Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học kinh tế quốc dân
----------------------------------------------------------
Đề án kinh tế chính trị
Đề tài: Quan hệ phân phối ở nớc ta hiện nay Thực trạng và
giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nớc ta
trong thời gian tới.
Giáo viên hớng dẫn: TS. Trần Việt Tiến
Sinhviên thực hiện: Đặng Hồng Minh
Lớp: Quản trị Nhân lực A
Khoá: 44
Năm học: 2003-2004
Hà Nội 2-2004
1
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trờng phân phối thu nhập giữ một vai trò hễt sức quan trọng.
Nó là một khâu không thể thiếu đợc của quá trình tái sản xuất. Phân phối thu nhập nối
liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trờng hàng hoá tiêu dùng
và dịch vụ với thị trờng các yếu tố sản xuất làm cho sự vận động của cơ chế thị trờng
diễn ra thông suốt.
Một xã hội muốn ổn định và phát triển thì cần đảm bảo đợc những lợi ích của cá
nhân trong xã hội, trong đó phân phối đảm nhận vai trò phân chia lợ ích cho từng cá
nhân. Giải quyết vấn đề phân phối thu nhập có ý nghĩa to lớn đối với sự ổn định, tăng tr-
ởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.Thực tiễn ở Việt Nam đã chỉ rõ, trong quá
trình đi tới ổn định và tăng trởng nền kinh tế, trớc hết chúng ta phải cải cách lu thông,
phân phối. Nhờ tháo gỡ những ách tắc trong lĩnh vực này mà nền kinh tế nớ ta đã và
đang dần thoát khỏi tìng trạng khủng hoảng, lạm phát từng bớc có sự tăng trởng phát
triển.Tuy nhiên khi chuyển sang cơ chế thị trờng định hớng XHCN thì hàng loạt các vấn
đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập nh tiền lơng, lợi nhuận, lợi tức ... đã nảy sinh, đòi
hỏi phải có những cải cách thờng xuyên, liên tục để phù hợp với những nguyên lý kinh
tế kinh tế thị trờng cũng nh những đòi hỏi cấp thiết của xã hội đang đặt ra. Vì vậy việc
nghiên cứu quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trờng và vận dụng vào Việt Nam là
hết sức cấp thiết, cấp bách và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Hơn thế nữa, trong chặng đờng đầu của thời kỳ quá độ ở nớc ta, do nền kinh tế có
nhiều thành phần kinh tế vận động trong cơ chế thị trờng nên cũng có nhiều lợi ích kinh
tế khác nhau và tất yếu cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế. Việc phát
hiện và giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế đợc thực hiện qua phân phối. Do đó
việc nghiên cứu quan hệ phân phối đợc xem là chìa khoá để tháo gỡ cho các vấn đề liên
quan đến việc phân chia các lợi ích trong xã hội.
Xuất phát từ những yêu cầu mang tính cấp bách đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải nhận
thức rõ vai trò và tầm quan trọng của phân phối trong xã hội. Bài luận này với mục đích
nghiên cứu quan hệ phân phối ở Việt Nam trong những năm vừa qua từ đó đa ra một số
kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ ở nớc ta ta thời gian tới, đã thể hiện rõ
quan điểm của cá nhân em trong quá trình nghiên cứu quan hệ phân phối. Hy vọng rằng
nó sẽ góp phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện quan hệ phân phối ở nớc ta nhằm đạt đ-
ợc mục tiêu
Tăng trởng kinh tế phải gắn với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay
trong từng bớc phát triển
,,
.
(1)
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Việt Tiến đã tận tình chỉ bảo để em
hoàn thành đề án này. Hy vọng rằng những kiến thức này sẽ có ích cho cho đất nớc
trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
------------------------------------------
(1): Báo cáo chính trị của BCH.TW giữa nhiệm kỳ khoá VII
2
Chơng 1
Lý luận về quan hệ phân phối và các hình thức
phân phối ở nớc ta hiện nay.
1.1 Tính tất yếu và bản chất của quan hệ phân phối.
1.1.1 Tính tất yếu của việc nghiên cứu quan hệ phân phối.
Qua quá trình phát triển của lịch sử đã chỉ ra rằng: phát triển sản xuất là cách
thức duy nhất để tạo nên sự phồn thịnh bền vững của mỗi quốc gia, trong đó quá trình
tái sản xuất đợc xem là trung tâm của mọi hoạt động. Quá trình tái sản xuất xã hội theo
nghĩa rộng bao gồm bốn khâu: Sản xuất,phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Các khâu này
có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó sản xuất đóng vai trò quyết định, các khâu khác
phụ thuộc vào sản xuất và cũng có tác động ngợc trở lại với quá trình sản xuất, đồng
thời cũng có tác động qua lại với nhau. Trong guồng máy đó phân phối là một khâu
không thể thiếu đợc, nó nối liền sản xuất với tiêu dùng, nó phục vụ và thúc đẩy sản xuất,
phục vụ tiêu dùng. Hơn thế nữa quan hệ phân phối còn là một mặt của quan hệ sản xuất,
nó phản ánh mối quan hệ lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. Sản xuất
tạo ra những vật phẩm thích hợp với nhu cầu, phân phối chia các sản phẩm (đợc quy ra
giá trị) đó theo những quy luật xã hội, nối tiếp đó là quá trình trao đổi, phân phối các
sản phẩm đẫ đợc phân phối theo những nhu cầu cá biệt. Quá trình đợc kết thúc khi sản
phẩm đợc tiêu dùng và lúc đó sản phẩm thoát ra khỏi sự vận động mang tính kế thừa,
trực tiếp trở thành đối tợng phục vụ cho nhu cầu cá biệt và thoả mãn nhu cầu đó trong
quá trình tiêu dùng.
Nh vậy phân phối đợc xem là yếu tố xuất phát từ xã hội còn trao đổi là yếu tố
xuất phát từ cá nhân. Trong sản xuất con ngời đợc khách thể hoá, trong tiêu dùng đò vật
đợc chủ thể hoá,trong phân phối dới hình thái những quy định phổ biến có tác dụng chi
phối thì xã hội đảm nhiệm vai trò trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng.Phân phối xác
định tỷ lệ về lợng sản phẩm dành cho cá nhân. Trao đổi xác định những sản phẩm trong
đó cá nhân đòi hỏi phần phân phối dành cho mình. Mac đã nhận định rằng:
Một nền
sản xuất nhất định quyết định một chế độ tiêu dùng nhất định, một chế độ trao đổi nhất
định cũng ảnh hởng đến phân phối.
,, (1)
Trên thực tế nếu ta chỉ nhận định rằng các khâu
đó chỉ là các bớc kế tiếp của nhau thì cha phản ánh hết đợc bản chất bên trong mang
tính khách quan của quá trình tái sản xuất. Sản xuất chụi ảnh hởng bởi các quy luật của
tự nhiên và phân phối cũng chụi ảnh hởng bởi các quy luật ngẫu nhiên của xã hội, nên
nó có ảnh hởng ít nhiều thuận lợi đến sản xuất. Kế tiếp đó là quá trình trao đổi đợc xem
nh sự vận động xã hội có tính hình thức, còn hành vi cuối cùng là tiêu dùng, không
những đợc coi là điểm kết thúc mà
------------------------------------
(1): C.Mac- Angghen VI tập, tập IV, NXB Sự Thật, Hà Nội 1983 trg 300-301
3
còn là mục đích cuối cùng. Nh vậy phân phối đợc xem là công cụ đảm bảo cho
các quá trình tái sản xuất hoạt động một cách trôi chảy, là động lực cho các thành viên
trong nền kinh tế hoạt động một cách có hiệu quả.
1.1.2 Bản chất của quan hệ phân phối.
Tính chất của quan hệ phân phối do quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất quyết định.
Khi ta xét nó trong mối quan hệ giữa ngời và ngời thì phân phối do quan hệ sản xuất
quyết định. Quan hệ sản xuất nh thế nào thì quan hệ phân phối nh thế đó và trong xã hội
luôn tồn tại mối quan hệ qua lại giữa sản xuất và sản phẩm. Bản thân của hân phối là
sản phẩm của nền sản xuất. Cơ cấu của phân phối hoàn toàn do cơ cấu của sản xuất
quyết định.
Nếu ta chỉ hiểu rằng phân phối đợc biểu hiện là phân phối sản phẩm tiêu dùng
cho cá nhân và các thành viên trong xã hội thì dờng nh phân phối đã cách xa với sản
xuất và tựa hồ nh là độc lập với sản xuất. Nhng trớc khi phân phối là phân phối sản
phẩm thì nó đã xuất hiện ngay trong quá trình sản xuất ( đó là phân phối các nguồn lực
đầu vào, các yếu tố của sản xuất) và đặc biệt nó còn tham gia trực tiếp trong việc phân
phối các thành viên xã hội theo những loại sản xuất khác nhau. Nh vậy phân phối sản
phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối trớc đó, sự phân phối này đã bao hàm trong bản
thân quá trình sản xuất và quyết định trong cơ cấu sản xuất. Xem xét sản xuất độc lập
với phân phối đó thì rõ ràng là mơ hồ bởi thực chất phân phối đã nằm ngay trong quá
trình sản xuất, còn phân phối sản phẩm đợc coi là bề nổi và là biểu hiện quan trọng nhất
của phân phối. Và điều quan trọng, chúng ta phải thấy đợc nó không hoàn toàn tách rời
với sản xuất.
Khi nói về cơ sở kinh tế của sự phân phối ở đây bao hàm ý nghĩa nói đến phân
phối vật phẩm tiêu dùng cho các thành viên trong xã hội. Nhng vì sự phân phối bao giờ
cũng bao hàm cả sự phân phối cho sản xuất đợc xem là yếu tố của sản xuất và phân phối
cho tiêu dùng đợc xem là kết quả của quá trình sản xuất, cho nên không phải toàn bộ
sản phẩm mà xã hội tạo ra đều đực phân phối cho tiêu dùng cá nhân.Trớc hết xã hội cần
phải một phần để:
Bù đắp những t liệu sản xuất đã hao phí.
Mở rộng sản xuất.
Lập quỹ dự phòng.
Các khoản đợc trích trên đợc xem là một điều tất tếu về kinh tế, vì nếu không
khôi phục và mở rộng sản xuất thì không thể đáp ứng đợc nhu cầu ngày càng cao của xã
hội. Phần còn lại của tổng san phẩm xã hội thì để tiêu dùng. Nhng trớc khi tiến hành
phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân, còn phải trích một phần để:
Chi phí về quản lý hành chính và bảo vệ tổ quốc.
Chi cho các chơng trình phúc lợi và cứu tế xã hội.
Cuối cùng phần vật phẩm tiêu dùng còn lại mới đợc trực tiếp phân phối cho tiêu
dùng cá nhân của những ngời làm việc trong nền sản xuất xã hội phù hợp với chất lợng
4
và số lợng của lao động cũng nh số lợng vốn và tài sản mà họ đóng góp cho quá trình
sản xuất.
1.2 Vai trò của quan hệ phân phối
Bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ăngghen cho rằng:
Sự
phân phối chừng nào mà còn bị những lý do thuần tuý kinh tế chi phối, thì nó sẽ đợc
điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, rằng sản xuất sẽ đợc thuận lợi trên hết trong mọi ph-
ơng thức phân phối mà mọi thành viên trong xã hội có thể phát triển, duy trì và thực
hiện những năng khiếu của họ một cách toàn diện nhất.
,, (1)
Ta thấy rằng mỗi một hình thái kinh tế xã hội đều bao gồm cả một hệ thống phức
tạp các lợi ích mà trong đó lợi ích kinh tế đóng vai trò quyết định. Các lợi ích kinh tế đ-
ợc quy định bởi quan hệ sản xuất cua mỗi chế độ xã hội, trong đó quan hệ sở hữu với t
liệu sản xuất có vai trò chi phối hệ thống lợi ích kinh tế.
Bản chất của quan hệ sản xuất trong mối phơng thức sản xuất đợc thể hiện qua
hình thức sở hữu - đó không phải là quan hệ đơn thuần nh mọi sự việc tồn tại trong xã
hội mà nó là mối quan hệ phức tạp giữa con ngời với con ngời. Trong lịch sử không hề
có một hình thái sở hữu nào mà không phản ánh những quan hệ trong sản xuất.
Nơi
nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó không tồn tại một nên sản xuất nào
cả, do đó cũng không một xã hội nào cả.
,, (2)
Sở hữu - đó là những quan hệ về các điều
kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải vật chất.
Sở hữu với t cách là những quan hệ sản xuất, nó là cơ sở của các lợi ích. Hệ thống
các quan hệ sản xuất của mỗi chế độ xã hội sẽ quy định hệ thống các lợi ích vốn có
trong giai đoạn phát triển của nó. Trong hệ thống các lợi ích thì lợi ích kinh tế giữ vai
trò chủ đạo. Lợi ích kinh tế đợc hiểu là những quan hệ kinh tế phản ánh những nhu cầu,
những động cơ khách quan về sự hoạt động của các gia cấp, những nhóm xã hội hoặc
của từng ngời làm viêc riêng biệt do quan hệ sản xuất quyết định. Nói lợi ích kinh tế là
hình thức biểu hiện của những quan hệ kinh tế của mỗi xã hội nhất định nghĩa là lợi ích
kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, nó chỉ xuất hiện khi gia những ngời sản xuất có
những mối quan hệ kinh tế khác nhau. Lợi ích kinh tế vừa mang tính chất khách quan
vừa mang tính chủ quan. Nó mang màu sắc khách quan bởi vì nó luôn tồn tại và vận
động. Thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra mà quan
hệ sản xuất ảnh hởng tới quá trình sản xuất. Còn nó mang màu sắc chủ quan là ở chỗ nó
biến các tác động khách quan của các quy luật kinh tế thành các động cơ hành đọng
kinh tế cử con ngời.
Lợi ích kinh tế có vai trò quan trọng là động lực mạnh mẽ đối với sự phát triển
của xã hội. Những hình thức chủ yếu của lợi ích kinh tế trong hệ thống này luôn đợc đặc
trng bằng tính đại diện và tính thống nhất giữa ba nhóm lợi ích cơ bản.
----------------------------------------
(1): F.Angghen:
chống Đuy- rinh
,,
NXB Sự Thật, Hà Nội 1960 tr 336
5
Đó là lợi ích nhà nớc, lợi ích tập thể lợi ích và lợi ích của bản thân ngời lao động. Sự
thống nhất giữa các hình thức lợi ích kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ dẫn đến sự liên
hệ chặt chẽ và thâm nhập nhau giữa chúng. Trong đó lợi ích cá nhân trực tiếp là động
lực mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển của xã hội.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đã nói lên sự không
đồng nhất về lợi ích kinh tế xã hội. Tuy nhiên đây là một xu thế tất yếu bởi điểm xuất
phát đi lên là thấp trong khi đó yêu cầu hội nhập quốc tế là cách duy nhất để thực hiện
mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tơng ứng với quá trình đó, trong nền kinh tế sẽ
có nhiều quy luật vận động. Các quy luật kinh tế phát sinh trên cơ sở những quan hệ
kinh tếa tơng ứng và cũng trực tiếp quy định sự hình thành các lợi ích kinh tế của từng
giai cấp từng tầng lớp dân c trong xã hội. Tuy nhiên bên cạnh sự thống nhất giữa các lợi
ích kinh tế cơ bản, không loại trừ những mâu thuẫn giữa chúng cũng nh trong phạm vi
mỗi nhóm lợi ích. Vì vậy cần phải phát hiện kịp thời các mâu thuẫn giữa các lợi ích và
tìm cách giải quyết các mâu thuẫn đó.
Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế đợc thực hiện thông qua quan hệ
phân phối. Khi phơng thức sản xuất còn phù hợp (lợi ích của giai cấp thống trị còn phù
hợp với lợi ích của xã hội) thì ngời ta còn bằng lòng với sự phân phối của xã hội. Nhng
khi nó thoái trào thì không còn điều kiện để tồn tại phân phối bởi phân phối khi đó đã
không còn là công cụ đẩm bảo cho sự công bằng xã hội, bất công ngày càng sâu sắc đẫn
đến đấu tranh xã hội và cuối cùng là một phơng thức sản xuất mới ra đời. Nh vây quan
hệ phân phối mang tính lịch sử và thớc đo mức độ tiến bộ của một hình thái xã hội. Nó
chỉ có thể thay đổi khi quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối đó mất đi - đó là thông
qua cách mạng xã hội.Bởi trong mỗi hình thái kinh tế thì quan hệ phân phối giải quyết
những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế và đến khi nào nó không thể giải quyết đợc nữa thì
tất yếu sẽ bị thay thế bằng hình thức phân phối khác cho phù hợp.
1.3 Các hình thức phân phối ở nớc ta hiện nay.
Nền kinh tế Việt Nam từ sau đại hội VI của Đảng đã chuyển sang cơ chế thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong một nền kinh tế còn cha ổn định và xuất hiện
nhiều vấn đề KT-XH đòi hỏi phải đợc lý giải sáng tỏ cả về lý luận và thực tế. Một trong
những vấn đề quan trọng hiện nay là xác định các nguyên tắc phân ophois để làm sao
vừa đảm bảo công bằng xã hội vừa tạo đợc động thúc đẩy các thành phần kinh tế phát
triển vững bớc đi lên CNXH. Từng bớc thực hiện mục tiêu
Lợi ích của mỗi ngời, của
toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
,, (1)
Trong nền kinh tế ở nớc ta hiện nay tồn tại ba nguyên tắc phân phối cơ bản:
Phân phối theo lao động, phân phối theo tài sản hay vốn và những đống góp khác phân
--------------------------------------
(1): Văn kiện đại hội VII Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Sự Thật, Hà Nội 1991, tr 8
phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội.Trong đó lấy phân phối
kết quả lao động và hiệu qủa kinh tế là chủ yếu.
6
1.3.1 Phân phối theo lao động Một quy tắc phân phối của CNXH.
1.3.1.1 Thực chất của phân phối theo lao động.
Theo Mac trong nguyên tắc của phân phối theo lao động thì
Mỗi ngời sản xuất
sẽ nhận đợc trở lại, một số lợng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lợng lao động
mà anh ta đã cung cấp cho xã hội, sau khi đã khấu trừ lao động của anh ta cho các quỹ
xã hội.
,,(1)
Mac coi đây là nguyên tắc phân phối cơ bản trong CNXH. Vì nó là thành quả
của lao động, tác động trực tiếp vào tính tích cực của lao động xã hội. Đó là nguyên tắc
phân phối đảm bảo công bằng cho những ngời sản xuất ngang nhau, tham gia vào quỹ
tiêu dùng xã hội khi làm công việc ngang nhau.
Trong giai đoạn ngày nay phân phối theo lao động phải đợc dựa trên kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế. Việc đánh giá thông qua hai tiêu chí này không những phản
ánh đợc đầy đủ mặt lợng của lao động mà còn phản ánh đợc mặt chất ẩn sâu trong phạm
trù lao động đóng góp thực sự là bao nhiêu?. Chính vì việc phản ánh đúng và đầy đủ
nên phân phối theo lao động đợc coi là hình thức phân phối chủ yếu ở nớc ta hiện nay.
Nó không chỉ đảm bảo công bằng mà còn tạo động lực cho ngời lao động làm việc hăng
say, không ngừng nâng cao kiến thức, trình độ tay nghề.
1.3.1.2 Tính tất yếu của việc phân phối theo lao động.
Trong thời kỳ quá độ ở nớc ta hiện nay thì phân phối theo lao động là hình thức
thức căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế
dựa trên chế độ sở hữu công hữu về t liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này tất cả
mọi ngời dều có quyền bình đẳng đối với t liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện phân
phối giữa những ngời lao động với nhau thông qua việc láy lao động làm thớc đo. Đối
với các thành phần kinh tế thì việc phân phối theo lao động là một điều tất yếu. Bởi
nhiều nguyên nhân:
Nhờ dựa trên chế độ công hữu mà chế độ ngời bóc lột ngời bị xoá bỏ. Quyền
làm chủ về mặt kinh tế đợc xác lập. Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị xã
hội và phúc lợi vật chất của mỗi ngời.Chính vì vậy mà phân phối theo lao động và phù
hợp với các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nớc ta hiện nay.
Lý do thứ hai khiến phân phối theo lao động là cần thiết là: trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất còn thấp, cha có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Tiếp đó
là sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động .... Dẫn đến mỗi ngời có cống hiến khác
nhau đến kết quả lao động do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội để
phân phối.
Thêm một nguyên nhân nữa cho thấy sự cần thiết phải phân phối theo lao động
---------------------------------------
(1): Mac-Angghen VI tập, tập IV, NXB Sự Thật, Hà Nội 1983, trg 474-479
là lao động cha trở thành nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phơng tiện để kiếm sống,
còn là
nghĩa vụ
,,
và quyền lợi của mỗi công dân. Hơn nữa còn những tàn d về t tởng của
7
xã hội cũ nh thái độ
muốn trút bỏ gánh nặng cho ngời khác, làm ít hởng nhiều
,,
. Do đó
cần phải có hình thức phân phối để các thành viên trong xã hội dựa vào đó là cơ sở,
động lực trong các hoạt động của mình.
Nh vậy việc phân phối theo lao động là một điều tất yếu và phù hợp với hoàn
cảnh của đất nớc ta hiện nay, phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất trong
giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1.3.1.3 Nguyên tắc thực hiện phân phối theo lao động.
Nguyên tắc thực hiện phân phối theo lao động là phải lấy kết quả lao động làm
thớc đo để phân phối sản phẩm tiêu dùng cá nhân. Lấy số lợng lao động và chất lợng lao
động của mỗi ngời làm căn cứ trả công. Tuy nhiên nguyên tắc này phải gắn liền với yêu
cầu đảm bảo công ăn việc làm cho những ngời có năng lực lao động, và tất yếu không
thể nằm ngoài yêu cầu đảm bảo những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất tinh thần của
ngời lao động.
Trong quá trình phân phối theo lao động cần chống hai sai lầm cơ bản khi thực
hiện, đó là chủ nghĩa bình quân tiểu t sản trong việc trả công lao động, vì nó gạt bỏ hoàn
toàn nuyên tắc lợi ích vật chất, kìm hãm động lực lao động của ngời lao động. Thứ hai
là khuynh hớng đòi mở rộng quá mức khoảng cách giữa các bậc lơng, thang lơng một
cách không có căn cứ kinh tế và những đòi hỏi có sự u đãi đặc biệt đối với một số ngời.
Thực hiện tốt phân phối theo lao động sẽ có nhiều tác dụng to lớn đối với xã hội
và bản thân ngời lao động. Bởi lẽ nó đáp ứng đợc những đòi hỏi cấp bách của sự công
bằng xã hội đang đặt ra ở nớc ta, nó kết hợp chặt chẽ lợi ích của sản xuất xã hội với
lợi ích của từng cá nhân lao động. Nó khuyến khích ngời lao động đi sâu vào nghề
nghiệp chuyên môn làm cho đội ngũ lao động lành nghề ngày càng đông đảo. Điều đó
còn thúc đẩy ngời lao động ra sức học tập văn hoá kỹ thuật, góp phần làm cho sự khác
biệt giữa lao động trí óc và lao động bằng chân tay bị xoá bỏ dần. Tạo điều kiện cho
việc phân bổ và sử dụng nguồn sức lao động đợc ổn định trong cả nớc đảm cho sản xuất
xã hội cân bằng và có kế hoạch. Thêm vào đó nó góp phần giáo dục về quan điểm, thái
độ và kỷ luật lao động đối với mỗi thành viên xã hội. Nó làm cho bản thân ngời lao
động vì lợi ích vật chất của mình mà quan tâm đến kết quả lao động của mình , từ đó ra
sức mà đẩy mạnh sản xuất.
Tuy nhiên để thực hiện đợc mục tiêu
làm theo năng lực hởng theo nhu cầu
,,
thì
còn nhiều việc phải làm. Bởi theo Mac phân phối theo lao động vẫn là một thứ pháp
quyền t sản, quyền bình đẳng vẫn nằm trong khuôn khổ t sản, tức là trong xã hội sản
xuất hàng hoá đợc thực hiện theo nguyên tắc trao đổi ngang giá và quyền của ngời lao
động tỷ lệ với lao động ngời ấy cung cấp thì điều đó vẫn còn thiếu xót. Bởi vởi với một
công việc ngang nhau một phần tham dự nh vào quỹ tiêu dùng xã hội nhng trên thực tế
ngời này vẫn đợc hởng nhiều hơn ngời kia.
Chế độ phân phối theo lao động vẫn còn những thiếu xót nhng đó là những thiếu
xót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa công sản. Nếu nh trong xã
8
hội t bản phân phối dựa trên cơ sở
ngời có của, kẻ có công
,,
thì trong xã hội XHCN đợc
dựa trên nguyên tắc
ngời làm nhiều hởng nhiều, ngời làm ít hởng ít, không làm kong
hởng
,,
đó là bình đẳng. Mặc dù còn tồn tại thiếu xót nhng với tác dụng của mình thì
phân phối theo lao động vẫn là hình thức phân phối phù hợp nhất trong điều kiện vừa
thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá vừa đảm bảo công bằng cho các thành viên
trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
1.3.2 Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác
1.3.2.1 Tính tất yếu của việc phân phối theo vốn và những đóng góp khác.
Một thực trạng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nớc ta đó là nhu cầu về vốn là
rất lớn nó đợc xem là một yếu tố không thể thiếu nếu muốn thực hiện thành công quá
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, nên tất
yếu có nhiều hình thức sở hữu về t liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều hình thức
kinh doanh khác nhau.
Với nhu cầu vốn lớn nh vậy nhng nền kinh tế lại xuất phát từ một nền sản xuất
nhỏ có đặc điểm nổi bật đó là tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn , quá trình sản xuất ,
tích tụ và tập trung vốn cha cao, một phần tơng đối lớn vốn sản xuất hiịen nay vẫn còn
nằm rải rác, phân tán trong tay những ngời lao động t hữu nhỏ, t sản nhỏ dới nhiều dạng
hình thức khác nhau. để có thể sử dụng đợc nguồn vốn đó cho sản xuất xã hội chúng ta
không thể áp đặt các chính sách nh trng thu, trng mua hay đóng góp cổ phần một cách
bình quân. Vì tất cả cách biện pháp đó đều là suy yếu lực lợng sản xuất vốn có của xã
hội. Biện pháp đợc xem là hiệu quả nhất đó là phải có chính sách khuyến khích cho ngời
sở hữu tài sản đầu t vào việc phát triển sản xuất, từ đó không chỉ tạo lợi nhuận cho chính
bản thân họ mà còn phát triển đợc nền sản xuất, giải quyết đợc nhu cầu việc làm đang
trở nên ngày càng cấp thiết.
1.3.2.2 Quá trình thực hiện phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp
khác.
Từ sau nghị quyết Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ơng (khoá VI) ở nớc
ta đã xuất hiện các biện pháp huy đọng vốn nh một số đơn vị kinh tế quốc doanh và tập
thể đã huy động vốn của dân c dới các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp vốn cổ phần
không hạn chế với mức lãi hợp lý.... Cách làm nh vậy đã có tác dụng đa đợc vốn nhàn
rỗi vào vòng chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nắm quyền sử
dụng một nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Nh vậy, mặc dù sở hữu vốn là t
nhân, nhng việc sử dụng vốn đã mang tính xã hội.
Trớc nhu cầu vốn nh hiện nay cần tạo đủ điều kiện pháp lý để các thành phần
kinh tế , t nhân cá thể và tất cả các thành viên trong xã hội yên tâm mạnh dạn đầu t vốn
vào sản xuất kinh doanh để nguồn vốn không chỉ tạo ra cơ hội sinh lợi cho các thành
viên tham gia đầu t mà còn tạo ra những lợi ích kinh tế xã hội to lớn.
Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Cần sửa đổi bổ sung và công bố rộng rãi các
chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế. Những quy định có tính chất
9
nguyên tắc phải trở thành pháp luật để mọi thành viên xã hội yên tâm đầu t vốn vaò sản
xuất kinh doanh. Với quan điểm đổi mới đó, cần phải xem xét phân phối kết quả sản
xuất kinh doanh theo vốn và tài sản của mỗi cá nhân đóng góp vào quá trình sản xuất xã
hội dới hình thức
lợi tức
,,
và
lợi nhuận
,,
, là một hình thức phân phối hợp pháp và phải
đợc bảo hộ của pháp luật đối với những thu nhập hợp pháp đó .
1.3.3 Phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi x hội.ã
1.3.3.1 Tính tất yếu của việc phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ
phúc lợi xã hội.
Nếu nh phân phối theo lao động và phân phối theo vốn hay tài sản và những
đóng góp khác đợc xem là tất yếu, là biện pháp thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển
và tạo lập đợc sự công bằng giữa mọi thành viên trong xã hội. Tuy nhiên với bản chất
nhân đạo từ ngàn đời:
thơng ngời nh thể thơng thân
,,
thì việc chỉ thực hiện các hình
thức phân phối trên thì cha phản ánh đợc hết những gì u việt của chủ nghĩa xã hội đem
lại. Song trong hoàn cảnh đất nớc còn nhiều khó khăn, sản phẩm sản xuất ra cha thể đáp
ứng hết mọi nhu cầu thì việc phân phối cho những ngời vì lẽ này hay lẽ khác không thể
tham gia vào lao động đợc trả công của xã hội là một điều tất yếu.
Với bản chất của chế độ XHCN và mục tiêu đảm bảo cho các thành viên trong
xã hội có điều kiện phát triển, cùng với đó là xu hớng toàn cầu vì một thế giới tốt đẹp
hơn thì việc phân phối ngoài thù lao lao động đang ngày càng đợc chú trọng quan tâm
hơn, không chỉ vì để ổn định chính trị mà con vì đạo lý tốt đẹp từ ngàn đời xa.
1.3.3.2 Yêu cầu và tác dụng của việc phân phối ngoài thù lao lao động thông qua
các quỹ phúc lợi xã hội.
Muốn thực hiện có hiệu quả trớc tiên phải đảm bảo những nhu cầu thiết yếu về
vật chất cho các thành viên trong xã hội. Mặt khác, ngay mức sống của cán bộ công
nhân viên chức nhà nớc và những ngời làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng
không chỉ dựa vào tiền công cá nhân mà còn dựa vào một phần các quỹ phúc lợi công
cộng của nhà nớc, của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác.
Việc phân phối ngoài thù lao động sẽ ngày càng đợc chú trọng hơn khi nền
kinh tế phát triển. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế nớc ta hiện nay thì việc phân phối
này cha phải là phân phối theo nhu cầu nh trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản
mà C.Mac đã dự đoán. Đây là một hình thức phân phối quá độ, nó phù hợp với xu hớng
phát triển của xã hội. Hình thức phân phối này là sự bổ sung cần thiết và quan trọng đối
với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp nhất với việc thoả mãn những nhu
cầu công cộng của xã hội. Nó có lợi trớc hết cho những gia đình có thù lao lao động t-
ơng đối thấp. Nó chẵng những bảo đảm cho các thành viên xã hội có mức sống bình th-
ờng tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển
toàn diện của mọi thành viên xã hội.
Bằng những tác dụng to lớn của hình thức phân phối này nó khẳng điịnh việc
xây dựng các quỹ phúc lợi xã hội là việc làm cần thiết và ngày càng có ý nghĩa to lớn.
10