Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay và những giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.56 KB, 28 trang )

Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ QUY LUẬT PHÂN PHỐI
1.1 Quan điểm Mac-Lênin về quy luật phân phối :
1.1.1 Vấn đề phân phối trong xã hội xã hội chủ nghĩa:
Chủ nghĩa Mac-Lenin cho rằng phân phối không phải là một hiện tượng cô
lập mà còn là một khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội : sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng.Trong quá trình đó, sản xuất bao giờ cũng đóng vai
trò quyết định; còn phân phối và các khâu khác phụ thuộcvào sản xuất và do sản
xuất quyết định, nhưng có ảnh hưởng tích cực trở lại đối với sản xuất. Ang-ghen
nói:
“Phân phối không phải chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực của sản xuất
và của trao đổi; đến lượt nó, nó cũng tác động trở lại sản xuất và trao đổi”(1)
Trong lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều phươngthức sản xuất khác
nhau, mà mỗi phương thức sản xuất có quan hệ phân phối riêng, thích hợp với tính
chất của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ
phân phối do quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất
quyết định.Trong một xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất
thì giai cấp đó có quyền chi phối quan hệ phân phối theo quyền lợi của giai cấp
mình.
Dưới chế đội công xã nguyên thuỷ, tư liệu sản xuất thuộc quyền sỡ hữu
chung của công xã, trình độ sản xuất kém chưa có sản phẩm thặng dư. Nên
phương thức phân phối là phân phối bình quân những sản phẩm do lao động
chung làm ra.
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, giai cấp thống trị là giai cấp chủ nô; chúng
không những chiếm hữu tư liệu sản xuất mà còn chiếm hữu cả những người sản
xuất coi họ như là một thứ tư liệu sản xuất. Cho nên bọnchủ nô chiếm hết toàn bộ
sản phẩmngười nô lệ làm ra và chỉ bố thí cho họ một phần đủ để khổi chết đói để
tiếp tục làm việc cho chúng.
Dưới chế độ phong kiến, giai cấp thống trị là giai cấp địa chủ chúng chiếm
hữu hấu hết tư liệu sản xuất, nông dân chỉ còng một phần rất nhỏ nhưng cũng bị


bóc lột, sưu cao, thuế nặng. Bọn địa chủ chiếm đoạt hầu hết sản phẩm thặng dư
trong xã hội và cả một phần sản phẩm cần thiết; nên nông dân chỉ còn được hưởng
một phần rất nhỏ, đời sống cơ cực thiếu thốn.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đều thuộc về giai cấp tư sản,
giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất chỉ có sức lao động, phải làm thuê
cho giai cấp tư sản. Do đó giai cấp tư sản là giai câp schi phối quan hệ phân phối
nhằm đem lại nhiều giá trị thặng dư cho giai cấp mình. Nguyên tắc phân phối của
giai cấp tư sản là
(1) Ph.Ang-ghen : Chống Duyring –Nhà xuất bản Sự Thật – Hà Nội – 1971 –
trang 252
1
theo số lượng tư sản. Nhà tư sản nào có càng nhiều tư sản thì càng có khả năng
thu được nhiều giá trị thặng dư. Còn giai cấp công nhân thì chỉ được lĩnh tiền
công, tức là tiền bán sức lao động. Nhưng người công nhân thường chỉ được lĩnh
số tiền công dưới giá trị sức lao động đã bỏ ra. Ngoài ra người công nhân còn có
thể bị lâm vào tình trạng thất nghiệp hay nửa thất nghiệp.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất quyết
định tính chất xã hội chủ nghĩa của phương thức phân phối. Ở đây, người lao động
nắm quyền làm chủ tư liệu sản xuất, do đó có quyền làm chủ quá trình sản xuất và
phân phối. Dưới chủ nghĩa xã hội, toàn bộ sản phẩm xã hội thuộc về xã hội và
được phân phối vì lợi ích của toàn xã hội.
Tuy nhiên không phải toàn bộ sản phẩm xã hội đều được phân phối cho
tiêu dùng cá nhân, mà trước hết nó được dùng để tái sản xuất mở rộng xã hội để
phát triển xã hội, nâng cao đời sống, sau đó mới phân phối cho tiêu dung cá nhân.
Sơ đồ phân phối toàn bộ sản phẩm xã hội dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do
Mác vạch ra :
2
T NG S N PH M X H IỔ Ả Ẩ Ã Ộ
Ph n tái s nầ để ả
xu t xã h iấ ộ

Ph n gi nh choầ à
qu n lý v phúcả à
l i xã h iợ ộ
Ph n gi nh choầ à
tiêu dùng cá nhân
Ph nầ
thay
thế
nh ngữ
t liêuư
s nả
xu tấ
ã haođ
phí
trong
quá
trình
s nả
Ph nầ
tích
lu ỹ để
tái s nả
xu tấ
mở
r ngộ
Ph nầ
d trự ữ
èđẻ đ
phòng
các

bi nế
c b tố ấ
ngờ
(như
chi nế
tranh,
thiên
tai…)
Ph nầ
chiđể
phí về
qu nả

h nhà
chính

qu cố
phòng
Ph nầ
để
nuôi
d ngưỡ
nh ngữ
ng iườ
không
có khả
n ngă
lao
ngđộ
Ph nầ

mđể ở
r ngộ
các sự
nghi pệ
phúc
l iợ
công
c ngộ
Sơ đồ phân phối toàn bộ sản phẩm xã hội do Mác vạch ra là ưu việt vì nó
vừa đảm bảo cho tiêu dùng cá nhân vừa đảm bảo cho sự phát triển của xã hội. Sơ
đồ của Mac khác với quan điểm của một nhà tiểu tư sản người Đức là “ phải để
cho mọi người lao động được hưởng sản phẩm toàn vẹn vủa lao động ”. quan
điểm trên là quan điểm phiến diện vì nếu tất cả sản phẩm xã hội đều đem phân
phối hết cho tiêu dùng cá nhân thì xã hội sẽ không có điều kiện để thực hiện tái
sản xuất mở rộng, do đó không thể phát triển được. Thực ra, những khoản phân
chia ngoài tiêu dùng cá nhân đều là cần thiết và đều phục vụ cho nhân dân lao
động. Như Mác nói :
“Cái mà người sản xuất, đứng về mặt cá nhân thì bị tước mất, nhưng đứng
về mặt thành viên của xã hôi thì người ấy lại lấy được một cách trực tiếp hay gián
tiếp”(1)
Vấn đề phân phối toàn bộ sản phẩm dưới chủ nghĩa xã hôi là một lĩnh vực
rộng lớn, liên quan đến tất cả các hoạt động của xã hội xã hôi chủ nghĩa. Nó tác
dộng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Nó tác động chẳng những đến đời sống
mà cả đến sản xuất xã hội; nó vừa có ý nghĩa kinh tế, vùa có ý nghĩa chính trị, thể
hiện tính ưu việt của chế độ chủ nghĩa xã hội so với chế độ tư bản chủ nghĩa và
các chế độ khác. Nó vừa đản bảo không ngừng nâng cao năng xuất lao động xã
hội và tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa, vừa đảm bảo không nghừng nâng
cao đời sống của toàn nhân dân lao đông, làm cho mọi người kể cả người già, trẻ
con, những người mất sức lao dộng, đều được đảm bảo đồi sống; nó góp phần cải
tạo những người lười biếng, bọn lưu manh, ăn bám trỏ thành những người lao

động, ngăn chặn sự phục hồi của giai cấp bóc lột; nó ảnh hưởng tới việc củng cố,
bảo vệ và phát triển vững mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Về vấn đề phân phối cho tiêu dùng cá nhân người lao động thì dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa, phân phối theo lao dộng là quy luật kinh tế, là nguyên tắc cơ
bản, áp dụng cho tất cả mọi người lao động trong xã hội. Nhưng trong xã hội xã
hội chủ nghĩa, không chỉ có phân phối theo lao động dưới hình thức “tiền lương”
hay “ngày công”, mà còn có phân phối thông qua các sự nghiệp phúc lợi công
cộng cho tất cả các thành viên trong xã hội. Phúc lợi xã hội, một mặt hỗ trợ, bổ
xung cho phân phối theo lao động, làm, cho thu nhập thực tế của người lao động
tăng lên, giảm bớt một phần sự cách biệt về đời sống giữa những người lao động;
mặt khác, nó là mầm mống của nguyên tắc phân phối theo nhu cầu của chủ nghĩa
cộng sản. Phúc lợi xã hội chẳng những bao gồm các sự nghiệp công cộng như giáo
dục, các công trình văn hoá, các cơ sỏ y tế, nhà ở vườn trẻ ……mà còn bao gồm
cả việc tổ chức đời sống cho những người tàn tật mất sức lao động, những người
già yếu, đặc biệt là đảm bảo việc nuôi dạy con cái của nhân dân lao động cả về vật
chất và văn hoá, tinh thần, làm cho tất cả trẻ em ngày càng được nuôi dưỡng tốt,
được giáo dục toàn diện. Xã hội xã hội chủ nghĩa càng phát triển thì sự nghiệp
phúc lợi xã hội càng tăng thêm. Như vậy, vấn đề phân phối cho tiêu dùng trong xã
hội xã hôi chủ nghĩa cũng gồm nhiều mặt; nó bao gồm toàn bộ công tác tiền lương
trong các cơ sở kinh tế và cơ quan quản lý của nhà nước, chế độ phân

(1) C.Mác – Ph.Ang ghen : Phê phán cương lĩnh Gôla và Ecphuya – Nhà xuất
bản Sự Thật – Hà Nội – 1958 –trang 30
3
phối theo ngày công trong các hợp tác xã, toàn bộ sự nghiệp phúc lợi xã hội và
việc tổ chức đời sống. Nó bao gồm cả một phần sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế
……Ngoài ra, chính sách giá cả, thuế má, thu mua, phân phối hàng hoá ……của
nhà nước đều liên quan chặt chẽ đến việc phân phối xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, có hiểu biết phân phối một cách đầy đủ và toàn diện như vậy - cả
vấn đề phân phối toàn bộ sản phẩm xã hội cho quá trình tái sản xuất và vấn đề

phân phối cho tiêu dùng cá nhân – thì mới thấy hết được tính ưu việt của chế độ
xã hội chủ nghĩa, một chế độ phân phối “ tất cả vì tương lai hạnh phúc của con
người ”. Mặt khác, có nhận thức như vậy thì trong công tác chỉ đạo và tổ chức
phân phối mới không chỉ quan tâm riêng vấn đề “ tiền lương ” hay “ ngày công ”
mà quan tâm đầy đủ đến các mặt khác từ việc phân công lao động, tổ chức và sử
dụng lao động, đến việc tổ chức đời sống và đảm bảo sự nghiệp phúc lợi.
Nước ta là đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội từ bối cảnh đất nước bị tàn
phá do chiến tranh, nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn. Mặc dù, trong những năm qua
đất nước đã phát triển lên những bước mới, nhưng vấn đề dặt ra cho phân phối ở
nước ta vẫn là mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tích luỹ nhanh để công nghiệp hoá -
hiện đại hoá thành công với yêu cầu phải từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
1.1.2 Phân phối theo lao động là quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội :
1.1.2.1 Phân phối theo lao động là quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, do
những cơ sở khách quan sau đây quy định :
Sự xoá bỏ chế độ người bóc lột người, sự thiết lập quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa đã đem lại quyền làm chủ tập thể về tư liệu sản xuất của nhân dân lao
động. Cơ sở duy nhất quyết định địa vị và phúc lợi của con người trong xã hội chỉ
có thể là lao động. Cho nên, việc phân phối vật phẩm tiêu dùng nhất hiết phải vì
lợi ích của mọi thành viên làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.
Dưới chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, năng xuất
lao động tăng lên không ngừng, nhưng sản phẩm xã hội làm ra vẫn chưa được rồi
dào để phân phối thoả nhu cầu. Vì vậy, đối với người có sức lao động, phân phối
theo lao động là sự tất yếu để phát triển sản xuất, chuẩn bị mọi điều kiện tiến lên
thực hiện nguyên tắc phân phôi theo nhu cầu.
Xã hội xã hôi chủ nghĩa được xây dựng trên nền của xã hội cũ, nó chưa
phải là một xã hội phát triển trên những cơ sở riêng của nó, cho nên còn tồn tại
những dấu vết của xã hội cũ :
- Còn sự khác nhau giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa lao
động lành nghề và không lành nghề, giữa lao động kỹ thuật và lao động giản đơn
……Những sự khác nhau đó dẫn đến năng xuất lao động khác nhau và kết quả lao

động cũng khác nhau.
- Lao động chưa trở thành nhu cầu bậc nhất của con người;đối với rất
nhiều người, nó còn là phương tiện để sinh sống. Do đó, thái độ đối với lao động
và hưởng thụ có sự khác nhau, trong khi có những người chăm chỉ lao động thì có
một số người khcs thì lười biếng, ỷ lại, làm việc với thái độ làm thuê, uể oải, thậm
chí một số người muốn làm ít hưởng nhiều.
Trong những điều kiện kinh tế và xã hội khách quan đó, thì việc phân phối
theo lao động là tất yếu, là quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Quy luật phân
phối theo lao động là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản
của chủ nghĩa xã hội, vì nó thực hiện vì lợi ích của người lao động, nó kết hợp
4
chặt chẽ lợi ích cuảe toàn xã hội với lợi ích cá nhân của người lao động. Do đó
phân phối theo lao động là động lực thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển mạnh
mẽ và góp phần giáo dục tinh thần lao động xã hội chủ nghĩa cho mọi người lao
động.
Muốn thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động, cần phải gắn
liền nó với việc tổ chức lao động sản xuất, tổ chức đời sống xã hội, đồng thời phải
đề ra việc “ xã hội và nhà nước phải kiểm tra thật nghiêm ngặt mức độ lao động và
mức độ tiêu dùng ”(1) của những người lao động; và nguyên tắcc phân phối xã hội
chủ nghĩa phải được tuân thủ, chống tệ tham ô, tư lợi, chống thói lười biếng.
Khi kiểm tra việc tham gia lao động của mỗi người, xã hội và nhà nước
phải tính đến sự khác nhau về trình độ lành nghề của những sản xuất, phải quy
định tiêu chuẩn và chế độ lao động để đảm bảo sao cho người làm việc nhiều
ưởng nhiều, người làm việc ít hưởng ít. Những người nào iều kiện và khả năng lao
động mà không chịu thực hiện nghã vụ lao động thì không được hưởng. Đối với
những người đó xã hội cần phải có biện pháp buộc họ phải lao động để thực hiện
nghĩa vụ với xã hội và giải quyết đời sống của mình.
1.1.2.2 Tác dụng của quy luật phân phối theo lao động :
- Thúc đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với lao động,
nâng cao năng suất lao động nhằm đạt hiệu quả lao động cao nhất.

- Việc trả công cao hơn cho người lao động lành nghề có năng suất caco
kích thích mọi người hăng hái học tật, chău dồi để trở thành những người lao động
giỏi, có kỹ thuật, có trình độ cao. Nhờ đó mà thúc đẩy sản xuất phát triển đồng
thời làm cho đội ngũ công nhân kỹ thuật và cán bộ lành nghề ngày càng đông đảo,
tạo điều kiện xoá bỏ dần sự khác biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc,
giữa lao động lành nghề và lao động không lành nghề.
- Phân phối theo laô động có tác dụng giáo dục và đấu tranh chống những
tàn dư của xã hội cũ như lười biếng, làm ẩu….loại trừ những kẻ muốn ngồi không
ăn bám, củng cố kỷ luật lao động và làm cho mọi người dần dần “ do thói quen lao
động cho tập thể mà làm và do ý thức (đã trỏ thành thói quen ) tự giác thấy cần
phải làm vì lợi ích công cộng - một thứ lao động đã trở thành nhu cầu của một cơ
thể lành mạnh ” (2)
Do tất cả những tác dụng nói trên, quy luật phân phối theo lao động
khuyến khích cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động xã hội, làm cho nền
kinh tế phát triển, sán xuất ra nhiều của cải vật chất làm giàu cho tổ quốc và nâng
cao đời sống nhân dân.
Như vậy, phân phối theo lao động là quy luật khin tế chung của chủ nghĩa
xã hội. Nó phản ánh mối liên hệ giữa chế độ công hưu về tư liệu sản xuất với việc
phân
(1) V.I Lenin:Tuyển tập-quyển II- phần I –Nhà xuất bản Sự Thật – Hà Nội –1960
–trang 259
(2) V.I Lenin : Toàn tập - tập 30 – Nhà xuất bản Sự Thật – Hà Nội – 1968 –trang
661
phối sản phẩm tiêu dùng cá nhân trong điều kiện sản phẩm chưa dồi dào và xã hội
còn mang nhiều tàn tích của xã hội cũ. Nó phản ánh sự nhất trí giữa lợi ích tập thể
và lượi ích cá nhân. Vì vậy, xã hội chủ nghĩa xã hội muốn phát triển thì trong việc
5
phân phối tiêu dùng các nhân của người lao động phải nhất tuân thủ quy luật này.
Nếu phân phối theo lối bình quân hoặc là phân phối theo nhu cầu khi chưa đạt tới
việc của cải dồi dào, thì đều là thoát ly trình độ sản xuất của xã hội, do đó sẽ ảnh

hưởng đến sản xuất, làm chậm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Nếu so sánh phương thức phân phối theo lao động với phương thức phân
phối của chủ nghĩa tư bản và các xã hội trước đó thì phương thức phân phối theo
lao động là bình đẳng và hợp lý nhất, tuy chưa phải là bình đẳng hoàn toàn. Bởi
vì, ở xã hội xã hội chủ nghĩa mới chỉ xoá bỏ được chế độ người bóc lột người và
tạo được quyền bình đẳng đối với việc sở hữu tư liệu sản xuất. Mọi người có
nghĩa vụ và quyền lao động bình đẳng, được hưởng một nguyên tắc trả công thống
nhất đó là trả công theo lao động. Nhưng so với chủ nghĩa cộng sản với nguyên
tắc phân phối theo nhu cầu, thì nguyên tắc phân phối theo lao động của chủ nghĩa
xã hội vẫn chưa hoàn toàn bình đẳng. Vì, trên thực tế sức khoẻ của người lao động
cùng hoàn cảnh gia đình của họ khác nhau, nên trong đời sống vẫn còn những mặt
không bình đẳng chỉ khi đến xã hội cộng sản , khi lực lượng sản xuất đã phát triển
rất cao, tạo ra nguồn của cải vật chất dồi dào, khi trình độ giác ngộ cộng sản chủ
nghĩa và thói quen lao động của con người được nâng cao, thì mới có thể thực
hiện được việc phân phối theo nhu cầu. Đòi hỏi có được sự bình đẳng hoàn toàn
về tiêu dùng trong xã hội chủ nghĩa xã hội là điều không tưởng, thoat ly các điều
kiện kinh tế và xã hội cụ thể.
Có hai sai lầm phổ biến khi phân phối theo lao động mà chúng ta cần quán
triệt đe chống sai lầm đó là :
- Chủ nghĩa bình quân trong việc trả công lao động, vì nó sẽ dẫn đế sự
phân phối không công bằng, xoá bỏ mọi nguyên tắc về lợi ích vật chất, chỉ có lợi
cho những kẻ lười biếng và cuối cùng có hại cho sản xuất.
- Khuynh hướng đòi mở rộng quá mức khoảng cách giữa các bậc lương,
thang lương một cách không có căn cứ, đòi hỏi sự ưu đãi đặc biệt cho một số
người.
1.1.3 Những hình thức phân phối theo lao động :
1.1.3.1 Tiền lương dưới chế độ xã hội chủ nghĩa :
a. Bản chất của tiền lương :
Tiền lương dưới chế độ xã hội chủ nghĩa về bản chất khác hẳn với tiền lương
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, vì :

- Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, người lao động làm chủ tư liệu sản xuất,
sức lao động không còn là hàng hoá nữa. Người lao động làm cho bản thân và cho
xã hội cho nên tiền lương là một phần trong thu nhập quốc dân đem phân phối cho
người lao động theo số lượng và chất lượng lao động mà họ đóng góp cho xã hội.
Nó phản ánh quan hệ phân phối sản phẩm giữa toàn thể xã hội với từng người lao
động, biểu hiệ quyền làm chủ tập thể trong lĩnh vực phân phối, phản ánh tính chất
tốt đẹp của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa: khác với quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa coi tiền là giá cả hay giá trị của sức lao động.
- Dưới chế độ tư bản tiền lương là công cụ bóc lột và chia rẽ giai cấp công
nhân. Trái lại, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa tiền lương có tác dụng khuyến khích
người lao động nâng cao trình độ nghề nghiệp và có thái độ lao động đúng đắn.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ
kinh tế của từng thời kỳ mà có kế hoạch hoá quỹ lương làm một công cụ kinh tế
6
quan trọng để phân phối sắp xếp các lao động giữa các ngành và các vùng sản
xuất, thích hợp với yêu cầu phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sản
xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động xã hội. Vậy, công tác chính trị và
kinh tế quan trọng của nhà nước nhằm phục vụ quyền lợi của nhân dân lao động.
- Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của
người lao động. Nhưng đời sống của người lao động không chỉ do tiền lương
quyết định. Cùng với tiền lương, các quỹ phúc lợi xã hội cũng đem lai cho họ thu
nhập dưới nhiều hình thức khác nhau; và mức thu nhập này ngày càng nhiều lên đi
đôi với sự tăng lên của tiền lương trên cơ sở sản xuất phát triển. Như vậy, dưới
chế độ chủ nghĩa xã hội, thu nhập của công nhân viên chức bao gồm tiền lương cá
nhân và những khoản thu nhập do các quỹ phúc lợi xã hội đem lại. Nó khác hẳn
chế độ tư bản chủ nghĩa với một chế độ tiền lương không những bị giới hạn ở
giá trị sức lao động, mà còn bị các khoản thuế khoá, phạt, giá cả đắt đỏ bòn rút
thêm. Cho nên dưới chế độ tư bản, người lao động không có thêm thu nhập nào
khác, mà còn bị bòn rút bằng nhiều cách.
- Tiền lương dưới chế độ tư bản cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào giá trị sức

lao động và kết quả của quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân. Trái lại, dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa, giới hạn của tiền lương là trình độ phát triển của sản xuất
và mức đóng góp của từng người lao động. Tiền lương nói riêng và thu nhập nói
chung của người lao động có xu hướng ngày càng tăng lên, phản ánh sự hoạt động
của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội.Theo đà phát triển của sản xuất,
tất cả những người lao động đều có việc làm, do đó thu nhập của các gia đình dần
dần tăng lên. Trình độ văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ của người lao động không
ngừng được nâng cao hơn, trên cơ sở đó, tiền lương và tiền thưởng của họ ngày
càng nhiều hơn. Nhà nước xã hội chủ nghĩa lại thi hành các chính sách ổn định vật
giá, từng bước giảm giá bán lẻ vật phẩm tiêu dùng để tăng sức mua của đồng tiền.
b. Các hình thức tiền lương :
-Tiền lương theo thời gian áp dụng cho những công việc không tính cụ thể
đước lao động hao phí, không tính cụ thể được sản phẩm làm ra như đối với cán
bộ kỹ thuật, công nhân sửa chữa, cán bộ quản lý,
Để tăng cường tác dụng kích thích lao động của tiền lương theo thời gian, có xí
nghiệp đã áp dụng chế độ chia tiền lương theo thời gian thành hai phần :lương cố
định ( bằng 70% lương chính ) và lương biến động. Hình thức tiền lương này đã
có tác dụng gắn lợi ích của người lao động với kết quả sản xuất kinh doanh cuối
cùng của đơn vị mình.
- Tiền lương theo sản phẩm là hình thức tiền lương phổ biến nhất trong
khu vực kinh tế thuộc sở hữu toàn dân. Tiền lương tính theo sản phẩm được xây
dựng trên cơ sở định mức sản xuất trung bình tiên tiến mà số đông những người
sản xuất có thể thực hiện được. Cho nên lương sản phẩm là hình thức tiền lương
có tác dụng kích thích công nhân quan tâm sử dụng đầy đủ và hợp lý máy móc
thiết bị, nguyên liệu, thời gian lao động, cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức lao động
để tăng năng xuất lao động. Lương sản phẩm áp dụng cho cá nhân và cho cả tập
thể như ca, kíp, tổ sản xuất tuỳ theo điều kiện cụ thể của lao động.
Chúng ta cần phân biệt tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân và tiền lương trả theo
sản phẩm cho tập thể. Hình thức tiền lương theo sản phẩm cho cá nhân : tiền
lương của người lao động phụ thuộc trực tiếp vào số lượng sản phẩm người đó

7
làm ra. Còn trong hình thức tiền lương theo sản phẩm cho tập thể :tiền lương phụ
thuộc vào tổng số sản phẩm do lao động của tập thể đó sản xuất ra. Tiền lương của
tập thể được phân phối cho các thành viên trong đơn vị đó tuỳ thuộc vào bậc
lương của từng người và thời gian lao động của người đó.
Tiền lương khoán là một hình thức biến dạng của tiền lương tính theo sán phẩm
cho tập thể. Nó được quy định căn cứ vào những định mức có sẵn đối với công
việc cần làm. Để thực sự đem lại hiệu quả kinh tế người tá khoán cho tập thể theo
sản phẩm cuối cùng của đơn vị đó.
Ngoài ra, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa còn áp dụng hình thức tiền lương
luỹ tiến tính theo sản phẩm để trả lương cao hơn theo luỹ tiến đối với những sản
phẩm vượt tiêu chuẩn và hình thức tiền lương tính theo sản phẩm có thưởng, dùng
một khoản tiền nhất định để thưởng cho những việc như tiết kiệ nguyên liệu, hạ
giá thành sản phẩm, giảm tỉ lệ phế phẩm, cải tiến chất lượng sản phẩm….
Để thực hiện tốt chế độ trả lương theo sản phẩm, cần phải đặc biệt quan
tâm làm tố công tác định mức lao động và xác định đúng đắn cấp bậc công việc để
tính đơn giá trả lương được chính xác.
Định mức lao động là quy định thời gian cần thiết để hoàn thành một công
việc nào đó ( tiêu chuẩn về thời gian ), hoặc quy định số lượng sán phẩm sản xuất
trong một đơn vị thời gian ( tiêu chuẩn về định mức sản lương ). Các định mức
này được quy định dựa trên những căn cứ khoa học kỹ thuật, phù hợp với trình độ
kỹ thuật, trình độ tổ chức và kinh nghiệm tiên tiến. Trong công tác quản lý xí
nghiệp xã hội chủ nghĩa, định mức lao động có vị trí rất quan trọng. Có định mức
lao động chính xác mới có căn cứ vững chắc để lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch
kỹ thuật và kế toán của xí nghiệp, đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động,
phát huy tác dụng kích thích sản xuất và đạt hiệu quả kinh tế thiết thực của chế độ
trả lương theo sản phẩm.
Đi đôi với định mức theo lao động, phải thực hiện việc xác định cấp bậc
công việc. Định mức lao động và cấp bậc công việc là hai nhân tố cơ bản để tính
đơn giá trả lương. Cấp bậc công việc xác dịnh mức độ phức tạp trong công việc

của công nhân. Trả lương theo sản phẩm phải theo đơn giá, trả lương được tính
theo cấp bậc công việc, định mức lao độnh, chứ không phải tính theo cấp bậc công
nhân làm công việc đó. Do đó muốn có đơn giá trả lương đúng đắn, ngoài việc có
định mức lao động tốt, phải xác định đúng đắn mức độ công việc.
Để trả lương đúng cho các loại ngành nghề khác nhau và cho những loại
người sản xuất khác nhau, còn phải áp dụng chế độ tiền lương nhiều bậc. Chế độ
tiền lương nhiều bậc được xây dựng đúng đắn làm cho tiền lương có tác dụng kích
thích người lao động tăng năng xuất và khiến cho họ quan tâm hơn đến kết quả lao
động và trình độ lành nghề của mình. Chế độ tiền lương nhiều bậc phải được kết
hợp với các hình thức tiền lương thì mới phát huy đầy đủ tác dụng của tiền lương
nhằm nâng cao năng xuất lao động xã hội, đấy mạnh sản xuất phát triển.
Ngoài ra còn phải chú ý đến chế độ tiền thưởng, tiền thưởng thực chất là
khoản tiền bổ xung nhằm thực hiện đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao
động. Chế độ tiêng thưởng là một trong những biện pháp khuyến khích bằng lợi
ích vật chất, có bổ xung thêm những chỗ thiếu xót trong hình thức trả lương theo
thời gian và trả lương theo sản phẩm, nhằm động viên mọi người phát huy tích
8
cực, sáng tạo trong sản xuất và công tác, để nâng cao năng xuất lao động, nâng
cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm.
Chế độ tiền thưởng có nhiều hình thức như: thưởng về chất lượng sản
phẩm ( giảm tỉ lệ hỏng hay tăng số lượng sản phẩm có chất lượng cao ), thưởng về
hoàn thành nhiệm vụ có chất lượng cao, thưởng về tiết kiệm nguyên vật liệu
….Hình thức tiền lương phải được vận dụng đúng đắn để phục vụ nhiệm vụ kinh
tế và chính trị từng thời kỳ do đảng đề ra.
c. Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế :
Chúng ta cần phải phân biệt tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế.
Tiền lương danh nghĩa là khoản tiền lương nhận được bằng tiền. Tiền lương thực
tế là khoản tư liệu sinh hoạt mà người lao động nhận được khi dùng tiền lương để
mua sắm tư liệu sinh hoạt phục vụ cho đời sống của bản thân và gia đình. Mối
quan hệ giữa tiền lương thực tế với tiền lương danh nghĩa và giá cả hàng hoá ở

công thức sau :
Chỉ số tiền lương thực tế = Chỉ số tiền lương danh nghĩa /chỉ số giá cả tiêu
dùng
Vì vậy, tiền lương thực tế phụ thuộc vào quy mô của tiền lương danh
nghĩa, mức giá cả của các vật phẩm tiêu dùng của nhân dân. Tiền lương danh nhĩa
càng cao và giá cả vật phẩm tiêu dùng càng thấp thì tiền lương thực tế càng cao và
ngược lại. Điều cần chú ý là tiền lương thực tế chưa phải là toàn bộ thu nhập thực
tế của công nhân viên chức mà họ còn có những khoản khác trích từ quỹ tiêu dùng
xã hội đem lại.
1.1.3.2 Tiền công lao động trong các hợp tác xã nông nhiệp :
Do đặc điểm của nền kinh tế nông nghiệp tập thể, trong các hợp tác xã
nông nghiệp đã hình thành một hình thức đặc biệt trong việc trả công lao động.
Trong hợp tác xã nông nghiệp, quỹ phân phối lao động được chia đều cho
tổng số ngày công, mỗi xã viên được hưởng nhiều hay ít tuỳ theo số ngày công đã
làm cho hợp tác xã. Vật phẩm tiêu dùng làm ra trong các hợp tác xã nông nghiệp
là thuộc sỡ hữu tập thể của những người lao động trong hợp tác xã đó, nên các quỹ
phân phối là do tổng thu nhập bằng tiền và hiện vật của hợp tác xã đó.
Ngày công là thước đo mức hao phí lao động của xã viên. Ngày công được
dùng để xác định phần được chia của mỗi xã viên trong quỹ phân phối cho lao
động của hợp tác xã.
Trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có nhiều loại công việc khác nhau,
đòi hỏi trình độ thành thạo và mức độ hao phí khác nhau. Do đó, việc quy định
các hình thức lao động cụ thể thành một đơn vị đo lường lao độnh thống nhất là
một vấn đề cần thiết đối với hợp tác xã. Để làm việc này, cần tiến hành định mức,
xếp bậc các công việc khác nhau trong hợp tác xã, cần căn cứ vào điều kiện lao
động, yêu cầu kỹ thuật, tính chất công việc khác nhau mà quy định mức độ mỗi
loại công việc khác nhau phải đạt trong một ngày công. Do đó, ngày công không
phải là một ngày lao động. Tuỳ theo trình độ lao động và sự cố gắng của từng
người mà trong một ngày công lao động có thể đạt ít hơn hay nhiều hơn ngày
công.

Việc trả công cho xã viên căn cứ vào số lượng ngày công đã dạt được
trong một thời gian sản xuất nhất định ( thuờng là một vụ ). Nhưng khác với chế
9
dộ tiền lương, giá trị ngày công trong hợp tác xã nông nghiệp không xác địng
trước được, mà phải dựa vào thu hoạch thực tế sau mỗi vụ. Tuỳ theo tình hình thu
hoạch của từng vụ và từng năm mà giá trị ngày công giữa các hợp tác xã và giữa
các năm trong hợp tác xã có sự cao thấp khác nhau.
Sản xuất nông nghiệp của hợp tác xã càng phát triển thì giá trị ngày công
càng cao, đời sống của nông dân tập thể càng được cải thiện. Nhưng thu nhập và
đời sông của nông dân tập thể không phải chỉ do ngày công. Mỗi hộ xã viên
thường có ba nguồn thu nhập : thu nhập bằng ngày công, thu nhập từ kinh tế phụ
gia đình và thu nhập từ phúc lợi công cộng do quỹ tiêu dùng của hợp tác xã đài
thọ, trong đó nguồn thu nhập từ ngày công là quan trọng nhất. Trong thời kỳ đầu,
nguồn thu nhập từ kinh tế phụ gia đình cũng rất quan trọng; và khi sản xuất hợp
tác xã càng phát triển thì nguồn thu nhập về phúc lợi xã hội do nhà nước và hợp
tác xã mang lại cho nông dân ngày càng quan trọng, ngày càng phát triển.
Trả công theo chế độ ngày công đã xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng lâu đời
về kinh tế giữa nam và nữ, giữa trẻ và già; trong đó cách trả công hợp lý nhất
trong điều kiện sản xuất còn thấp. Nhưng do phần trả công mà người xã viên hợp
tác xã được lĩnh dưới hình thức hiện vật là chủ yếu và một phần bằng tiền. Đó là,
do trình độ phát triển sản xuất chưa cao, kinh tế hàng hoá chưa phát triển. Nên trả
công theo chế độ nagỳ công mang tính chất không ổn định, phần nào làm cho
người xã viên không yên tâm và phấn khởi sản xuất. Do đó để đảm bảo tốt hơn
nữa quan hệ làm chủ tập thể của công nhân và nông dân tập thể về kinh tế trên
phạm vi toàn bộ xã hội, hình thức trả công trong hợp tác xã ngày càng phải nhích
dần đến hình thức phân phối theo lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh. Với
đà phát triển của xã hội, của sản xuất, với trình độ làm chủ tập thể được nâng lên
về mọi mặt trong hợp tác xã, với trình độ quản lý khá hơn như hiện nay chúng ta
phải cố gắng thanh toán cho xã viên hoàn toàn bằng tiền. Nếu có thể thì thanh toán
theo hình thức tiền lương.

Trong hợp tác xã nông nghiệp, ngoài việc áp dụng hình thức trả công theo
thời gian ( ngày công ) còn có hình thức trả công theo sản phẩm . Trả công theo
sản phẩm dùng để trả cho số lượng sản phẩm sản xuất ra. Ngoài ra còn hình thức
khoán, có hai loại khoán chủ yếu là : khoán việc và khoán sản phẩm. Tuỳ theo đặc
điểm của từng loại cây trồng, vật nuôi , của các ngành nghề khác nhau trong hợp
tác xã mà vận dụng hình thức này hoặc hình thức khác hoặc áp dụng đồng thời cả
hai hình thức khoán để bổ xung cho nhau. Nhưng qua thực tế thì chúng ta thấy
hình thức khoán sản phẩm là một hình thức khoán khoa học, hợp lý và tiên nhất
cho từng đơn vị sản xuất và mỗi người lao động. Để hình thức khoán thực sự là
động lực phát triển của sản xuất thì chúng ta phải xác định chính xác mức khoán
và thưởng phạt công minh. Mức khoán chính xác là mức khoán vừa đảm bảo lợi
ích của hợp tác xã và lợi ích của người lao động, vừa nâng cao thu nhập của xã
viên bằng cách tăng sản lượng và tăng giá trị ngày công là chủ yếu đồng thời có
thu nhập bổ xung bằng hình thức thưởng vượt mức khoán.
1.1.3.3 Lợi nhuận trong các xí nghiệp xã hội chủ nghĩa :
Lợi nhuận là hính thức biểu hiện thu nhập thuần tuý của các xí nghiệp xã
hội chủ nghĩa. Lợi nhuận dưới chủ nghĩa xã hội là một phần lao động thặng dư do
những người lao động sản xuất sáng tạo ra cho xã hội và được sử dụng vào việc
tích luỹmở rộng sản xuất để thoả mãn nhu cầu cần thiết theo quy định của nhà
10
nước. Khối lượng lợi nhuận của xí nghiệp phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của tập thể xí nghiệp, vào mức độ hoàn thành kế hoạch sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm.
Nhà nước quy định việc sử dụng lợi nhuận một cách có kế hoạch mhằm
lập các quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, trích
bổ xung vốn lưu động, trả nợ ngân hàng, nộp ngân sách cho nhà nước…….
1.2 Quan hệ phân phối dưới chế độ tư bản chủ nghĩa :
1.2.1 Phân phối theo quan điểm của các nhà kinh tế học tư bản chủ
nghĩa :
Trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, đã có nhiều nhà kinh tế học tư bản chủ

nghĩa cố gắng giải quyết vấn đề lý luận về phân phối thu nhập. Đặc biệt là các nhà
kinh tế chính trị tư bản cổ điển, các nhà kinh tế chính trị tiểu tư sản và các nhà chủ
nghĩa xã hội không tưởng. Nổi bật trong số họ là Adam Smith, David Ricardo và
Sismondi.
1.2.1.1 Lý thuyết phân phối thu nhập của Adam Smith và D.Ricardo :
a. Lý luận về tiền lương :
Theo Adam Smith, một khi người lao động làm việc bằng chính những tư
liệu sản xuất và ruộng đất của mình thì lẽ tất nhiên họ phải được nhận sản phẩm
toàn vẹn của lao động của họ.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, toàn bộ tư liệu sản xuất thuộc về tư bản,
người lao động không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản. Họ
nhận được một số tiền từ phía chủ sau khi làm việc cho phía chủ một thời gian
nhất định. Số tiền đó được gọi là tiền lương.
Adam Smith khẳng định cơ sở của lượng tiền lương là giá trị những tư liệu
sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân làm thuê và giáo dục nuôi dưỡng
con cái anh ta để có thể đưa ra thay thể trên thị trường lao động. Ông chỉ ra được
mức bình thường của tiền lương và cho rằng tiền lương phải đạt được ở mức ( giới
hạn ) tối thiểu.Tiền lương không được hạ thấp quá giới hạn đó, nếu như thấp hơn
mức tối thiểu thì sẽ có thảm hoạ xảy ra. Adam Smith cho rằng mức tiền lương phụ
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước. Ở những nước tiền lương thấp
hơn giới hạn tối thiểu, nền kinh tế của nước đó đang trong tình trạng suy thoái về
kinh tế. Còn ở những nước nền kinh tế phát triển, tiền lương cao hơn mức tối
thiểu, phần hơn đó do định mức tiêu dùng, truyền thống, mức sống văn hoá quy
định.
Theo Adam Smith, các nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương là trình độ tay nghề, tính
thời vụ của công việc, đối tượng lao động khác nhau……
Một quan điểm thể hiện tính nhân bản trong học thuyết của Adam Smith là
ông ủng hộ mức tiền lương cao ( dễ chịu ), vì ông cho rằng tiền lương cao sẽ tạo
điều kiện tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống.
Nhưng Adam Smith cũng có những hạn chế, đó là ông còn lầm lẫn giữa

lao động và mức sống, coi tiền lương là giá cả sức lao động.
Kế tục Adam Smith, David Ricardo cho rằng giá trị được tao ra gồm hai
phần :tiền lương và lợi nhuận. Ông cho rằng : năng xuất lao động tăng lên, tiền
lương giảm và lợi nhuận tăng. Cũng như Adam Smith, ông chưa phân biệt được
lao động và sức lao động, nhưng xác định được đúng tiền công.
11
Điểm nổi bật của Ricardo là phân tích được tiền công thực tế và xác định
nó như là một phạm trù kinh tế. Ông cho rằng địa vị xã hội của một người không
phải là được xác định bởi lượng hàng hoá mà người đó mua được bằng tiền công
mà phụ thuộc vào mối quan hệ với giai cấp tư sản.
D.Ricardo cho rằng tiền lương cao sẽ làm cho nhân khẩu tăng lên một
cách nhanh chóng, dẫn đến cung về lao động lớn hơn cầu về lao động và do đó
làm cho tiền lương hạ xuống. Có một điểm tiến bộ khác của Ricardo là xem xét
những người lao động làm thêu và tiền lương của họ trong mối quan hệ với giai
cấp tư sản.
b. Lý luận về lợi nhuận :
Adam Smith đã coi lợi nhuận là sản phẩm của lao động làm thuê của
người công nhân cho nhà tư bản, là kết quả lao động không được trả công của
người công nhân làm thuê. Theo ông, lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai ” vào
sản phẩm; ông đã phần nào nhận thấy được nguồn gốc sâu xa của giá trị thặng dư
được đẻ ra từ lao động.
Adam Smith chỉ ra rằng, lợi tức của quá trình cho vay là một phần lợi nhuận mà
các nhà tư bản hoạt động sủ dụng tư bản cho vay phải trả cho chủ nó. Ông đã nhìn
thấy xu hướng chia nhau lợi nhuận theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân và
quy luật tỷ suất lợi nhuận giảm sút do quy mô tư bản đầu tư ngày càng tăng.
Nối tiếp Adam Smith, Ricardo cũng xem xét lợi nhuận với tư cách là phần
giá trị thừa ra ngoài tiền lương. Ông cho rằng những tư bản có đại lượng bằng
nhau thì thu được lợi nhuận như nhau.
c. Lý luận về địa tô :
Theo Adam Smith thì địa tô chỉ là “ khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm

lao động ”, nó chính là số dôi ra ngoài tiền lương của công nhân và lợi nhuận của
nhà tư bản. Phát hiện quan trọng của ông là : độc quyền hữu ruộng đất là điều kiện
chiếm hữu địa tô thông qua việc coi địa tô như là “ tiền trả cho việc sử dụng đất
đai ”.
Ông cho rằng tiền tô khác với địa tô và tiền tô = địa tô + lợi tức của tư bản
chi phí vào cải tạo đất đai. Theo ông thì : địa tô chênh lệch có được là do độ màu
mỡ của đất đai và vị trí thuận lợi của đất đai đưa lại; mức địa tô của một mảnh
ruộng là do thu nhập của mảnh ruộng đó quyết định.
Còn Ricardo thì phân tích địa tô trên cơ sở lý luận giá trị - lao động đó là
điểm nổi bật của ông. Ông bác bỏ lý luận địa tô là sản vật của những lực lượng tự
nhiên hoặc do năng suất lao động đặc biệt trong nông nghiệp mang lại. Ông nhấn
mạnh rằng địa tô hình thành không ngược quy luật giá trị mà tuân theo quy luật
giá trị. Cụ thể ông cho rằng, giá trị nông phẩm được hình thành trên điều kiện
ruộng đất xấu nhất, vì ruộng đất là yếu tố khan hiếm nên xã hội phải canh tác cả
trên ruộng đất xấu. Do đó, nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất tốt và trung bình
luôn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này phải nộp cho địa
chủ.
1.2.1.2 Lý luận về thu nhập của Sismondi :
Sismodi phân tích vấn đề lợi nhuận, địa tô, tiền lương rò hơn Adam Smith
và D.Ricardo.Trong vấn đề lợi nhuận ông cho rằng lợi nhuận chính là khoản khấu
trừ từ sản phẩm lao động, đó là thu nhập không lao động. Ông khẳmg định việc
12
san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách : phá huỷ những tư bản cố định và sự
tiêu vong của công nhân ở các ngành bị suy sụp.
Về địa tô, ông cho đó là phần giá trị do nâong dân tạo ra và không được
hưởng, trái lại chủ ruộng lại được hưởng. Đối lập với D.Ricardo, Sismondi cho
rằng ruộng xấu cũng phải nộp tô. Đó là quan điểm địa tô tuyệt đối.
Về tiền lương Sismondi công nhận công nhân là người tạo ra của cải vật
chất và ông đã phân biệt được rõ sự khác nhau giữa thu nhập của công nhân với
thu nhập không lao động của các nhà tư bản. Theo ông tiền lương phải ngang

bằng toàn bộ giá trị sản phẩm của công nhân.
Qua các học thuyết của các nhà kinh tế học cổ điển, chúng ta thấy rằng họ
có đạt được những thành tựu nhất định trong việc giải quyêt những vấn đề lý luận
đang nổi cộm trong xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, họ vẫn có những sai lầm mang
tính chất thời đại và tư tưởng trong những vấn đề này. Chỉ khi đến Mác, ông đã
tiếp thu có phê phán các vấn đề lý luận nói trên chúng ta mới có một hệ thống lý
luận có hệ thống và khá hoàn chỉnh.
1.2.2 Tiền lương trong chủ nghĩa tư bản dưới góc nhìn của quan điểm
Mác-Lenin :
1.2.2.1 Bản chất và các hình thức cơ bản của tiền lương dưới chế độ tư bản:
Lao động dưới chế độ tư bản chủ nghĩa là lao động làm thuê. Người công
nhân làm thuê cho nhà tư bản, sau một thời gian làm việc nhất định thì được trả
công bằng một số tiền, gọi là tiền lương. Thoạt nhìn, hình như công nhân bán sức
lao động cho nhà tư bản và tiền lương là giá cả của lao động.
Nhìn hiện tượng bề ngoài này làm cho người ta có ấn tượng là hình như
công nhân được trả công đầy đủ, còn lợi nhuận của nhà tư bản là kết quả của việc
mua bán trên thị trường. Nhưng Mác vách ra rằng, người công nhân chỉ bán sức
lao động, chứ không phải bán lao động cho nàh tư bản, do đó lao động không phải
và không thể là hàng hoá; vậy tiền lương không thể là giá cả của lao động. Bởi vì :
- Nếu lao động là hàng hoá thì nó phải có giá trị. Nhưng giá trị của mọi
hàng hoá lại là lao động kết tinh trong hàng hoá đó. Vậy, giá trị của hàng hoá của
lao động là lao động. Điều đó là một sự luẩn quẩn, vô lý không chứng minh được
điều gì cả.
- Lao động chỉ biểu hiện ra trong qua trình sản xuất, khi sức lao động kết
hợp với tư liệu sản xuất. Người công nhân chỉ có sức lao động; khi vào xưởng của
nhà tư bản, họ đem sức lao động của mình kết hợp với tư liệu sản xuất của nhà tư
bản để tiến hành lao động. Nhưng, khi ấy việc mua bán giữa công nhân và nhà tư
bản đã xong rồi; lao động và công nhân không thuộc về anh ta nữa, mà thuộc về
nhà tư bản. Như vậy công nhân không thể bán cái mà mình không có.
-Nếu lao động là hàng hoá thì sẽ rơi vào một trong hai trường hợp không

giải quyết được vấn đề lý luận :
+ Hoặc là hàng hoá được trao đổi ngang giá; nếu vậy thì nhà tư bản không
có chút lời lãi nào. Điều đó cũng có nghĩa là phủ nhận quy luật giá trị thặng dư, cơ
sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản .
+ Hoặc là hàng hoá trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho
nhà tư bản. Như vậy sẽ phủ nhận quy luật giá trị.
Do đó, lao động không phải là hàng hoá. Lao động không phải là hàng hoá
thì tiền lương cũng không thể là giá trị hay giá cả sức lao động.
13
Vậy, tiền lương là sự thể hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả
của sức lao động, biểu hiện ra ngoài là giá cả của lao động.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa , tiền lương đã xoá ranh giới của sự phân
chia ngày công lao động thành thời gian lao động thặng dư và thời gian lao động
cần thiết, của sự phân chia giữa lao động trả công và lao động không công, tạo ra
một bề ngaòi giả dối, tựa hồ như toàn bộ lao động hao phí của công nhân đều
được bù đắp. Nó che giấu sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và bóp méo quan hệ thực
tế giữa tư bản và lao động. Vạch rõ bản chất của tiền lương, Mác bóc trần bản chất
của quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Chứng minh học thuyết giá trị thặng dư là
đúng đắn, do đó giáng một đòn chí tử vào những luận điệu bịa đặt và xuyên tạc
của các học giả tư sản hòng tô điểm cho mối quan hệ tốt đẹp giữa giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản.
1.2.2.2 Xu hướng hạ thấp tiền lương thực tế dưới chế độ tư sản :
Xu hướng chung trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là tiền lương thực tế
trung bình của công nhân bị hạ xuống không ngừng.
Tiền lương giá cả của hàng hoá sức lao động, nó chịu sự chi phối của giá
trị sức lao động. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giá trị sức lao động luôn luôn vận
động theo hai chiều hướng trái ngược nhau; trình độ kỹ thuật càng phát triển, năng
xuất lao động trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng
của công nhân và các ngành sản xuất tư liêu sản xuất để sản xuất tư liệu sinh hoạt
đó càng cao, thì giá trị sức lao động càng thấp; nhưng mặt khác, sự phát triển của

sản xuất xã hội lại làm cho nhu cầu xã hội của người ta về tư liệu sinh hoạt tăng
thêm, đồng thời sức lao động hao phí nhiều do tăng cường độ lao động lại là
những nhân tố làm cho giá trị sức lao động tăng lên.
Giá cả sức lao động cũng chịu sự vận động hai chiều đó của giá trị sức lao
động. Nhưng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, xu hướng chung là giá cả sức lao
động luôn luôn thấp hơn giá trị của nó. Tình trạng tất nghiệp ở thành thị và nhân
khẩu thừa ở nông thôn làm cho thị trường sức lao động luôn luôn có hiệ tượng
cung lớn hơn cầu. Đòi hỏi của việc bán hàng hoa sức lao động đã gây ra sự cạnh
tranh lẫn nhau trong công nhân, tạo điều kiện cho các nhà tư bản trả công thấp hơn
giá trị sức lao động. Kỹ thuật ngày càng phát triển, một mặt đòi hỏi phải có một số
nhân công lành nghề hơn; mặt khác, lại đơn giản hoá các động tác lao động, tạo
điều kiện sử dụng rộng rãi lao động của phụ nữ trẻ em, nhiều nhân công lành nghề
bị loại ra, buộc phải làm ngững công việc đơn giản hơn với tiền lương rẻ mạt.
Chíh sách phân biệt chủng tộc, chế độ phạt cắt lương trong các xí nghiệp tư bản
chủ nghĩa cũng là những nhân tố làm cho tiền lương hạ thấp.
Chẳng những về phương diện là người bán (bán sức lao động), người công
nhân phải chịu thiệt, mà về phương diện người mua ( mua hàng tiêu dùng ), họ
cũng phải chịu thiệt thòi không kém : giá cả hàng tiêu dùng tăng, tiền thuê nhà và
những chi phí dịch vụ khác đắt đỏ, thêm vào đó tiền thuế trực tiếp và gián tiếp
……Tất cả những yếu tố đó đều làm cho tiền lương thực tế của người công nhân
giảm sút, dẫn đến xu hướng hạ thấp không ngừng tiền lương thực tế trong xã hội
tư bản chủ nghĩa.
1.2.3 Lý thuyết hiện đại về phân phối thu nhập :
Trong nền kinh tế thị trường, công cụ chủ yếu của kinh tế vĩ mô là chính
sách thu nhập. Nội dung cốt lõi của chính sách thu nhập là phân phối thu nhập.
14
Vấn đề phân phối thu nhập là một vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất trong các loại
hình kinh tế học. đã có rất nhiều lý thuyết về phân phối thu nhập, nhìn chung mỗi
trường phái đều đã giải quyết những mặt, những nội dung trong phân phối nhưng
vẫn bộc lộ những nặt thiếu sót. Trong bối cảnh thế giới mới vận động, nẩy sinh

những vấn đề mới trong phân phối thu nhập mà những học thuyết kinh tế cổ điển
không giải thích được. Vì vậy nhiều trường phái lý thuyết kinh tế hiện đại ra đời.
Trong lý thuyết kinh tế hiện đại, hai phương thức phân phối thu nhập chủ
yếu là : phân phối thu nhập theo chức năng và phân phối thu nhập theo mức độ.
Phân phối thu nhập theo chức năng cho ta biết tổng thu nhập của một nền
kinh tế được phân chia như thế nào giữa các yếu tố sản xuất khác nhau như thế
nào cụ thể là các yếu tố sản xuất truyền thống là đất đai, lao động và tư bản.
Phân phối theo mức độ, cho ta biết thu nhập quốc dân được phân chia cho
các cá nhân và các hộ gia đình khác nhau như thế nào không phân biệt các dịch vụ
về các yếu tố sản xuất đem lại thu nhập cho họ.
1.2.3.1 Lý thuyết của John Clark :
John Clark giải quyết vấn đề phân phối theo các chu trình cung và cầu,
hoạt động tại các thị trường cạnh tranh hoàn hảo hoặc không hoàn hảo và được
thay thế bằng luật lệ của chính phủ.
Vấn đề phân phối thu nhập được John Clark giải quyết bằng lý thuyết sản
phẩm tăng thêm hạn mức. Lý thuyết vè năng xuất tăng thêm trên hạn mức do
Clark phát hiện là một bước tiến lớn trong việc tìm hiểu cách đánh giá các yếu tố
đàu vào khác nhau. Clark đã thấy vị trí của đất đai và lao động có thể thay đổi đảo
ngược để có một lý thuyết hoàn chỉnh về phân phối.
Trên cơ sở lý thuyết năng suất giới hạn, clark đưa ra lý thuyết tiền lương
và lợi nhuận. Công nhân có lao động, nhà tư bản có tư bản, họ đều nhận được sản
phẩm giới hạn tương ứng. Theo Clark, tiền lương của công nhân bằng sản phẩm
giới hạn của lao động, phần còn lại là sản phẩm của tư bản. Clark cho rằng phân
phối như trên sẽ không còn sự bóc lột.
1.2.3.2 Lý thuyết của A.Pigou :
Theo Pigou, phúcc lợi kinh tế phụ thuộc vào lượng thu nhập quốc dân,
tình hình phân phối thu nhập quốc dân và tình hình sử dụng của thu nhập quốc
dân. Theo ông quá trình tăng phúc lợi kinh tế là quá trình nâng cao hiệu quả sản
xuất, từ đó tăng thu nhập quốc dân và để tăng thu nhập quốc dân phải sử dụng tối
ưu nguồn tài nguyên. Pigou kiên quyết cho rằng, bằng con đường điều chỉnh thu

nhập, giảm hoặc xoá bỏ sự phân phối không đều thu nhập quốc dân cũng có thể
làm tăng phúc lợi kinh tế.

15
Chương II
THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
2.1 Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta :
2.1.1 Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta dưới chế độ bao cấp :
2.1.1.1 Thực trạng chính sách tiền lương :
Trước năm 1986, nước ta đang ở trong tình trạng bao cấp, tiền lương thời
kỳ này mang tính chất hiện vật cụ thể là việc cung cấp một số mặt hàng thiết yếu
bằng chế độ tem phiếu. Đồng thời nhà nước duy trì chế độ bán cung cấp về nhà ở,
điện nước sinh hoạt. Hàng tháng cán bộ công nhân viên chức chỉ phải trả tiền nhà
tiền điện nước sinh hoạt bằng 1% - 3% - 5% tuỳ theo mức lương và chức vụ. Giá
cả sinh hoạt tăng lên nhưng tiền lương danh nghĩa không tăng, nên tiền lương thưc
tế của cán bộ công nhân viên chức ngày càng giảm sút. Nhà nước đã tiến hành
nhiều cuộc cải cách tiền lương, nhưng điển hình cho thời kỳ này là cuộc cải cách
tiền lương 18-9-1985.
Chính sách tiền lương ban hành kèm theo nghị định số 235/HĐBT ngày
18-9-1985 của Hội Đồng Bộ Trưởng trong điều kện tổng thể điều chỉnh giá –
lương - tiền, nhưng vẫn dựa trên cấu trúc kinh tế - xã hội của mô hình quản lý trực
tiếp cứng của nhà nước, chưa có sự thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế. Do đó ,
cải tiến tiền lương năm 1985 vẫn chỉ giới hạn ở đối tượng là công nhân, viên chức
trong biên chế nhà nước, nội dung, kết cấu của tiền lương phụ thuộc trực tiếp vào
mô hình phân phối gián tiếp có tính chất phúc lợi xã hội trong điều kiện kế hoạch
hoá tập trung cao độ. Vì vậy, tiền lương vừa phụ thuộc vào khả năng ngân sách,
vừa chỉ thể hiện một phần trong quỹ tiêu dùng cá nhân được phân phối trực tiếp
bằng tiền như : ăn, mặc, một phần đồ dùng, văn hoá, dịch vụ. Còn phần lớn các
khoản chi thuộc phúc lợi xã hội như : nhà ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, bảo hiểm

xã hội ….tnì do ngân sách nhà nước cấp qua cơ quan đơn vị để phân phối lại cho
công nhân viên chức vừa tuỳ tiện vừa không đủ và thiếu công bằng.
Tổ chức tiền lương về cơ bản vẫn dựa trên kết cấu hệ thống thang lương,
bảng lương và phụ cấp năm 1960 cụ thể như sau :
- Mức thang lương tối thiểu ( phần phân phối trực tiếp bằng tiền ) là
220đ/tháng, xác định theo 44 mặt hàng với cơ cấu như sau :
+ Phần chi cho bản thân : 160đ, chiếm 72,7% lương tối thiểu.
Chia ra : ăn uống, chất đốt ( 12 mặt hàng ) :105,8đ. Mặc, đồ dùng văn hoá, dịch vụ
( 32 mặt hàng ) : 54,2đ.
+ Phần con ăn theo : 60đ, chiếm 27,3% lương tối thiểu ( bằng 37,5%
phần chi cho bản thân ).
Mức lương tối thiểu như trên có các đặc trưng sau :
- Tương ứng với trình độ lao động đơn giản nhất ( không đào tạo ).
+ Cường độ lao động nhẹ nhàng nhất trong điều kiện lao động bình
thường.
+ Tương ứng với giá các tư liệu sinh hoạt ở vùng thấp nhất tại thời điểm
9-1985.
16
+ Nhu cầu tiêu dùng các tư liệu sinh hoạt ở mức độ tối thiểu cần thiết, có
xem xét khả năng cân đối ngân sách nhà nước năm 1985 và mức lương tối thiểu
trước ( cải tiến 8-1985, gồm lương bằng tiền + bù giá ).
+ Mức lương tối thiểu 220đ so với mức lương tối thiểu ( kể cả bù giá )
tháng 8/1985 tăng khoảng 2 lần
Hệ thống bảng lương, thang lương về cơ bản vẫn dựa trên hệ thống thang,
bảng lương 1960, trong đó có sắp xếp gọn lại các thang lương công nhân và điều
chỉnh lại một số mức lương và hệ thống bảng lương viên chức cụ thể :
Quan hệ tiền lương chung là 1-1, 32-3,5. Trong đó :
Mức lương tối thiểu là : 220đ
Mức lương trung bình ( bậc 1 cua rtốt nghiệp đại học ) là :290đ
Mức lương của bộ trưởng là : 770đ

Hệ thống phụ cấp lương gồm 13 loại, phân theo 3 nhóm sau :
- Nhóm phụ cấp có tímh chất dền bù gồm : phụ cấp khu vực độc hại, khó
khăn, nguy hiểm, làm đêm, thêm giờ, Chênh lệch giá sinh hoạt giữa các vùng.
- Nhóm phụ cấp có tính chất ưu đãi gồm : phụ cấp thu hút, tỷ lệ khuyến
khích lương sản phẩm.
Mỗi loại phụ cấp ( trừ phụ cấp chênh lệch giá sinh hoạt theo vùng ) có từ 2-3 mức,
tỷ lệ phụ cấp được xách định từ 5% đến 25% so với mức lương cấp bậc, chức vụ .
Tổng các khoản phụ cấp theo nghị định 235/HĐBT là :
- Khu vực hành chính sự nghiệp : bình quân bằng 15% lương cấp bậc,
chức vụ.
- Khu vực sản xuất kinh doanh : bình quân bằng 25% lương cấp bậc, chức
vụ.
Còn đối với cơ chế quản lý tiền lương thì vẫn thực hiện theo mô hình kế hoạch
hoá tập trung, trong đó lao động và tiền lương của các đơn vị đều phải kế hoạch
hoá và do ngân sách nhà nước chi trả.
2.1.1.2 Thực trạng vấn đề lợi nhuận :
Đây là thời kỳ nhà nước chưa đặt các daonh nghiệp hạot động trong mối
quan hệ với thị trường. Kinh phí của các doanh nghiệp do nhà nước cấp;sản xuất
kinh doanh thu lỗ thì nhà nước bù,sản xuất,tiêu thụ sản phẩm do nhà nước quy
định và lao liệu giá cả do nhà nước quy định; việc tuyển dụng hoặc sa thải người
cũng do nhà nước đảm nhận… Vốn kinh doanh thì được vay với lãi xuất thấp
….Đó là một cơ chế tập trung chỉ huy làm mất khả năng sáng tạo của các đơn vị
sản xuất kinh doanh,thủ tiêu khả năng cạnh tranh, thiếu động lực cách mạng khoa
học và thay đổi công nghệ… Tính bao cấp, quan liêu, gây lãng phí rất lớn. Điều
đó dẫn đến nền kinh tế có tăng trưởng nhưng rất chậm và hiệu quả thấp.
Tình trạng ngân sách của nhà nước bội chi không ngừng tăng lên do phải
thi hành chính sách bù lỗ, thực hiện lãi suất âm :từ 37,2 tỷ năm 1986 đến 1089 tỷ
năm 1988 , bội chi về tiền mặt từ 43 tỷ năm 1986 lên 788,4 tỷ năm 1988.
Mức chênh lệch ( không kể xây dựng cơ bản,bù lỗ,bù giá ) và thu của doanh
nghiệp năm 1985 là 9,2 tỷ năm 1986 10,9 tỷ năm 1987 là 143,2 tỷ năm 1988 515

tỷ, bù giá bù lỗ cho doanh nghiệp năm 1985 126 tỷ năm 1986 125 tỷ 1987 69 tỷ
1988 46 tỷ.Vốn xây dựng cơ bản và vốn lưu động được ngân sách bổ xung cho
thiếu hụt năm 1985 là 10,3 tỷ năm 1986 là 28,1 tỷ năm 1987 là 101,1 tỷ năm1988
17
543 tỷ. Số tiền lỗ xuất khẩu của doanh nghiệp nhà nước năm 1987 = 510,2% năm
1986 và năm 1988 = 677% năm 1987.
Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã sản sinh ra cơ chế hình thành và cơ chế
phân phối lợi nhuận mà cơ bản không tạo ra môi trường và điệu kiện để các doanh
nghiệp quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận không trở thành
mục tiêu chính và tác động đòn bẩy của nó gần như bị triệt tiêu.
Như vậy, có thể khẳng định là cả một thời kỳ dài, phạm trù lợi nhuận đã
xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam. Nhưng chúng ta chưa thực sự coi
lợi nhuận với tư cách là hình thức thu nhập đối với người sản xuất kinh doanh.
Điều đó tạo ra sự bất bình đẳng lớn giữa các doanh nghiệp,làm mất đi tính chủ
động sáng tạovà tạo ra một tư tưởng ỷ lại trong các doanh nghiệp.
2.1.2 Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay :
2.1.2.1 Phân phối theo theo lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa :
Sau đại hội VI, nước ta chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường. Đến lượt nó, cơ chế thị trường là một cơ chế mà trong đó tổng thể các
nhân tố, các quan hệ cơ bản tự do vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị
trường, trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Ở nước ta, nền kinh
tế thị trường là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết
của nhà nước, có sự đa dạng hoá các thành phần kinh tế nhưng vẫn lấy kinh tế
quốc doanh làm nòng cốt, kinh tế tập thể không ngừng mở rộng theo nguyên tắc
hiệu quả, tự nguyện.
Nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều thành tựu to lớn, do các thành
phần kinh tế được tự do phát triển, tạo điều kiện phát huy hết năng lực vốn có của
các doanh nghiệp và các cá nhân trong xã hội. Tính năng động chủ động được

phát huy, nhiều việc làm mới được tạo ra, tạo cơ may về việc làm cho mọi người.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường lao động được hình thành, vừa tạo bước
phát triển về phân công lao động, vừa đa dạng hoá lao động. Vừa tạo được môi
trường khách quan thông qua trả công lao động, mà lao động xã hội được chuẩn
hoá qua giá, Nhà nước mới có cơ sở điều tiết vĩ mô trên nguyên tắc phân phối theo
lao động. Nhưng nền kinh tế thị trường cũng có những thiếu sót, mâu thuẫn và
xung đột. Xung đột giữa thành phần kinh tế quốc doanh - tập thể với thành phần
kinh tế cá thể - tư bản tư nhân, tư bản nước ngoài; đồng thời các thành phần kinh
tế quốc doanh không còn được bao cấp ưu đãi như trước, không còn ở vị thế độc
quyền như trước đây. Nên sa vào tình trạng trì trệ, yếu kém, thua lỗ. Tuy nhiên
chủ trương của nhà nước ta là vẫn tiếp tục duy trì và phát triển các thành phần
kinh tế quốc doanh làm nền tảng cho nền kinh tế và làm nền tảng cho việc phân
phối theo lao động. Trong nền kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế đều bình
đẳng trước pháp luật, tự do cạnh tranh. Khu vực kinh tế tư nhân, cá thể phát triển
mạnh do nhạy bén, thích ứng nhanh.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta vận
dụng sáng tạo linh hoạt nguyên tắc phân phối theo lao động của Mác vào hoàn
cảnh thực tế của nước ta. Điều này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu cách mạng của
cả dân tộc lại phù hợp với trình độ phát triển của thời đại; tạo ra động lực to lớn
cho quần chúng lao động, nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng một xã hội mới công
18
bằng, không còn cảnh côn người bị áp bước, bóc lột, bị đày đoạ, bị khinh bỉ;
không còn chỗ cho tội ác, thói xấu , tham lam, ích kỷ.
Phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường - hình thức chủ yếu
của nó là phân phối thu nhập. Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường là
phân phối về tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô cho chủ các yếu tố sản xuất.
Việc phân phối thu nhập dựa trên nguyên tắc sở hữu, nguyên tắc sản xuất giới hạn
và thông qua cung cầu và giá cả hàng hoá trên thị trường.
Nguyên tắc sở hữu trong phân phối thu nhập : trong nền kinh tế thị trường
có nhiều chủ thể tham gia, mỗi người có quyền sở hữu về các yếu tố sản xuất của

mình. Quyền sở hữu các yếu tố sản xuất này mang lại thu nhập cho những chủ nó.
Rõ ràng thu nhập là quyền sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế, nói tới quyền sở
hữu mà không nói tới thu nhập thì chỉ là quyền sở hữu suông.
Nguyên tắc năng suất giới hạn : năng suất giới hạn là năng suất của yếu tố
sản xuất cuối cùng được sử dụng trong quá trình sản xuất - đó có thể là năng suất
của người công nhân cuối cùng, của đơn vị tư bản cuối cùng, của đơn vị đất đai sử
dụng cuối cùng. Người ta phân phối theo năng suất cuả các yếu tố sản xuất cuối
cùng vì người ta tăng thêm đều đặn các đơn vị của yếu tố sản xuất nào đó vào quá
trình sản xuất tạo ra sản phẩm còn các yếu tố khác không thay đổi thì năng suất
của các đơn vị yếu tố sản xuất tăng thêm có xu hướng giảm sút. Vì vậy đơn vị yếu
tố sản xuất cuối cùng được coi là đơn vị yếu tố sản xuất giới hạn. Năng suất của
nó được gọi là năng suất giới hạn. Năng suất này trở thành năng suất chung quyết
định năng suất của các đơn vị khác của yếu tố sản xuất.
Công cụ thực hiện phân phối thu hập trong kinh tế thị trường là cung cầu
và giá cả hàng hoá trên thị trường. Trong thị trường các yếu tố sản xuất, hàng hoá
mua bán có giá cả là tiền lương, lợi tức, địa tô. Giá cả các yếu tố sản xuất là sự cân
bằng giữa cung cầu các yếu tố sản xuất. Sức cầu các yếu tố sản xuất là nhu cầu
của các nàh kinh doanh về số lượng lao động, đất đai, vốn với mỗi giá cả nhất
định. Sức cung các yếu tố sản xuất là số lượng lao động, vốn, đất đai mà các hộ
tiêu dùng gia đình có thể cung ứng trên thị trưòng với giá cả nhất định. Tóm lại,
tiền lương, địa tô, lãi suất được hình thành dựa trên phương diện cung cầu và giá
cả của các yếu tố sản xuất trên thị trường. Đối với lợi nhuận của các nhà kinh
doanh nó được thực hiện thông qua cung cầu giá cả trên thị trường hàng tiêu dùng
dịch vụ.
Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường có những mặt tác động
tích cực, nhưng cũng có những mặt khuyết tật :
- Mặt tác động tích cực :
+ Phân phối thu nhập theo nguyên tắc trên đảm bảo thực hiện quyền sở
hữu về kinh tế của các chủ thể yếu tố sản xuất góp phần vào việc bảo vệ, tăng
cường quyền sở hữu của các chủ thể tham gia kinh tế thị trường.

+ Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường đánh giá đúng đắn các
đóng góp của các yếu tố sản xuất để trả công. Tạo ra sự bình đẳng trong xã hội.
+ Sự phân phối thu nhập theo năng suất giới hạn thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và phát triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển xuất phát từ việc người
công nhân giói hạn sẽ tăng tiền lương của mình khi tăng tổng số sản phẩm sản
xuất ra. Ngoài ra nó còn khuyến khích các hộ kinh doanh phối hợp tốt các yếu tố
sản xuất, sử dụng nó có hiệu quả để tăng lợi nhuận và đồng thời tăng trưởng phát
19
triển kinh tế. Doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi sử dung nhiều
các yếu tố sản xuất; điều đó kích thích họ tăng cường sử dụng các yếu tố sản xuất,
phối hợp các yếu tố đó một cách hợp lý làm tăng sản lượng sản phẩm sản xuất ra.
+ Phân phối thu nhập theo cung cầu và giá cả thị trường còn đảm bảo
được quyền tự do của các chủ thể kinh tế. Ở đây tiền lương, lãi suất, địa tô được
hình thành trên cơ sở thoả thuận, thuận mua vừa bán. Đồng thời nó đảm bảo tính
năng động, thích ứng nhanh chóng để tạo ra sự cân bằng tổng quát trên thị trường.
- Mặt khuyết tật :phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường đã tạo ra
sự phân hoá giàu nghèo, dẫn đến nhiều xung đột, khủng hoảng và bất bình đẳng.
Do có những khuyết tật trên mà cần có sự điều tiết của nhà nước, tuy
nhiên các nhà kinh tế học vẫn đang tranh cãi về vấn đề có hay không có sự can
thiệp của nhà nước trong việc phân phối thu nhập. Nhưng ở nước ta, do nền kinh
tế thị là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Nên trong phân phối
thu nhập có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước để đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa và công bằng xã hội. Phân phối trong nền kinh tế thị trường ở nước
ta là thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đông thời phân phối dựa trên mức đóng góp các
nguồn lực khác vào kết quả kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động và cho các
doanh nghiệp tự chủ trong việc trả lương, trả thưởng dựa trên cơ sở hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp, nhưng không để biến thành quan hệ thống trị, dẫn tới sự
phân hoá xã hội thành hai cực đối lập. Phân phối và phân phối lại hợp lý các thu

nhập; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, không để
diễn ra chênh lệch qua đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng và
các tầng lớp dân cư.
Trong việc thuê mướn lao động, người lao động và người sử dụng lao
động bình đẳng trước phát luật. Nhà nước, với sự tham gia của công đoàn, các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, phải kiểm tra, kiểm soát việc thuê mướn, sử dụng và
trả công lao động, cải thiện điều kiện lao động; đảm bảo thực hiện những quy định
về bảo hộ, an toàn lao động; giải quyết tốt mối quan hệ giữa người lao động và
người sử dụng lao động theo pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của nguơì lao
động.
Để đảm bảo tăng trưởng, phát triển và không đi chệch định hướng xã hội
chủ nghĩa thì :
- Nước ta phải xây dựng cho được cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội,
bắng con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự
do xuất phát điểm của nước ta thấp. Đồng thời phải đón đầu trình độ khoa học tiên
tiến của thế giới, tạo đà để phát triển. Đảm bảo cho kinh tế quốc doanh và kinh tế
tập thể phát triển đủ sức dẫn dắt, chi phối các thành phần kinh tế khác đi theo định
hướng xã hội chủ nghĩa;tạo cơ sở kinh tế xã hội để thực hiện phân phối và mở
rông phân phối theo lao động trong xã hội, thực hiện công bằng xã hội.
- Nền kinh tế thị trường là bước phát triển tất yếu của quá trình phát triển,
là sản phẩm của tiến bộ xã hội; mà không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa
tư bản, nó không đối lập mâu thuẫn về tư tưởng, chính trị vói chủ nghĩa xã hội.
Con người phải nhận thức được điều đó, không duy ý chí áp đặt tư tưởng bảo thủ
vào trong sản xuất và kinh doanh.
20
- Phải xác định được tầm quan trọng của vai trò của nhà nước, tổ chức bộ
máy nhà nước và những con người đảm trách các công việc nhà nước.
Các chính sách và công cụ dùng để điều hoà phân phối thu nhập :
- Chính sách việc làm.
- Chương trình phúc lợi và hỗ trợ thu nhập như bảo hiểm xã hội, y tế…

- Thuế thu nhập .
- Trợ cấp cho những người mất việclàm .
- Phát triển kinh tế mở, xúc tiến xuất khẩu.
2.1.2.2 Vấn đề tiền lương ở nước ta hiện nay ( 1986 đến nay ) :
2.1.2.2.1 Tiền lương với tư cách là hình thức thu nhập theo lao động :
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường cũng là lúc
chúng ta thừa nhận sức lao động là hàng hoá. Điều này đồng thời với việc thừa
nhận người lao động hoàn toàn có quyền tự do bán sức lao động của mình theo
đúng những hợp đồng đã thoã thuận và khi đó chủ doanh nghiệp sử dụng sức lao
động phải trả công cho họ theo đúng những gì đã thoả thuận.
Khi làm việc cho các doanh nghiệp quốc doanh, người lao động sẽ nhận
được một khoản thu nhập tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động lao động của họ. Và
khoản thu nhập đó phải tương xứng với số lượng và chất lượng lao động mà mỗi
người đã cống hiến. Số thu nhập đó gọi là tiền lương hay còn gọi là hình thức thu
nhập theo lao động.
Để doanh nghiệp thực sự phát triển vững mạnh, thì phải tạo được sự tin
tưởng, gắn bó của người lao động đối với doanh nghiệp. Từ đó người lao động
hăng say và sẵn sàng mang hết sức sáng tạo của mình trong sản xuất kinh doanh
để phục vụ doanh nghiệp. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi người lao động
được nhận đủ mức lương và nhận kịp thời; mức đó phải ngày càng tăng lên theo
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và đóng góp lâu năm của họ. Mức đó phải
phù hợp với giá trị sức lao động của họ nhằm không chỉ bảo đảm tái sản xuất giản
đơn, mà còn bảo đảm tái sản xuất mở rộng sức lao động không ngừng. Ngoài ra,
doanh nghiệp còn phải có các chính sách đãi ngộ ngoài lương.
Tiền lương được chia làm hai phần : tiền lương cơ bản và tiền lương bổ
sung ( tiền thưởng ). Trong đó, tiền lương cơ bản phụ thuộc vào thang lương, bậc
lương của mỗi người, phần tiền thưởng phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
2.1.2.2.2 Thực trạng của chính sách tiền lương ở nước ta :
Trong đại hội VI, Đảng ta đã chính thức xác định nước chuyển từ cơ chế

kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường. Và đã cụ thể hoá chính sách tiền
lương như sau :
Tiền lương và toàn bộ thu nhập của công nhân, viên chức phụ thuộc vào
hiệu quả kinh doanh cuối cùng của xí nghiệp và kết quả lao động của từng người.
Xí nghiệp căn cứ vào thang lương, bậc lương do nhà nước quy định để tính đơn
giá tiền lương trong sản phẩm theo các định mức kinh tế kỹ thuật được xác định
hợp lý và chặt chẽ; đơn giá đó được điều chỉnh theo tình hình giá cả biến động
từng thời kỳ. Quỹ lương của xí nghiệp được xác định tương ứng với khối lượng
sản phẩm và đơn giá lương. Xí nghiệp dựa trên cơ sở đó chủ động quản lý quỹ
lương và lựa chọn hình thức trả lương.
21
Nhà nước quy định mức lương tối thiểu, không khống chế mức thu nhập
tôi đa dựa trên hiệu quả sản xuất kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp và kết
quả về năng xuất, chất lượng của người lao động. Trước mắt, trong khi chưa ban
hành thuế thu nhập, có những chính sách điều tiết thích hợp đối với những xí
nghiệp có mức thu nhập thực tế của công nhân, viên chức ( kể cả lương, quỹ
thưởng, quỹ phúc lợi tính bình quaan đầu người quá cao so với điều kiện chung ).
Nhà nước có biện pháp ngăn ngừa và xử lý nghiêm minh những nguồn thu nhập
bất hợp pháp không chính đáng. Xí nghiệp có trách nhiệm trích nộp đầy đủ quỹ
bảo hiểm xã hội và tổ chức tốt công tác bảo hộ lao động, công tác vệ sinh công
nghiệp.
a. Thực trạng chính sách tiền lương của nước ta từ 1986 dến tháng
4/1993 ;
Sau khi có những thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế, nhà nước ta cũng
đã xó những thay đổi trong chính sách tiền lương cụ thể như sau :
Từ khi ban hành nghị định 235/HĐBT, nhà nước đã điều chỉnh 21 lần trên
nền lương của nghị định 235/HĐBT :
- Năm 1986 điều chỉnh 2 lần : tháng 4-1986 và tháng 10-1986.
- Năm 1987 điều chỉnh 2 lần : tháng 5 và 9-1987.
- Năm 1988 điều chỉnh 4 lần : tháng 1, 4, 7 và tháng 10-1988.

- Năm 1989 tổng điều chỉnh vào tháng 1-1989.
- Năm 1990 điều chủnh 3 lần : tháng 2 và 9-1990.
- Năm 1991 điều chỉnh 3 lần 1, 5, và tháng 10-1991.
- Năm 1992 điều chỉnh lương trong khu vực sản xuất kinh doanh vào quý
I-1993.
Qua 21 lần điều chỉnh thì mức lương của các cán bộ công nhân viên như
sau :
- Đối với các doanh nghiệp : tỷ lệ trượt giá dựa vào thông số tiền lương là
370% tiền lương và phụ cấp theo quyết định 102/HĐBT, tính ra mức lương bình
quân là 190.000đ-200.000đ/tháng, mức lương tối thiểu là 105.750đ/tháng.
Đối với khu vực hưởng lương từ ngân sách : tổng trợ cấp trượt giá là
125% tiền lương chính theo nghị định 203/HĐBT và các khoản bù như sau :
Mức lương tối
thiểu
Bình quân Mức lương
tối đa ( Bộ
trưởng )
Lương chính theo nghị
định 203/HĐBT
Trợ cấp trượt giá
Phụ cấp
Các khoản bù giá :
+ Bù điện
+ Bảo hiểm y tế
+ Tiền học
+ Tiền nhà ở
22.500đ
28.125
12.270
2.250

3.375
9.000
32.300
40.375
18.405
3.230
4.845
20.720
78.750
98.440
22.500
( phục vụ
40.900
7.875
11.810
93.000
22
Cộng 77.520 119.875 353.275

Về cơ chế của chính sách tiền lương : Tiền lương đối với các đơn vị sản
xuất kinh doanh chỉ còn là thông số để tính toán, nhà nước khống chế lương tối
thiểu, khống chế thu nhập tối đa.
Trong khu vực hành chính sự nghiệp, tiền lương vẫn thực hiện theo nghị định
235/HĐBT, sau này là các quyết định 202,203/HĐBT. Đồng thời, nhà nước cho
phép tất cả các đơn vị thuộc lĩnh vực này được tổ chức các hoạt động dịch vụ đời
sống để tăng thêm thu nhập.
Đối với các cơ quan nghiên cứu khoa học ngoài phần ngân sách được nhà nước
cấp, được trực tiếp ký hợp đồng với các cơ quan đơn vị có nhu cầu để tăng thêm
thu nhập.
Trong các đơn vị sản xuất kinh doanh đồng thời tồn tại song song hai kiểu hạch

toán : tổng doanh thu trừ tổng chi phí và đơn giá tiền lương trên đơn vị sản phẩm.
Kiểu hạch toán này dẫn đến lãi thì xí nghiệp hưởng, còn lỗ thì nhà nước chịu.
Chính sách tiền lương theo nghị định 235/HĐBT chỉ giữa được một thời
gian ngắn, sau đó tiền lương thực tế bắt đầu giảm mạnh và giảm liên tục. Trên
thực tế diễn ra tình trạng tốc độ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá.
So sánh các năm với năm 1985 ta thấy ( lấy năm 1985=100%) :
23
Năm Chỉ số lương danh
nghĩa
Chỉ số vật giá Chỉ số lương
thực tế
1986
1987
1988
1989
1,5
3,1
13,16
102,27
5,872
24,42
100,51
176,90
0,255
0,127
0,131
0,478
Theo số liệu của tổng cục thống kê 1/1989 thì : chỉ số giá thị trường xã hội
tăng 39,6%, lương thực tế tính chung cả nước còn 71,6%. Miền Bắc còn 70%,
miền Nam còn 73%. Nếu tính theo giá gạo ở thời điểm đó thì niềm Bắc chỉ còn

65%.
Tình hình biến động của giá ảnh hưởng đến tiền lương, làm cho đời sống
của nhân dân ngày càng sa sút, gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Cụ thể như
sau :
* Mặc dù nhà nước trung ương đã có các biện pháp che chắn, kiểm soát
liên tục, nhưng ở các địa phương đã có nơi tự ý định lại mức lương tối thiểu.
* Tại các đơn vị sản xuất kinh doanh do được quyền tự chủ về sản xuất
kinh tế và những sơ hở trong cơ chế quản lý đang trong thời buổi giao thời, đều
tìm mọi cách tăng thu nhập cho mình. Có những xí nghiệp mặc dù đang trong tình
trạng thua lỗ nhưng thu nhập của họ vẫn cao. Còn đối với những xí nghiệp làm ăn
thực sự có lãi, mà thu nhập của họ gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh thì họ
thu nhập của họ lại quá cao mà không có sự quản lý điều tiết.
* Trong những đơn vị hành chính sự nghiệp : do được phép mở các hoạt
động dịch vụ để tăng thu nhập, nên đã tạo ra sự chênh lệch thu nhập rất lớn, mà
phần lớn thu nhập đó không do tài năng kinh doanh của họ mà có.
* Ở ngoài xã hội trong khi mức lương tối thiểu do nhà nước quy định là
22.500đ/tháng, thì ngoài xã hội tiền công lao động bình thường là 3.000-
5.000đ/công, lương kỹ thuật là 15.000-20.000đ/công. Trong khi nhà nước quy
định tiền lương tối đa bằng 3,5 lần tiền lương tối thiểu thì ngoài xã hội là 7-8 lần.
Đặc biệt ở khu vực này tiền công đã được tiền tệ hoá hoàn toàn và đã tính đến
quan hệ cung cầu về lao động. Tình trạng trên đã dẫn đến có rất nhiều cán bộ công
nhân nhà nước bỏ các xí nghiệp quốc doanh đe kinh doanh tự do.
Từ tình hình trên ta thấy :
- Trong thời gian qua, vấn đề tiền lương ở nước ta chưa phù hợp với nền
kinh tế thị trường.
- Tiền lương còn chưa thực sự là giá cả của sức lao động, chưa đảm bảo tái
sản xuất sức lao động và chưa thành nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động.
- Tiền lương mang tính chất bình quân và còn có tính chất bao cấp.
- Chưa có sự thống nhất giữa chính sách xã hội và chính sách tiền lương
tạo ra những mâu thuẫn gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội.

- Nhà nước chưa hoàn toàn làm chủ trong việc kiểm soát và quản lý tiền
lương và thu nhập của người lao động.
Nguyên nhân là :
24
* Lương tối thiểu được tính toán dựa trên yêu cầu đảm bảo tái sản xuất sức
lao đọng mà chưa tính đến sự biến động của nó trong quá trình thực hiện.
* Lương tối thiểu không có sự đảm bảo của luật pháp.
* Tiền lương không phản ánh được quan hệ thu nhập chung trong toàn xã
hội.
* Nhà nước cho phép các đơn vị sản xuất kinh doanh được phép tính
lương theo kết quả sản xuất kinh doanh, nhưng nhà nước không khống chế được
thu nhập tối đa trong khi chưa có công cụ kiểm soát và điều tiết, chưa có luật
chống độc quyền.
* Chưa phân biệt rõ quyền tự chủ của xí nghiệp và kiểm soát , điều tiết của
nhà nước về mặt thu nhập.
* Chưa chỉ ra được nguồn gốc của tiền lương và sự phân chia của nó.
* Việc chỉ đạo thực hiện các chính sách điều chỉnh tiền lương không được
đồng bộ và không thống nhất. Làm cho xã hội có tình trạng hỗn loạn trong tiền
lương, xuất hiện những chênh lệch qua đáng, bất công.
25

×