khai
thác và sử dụng có hiệu quả. Các loại tài nguyên thiên nhiên cơ bản cho phát

triển công nghiệp bao gồm: đất đai, khoáng sản, tài nguyên sinh vật, tài
nguyên nước.
+ Khoáng sản là nguồn nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất công nghiệp, là
loại tài nguyên không được phục hồi. Khi đánh giá tài nguyên khoáng sản
phải chú ý tới chủng loại, công dụng, chất lượng, trữ lượng và khả năng khai
thác, chế biến.
+ Tài nguyên sinh vật dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến là
loại tài nguyên được phục hồi. Tuy nhiên không được khai thác vượt quá khả
năng cho phép làm cạn kiệt nguồn tài nguyên này.
+ Đất đai là một nguồn lực quan trọng của quá trình sản xuất. Nó vừa là
đối tượng lao động vừa là tư liệu sản xuất chủ yếu của các ngành nông, lâm,
ngư nghiệp. Đất đai là yếu tố không thể thiếu vì nếu không có đất thì không
thể có sản xuất nông nghiệp. Trong ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ
đất đai là nền móng để dựng nhà xưởng và các công trình thiết yếu khác mà
nếu không có nó thì mọi hoạt động không thể diễn ra.
So với các nguồn lực khác, nguồn lực đất đai có giới hạn về mặt diện tích
và cố định về mặt địa lý. Song cùng với thời gian sử dụng và sự phát triển của
khoa học - công nghệ, chúng không bị đào thải do hao mòn mà trái lại nếu
biết sử dụng hợp lý thì sức sản xuất của nó không ngừng tăng lên.
12
+ Tài nguyên nước là một loại tài nguyên quan trọng, là yếu tố cơ bản
của sự sống. Nước ngọt được sử dụng cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp và
phục vụ sản xuất công nghiệp. Nguồn nước ngọt cạn kiệt sẽ là một nguy cơ đe
doạ sự tồn tại và phát triển của con người. Do vậy, việc sử dụng, bảo vệ
nguồn nước là đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia.
Nước còn là nguồn thuỷ năng quan trọng. Cùng với các nguồn năng
lượng hoá thạch (dầu mỏ, than đá) và năng lượng hạt nhân, thuỷ điện là
nguồn năng lượng quan trọng của một quốc gia. Trong điều kiện nguồn năng
lượng hoá thạch ngày càng khan hiếm và giá thành ngày càng cao, việc phát
triển nguồn thuỷ điện là một trong những hướng chủ yếu để đảm bảo an ninh

năng lượng cho đất nước.
1.2.2. Nguồn lực lao động
Nguồn lực lao động được xem xét dưới hai góc độ là số lượng và chất
lượng lao động. Trong đó, yếu tố chất lượng lao động quyết định năng suất
lao động. Người lao động có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, trình độ
quản lý, trình độ tay nghề cao và sức khoẻ tốt sẽ làm việc có năng suất cao,
mang lại lợi ích kinh tế nhiều cho xã hội và cho bản thân họ. Chất lượng lao
động có thể nâng cao bằng giáo dục, đào tạo và rèn luyện sức khoẻ.
Vai trò của nguồn lực lao động thể hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau:
- Nguồn lực lao động là nhân tố quyết định việc tổ chức sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực khác. Nguồn lực lao động là nhân tố quyết định việc tái
tạo, sử dụng, phát triển các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học
- công nghệ. Trong nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức, nguồn lực
lao động chất lượng cao là nhân tố quyết định.
- Nguồn lực lao động là một bộ phận của các yếu tố “đầu vào” trong quá
trình sản xuất. Chi phí lao động, mức tiền công thể hiện sự cấu thành của
nguồn lực lao động trong hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, chi phí nguồn lực lao
động trở thành nhân tố cấu thành mức tăng trưởng của nền kinh tế.
13
- Là bộ phận cấu thành của dân số, nguồn lực lao động tham gia tiêu
dùng các sản phẩm và dịch vụ xã hội, trở thành nhân tố tạo cầu của nền kinh
tế. Như vậy, điểm khác biệt cơ bản giữa nguồn lực lao động với các nguồn
lực khác là vừa tham gia tạo cung, tạo cầu của nền kinh tế, vừa trực tiếp điều
tiết quan hệ đó gắn với các thể chế kinh tế - xã hội do con người tạo nên.
Nền kinh tế càng phát triển cao đòi hỏi chất lượng nguồn lực lao động
càng phải cao, điều đó buộc người lao động phải tự hoàn thiện mình nếu
không muốn bị đào thải. Mỗi bước phát triển của nền kinh tế, sẽ tạo điều kiện
tốt hơn cho phát triển nguồn lực lao động, đồng thời cũng đòi hỏi mức độ cao
hơn của nguồn lực lao động trong việc tổ chức sử dụng các nguồn lực, tổ chức
và vận hành nền kinh tế.

Như vậy, nguồn lực lao động không chỉ đơn thuần là một trong những
nguồn lực sản xuất, mà nó còn là nguồn lực có khả năng quyết định việc tổ
chức, sử dụng các nguồn lực khác, là chủ thể tích cực của tất cả các hoạt động
kinh tế. Trong khi các nguồn lực tự nhiên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, nếu
không được con người khai thác thì sẽ trở thành vô dụng, thì nguồn lực lao
động có khả năng phát hiện và cải biến các nguồn lực tự nhiên và xã hội khác.
Thực tế cho thấy, có nhiều quốc gia nghèo tài nguyên nhưng kinh tế rất
phát triển nhờ có đội ngũ lao động có học thức, có trình độ chuyên môn và tay
nghề cao, được tổ chức và khuyến khích, được tạo động lực đúng lúc. Vì thế,
để phát huy nguồn lực con người, ngoài việc tăng cường giáo dục, đào tạo,
chăm sóc sức khoẻ, cần phải có chính sách tạo động lực vật chất và tinh thần
làm cho con người có tinh thần hăng say, phấn khởi, tự giác, sáng tạo và có
trách nhiệm, nhờ đó mà công việc được hoàn thành với năng suất, chất lượng
và hiệu quả cao. Ngược lại, khi con người chán nản, mọi hoạt động sản xuất -
kinh doanh bị đình trệ, nền kinh tế lâm vào khó khăn, trì trệ.
1.2.3. Vốn đầu tư
Trong nền kinh tế kém phát triển, sản xuất mang nặng tính tự nhiên, tự
cấp tự túc, nguồn lực lao động với trình độ thủ công và nguồn lực đất đai giữ
14
vai trò hàng đầu. Trong nền kinh tế thị trường với sự phát triển mạnh của
công nghiệp và dịch vụ, vốn đầu tư trở thành nguồn lực cơ bản nhất, đặc biệt
đối với sự phát triển của ngành công nghiệp, bởi vì:
- Có vốn, sẽ có điều kiện đầu tư mạnh mẽ cho việc đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực trình độ cao, đáp ứng được những
đòi hỏi khắt khe của nền sản xuất có kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
- Có vốn, mới có điều kiện đầu tư cho việc nghiên cứu, tạo ra các kỹ
thuật - công nghệ mới hiện đại; hoặc là đầu tư để nhập khẩu các công nghệ đó
nhằm làm cho nền kinh tế phát triển nhanh, tạo ra nhiều sản phẩm tốt, có sức
cạnh tranh cao trên thị trường.
- Có vốn, mới có điều kiện để xây dựng và hiện đại hoá nhanh hệ thống

kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng nhà xưởng, mua
sắm máy móc thiết bị cho sản xuất
- Có vốn, mới có điều kiện chuyển dịch cơ cấu các ngành, các lĩnh vực
kinh doanh một cách nhanh chóng theo hướng hiệu quả và phù hợp với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Để xem xét tác động của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, có thể
sử dụng mô hình Harrod-Domar. Theo mô hình này, vai trò của vốn đầu tư
đối với tăng trưởng kinh tế được thể hiện bởi hàm sản xuất giản đơn:
g = s/k hoặc k = s/g
Trong đó, g: tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng đầu ra.
s: tỷ lệ tiết kiệm so với sản lượng đầu ra.
k: hệ số gia tăng vốn so với đầu ra (hệ số ICOR).
Quan hệ g = s/k diễn đạt mối quan hệ: tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế
được quyết định bởi tỷ lệ tiết kiệm (s) và hệ số gia tăng vốn so với đầu ra (k)
của nền kinh tế. Do đó, để tăng trưởng, nền kinh tế phải tiết kiệm và đầu tư
một tỷ lệ nhất định so với GDP. Nền kinh tế có khả năng tiết kiệm và đầu tư
càng cao sẽ tăng trưởng càng nhanh.
15
Nhưng tỷ lệ tăng trưởng thực tế còn phụ thuộc cả vào hiệu suất của đầu
tư, tức là mức sản lượng tăng thêm có được từ một đơn vị đầu tư tăng thêm,
được tính bằng 1/k. Trong thực tế, hệ số k không cố định mà có xu hướng
ngày càng tăng lên, nghĩa là xu hướng đầu tư ngày càng nhiều vốn hơn. Vì
vậy, để giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cần đảm bảo sao cho hệ số k
tăng chậm, trong khi vẫn gia tăng được tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư.
Hệ số ICOR phụ thuộc vào nhiều yếu tố, thay đổi theo trình độ phát triển
kinh tế và cơ chế chính sách. Kinh nghiệm cho thấy, hệ số ICOR phụ thuộc
vào cơ cấu kinh tế, hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ và hiệu
quả của các chính sách kinh tế của nhà nước nói chung. Hệ số ICOR trong
ngành nông nghiệp thường cao hơn trong ngành công nghiệp và thương mại-
dịch vụ, do khu vực nông nghiệp bị hạn chế về đất đai, khả năng sinh học. Vì

vậy, để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tất yếu phải tăng cường đầu tư
phát triển công nghiệp và dịch vụ.
1.2.4. Chuyển giao, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ
Khoa học-công nghệ phát triển với sự ra đời của các công nghệ mới đã
làm cho nền kinh tế chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo
chiều sâu, tức là thực hiện tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở nâng cao hiệu
quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Vì vậy, khoa học - công nghệ là phương tiện
để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và nền kinh
tế tri thức, phát triển nhanh các ngành công nghệ cao và sử dụng nhiều lao
động trí tuệ.
Việc áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất tạo ra nhiều loại
sản phẩm mới, quy mô sản xuất được mở rộng, năng suất lao động và sức
cạnh tranh của hàng hoá tăng lên, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ là vô cùng to lớn, có thể có
những bước tiến có tính đột biến làm thay đổi toàn bộ nền sản xuất xã hội nói
chung cũng như sản xuất công nghiệp nói riêng. Đối với công nghiệp, khoa học -
16
công nghệ tác động trên 2 góc độ: tiến bộ khoa học - công nghệ trong nội bộ
ngành công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ trong các ngành khác.
- Tiến bộ khoa học - công nghệ trong nội bộ ngành công nghiệp tạo ra sự
phát triển mới hiệu quả cao. Tiến bộ của khoa học - công nghệ trong khai thác
tài nguyên sẽ nâng cao khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả kinh tế cao
những nguồn tài nguyên của đất nước; tiến bộ trong ngành chế biến tạo điều
kiện phát triển các ngành công nghiệp ở nhiều vùng lãnh thổ trước đây không
có điều kiện phát triển hoặc không tận dụng được nguồn tài nguyên.
- Tiến bộ khoa học - công nghệ trong các ngành khác tạo tiền đề cho phát
triển và phân bố công nghiệp. Có thể thấy rõ điều này trong những bước phát
triển vượt bậc về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và trong sản xuất nông
nghiệp. Với công nghệ mới, hệ thống giao thông và phương tiện vận tải đã có
bước phát triển nhanh chóng, cùng với hệ thống thông tin liên lạc rộng khắp

và tiện dụng đã đem đến cơ hội đầu tư sản xuất kinh doanh cho nhiều nơi
trước đây rất khó khăn. Công nghệ sinh học, công nghệ mới trong nông
nghiệp đã tạo điều kiện phát triển những vùng nguyên liệu nông, lâm, thuỷ
sản mới đủ lớn cho khai thác và chế biến công nghiệp.
Việc phát triển tiềm lực kỹ thuật - công nghệ được thông qua dưới nhiều
hình thức: nghiên cứu sáng tạo công nghệ và thực hiện tiếp nhận, ứng dụng
công nghệ. Trong điều kiện địa phương năng lực hạn chế, không có các cơ sở
nghiên cứu khoa học đủ sức thực hiện các sáng tạo công nghệ, thì thực hiện
chuyển giao, tiếp nhận và ứng dụng công nghệ là con đường chủ yếu để đổi
mới công nghệ. Các kênh tiếp nhận kỹ thuật công nghệ mới gồm:
- Kỹ thuật - công nghệ được chuyển giao “trọn gói” dưới hình thức đầu
tư trực tiếp. Loại chuyển giao này luôn đi kèm với với quá trình đầu tư của
các doanh nghiệp.
- Kỹ thuật - công nghệ được chuyển giao dưới hình thức mua bán, trao
đổi trên thị trường. Loại chuyển giao này mang tính chất bộ phận, hay từng
nhóm công nghệ - kỹ thuật ở một khâu trong dây chuyền công nghệ.
17
- Kỹ thuật - công nghệ được chuyển giao dưới hình thức trao đổi thông
tin, đào tạo và huấn luyện cán bộ khoa học, nhân viên kỹ thuật, công nhân
lành nghề.
- Ngoài các kênh chuyển giao kỹ thuật - công nghệ trên, cần khuyến
khích người lao động phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật - công nghệ, qua đó
làm tăng giá trị công nghệ được chuyển giao và góp phần tăng năng lực phát
triển kỹ thuật - công nghệ của địa phương.
Thực hiện chuyển giao và tiếp nhận công nghệ làm cho nền kinh tế vận
động theo xu hướng giảm dần các yếu tố lạc hậu cổ truyền và tăng dần các
yếu tố hiện đại, là con đường mở ra khả năng có thể đi nhanh vào hiện đại
hoá. Song để đạt được điều đó, cần phải có chiến lược chuẩn bị nền tảng kỹ
thuật để tiếp nhận kỹ thuật - công nghệ được chuyển giao, trong đó chú trọng
nâng cao trình độ dân trí, đào tạo cán bộ kỹ thuật - công nghệ, công nhân lành

nghề đủ sức tiếp nhận và ứng dụng thành thạo kỹ thuật - công nghệ hiện đại
được chuyển giao.
1.2.5. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có vai trò to lớn đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, thể hiện ở hai nội dung: một là, kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội đảm bảo những điều kiện vật chất thuận lợi nhất để các cơ sở
sản xuất và dịch vụ hoạt động có hiệu quả. Một hệ thống kết cấu hạ tầng hiện
đại, đồng bộ sẽ tạo điều kiện rút ngắn chu kỳ sản xuất và lưu thông sản phẩm,
giảm bớt chi phí sản xuất và góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho
các sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh hơn; hai là, xét trong phạm vi toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như là hệ thống huyết
mạch của nền kinh tế, có nhiệm vụ thực hiện những mối liên hệ giữa các bộ
phận và các vùng của nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng
những tiềm năng của đất nước, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội rộng khắp vùng lãnh thổ, giảm bớt sự khác biệt về dân
trí, mức sống giữa các vùng.
18
Như vậy, sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là
điều kiện tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia cũng như của
từng địa phương, từng vùng lãnh thổ. Xét trên bình diện tác động đến sự phát
triển công nghiệp, vai trò của một số ngành, lĩnh vực cơ bản trong hệ thống
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được thể hiện cụ thể:
+ Hệ thống giao thông vận tải là huyết mạch của nền kinh tế, không
những trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, mà còn có
tác dụng mở đường, là khâu đột phá để thực hiện phân bố lại lực lượng sản
xuất xã hội, là nhân tố quyết định mở mang giao lưu hàng hoá giữa các vùng
trong nước và với thị trường thế giới.
+ Hệ thống năng lượng là yếu tố không thể thiếu được đối với bất cứ
ngành kinh tế nào. Đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia là yếu tố quan trọng
đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy, phát triển

năng lượng phải đi trước một bước.
+ Hệ thống cấp nước rất cần thiết cho sinh hoạt và sản xuất công nghiệp,
nhất là công nghiệp chế biến thực phẩm. Nếu không có các giải pháp đồng bộ
để bảo vệ, khai thác hợp lý nguồn nước sẽ không thể đáp ứng nhu cầu nước
sạch cho các đô thị, khu dân cư và cho phát triển công nghiệp.
+ Hệ thống các ngành dịch vụ đóng vai trò duy trì và hỗ trợ các ngành
sản xuất bằng cách cung cấp các dịch vụ đầu vào. Sẽ không có một nền sản
xuất công nghiệp phát triển nếu hệ thống các dịch vụ yếu kém. Mặt khác, các
ngành dịch vụ phát triển tạo điều kiện cải thiện đời sống, nâng cao trình độ
dân trí qua đó tạo điều kiện thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cho phát
triển. Vì thế, hệ thống các ngành dịch vụ cần phải đi trước, trong đó cần chú
trọng phát triển các ngành dịch vụ cơ bản, phục vụ nhu cầu thiết yếu cho phát
triển (thương nghiệp, khách sạn, thông tin liên lạc, kho bãi, tài chính, tín
dụng, dịch vụ tư vấn, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, thể
dục thể thao, hoạt động cứu trợ xã hội ).
19
Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, vùng lãnh
thổ là điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển bền vững, có hiệu quả của
công nghiệp nói chung, tổ chức sản xuất công nghiệp trên vùng lãnh thổ nói
riêng. Sự hình thành và phát triển công nghiệp của mỗi vùng lại thúc đẩy sự phát
triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong mối quan hệ này,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phải đi trước một bước. Vì vậy, việc nâng cấp và
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được coi là một trong những
nhiệm vụ hàng đầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy
vậy, do khả năng nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, cần phải xây dựng kế hoạch
phát triển có chọn lọc những kết cấu hạ tầng cơ bản, thiết yếu nhất.
1.2.6. Môi trường chính trị - xã hội, pháp lý, cơ chế chính sách kinh
tế và sự vận dụng sáng tạo của chính quyền địa phương
Khả năng thu hút vốn đầu tư phát triển của các địa phương đối với các
chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố

khác nhau. Các yếu tố về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, tài chính có ý nghĩa là một lợi thế so
sánh khi thu hút đầu tư. Các yếu tố chính trị - xã hội, pháp lý, cơ chế chính
sách của nhà nước lại có tác động rất lớn đến khả năng thu hút vốn đầu tư của
các địa phương.
- Môi trường chính trị - xã hội có ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh lợi
của nhà đầu tư. Bất kỳ lý do nào có ảnh hưởng xấu đến mục tiêu sinh lợi hoặc
có khả năng gây rủi ro đều ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư coi yếu tố ổn định về chính trị - xã hội là một trong những yếu
tố hàng đầu. Do đó, đảm bảo sự ổn định chính trị - xã hội thì mới thu hút
được các nhà đầu tư, tăng vốn cho đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho nền
kinh tế phát triển ổn định với tốc độ cao.
- Môi trường pháp lý và cơ chế chính sách là những yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến khả năng thu hút vốn đầu tư, vì thế nó được các nhà đầu tư quan
20
tâm đặc biệt. Hệ thống luật pháp bao gồm các văn bản pháp luật, các quy
định, các văn bản quản lý hoạt động đầu tư, khuyến khích đầu tư phản ánh
môi trường đầu tư của đất nước. Hệ thống pháp luật có thể tạo thuận lợi hoặc
làm hạn chế hoạt động đầu tư của các chủ thể kinh tế. Vì vậy, để tăng cường
thu hút đầu tư, cần có một cơ chế pháp lý rõ ràng, mềm dẻo, tạo thuận lợi cho
đầu tư và sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Thủ tục hành chính là tất cả những thủ tục cơ bản mà nhà đầu tư cần phải
thực hiện để được quyền đầu tư, bao gồm các thủ tục xét duyệt cấp giấy
chứng nhận đầu tư, đăng ký kinh doanh, các thủ tục về đất đai, thẩm định dự
án Những thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp cùng với bộ máy hành chính
quan liêu, cồng kềnh là trở ngại lớn, cản trở nhà đầu tư và làm tê liệt mọi lợi
thế về môi trường đầu tư. Vì vậy, thủ tục hành chính là một vấn đề cần quan
tâm điều chỉnh cho phù hợp tình hình mới nhằm thu hút đầu tư.
Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù các quốc gia trên thế giới có những chế
độ chính trị khác nhau, nhưng hầu hết các nước đều có điểm chung là thực

hiện nền kinh tế hàng hoá với cơ chế thị trường, đồng thời ngày càng coi
trọng vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước. Mọi thành công
trong phát triển kinh tế đều không thể thiếu được hoạt động trợ giúp của nhà
nước. Do đó, nếu nhà nước thiếu thiện chí hoặc yếu kém trong quản lý kinh tế
sẽ kìm hãm sự phát triển.
Ở nước ta hiện nay, khi cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, nhiều loại thị
trường mới hình thành và vẫn còn sơ khai, thì nhà nước còn phải làm các
công việc đáng ra là của thị trường, vẫn thực thi không ít các biện pháp hành
chính trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực. Để phát huy vai trò của
mình trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, nhà nước cần
phải làm thật tốt những công việc sau:
- Tạo lập môi trường chính trị - xã hội ổn định, hoạch định và thực hiện
có hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, tạo lập môi trường pháp
lý lành mạnh và ổn định cho phát triển kinh tế.
21
- Xây dựng thể chế hành chính hữu hiệu, đảm bảo cung ứng dịch vụ công
tốt nhất cho các hoạt động kinh tế - xã hội. Muốn vậy, nhà nước phải thực
hiện cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu quả.
- Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đầu tư cho
giáo dục và đào tạo, coi đây là quốc sách hàng đầu, thực hiện đào tạo đi liền
với sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo; xây dựng và thực hiện các chương
trình phát triển khoa học - công nghệ, y tế, các chương trình khai thác và bảo
vệ tài nguyên, môi trường
- Huy động và phân bổ hợp lý các nguồn lực quốc gia. Đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển.
- Thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ cương,
trật tự trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi
phạm pháp luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích
nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng
xã hội.

Thực hiện sự phân cấp quản lý, nhà nước Trung ương thực hiện xây
dựng hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách, đảm bảo ổn định môi trường
chính trị - xã hội, môi trường pháp lý trên phạm vi quốc gia; các cấp chính
quyền địa phương chịu trách nhiệm thực thi và vận dụng sáng tạo các chính
sách của nhà nước Trung ương bằng các cơ chế chính sách riêng trong khuôn
khổ pháp luật cho phép ở phạm vi địa phương.
Hoạt động của chính quyền địa phương có thể tác động tích cực đến phát
triển công nghiệp nếu có những chính sách hỗ trợ thực sự có hiệu quả. Công
nghiệp trong điều kiện của một tỉnh nông nghiệp còn hạn chế về nhiều mặt
muốn phát triển được, nhất thiết phải có sự hỗ trợ thiết thực của nhà nước địa
phương. Do đó, sự năng động của chính quyền địa phương có tác động rất lớn
đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như lĩnh vực thu hút đầu tư,
phát triển công nghiệp nói riêng của địa phương.
22
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ TỈNH VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
1.3.1. Tỉnh Phú Yên
Phú Yên là tỉnh nông nghiệp thuộc khu vực duyên hải miền Trung, điều
kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn nhưng đã có những giải pháp phát
triển công nghiệp hiệu quả, tốc độ tăng trưởng công nghiệp cao. Sự thành
công của Phú Yên là một mô hình cần quan tâm nghiên cứu áp dụng.
Phú Yên nằm liền kề khu kinh tế trọng điểm miền Trung về phía nam,
phía bắc giáp tỉnh Bình Định, phía nam giáp tỉnh Khánh Hoà, phía tây giáp
tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk, phía đông giáp biển Đông; diện tích tự nhiên 5.045
km
2
với hơn 70% diện tích là núi đồi; dân số đến cuối năm 2004 là 836.000
người, trong đó nông thôn là 669.000 người, chiếm 80% dân số.
Tuy là một tỉnh quy mô không lớn, nguồn lực hạn chế, điều kiện tự nhiên
- kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, nhưng Phú Yên đã có nhiều nỗ lực phấn
đấu khai thác các tiềm năng, phát huy các nguồn lực và đã có bước phát triển

khá cao: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1995-2005 đạt
10,47%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng liên tục với tốc độ cao, bình
quân 21,58%/năm. Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu GDP của tỉnh từ 8,51%
năm 1995 tăng lên 24,87% năm 2005.[49]
Để đạt được thành quả này, Phú Yên đã thực hiện các giải pháp:
- Về định hướng phát triển công nghiệp: Theo xu hướng phát triển chung
của một tỉnh nông nghiệp, Phú Yên chú trọng công nghiệp chế biến nông-
lâm-thuỷ sản sử dụng nguyên liệu địa phương và các ngành sử dụng nhiều lao
động như dệt may, giày da, thủ công mỹ nghệ. Các ngành khai khoáng phục
vụ sản xuất vật liệu xây dựng cho nhu cầu địa phương và phát triển thuỷ điện
nhỏ là những ngành có nhiều tiềm năng cũng được ưu tiên đầu tư.
- Về đầu tư kết cấu hạ tầng: Phú Yên ưu tiên tập trung giải quyết giao
thông phục vụ đầu ra cho khu công nghiệp, ngoài sân bay Tuy Hòa và cảng
Vũng Rô, tỉnh đang làm việc với ngành đường sắt để xây dựng ga hàng hóa
23
Phú Hiệp, xây dựng cầu Đà Nông qua sông Bàn Thạch, đường Đông Tác-
Vũng Rô để nối khu công nghiệp Hòa Hiệp với cảng nước sâu Vũng Rô.
- Về quy hoạch và đầu tư các khu công nghiệp: Phú yên đã thực hiện quy
hoạch và đầu tư 03 khu công nghiệp tập trung tại các vị trí thuận lợi với quy
mô diện tích 985 ha (khu công nghiệp Hoà Hiệp ở phía nam tỉnh, gần cảng
Vũng Rô và sân bay Tuy Hoà, khu công nghiệp An Phú nằm phía bắc thị xã
Tuy Hoà và khu công nghiệp Đông Bắc Sông Cầu gần cảng Qui Nhơn); thực
hiện quy hoạch xây dựng mạng lưới các cụm, điểm công nghiệp, đáp ứng nhu
cầu mặt bằng cho các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề, góp
phần tổ chức, bố trí lại lực lượng sản xuất hợp lý và khai thác tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng.
- Về đào tạo nguồn nhân lực: Phú Yên xây dựng một hệ thống các trường
cao đẳng, dạy nghề, mỗi năm có thể đào tạo 600 học viên, 1.400 kỹ thuật viên
và trên 800 công nhân kỹ thuật có tay nghề từ bậc 3/7 trở lên, đáp ứng nhu
cầu nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp của địa phương.

-Về cơ chế chính sách thu hút đầu tư: Bên cạnh chính sách ưu đãi chung
của cả nước, Phú Yên cũng đã ban hành một số chính sách khuyến khích thu
hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, bao gồm: áp dụng mức giá thuê đất
thấp nhất, thời gian miễn giảm thuế dài nhất; hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng
đến chân hàng rào công trình; hỗ trợ và hướng dẫn lập thủ tục đầu tư trong
thời gian ngắn nhất; tạo điều kiện giải quyết việc cấp đất, đền bù giải phóng
mặt bằng nhanh chóng, thuận lợi; hỗ trợ các nhà đầu tư giải quyết các khó
khăn vướng mắc trong quá trình triển khai dự án sau khi được cấp giấy phép
theo hướng thuận lợi và trong thời gian nhanh nhất; trích thưởng cho các công
ty tư vấn, môi giới đầu tư tuỳ theo từng dự án
- Về phát triển tiểu thủ công nghiệp và làng nghề: Phú Yên đã ban hành
cơ chế chính sách khuyến khích phát triển với nhiều ưu đãi về thuê đất, hỗ trợ
đầu tư kết cấu hạ tầng làng nghề, cụm, điểm công nghiệp, hỗ trợ vay vốn tín
24
dụng ưu đãi, đầu tư vùng nguyên liệu, đào tạo truyền nghề và du nhập nghề
mới, hỗ trợ đầu tư chiều sâu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, hỗ trợ
xây dựng thương hiệu và thông tin thị trường
- Về cải cách thủ tục hành chính: Phú Yên tiến hành cải cách thủ tục hành
chính theo mô hình “một cửa”, tập trung đầu mối xét và cấp phép đầu tư cho sở
Kế hoạch - Đầu tư với thủ tục nhanh, gọn; thực hiện công khai và minh bạch các
quy trình thủ tục trong các hoạt động liên quan đến đầu tư như cấp quyền sử
dụng đất và thuê đất, các chính sách ưu đãi đầu tư dưới nhiều hình thức.
- Ngoài các giải pháp trên, lãnh đạo chủ chốt của tỉnh còn thường xuyên
tiếp xúc với các doanh nghiệp, tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp
trình bày các khó khăn của mình và tháo gỡ kịp thời cho doanh nghiệp.
Tuy đạt được nhiều thành tựu trong phát triển, nhưng Phú Yên cũng đang
đối mặt với nhiều thách thức lớn. Đó là, sức cạnh tranh của sản phẩm công
nghiệp còn thấp, chủ yếu tiêu thụ tại thị trường nội địa, sản phẩm xuất khẩu
chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc, hạt điều, hải sản nhưng sản
lượng ít. Nhiều dự án đã đăng ký nhưng chậm triển khai thực hiện. Hệ thống

xử lý chất thải chưa được quan tâm dẫn đến ô nhiễm môi trường
Trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh do Phòng thương mại
công nghiệp Việt Nam và dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam
(VNCI) hợp tác xây dựng năm 2006, Phú Yên được xếp thứ hạng khá với chỉ
số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) là 54,93, đứng thứ 21 trong tổng số 64
tỉnh thành trong cả nước. Chỉ số cạnh tranh khá cao trong điều kiện khó khăn
về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng, quy mô thị trường là một cố gắng lớn của
chính quyền địa phương tỉnh Phú Yên.
1.3.2. Tỉnh Thừa Thiên - Huế
Thừa Thiên - Huế là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, phía
bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía nam giáp thành phố Đà Nẵng, phía tây giáp
nước CHDCND Lào, phía đông giáp biển Đông; tổng diện tích tự nhiên là
25

×