Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong quốc âm thi tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.74 KB, 59 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài Trang 1
II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2
III. Mục đích nghiên cứu 4
IV. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 4
V. Đóng góp của đề tài 4
VI. Phương pháp nghiên cứu 5
VII. Cấu trúc khoá luận 5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT VÀ THỂ THƠ THẤT
NGÔN XEN LỤC NGÔN
I. Khái quát về thơ Nôm đường lu
ật 7
II. Những điều kiện cho sự hình thành và phát triển của thơ Nôm
Đường luật 8
1. Điều kiện văn học 8
1.1. Về ngôn ngữ 8
1.2. Về thể loại 10
2. Điều kiện ngoài văn học 10
2.1. Điều kiện lịch sử xã hội 10
2.2. Điều kiện văn hoá, tư tưởng 11
III. Khái quát quá trình phát triển c
ủa thơ Nôm Đường luật trong lịch
sử văn học Việt Nam 12
1. Giai đoạn hình thành 12
2. Giai đoạn phát triển 13
3. Giai đoạn cuối 14
IV. Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn 15
CHƯƠNG II. THỂ THƠ THẤT NGÔN XEN LỤC NGÔN
TRONG QUỐC ÂM THI TẬP.


I. Nguyễn Trãi – thân thế và sự nghiệp 17
1. Thân thế 17
2. Cuộc đời 18
3. Sự nghiệ
p 20
II. Khái quát về tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi 22
1. Cấu trúc 22
2. Nội dung tập thơ Quốc âm thi tập 23
2.1. Lòng yêu thiên nhiên 23
2.2. Tấm lòng ưu dân, ái quốc sâu nặng 24
2.3. Ca tụng cuộc sống trong sạch, thanh bần 24
2.4. Băn khoăn nền đạo đức luân lí 25
3. Nghệ thuật 25
3.1. Ngôn ngữ 25
3.2. Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn 25
III. Khảo sát chung về câu lục ngôn trong Quốc âm thi tập 26
1. Số lượng 26
2. Vị trí 27
3. Nhịp 29
IV. Cách xây dựng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn 31
1. Cách xây dựng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn 31
1.1. Giảm một chữ từ câu thất ngôn 32
1.2. Xử lí hiện tượng thất niêm từ việc sử dụng câu thất
ngôn xen lục ngôn 38
1.3. Cách gieo vần 40.
1.4. Cách ngắt nhịp 43
2. Hiệu quả của việc s
ử dụng câu lục ngôn trong thể thất ngôn
xen lục ngôn 46
PHẦN KẾT LUẬN 53



Lời cảm ơn
^Ö]

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học An
Giang, Hội đồng Khoa học và đào tạo, các thầy cô trong tổ bộ môn
Ngữ văn, thư viện Trường Đại học An Giang đã tạo mọi điều kiện
giúp tôi hoàn thành khoá luận này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Trần
Tùng Chinh. Thầy đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt thời
gian nghiên cứ
u để hoàn thành khoá luận.
Đây là lần đầu tôi có cơ hội tiếp cận với công việc nghiên cứu.
Một công việc đòi hỏi phải có nhiều thời gian, kiến thức và sự nỗ lực
của bản thân. Do sự hạn chế về mặt thời gian nên tôi còn nhiều lúng
túng và thiếu sót. Nhưng được sự khích lệ, động viên, giúp đỡ tận tình
của các thầy cô, gia đình và bạn bè, tôi đã có thêm nghị lực
để tiếp tục
nghiên cứu hoàn thành khoá luận.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn !
Long Xuyên, tháng 5, năm 2008
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Giang
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 1

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Văn học Trung đại Việt Nam là một bước chuyển mình mạnh mẽ trong

toàn bộ tiến trình phát triển của nền văn học nước nhà. Tiếp theo những thành
tựu xuất sắc của nền văn học dân gian, bước sang văn học Trung đại, nền văn
học viết chính thức ra đời đánh dấu sự trưởng thành về mặt ý thức của dân tộc.
Nhìn lạ
i lịch sử thời kì trung đại, chúng ta thật tự hào về thế hệ cha anh
với những chiến công rực rỡ gắn liền với tên tuổi của những anh hùng cứu
quốc. Trong số đó thì Lí Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,
Quang Trung vv là những người xuất sắc hơn cả. Gắn liền với tên tuổi của
họ không chỉ có những chiến công mà còn có cả những tác ph
ẩm văn học làm
rạng danh đất nước đến muôn đời.
Đối với Lí Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi… chúng ta chỉ biết sự
nghiệp của họ qua những thông tin, sự kiện chính được sử sách ghi chép lại. Lí
Thường Kiệt với bài thơ thần “ Nam quốc sơn hà” đã làm nên một huyền thoại
về chiến thắng trên sông Như Nguyệt. “Dụ chư tì tướng hịch vă
n” của Trần
Hưng Đạo đã kịp thời trấn an lòng binh sĩ, khơi gợi trong họ lòng yêu quê
hương đất nước gắn liền với quyền lợi thiết thực của mỗi người. Lê Lợi thì chỉ
còn vài bài thơ viết trên vách đá và bài tựa trong quyển “Lam sơn thực lục”
của Nguyễn Trãi. Quang Trung chỉ còn một tờ chiếu viết bằng chữ Nôm cho
Nguyễn Thiếp vv
Duy chỉ có Nguy
ễn Trãi – một vị anh hùng cứu quốc, không những để
lại tên tuổi trong sử sách mà còn để lại cả một sự nghiệp văn chương đồ sộ.
Đọc các tác phẩm như Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, Lam
Sơn thực lục, Dư địa chí, Quốc âm thi tập…, chúng ta thấy Nguyễn Trãi xuất
hiện là một nhà văn hóa xuất sắc trên các tư cách: anh hùng dân tộc, nhà tư
tưởng, nhà chính trị- quan chức, nhà vă
n, nhà ngoại giao, nhà sử học và nhà
địa lí học Dù ở bất cứ phương diện nào, Nguyễn Trãi cũng thể hiện một tư

tưởng chủ đạo “ưu dân, ái quốc”.
Văn chương của Nguyễn Trãi thật đặc biệt. Đó là “thứ văn chương có
đủ sức để sửa sang việc đời” như Ngô Thế Vinh đã nói. Cuộc đời cầm bút của
ông phần lớn dành cho mục đ
ích chính trị. Điều này được thể hiện qua các tác
phẩm bằng chữ Hán nhưng lại chứa chan tình cảm của người Việt Nam với
đầy đủ phẩm chất đáng quý. Nguyễn Trãi chỉ có duy nhất tập “Quốc âm thi
tập” viết bằng chữ Nôm. Có thể nói, với tập thơ này, Nguyễn Trãi đã chính
thức khơi nguồn dòng thơ Quốc Âm, mở ra một dòng hướng đi mới trong nề
n
thi ca dân tộc. Hơn thế nữa, Quốc âm thi tập còn có ý nghĩa là một sự phá
cách, cách tân, khắc phục tính quy phạm, mở rộng đề tài sáng tác thi ca. Bằng
ngôn ngữ dân tộc, ông đã khắc họa một cách tinh tế hình ảnh của thế giới tự
nhiên và nội tâm con người.
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 2
Một trong những đóng góp tạo nên giá trị nghệ thuật của tập thơ Quốc
âm thi tập đó chính là thể thơ. Nguyễn Trãi đã đưa một hình thức nghệ thuật
mới, đặt ngang hàng cùng các hình thức nghệ thuật được coi là mẫu mực lúc
bấy giờ. Ông đã có công sáng tạo một thể thơ mới - thể thất ngôn xen lục
ngôn. Đó là sự đan xen giữa câu 6 tiếng và câu 7 tiếng trong cùng m
ột bài thất
ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt. Chính hiện tượng này đã tạo được một
tiếng vang cho thơ ca Quốc âm. Việc sử dụng câu 6 tiếng không những làm
thay đổi cấu trúc thông thường của một bài thơ Đường luật mà còn tác động
trực tiếp tới những tư tưởng, tình cảm mà tác giả gửi gắm.
Trước đây, khi tìm hiểu tác phẩm, chúng ta thường đi từ nội dung đến
hình thứ
c. Song xu hướng mấy năm gần đây thì ngược lại. Việc khai thác, tìm
hiểu cái hay, cái đẹp của một tác phẩm nghệ thuật được triển khai từ chính

hình thức nghệ thuật. Đây là một hướng đi mang lại hiệu quả cao nhất khi tiếp
cận tác phẩm nghệ thuật.
Thể thất ngôn xen lục ngôn là một thể loại mới so với các thể thơ đã có
của dân tộc. Nhữ
ng câu thơ 6 tiếng được nhiều người coi là cái “mã” riêng của
từng bài. Tìm cái “mã” riêng ấy để mở ra thế giới tình cảm bên trong tác phẩm
là một công việc hết sức khó khăn. Điều này càng khó khăn hơn đối với học
sinh khi tiếp cận hệ thống thơ văn cổ.
Do đó, người viết thấy việc tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn
trong Quốc âm thi tập của Nguyễ
n Trãi là một vấn đề hết sức thú vị. Nó đáp
ứng được nhu cầu muốn tìm hiểu sâu sắc thơ Quốc âm, đồng thời cũng mở ra
một cái nhìn tổng quát hơn về thể loại mới mẻ này.
Từ những lí do trên, cùng với sự gợi ý của giáo viên hướng dẫn, người
viết đã chọn đề tài nghiên cứu này.
II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Tìm hiểu hình thức nghệ thuật của một tác phẩm là một vấn đề khá mới
mẻ. Nó mới được chú ý trong mấy chục năm trở lại đây. Quốc âm thi tập ra
đời từ rất sớm song phần lớn các công trình nghiên cứu đều tập trung vào các
khía cạnh nội dung của tập thơ chứ chưa đi sâu nghiên cứu về mặt thể loại
một cách có hệ thống ngoạ
i trừ một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên
ngành. Cụ thể là:
 Bài viết “ Mấy suy nghĩ về thể thơ sáu lời (lục ngôn) xen bảy
lời trong Quốc âm thi tập” của Ngô Văn Phú in trong “Nguyễn Trãi về
tác gia tác phẩm”, nhà xuất bản giáo dục [ Nguyễn Hữu Sơn. 3002. 76-
87]. Ở bài viết này, tác giả đã đề cập đến hai vấn lớn: ngôn ngữ thơ và
từ vựng; sự hình thành th
ể thơ sáu lời. Tác giả đặt vấn đề từ việc tìm về
nguồn gốc của thể thơ sáu lời ở kinh thi và sở từ, từ đó tác giả khẳng

định thể thất ngôn xen lục ngôn là một thể loại mới mà Nguyễn Trãi đã
có công đóng góp cho thể loại thơ này hình thành và tồn tại.Tiếp đến
Ngô Văn Phú còn đề cập các vấn đề về ngôn ngữ, về t
ừ Hán Việt trong
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 3
hai tập thơ Quốc âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập chứ chưa
có cái nhìn tổng quát nhất về thể thơ thất ngôn xen lục ngôn.
 Trong Tạp chí văn học số 4 -1980, sau được in trong “Nguyễn
Trãi về tác gia và tác phẩm”. Ông Phạm Luận có bài viết “Nguyễn Trãi
và thể thơ Việt Nam trong Quốc âm thi tập” [Nguyễn Hữu sơn. 2003.
839-850]. Phạm Luận đã bàn nhiều về các vấn đề
trong thơ Nôm của
Nguyễn Trãi, hiện tượng dùng câu sáu tiếng xen lẫn câu bảy tiếng trong
các bài thơ. Đặc biệt, tác giả đã có công tập hợp số lượng câu sáu và vị
trí của từng câu sáu trong mỗi bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Từ đó, tác
giả đã lí giải hiện tượng thất niêm, một hiện tượng thường thấy trong
Quốc âm thi tập. Cũng trong “Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm”,
ông tiếp tục giớ
i thiệu bài viết “Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi và thi pháp Việt Nam”. Trong đó, ông đã đề cập đến vấn
đề tên gọi của thể loại này bằng cách dẫn ra các ý kiến khác nhau. Bên
cạnh đó, ông cũng đưa ra ý kiến của mình về hiện tượng ngắt nhịp
trong Quốc âm thi tập và giải quyết được câu hỏi “Phải chăng hiện
tượng ngắt nhịp (c
ả câu 7 với nhịp ¾ và câu 6 với nhịp 2/2/2, 2/4 ) tức
nhịp cuối là nhịp chẵn chủ yếu là do tác động của thơ ca dân gian Việt
Nam?”.
 Trong bài viết “ Trở lại vấn đề xác định vị trí của thể thơ thất
ngôn xen lục ngôn trong văn học Việt Nam thời trung đại” [Tạp chí văn

học số 12- 2001. 45-52], Nguyễn Phạm Hùng đã tìm về nguồn gốc của
thể thơ
thất ngôn xen lục ngôn, từ đó ông đưa ra những kết luận nhằm
bác bỏ những quan điểm cho rằng thể thơ này chưa được xem là một
thể loại văn học độc lập.
 Trên Tạp chí văn học số 1- 2002, Nguyễn Hữu Sơn đã tập hợp
những bài viết của các ông Nguyễn Ngọc San, Phạm Luận, Phạm
Phương Thái trong bài “ Vấn đề th
ể thơ thất ngôn xen lục ngôn” nhằm
bác bỏ lại các kết luận trong bài viết của ông Nguyễn Phạm Hùng.
Đây là những bài viết tiêu biểu nhất về việc tìm hiểu thể thơ thất ngôn
xen lục ngôn. Bên cạnh đó, còn có một số ý kiến nhỏ có đề cập đến vấn đề đề
tài đang nghiên cứu của các ông Xuân Diệu, Phạm Văn Đồng, Đặng Thai
Mai
đăng tải trên các công trình nghiên cứu như: Các nhà thơ cổ điển Việt
Nam, Đặng Thai Mai toàn tập
Như vậy, theo những hiểu biết của chúng tôi và những gì chúng tôi sưu
tầm được, thể thơ thất ngôn xen lục ngôn mặc dù đã được một vài tác giả nói
tới trong một số công trình nghiên cứu, tuy nhiên, họ chỉ điểm qua một vài nét
khái quát nhất về thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập, nêu
lên những cảm nhận của riêng mình về thể thơ này, chứ chưa có công trình
nghiên cứu nào xem thể thơ là đối tượng nghiên cứu trực tiếp để đi sâu vào
khám phá và tìm hiểu một cách khoa học, đầy đủ và hệ thống. Vì vậy, đề tài
“Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi” là một đề tài khá mới mẻ, chưa từng có công trình nghiên cứu
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 4
nào tiến hành với cấp độ và quy mô tương tự. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng
thừa nhận đã tiếp nhận không ít những thành tựu nghiên cứu từ các công trình
đi trước để thực hiện đề tài này. Nhưng dù sao, công trình này cũng chỉ là

bước khởi đầu tìm hiểu vấn đề với những hiểu biết và năng lực có hạn của
người nghiên cứu. Do đó, hi vọng thời gian và kinh nghiệm trong tương lai tớ
i
đây của bản thân người nghiên cứu sẽ hứa hẹn cho ra đời những thành tựu
nghiên cứu hoàn chỉnh hơn.
III. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”, người viết hướng vào những mục tiêu
sau:
 Hiểu được bút pháp nghệ thuật mà Nguyễn Trãi sử dụng trong
việc xây dự
ng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn.
 Khám phá tài năng văn chương và tâm hồn, tình cảm của
Nguyễn Trãi trong việc xây dựng câu thơ 6 tiếng, từ đó thấy rõ hơn quá
trình tư duy nghệ thuật và sự sáng tạo của ông.
 Tạo điều kiện thuận lợi trong việc học tập nghiên cứu và
giảng dạy thơ văn Nguyễn Trãi trong nhà trường.
IV. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu
Quốc âm thi tập là một tập thơ đạt được nhiều giá trị về các mặt nội
dung và nghệ thuật. Trong phạm vi đề tài này, người viết chỉ tập trung tìm
hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong 254 bài được tâp hợp trong quyển
Nguyễn Trãi toàn tập (Nhà xuất bản Văn sử địa- 1956)

2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là những bài thơ dùng thể thất
ngôn xen lục ngôn
V. Đóng góp của đề tài
Sáng tác của Nguyễn Trãi được nhiều người đón nhận bởi giá trị
của nó được khẳng định về nhiều mặt. Số lượng tài liệu nghiên cứu về những

tác phẩm của Nguyễn Trãi khá nhiều. Song tài liệu nghiên cứu một cách có hệ
thống thể th
ơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập thì còn khiêm
tốn. Do đó, ở bài nghiên cứu này, người viết mong muốn đóng góp một tiếng
nói riêng trong viêc tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn của Nguyễn Trãi.
Cụ thể:
 Qua việc nghiên cứu đề tài này, bên cạnh cơ hội tiếp cận cái
hay, cái đẹp của văn học trung đại, chúng tôi sẽ khẳng định bằng những
luận cứ khoa học nhữ
ng giá trị đặc sắc của tập thơ Quốc âm thi tập
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 5
của Nguyễn Trãi. Từ đó, giải mã phần nào tư tưởng, tình cảm của ông
thể hiện qua thể thơ độc đáo đã nêu. Làm được điều này, đề tài sẽ cố
gắng đóng góp những luận điểm mới liên quan đến Quốc âm thi tập,
làm rõ hơn vai trò và vị trí của Nguyễn Trãi trong tiến trình phát triển
của nền văn học dân tộc.
 Góp phần vào việ
c xác định phương pháp tiếp cận thơ văn
Nguyễn Trãi, mở ra một hướng đi có thể không mới nhưng đầy thử
thách trong việc tìm hiểu, lí giải những đặc điểm thể loại trong thơ cổ
điển qua một tập thơ cụ thể, của một tác gia cụ thể.
 Phân tích, tìm hiểu những cái hay, cái đẹp trong thể loại thơ
độc đáo này nhằm góp phầ
n phục vụ việc giảng dạy các tác phẩm thơ
Nôm của Nguyễn Trãi trong nhà trường đạt hiệu quả tốt hơn.
VI. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp thống kê
Tập hợp tư liệu và thống kê tần số xuất hiện của câu lục ngôn ở các tiêu
chí: số lượng, vị trí, nhịp… trên cơ sở đó tiến hành phân loại các tư liệu và số

liệu trên.
2. Phương pháp phân tích, tổng hợ
p
Người viết tiến hành phân tích các dẫn chứng cụ thể nhằm làm nổi bật
các luận điểm đưa ra. Sau đó đưa ra những kết luận cần thiết.
3. Phương pháp so sánh
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có so sánh một số vấn đề của đề
tài với các vấn đề có liên quan trong một số tác phẩm của các tác giả khác.
4. Phương pháp hệ thống
Đây là một đề tài nghiên cứu tác phẩm ở góc độ th
ể loại. Mà tác phẩm
văn học là một hệ thống của sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình
thức. Do vậy, việc tìm hiểu thể thơ trong tác phẩm không thể tách rời tính hệ
thống của tác phẩm. Mặt khác, sau khi sử dụng các phương pháp trên để
nghiên cứu vấn đề, chúng tôi rút ra được những kết luận cần thiết về thể thơ
trong Quốc âm thi tậ
p, tuỳ theo từng cấp độ, chúng tôi sẽ xâu chuỗi các kết
luận ấy thành một hệ thống hoàn chỉnh, sao cho vừa đảm bảo tính chặt chẽ,
vừa đảm bảo tính chuẩn xác hợp logic và đầy đủ cho toàn khoá luận.
VII. Cấu trúc của khóa luận
Tên đề tài: Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi.
Cấu trúc của khoá luận gồm ba phần:
- Ph
ần mở đầu.
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 6
- Phần nội dung : Gồm 2 chương:
• Chương I: Thơ Nôm Đường luật và thể thơ thất ngôn xen lục
ngôn.

• Chương II: Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm
thi tập.
- Phần kết luận
Ngoài ra đề tài còn có:
- Phần danh mục tài liệu tham khảo

































Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 7
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I: THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT VÀ THỂ
THƠ THẤT NGÔN XEN LỤC NGÔN
I – Khái quát chung về thơ Nôm Đường luật
Thơ Nôm Đường luật là một thể loại lớn của văn học Trung đại Việt
Nam, đạt được nhiều thành tựu rực rỡ cả về nội dung và nghệ thuật. Với sự ra
đời của thơ Nôm Đường luật, văn học Trung đại Việt Nam đã thật sự trưởng
thành hơn đưa văn học viết chữ Nôm phát triể
n hoàn toàn tự tin, chững chạc
và song hành cùng những thành tựu nổi bật của văn học viết bằng chữ Hán,
trên cơ sở tiếp thu thơ Đường luật Trung Quốc để sáng tạo một thể loại văn
học mới.
Để có một cái nhìn khái quát nhất, trước tiên chúng ta cùng tìm hiểu
khái niệm thơ Nôm Đường luật. Thơ Nôm Đường luật bao hàm những bài thơ
viết bằng chữ Nôm theo luật Đường hoàn ch
ỉnh và cả những bài luật Đường
phá cách – những bài thơ có xen câu ngũ ngôn, câu lục ngôn.
[Lã Nhâm Thìn.
2002. 9]
Nhìn chung hình thức cơ bản của một bài thơ Đường luật vẫn được giữ

lại: số câu trong một bài (8 câu với bài bát cú, 4 câu với bài tứ tuyệt); kết cấu
của một bài thơ (đề- thực- luận- kết với bài bát cú, khai- thừa- chuyển- hợp với
bài tứ tuyệt), luật đối thơ (câu 3 đối câu 4, câu 5 đối câu 6), luật thơ (nhị tứ lục
phân minh, nhất tam ngũ bất lu
ận), về thanh và vần …
Đặc điểm của thơ Nôm Đường luật nói một cách khái quát là sự kết
hợp hài hòa giữa yếu tố Nôm và yếu tố Đường luật. Hai yếu tố này xuyên
thấm vào nhau, tác động lẫn nhau lại có tính độc lập tương đối nhưng vẫn có
thể tách ra để nhận diện.
Biểu hiện của yếu tố Đường luật:
 Về đề tài, chủ
đề hướng tới những quan niệm, phạm trù Nho
giáo, Đạo giáo.
 Về mặt ngôn ngữ, đó là hệ thống từ Hán Việt, những điển cố
điển tích, cách sử dụng từ trau chuốt, giàu hình ảnh.
 Về hình ảnh là những hình ảnh tao nhã, ước lệ.
 Về câu thơ và nhịp thơ là những quy định chặt chẽ mang tính
quy phạm của thơ Đường luật.
 Về luật bằng, trắc, niêm, đối…cũng có khuôn mẫu quy định một
cách rạch ròi.


Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 8


Biểu hiện của yếu tố Nôm.
 Về mặt đề tài, chủ đề vừa hướng tới những vấn đề của đất nước,
dân tộc, vừa là những vấn đề đời thường của cuộc sống hàng
ngày.

 Về ngôn ngữ là ngôn ngữ chữ Nôm, ngôn ngữ bình dân.
 Về hình ảnh là những hình ảnh chân thực, bình dị, dân dã, gần
gũi với cuộ
c sống của người dân.
 Về câu thơ là những câu năm chữ, sáu chữ đan xen với câu bảy
chữ trong cùng một bài, tạo nên hình thức mới mẻ cho bài thơ.
 Về nhịp điệu là cách ngắt nhịp mới lạ đa dạng, khác hẳn với
cách ngắt nhịp 4/3 của thơ Đường.
Như vậy, thơ Nôm Đường luật đã tiếp thu thể loại củ
a Đường thi một
cách rõ nét. Nó đảm bảo một trong những yêu cầu của đặc điểm văn học trung
đại là tính quy phạm với hệ thống ước lệ, tượng trưng, tao nhã.
Việc sử dụng các yếu tố Nôm - yếu tố dân tộc vào trong thơ tạo nên
một sắc thái mới mẻ cho thơ Nôm Đường luật. Với những đặc điểm này, thơ
Nôm Đường luật gần g
ũi hơn với mỗi người dân Việt Nam, khẳng định được
cái riêng của dân tộc.
Yếu tố Nôm hay yếu tố Đường luật đều có những giá trị đặc trưng
riêng, nhưng đều đem lại sự thống nhất trong mỗi bài thơ. Một bài thơ Nôm
Đường luật thường có cả hai yếu tố Nôm và yếu tố Đường luật. Tất nhiên mức
độ đậm nhạt của hai y
ếu tố này không giống nhau trong từng bài thơ. Ta có thể
thấy rõ yếu tố Nôm trong thơ Hồ Xuân Hương rất đậm. Trong khi đó yếu tố
Đường luật là có rất nhiều trong thơ Bà huyện Thanh Quan. Cũng là thơ
Nguyễn Khuyến nhưng bài “Bạn đến chơi nhà” cảnh vật, lòng người mộc
mạc, chân tình, hóm hỉnh, còn chùm thơ thu (Thu vịnh, thu ẩm, thu điếu) thì
cảnh tình thanh cao, tao nhã mà thâm thúy. Từ đó ta thấy sự
đối lập giữa bức
tranh dân gian quê giản dị, thô sơ với ba bức sơn mài cổ điểm quí phái.
II. Những điều kiện cho sự hình thành và phát triển của thơ Nôm

Đường luật
Trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ Nôm Đường luật có một vị trí
quan trọng bởi những đóng góp to lớn của nó đối với sự phát triển của văn học
dân tộc về c
ả hai phương diện: thực tiễn sáng tác và ý nghĩa lí luận.
Thơ Nôm Đường luật được hình thành là kết quả của những điều kiện
văn học và cả những điều kiện ngoài văn học.

Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 9
1. Điều kiện văn học
1.1. Về ngôn ngữ
Tiếng Việt và tiếng Hán có sự gần gũi tương đồng ở ba phương diện cơ
bản: không biến hình, đơn âm và tuyến tính.Thêm vào đó là sự gần gũi về
thanh điệu. Thơ Đường luật có một kết cấu rất chặt chẽ, có tính cố định khá
cao về thanh, vần, từ và câu. Chỉ cần khác một trong bốn điểm đó thì chắc
chắn sẽ không có thơ Nôm Đường luật.
Sự tương đồng quan trọng đầu tiên giữa tiếng Việt và tiếng Hán là ở
đặc điểm không biến hình. Điểm này không có ở ngôn ngữ Ấn Âu mà ngay cả
Triều Tiên và Nhật Bản cũng không có. Đối với ngôn ngữ biến hình, điều dễ
thấy nhất là hình thức âm thanh của từ không cố định. Bởi ph
ần căn tố gần
như không thay đổi, phần phụ tố luôn luôn biến đổi theo ngữ cảnh. Sự biến đổi
này dẫn đến sự thay đổi âm thanh.
Đối với thơ, sự thay đổi phần đuôi từ - phần tạo nên vần thơ là điều
không thể chấp nhận với việc sáng tác thơ Đường luật- một thể thơ có tính cố
định rất cao về v
ần. Mặt khác, sự thay đổi của phần phụ tố dẫn tới sự thay đổi
số lượng âm tiết của từ. Điều này càng làm rõ sự khác biệt giữa ngôn ngữ đa
âm và ngôn ngữ đơn âm.

Sự tương đồng quan trọng thứ hai giữa tiếng Việt và tiếng Hán là
chúng cùng thuộc những tiếng đơn âm. Tiếng đa âm khó có thể sáng tác thơ
Đường luật. Bởi vì, thơ Đường luậ
t là thơ có số chữ cố định, mỗi chữ đồng
thời là một âm tiết trong câu. Thơ ngũ ngôn tứ tuyệt chỉ có 20 âm tiết, thơ bát
cú có 56 âm tiết. Tiếng đa âm không thể tuân thủ quy định nghiêm ngặt này
của thơ Đường.
Sự tương đồng quan trọng thứ ba giữa tiếng Việt và tiếng Hán là cả hai
đều tuyến tính. Đối với tiếng Việt và tiếng Hán, trật tự trước sau gi
ữa các từ là
vô cùng quan trọng. Thơ Đường luật là thơ không chấp nhận bất cứ sự lộn xộn
nào dù là nhỏ nhất về trật tự trong câu. Bởi vì, không những nó làm đảo lộn
hoặc phá vỡ nội dung thông báo mà sẽ không đảm bảo trật tự quy định rất chặt
chẽ về niêm và luật. Mặt khác, sẽ vi phạm luật bằng trắc nghiêm ngặt của thơ
Đường luật.
Ti
ếng Việt có khả năng đáp ứng hoàn toàn luật bằng trắc của thơ
Đường luật. Sự gần gũi về mặt thanh điệu là đặc điểm thứ tư giữa tiếng Việt
và tiếng Hán. Đây là đặc điểm quan trọng đối với sự ra đời của thơ Nôm
Đường luật. Bởi muốn thỏa mãn luật chuyển đổi bằng trắc trong t
ừng câu thơ,
sự đối lập về thanh trong bốn câu thực và luận, sự giống nhau về thanh của
chữ thứ hai của câu chẵn, lẻ tạo thành niêm thì nhất thiết phải dựa vào thanh
điệu.
Sự gần gũi tương đồng giữa tiếng Việt và tiếng Hán về bốn phương
diện như đã phân tích ở trên là điều kiện có ý nghĩa quyết định để ngườ
i Việt
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 10
Nam có thể tiếp thu thơ Đường luật Trung Quốc tạo nên thành thơ Nôm

Đường luật.
Như vậy, về phương diện ngôn ngữ “tiếng Việt đã cung cấp những điều
kiện quan trọng và quyết định để người Việt Nam có thể sáng tác thơ Nôm
Đường luật.[Lã Nhâm Thìn. 1997. 27]
1.2. Về thể loại
Thơ Đường luật là một trong những thành tựu rực rỡ nhất của n
ền văn
học Trung Quốc, là đỉnh cao của nền nghệ thuật nhân loại. Việc lựa chọn thơ
Đường luật là đối tượng tiếp nhận để sáng tạo nên thơ Nôm Đường luật – một
thành tựu được xem là xuất sắc nhất của nền văn học dân tộc là một điều rất
hợp lý.
Thơ Đường luật là thơ có kết cấu ổn đị
nh và rất chặt chẽ. Đặc điểm này
khiến cho thơ Đường luật có lợi thế hơn nhiều thể loại khác trong văn học. Do
tính chất mô hình hóa về mặt kết cấu đã tạo điều kiện dễ dàng cho sự tiếp nhận
và chuyển hóa. Tính chất này vừa là thử thách, vừa là lợi thế cho việc sáng tác
thơ Nôm Đường luật.
Trên đây là những điều kiệ
n văn học có vai trò quyết định với sự hình
thành và phát triển của thơ nôm Đường luật. Thơ Nôm Đường luật ra đời đáp
ứng những nhu cầu của nền văn học dân tộc, đồng thời thể thơ này cũng chỉ có
thể ra đời trên cơ sở những tiền đề đã phân tích ở trên.
2. Những điều kiện ngoài văn học
2.1. Điều kiện l
ịch sử xã hội
Vào thế kỉ thứ X, lịch sử Việt Nam có một bước ngoặt hết sức quan
trọng và có ý nghĩa to lớn: Độc lập dân tộc và tự chủ đất nước.
Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền, nhiệm vụ lịch sử
lớn lao của dân tộc lúc này là khẳng định, xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Nhiệm v

ụ ấy chi phối mọi tầng lớp, mọi hoạt động xã hội. Nhìn vào lịch
sử ta thấy có hai lĩnh vực được nhà nước phong kiến và nhân dân đặc biệt
quan tâm và luôn có ý thức khẳng định tính độc lập, tự cường: Đó là chính trị
và văn hóa.
Trước thế kỉ thứ X, trong hoàn cảnh mất nước, để khẳng định tính độc
lập của văn hóa dân tộc, ý thức của nhân dân chủ y
ếu hướng vào việc giữ gìn,
bảo vệ truyền thống để chống lại âm mưu đồng hóa của kẻ xâm lược. Sự đóng
cửa trong giao lưu văn hóa là việc làm tích cực và cần thiết. Từ thế kỉ X, đất
nước giành được quyền tự chủ, bên cạnh ý thức giữ gìn tinh hoa, bản sắc văn
hóa dân tộc là ý thức học tập, tiếp thu những thành tựu nước ngoài làm giàu
thêm truy
ền thống, để sáng tạo một nền văn hóa có thể sánh ngang bằng
phương Bắc.
Tiếp thu phương Bắc trở thành một động lực tinh thần to lớn, một sự
mở cửa có ý thức đầy đủ và sâu sắc hơn. Hoàn cảnh lịch sử với những thuận
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 11
lợi cơ bản như trên là một tiền đề quan trọng cho sự hình thành của thơ Nôm
Đường luật.
Bên cạnh đó phải nói đến những thuận lợi về mặt xã hội. Có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự ra đời của thơ Nôm Đường luật là sự hình thành tầng lớp trí
thức Việt Nam ngày một đông đảo và ngày càng có vị trí quan trọng trong xã
hội. Điều đáng l
ưu ý là những trí thức phong kiến là những người sáng tạo ra
văn học Việt Nam. Do những đặc điểm riêng về mặt lịch sử, dưới thời phong
kiến hầu như không có nhà văn học chuyên nghiệp nào sống bằng hoạt động
văn học. Họ sống bằng những hoạt động khác nhau như làm vua, làm quan,
dạy học, bốc thuốc…nhưng hoạt động văn học vẫ
n chiếm một phần đáng kể

trong công việc của họ. Thơ Nôm Đường luật, một hiện tượng văn học đồng
thời là một sản phẩm văn hóa chỉ có thể ra đời trong khi xã hội xuất hiện
những nhà văn hóa đầy tâm huyết.
2.2. Những tiền đề văn hóa, tư tưởng
Những tiền đề văn học có ảnh hưởng quan trọng đến sự
ra đời của thơ
Nôm Đường luật, đáng lưu ý là sự xuất hiện của chữ Nôm và việc đưa thơ
Đường luật vào chế độ khoa cử.
Chữ Nôm xuất hiện là một tiền đề vật chất quan trọng cho sự sáng tạo
văn hóa nói chung và văn học nói riêng. Không có chữ Nôm thì không có thơ
Nôm Đường luật
Có thể cho rằng, do tính chất hàm súc, cô đọng của thơ Đường luật, do
tiết ki
ệm và chọn lọc từ ngữ ở mức tối đa, do việc ít dùng hư từ nên thơ
Đường luật rất phù hợp với chữ Nôm.
Trong lĩnh vực văn hóa giáo dục, thơ Đường luật được nhà trường đặc
biệt chú ý. Ở Việt Nam, thơ Đường luật được đưa vào thi cử từ thế kỉ XIII. Bắt
đầu từ khoa thi Giáp Thìn (1304) đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long
thứ 12, trong phép thi
đã có thi thơ Đường luật “ trước hết chép thiên “Y
quốc” và truyện “Mạc thiên tử”, thứ hai thi kinh nghi, kinh nghĩa cùng bài
thơ “Vương đô khoan mãnh” dùng cổ thể. Bài thơ “Tài nan”, bài “Xạ bì”
….” [Dương Quảng Hàm. 1993. 80]. Khi đã trở thành môn thi bắt buộc thì
việc làm thơ Đường luật không chỉ là sáng tác văn chương đơn thuần mà nó
còn gắn liền với cơm áo và danh vọng. Vì vậy, nó càng trở nên quan trọng. Số
người học làm thơ, biế
t làm thơ Đường luật ngày một nhiều hơn, trình độ
ngày càng thuần thục hơn. Việc đưa thơ Đường luật vào thi cử là điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của thơ chữ Hán và sau đó là sự ra đời
của thơ Nôm Đường luật.

Một đặc điểm đáng lưu ý của thơ Đường luật là sự gắn bó khăng khít
của nó với tư tưởng. Sự gắn bó này thể hiện ở nội dung và hình thức, trong
tổng thể cũng như từng chi tiết. Thơ Đường luật được xây dựng trên một quan
điểm thống nhất về tư tưởng. Công thức thơ Đường luật như nhiều nhà nghiên
cứu đã chỉ ra là sự thể hiện mô hình vũ trụ theo quan niệm người Trung Quốc
thời Trung đạ
i. Mô hình này được tạo nên bởi những mối quan hệ. Bao trùm là
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 12
mối quan hệ thống nhất giữa sự vĩnh hằng và sự thay đổi. Con người là chủ
thể, là đối tượng đồng thời là mục tiêu hướng tới của văn học. Con người là
tổng hòa của những quan hệ xã hội và thế giới khách quan. Trên thực tế, thời
cổ trung đại, giữa Trung Quốc và Việt Nam có những nét tương đồng về tư
tưởng nói chung và tư tưởng văn h
ọc nói riêng. Sự tương đồng này có được
hoặc do nguồn gốc bản địa hoặc do tiếp thu, kể cả do áp đặt từ phía ngoại
bang.
Tuy nhiên, nếu chỉ nói đến sự hòa nhập giữa ta và Trung Quốc thì
chúng ta mới chỉ tiếp thu thơ Đường luật chứ chưa có sự sáng tạo. Nếu có quá
ít phần sáng tạo thì thơ Nôm Đường luật – một thể thơ mô phỏng nước ngoài,
làm sao có được địa vị
như các thể loại khác của dân tộc như lục bát, song thất
lục bát – những thể thơ của dân tộc. “Phần sáng tạo trong thơ Nôm Đường
luật suy tới cùng, chính là kết quả của sự trưởng thành của ý thức dân tộc.
Ngược lại, ý thức dân tộc trưởng thành là điều kiện quan trọng cho sự ra đời
của thơ Nôm Đường luật.”[Lã Nhâm Thìn. 1997. 37]
III. Khái quát quá trình phát triển của thơ Nôm Đườ
ng luật trong
lịch sử văn học Việt Nam
Đối với tất cả những thể loại văn học, ta khó có thể nói một cách chính

xác thời điểm ra đời và thời điểm kết thúc của nó. Với thơ Nôm Đường luật, ta
chỉ có thể xác định được nó trải qua ba giai đoạn: giai đoạn hình thành, giai
đoạn phát triển và giai đoạn kết thúc.
1. Giai đoạn hình thành
Thơ
Nôm Đường luật có lẽ ra đời từ cuối thế kỉ XIII. Sách Đại Việt sử
kí toàn thư có ghi: “Nhâm Ngọ (Thiên Bảo) năm thứ 4 (1282) mùa thu, tháng
8…Bấy giờ có cá sấu đến sông Lô. Vua sai thượng thư bộ hình là Nguyễn
Thuyên làm văn ném xuống sông. Con cá sấu tự đi mất. Vua cho là việc này
giống như việc của Hàn Dũ, cho đổi tên là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm
thơ phú quốc âm. Nước ta thơ phú quốc âm dùng nhiều, thực bắt
đầu từ đấy”
[Ngô Sĩ Liên. 1867. 48].
Một trong những văn bản chữ viết còn sót lại của thể thơ này là Quốc
âm thi tập của Nguyễn Trãi. Tuy nhiên , Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là
sáng tác Nôm Đường luật đầu tiên hiện còn chứ không phải là sáng tác đầu
tiên bằng Đường luật Nôm. Có thể giải thích điều này theo một lý do: Sự xuất
hiện tập Quốc âm thi tập với s
ố lượng rất lớn như vậy thì không thể bắt đầu
từ con số không. Chắc chắn đã có sự chuẩn bị, tạo tiền đề cho Quốc âm thi
tập ra đời.
2. Giai đoạn phát triển
Thơ Nôm Đường luật kéo dài bảy thế kỉ. Bắt đầu tính từ Hàn Thuyên
(thế kỉ XIII) và kết thúc đầu thế kỉ XX với đại biểu cuối cùng là Nguyễn
Khuyế
n.
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 13
Từ Nguyễn Trãi đến Hồ Xuân Hương là giai đoạn đi từ thử nghiệm đến
ổn định và đạt được thành tựu rực rỡ nhất. Nhờ có giai đọan này mà ngay từ

đầu, thơ Nôm Đường luật đã khẳng định đựợc vị trí của mình trong lịch sử văn
học Việt Nam.
Người đầu tiên có công “xây dựng một lối thơ Việt Nam” (Đặng Thai
Mai) chính là Nguyễn Trãi. Vớ
i Quốc âm thi tập, lịch sử văn học Việt Nam
trên thực tế đã có thêm một thể loại mới: thơ Nôm Đường luật. Bằng vốn hiểu
biết và tài năng của mình, ông đã học tập những tinh hoa của Trung Quốc, xây
dựng một lối thơ Việt Nam với những điểm khác biệt . Đặc biệt Nguyễn Trãi
đã đưa vào thơ của mình những câu sáu chữ
- những câu không phải của
Đường thi, tạo nên một chấm phá mới lạ. Bên cạnh đó việc sử dụng thành ngữ,
tục ngữ, ca dao, những hình tượng quen thuộc mang đậm tính dân tộc như hoa
xoan, rau muống, cây mía, con mèo, con lợn, con trâu…đã làm cho thơ ông
thêm gần gũi hơn. Những cố gắng của ông trong việc dân tộc hóa cả hình thức
và nội dung giúp ông phản ánh một cách bao quát những vấn đề dân tộc.
Với Quốc âm thi t
ập, trên thực tế, Nguyễn Trãi đã sáng tạo một thể
thơ mới, khẳng định sự hiện diện của thơ Nôm Đường luật với tư cách là một
thể loại văn học.
Hồng Đức quốc âm thi tập là bước phát triển tiếp theo của thơ Nôm
Đường luật. Hồng Đức quốc âm thi tập đã kế thừa và tìm tòi những con
đường mới
đã có từ Quốc âm thi tập. Song Hồng Đức quốc âm thi tập phát
triển mạnh mẽ hơn ở nội dung phản ánh. Điều này có thể hiểu là do tập thơ
này của nhiều tác giả nên phạm vi phản ánh xã hội rộng rãi hơn.
Về phương diện hình thức, Hồng Đức quốc âm thi tập vẫn tiếp tục lối
phá cách của Quốc âm thi tập và có phầ
n mạnh mẽ hơn. Tỷ lệ câu sáu chữ
không kém gì Quốc âm thi tập. Đặc biệt có bài hoàn toàn lục ngôn. Điều
đáng lưu ý ở đây là các tác giả Hồng Đức quốc âm thi tập hầu hết là những

thành viên của hội Tao Đàn – những người rất am hiểu luật Đường thi. Nhưng
khi sáng tác thơ Nôm Đường luật vẫn có xu hướng phá cách. Điều này chứng
tỏ rằng việc sáng tác th
ơ Nôm Đường luật đã trở thành một quy luật. Bên cạnh
đó, sự tìm tòi, phát triển về nội dung và hình thức trong Hồng Đức quốc âm
thi tập còn thể hiện ở việc tìm những chức năng mới cho thể loại thơ. Đó là
hiện tượng dùng thơ Đường luật làm phương tiện trào phúng. Mặc dù hiện
tượng này chưa thật tiêu biểu, nhưng cũng có thể nói, đây chính là tiền
đề cho
các tác giả giai đoạn sau kế thừa.
Nếu so với Quốc âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập thì quy
mô và số lượng của Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm
không bằng. Nhưng Bạch Vân quốc ngữ thi tập đã nâng tầm khái quát nghệ
thuật của thơ Nôm Đường luật lên một bước. Nổi bật trong tập thơ này là
những đề tài, chủ đề mang tính chất xã hội. Do đó Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp
cận cuộc sống vừa cụ thể, sinh động vừa có tầm khái quát rộng lớn hơn.
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 14
Xu hướng phá cách trong sáng tác thơ Nôm Đường luật vẫn được
Nguyễn Bỉnh Khiêm khai thác. Tuy nhiên, số lượng câu sáu chữ đã giảm đi
nhiều so với Quốc âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập. Điều này phản
ánh quy luật phát triển của thơ Nôm Đường luật: Hiện tượng không theo quy
cách thơ Đường giảm dần và quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật đã
đi vào ổn định.
Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVI, thơ Nôm Đường luật đã đạt được
những thành tựu hết sức rực rỡ với những tác giả và tác phẩm lớn. Trong khi
đó thế kỉ XVII, nửa đầu thế kỉ XVIII, thơ Nôm Đường luật đã không có những
tác gia, tác phẩm lớn, mặc dù số lượng không phải là ít. Có thể nói, ở thời kì
này, số lượng nhiều như
ng chất lượng không cao. Đây cũng là hạn chế chung

của một thời kì văn học. So với tình hình chung của văn học, thơ Nôm Đường
luật không còn địa vị như trước. Nó nhường đỉnh cao cho các thể loại khác
bằng chữ Nôm như truyện thơ, diễn ca lịch sử.
Sau gần hai thế kỉ phát triển với nhịp điệu bình thường, không có
những thành tựu nổi bật, bướ
c vào cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, thơ
Nôm Đường luật lấy lại vị trí vốn có của mình bằng sự xuất hiện của “Bà chúa
thơ Nôm” – Hồ Xuân Hương.
Với Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Đường luật vẫn tiếp tục xu hướng dân
tộc hóa đồng thời chuyển nhanh sang con đường dân chủ hóa cả nội dung và
hình thức. Đến Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Đường luậ
t đã thực hiện một cuộc
cách tân đầy ý nghĩa. Cuộc sống đời thường, nguyên sơ, chất phác, dân dã đã
trở thành đối tượng thẩm mĩ của thơ bà. Cái trần tục, vốn xa lạ với phong cách
trang trọng, cao quý của thơ Đường luật bỗng trở nên phù hợp với phong cách
trữ tình trào phúng của Hồ Xuân Hương.
Nếu Nguyễn Trãi là người đầu tiên thể hiện mạnh mẽ cái tinh thầ
n phá
cách thì Hồ Xuân Hương lại là người đầu tiên thể hiện ý muốn trở về hình
thức kết cấu vốn có của Đường luật. Sau Hồ Xuân Hương, câu lục ngôn không
còn là một trong những cơ sở để nhận diện thơ Nôm Đường luật. Điều này có
thể giải thích rằng: Đến Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Đường luật đã đi vào thế
ổn định về cấu trúc. Xuân H
ương đã đưa một nội dung “bất quy phạm” vào
một hình thức “quy phạm” để tạo sức công phá mạnh mẽ cho thơ của mình.
Bên cạnh đó phải nói tới Bà huyện Thanh Quan – một gương mặt “hoài
cổ”. Tuy chỉ có hơn mười bài, song bà có địa vị khá vững chắc trong lịch sử
văn học Việt Nam nhờ bà có một tâm hồn dân tộc được biểu hiện trong một
hình th
ức Đường thi nhưng lại không bị rơi vào công thức sáo mòn.

Đến hai nữ sĩ này, ta thấy dòng thơ Nôm Đường luật đã xuất hiện
phong cách tác giả. Nếu trước đó, ta chỉ thấy phong cách thời đại và phong
cách thể loại thì với Hồ Xuân Hương và Bà huyện Thanh Quan đã có một
phong cách riêng mặc dù số lượng tác phẩm của họ không nhiều.

Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 15
3. Giai đoạn cuối.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai tác giả tiêu biểu đã chuyển thơ
Nôm Đường luật từ văn học trung đại sang văn học cận – hiện đại. Ở hai ông,
tầm khái quát của thơ Nôm Đường luật đã được mở rộng và nâng cao hơn.
Cuộc sống đã được các tác giả phản ánh với những chi tiết hiện thực sinh
động, phong phú.
Tuy nhiên, hoàn cảnh lịch sử
đã chấm dứt sinh mệnh lịch sử của một
thể loại ở thời kì vẫn đang còn nhiều thành tựu. Ngày Tú Xương trăn trở về
việc “vứt bút lông đi giắt bút chì” cũng là lúc báo hiệu thời kì suy sụp của thơ
Nôm Đường luật. Lúc này, chữ Nôm đã mất hẳn vai trò trong cuộc sống và
trong văn học. Thay vào đó là hệ thống chữ Quốc ngữ. Như v
ậy, ngoài giai
đoạn hình thành chúng ta chưa biết rõ, “diện mạo thơ Nôm Đường luật là diện
mạo không có tuổi già” [Lã Nhâm Thìn. 1997. 39]
Suốt bảy thế kỉ, thơ Nôm Đường luật tồn tại với tư cách là một thể loại
của văn học dân tộc. Nó đứng cùng các thể loại lục bát, song thất lục bát – như
những thể loại đặc trưng nhất, độc đáo nhất củ
a dân tộc.
IV. Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn
Trong “Việt Nam văn học sử yếu”, ông Dương Quảng Hàm gọi thể thơ
này là loại lục ngôn thể. Ông định nghĩa “thơ lục ngôn là thể thơ có các câu
lục ngôn xen với các câu thất ngôn” [Dương Quảng Hàm. 1993. 136]. Thực tế,

trong Quốc âm thi tập là loại thơ câu sáu chữ xen lẫn câu bảy chữ chứ không
hoàn toàn có những bài lục ngôn thể đúng nghĩa nh
ư trong Hồng Đức quốc
âm thi tập.
Trong “Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại”, Bùi Văn Nguyên và
Hà Minh Đức cho rằng đó là “một trong các thể đặc biệt của thơ Đường luật”
[Bùi Văn Nguyên 2000. 307]. Điều này được lí giải bởi hệ thống tương đồng
về thi pháp như sau : Tương đồng về số câu trong một bài (8 câu đối với bài
bát cú, 4 câu với bài tứ tuyệt), tương đồ
ng về số vần và lối hiệp vần (bài 8 câu
5 vần, bài 4 câu 3 vần, chữ cuối của các câu thứ nhất, hai, bốn, sáu, tám hiệp
vần với nhau), tương đồng về lối đối ngẫu (bài 8 câu thì câu 3 và 4, câu 5 và 6
đối nhau). Bên cạnh đó, các tác giả còn cho rằng, chữ thứ 3 của câu 6 sẽ làm
nhiệm vụ của chữ thứ 4 trong câu để niêm với chữ thứ 4 của câu 7, và chữ thứ
5 trong câu 6 phải làm nhiệm vụ của ch
ữ thứ 6 để niêm với chữ thứ 6 trong
câu 7. Nhưng nếu xét theo thơ Đường luật, khi đã có câu 6 chữ xen với câu 7
chữ trong cùng một bài tất yếu sẽ dẫn đến hiện tượng thất niêm hoặc thất luật.
Ông Phạm Luận đưa ra giả thiết “thể 6-7 là một thể đặc biệt của lối thơ
cổ phong mà người Trung Quốc gọi là thể tạp ngôn” [Nguyễn Hữ
u Sơn. 2003.
853]. Nhưng sau đó, Phạm Luận lại bác bỏ ý kiến này vì ông cho rằng “Giữa
thể 6 -7 trong Quốc âm thi tập với thể tạp ngôn của Trung Quốc có những
điểm khác nhau rất cơ bản về số câu và số chữ trong mỗi câu [Nguyễn Hữu
Sơn. 2003. 854]
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 16
Như vậy, khi nói thể 6-7 là do bắt chước của Tàu hoặc khẳng định nó là
một thể đặc biệt của các thể thơ Trung Quốc, cổ phong hay luật Đường là điều
thiếu căn cứ.

Theo Từ điển văn học Việt Nam bộ mới: “Thất ngôn xen lục
ngôn là một thể thơ độc đáo của văn học trung đại Việt Nam, đan xen những
câu l
ục ngôn trong bài thất ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt” [Đỗ Đức Hiểu.
2004. 1654]
Vị trí của câu lục thường khá đa dạng. Có khi ở đầu bài, có khi ở cuối
bài hoặc giữa bài. Cũng có khi kết hợp thành từng cặp liên kết nối tiếp hoặc
ngắt quãng. Số câu lục có thể biến đổi từ 1 đến 8 trong tổng số 8 câu thất ngôn
bát cú. Sự đan xen câu lục ngôn mặc dù đã làm biến động ở
những mức độ
nhất định về mặt niêm luật nhung nhìn chung vẫn có xu hướng tuân thủ tính
chất quy phạm của một bài thơ Đường luật.
- Về vần: đảm bảo yêu cầu độc vận và cước vận.
- Về luật: hầu hết đều tuân thủ nguyên tắc nhị tứ lục phân minh, hình
thành sự liên kết bằng trắc của các tiếng 2, 4, 6.
- Về đối: sử dụng ti
ểu đối ở các câu lẻ, liên đối ở các câu thực, luận.
Tuy nhiên điểm mạnh của thể thơ này so với thơ Đường luật là ở khả
năng ngắt nhịp đa dạng. Câu lục ngôn có các lối ngắt nhịp: 2/2, 2 /4, 2/1/3,
4/2, 1/2/3, 1/2 /1/2, 3/1/2. Từ đó kéo theo sự biến động về tiết tấu của những
câu thất ngôn tương ứng, làm cho bài thơ khắc phục kiểu tiết tấu
đơn nhất 4/3
của thơ Đường.
Lối thơ này xuất hiện từ thời Trần, có thấy trong một vài sáng tác bằng
chữ Hán như bài Vĩnh Giang nguyệt phiếm (Chơi thuyền trên sông Vĩnh
Giang) của Nguyễn Trung Ngạn trong Giới hiên thi tập:
“ Thương xuý cao phàm thượng hạ
Lạo sơ lạc thuỷ tung hoành”
(Mua bán xong thuyền buôn giương buồm nhấp nhô cao thấp
Lụt mới về nên n

ước chảy khắp nơi)
Nhưng thể thơ này chủ yếu được sáng tác bằng chữ Nôm. Bài thơ thất
ngôn xen lục ngôn sớm nhất còn sót lại là bài thơ của nàng Điểm Bích – cung
phi dưới triều Trần Anh Tông (1293- 1330) chép trong “Lĩnh Nam chích
quái”, nói về tâm trạng của những kẻ vướng vào đường tình ái với khát vọng
sôi nổi, tha thiết:
Vằng vặc trăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh
Người hòa tươi tốt, cảnh hòa lạ


Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 17
Mâu thích ca nào thuở hữu tình.
Kể từ đó, thơ Nôm thất ngôn xen lục ngôn trở thành một “hiện tượng
bất bình thường” của văn học Việt Nam. Nó gắn liền với tên tuổi nổi tiếng như
Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập, Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn với Hồng
Đức quốc âm thi tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm với Bạch Vân quốc ngữ thi
tập…
Đi
ều quan trọng là ở chỗ, thể thơ này lần đầu tiên đem đến những cách
tân hết sức to lớn cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật. Nó ít
nhiều làm thay đổi diện mạo văn học đương thời, thể hiện một khả năng vô
cùng phong phú và dồi dào của thơ ca Tiếng Việt trong việc diễn tả những
cung bậc hết sức khác nhau củ
a đời sống tâm hồn con người trước những biến
động của cuộc sống.
Như vậy, ta có thể khẳng định, thể thơ trong Quốc âm thi tập là một
thể thơ do Nguyễn Trãi sáng tạo ra trên nền văn học dân tộc. “Thành tựu lớn
nhất của Nguyễn Trãi không phải ở chỗ đồng hóa kho từ vựng và văn liệu Hán

học mà là ở chỗ xây dựng ngôn ngữ
văn học dân tộc trên cơ sở ngôn ngữ của
nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian” [Lã Nhâm Thìn. 1997. 404].
Chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra khái niệm về thể thơ thất ngôn xen lục
ngôn như sau: Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn là một thể thơ dùng xen lẫn
những câu thơ lục ngôn với những câu thất ngôn trong cùng một bài thơ.

Chương II. THỂ THƠ THẤT NGÔN XEN LỤC NGÔN
TRONG QUỐC ÂM THI TẬP

I. Nguyễn Trãi – thân thế và sự nghiệp
1. Thân thế
Nguyễn Trãi sinh 1380, hiệu Ức Trai. Cha là Nguyễn Ứng Long, sau
đổi thành Nguyễn Phi Khanh tên hiệu là Nhị Khê, vốn gốc ở làng Chí Ngại,
huyện Phượng Nhỡn (nay thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương). Mẹ là Trần Thị
Thái, con gái tư đồ Trần Nguyên Đán.
Thời đại và gia đình là hai môi trường thuận lợi cho sự hình thành và
phát triển nhân cách, tài năng của Nguyễn Trãi.
Nét chủ yếu của thời đại Nguyễn Trãi là sự khẳng
định độc lập dân tộc
và khẳng định chế độ phong kiến. Độc lập dân tộc được khẳng định qua những
khó khăn thử thách đặt ra cho đất nước. Nhân dân Đại Việt sau bốn thế kỉ độc
lập tự chủ, năm 1407 lại rơi vào thảm họa mất nước. Sự xâm lăng của giặc
Minh – kẻ xâm lược tàn bạo nhất lịch sử trung đại Việ
t Nam, không làm
thuyên giảm ý thức về dân tộc mà nó càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Truyền
thống yêu nước được phát huy với sức mạnh chưa từng thấy mà đỉnh cao là
khởi nghĩa Lam Sơn – cuộc khởi nghĩa gian khổ nhất mà cũng thắng lợi huy
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 18

hoàng nhất trong lịch sử trung đại. Thắng lợi này đã mở ra kỉ nguyên mới cho
đất nước kỉ nguyên độc lập dân tộc. Trong không khí hào hùng của lịch sử, các
nhân tài đua nhau góp “sức hèn tài mọn” để cứu đời giúp nước. Một môi
trường như vậy là điều kiện thuận lợi để Nguyễn Trãi bộc lộ tài năng và nhân
cách của ông.
Truyền thống gia đình cũng là cái nôi nuôi dưỡng tài năng và nhân cách
của Nguyễn Trãi. Ông sinh ra trong một gia đình bên nội cũng như bên ngoại
đều có truyền thống yêu nước và trân trọng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Dòng họ nội từ cụ tổ Nguyễn Bặc đến đời thứ mười một là thân phụ Nguyễn
Phi Khanh đều có những người xả thân vì đại nghĩa. Dòng họ ngoại từ cụ tổ
Trần Quang Khải đến ông ngoại là Trần Nguyên Đ
án đã từng có những đóng
góp to lớn cho nền độc lập đất nước. Lòng yêu nước, thương dân sâu sắc từ
ông ngoại đến cha đã là “tấm gương báu” soi suốt cuộc đời Nguyễn Trãi.
Dòng họ Nguyễn Trãi là dòng họ có nhiều công lao đối với sự phát
triển truyền thống văn hóa dân tộc. Về bên nội, Nguyễn Thuyên là một trong
những người đầu tiên có công dùng chữ Nôm trong việc sáng tác thơ phú.
Nguyễn Phi Khanh là nhà th
ơ lớn dưới triều Trần. Bên ngoại có Trần Quang
Khải không chỉ là một tướng anh hùng mà còn là một thi sĩ tài hoa. Trần
Nguyên Đán không chỉ là một vị quan tư đồ uyên thâm mà còn là một nhà thơ
nổi tiếng.
Nguyễn Trãi hội đủ điều kiện để có thể dấn thân gánh vác những trọng
trách lớn lao và góp phần giải quyết những thử thách đang đặt ra trước mắt của
dân tộc.
2. Cu
ộc đời
Cuộc đời Nguyễn Trãi gắn liền với giai đoạn lịch sử sôi động cùng với
những biến cố có tầm vóc lớn lao của dân tộc. Cuộc đời ông có thể chia làm
các giai đoạn:

Nguyễn Trãi trước khởi nghĩa Lam Sơn (1380 - 1418)
Đây là giai đoạn “nợ nước thù nhà” đã hun đúc lòng yêu nước và ý chí
của người anh hùng.
Thuở nhỏ, Nguyễn Trãi được nuôi dạy trong hoàn cả
nh gia đình có
nhiều thuận lợi về vật chất và môi trường giáo dục. Ông ngoại là quan tư đồ.
Phụ thân là nho sinh nổi tiếng hay chữ, từng dạy học trong dinh quan tư đồ,
được Trần Nguyên Đán yêu mến gả con gái cho. Tuy nhiên, tuổi thơ ông cũng
phải chịu nhiều mất mát đau thương. Năm sáu tuổi, mẹ ông qua đời. Sau đó là
tang ông ngoại khi ông vừa tròn mười tuổi. Chính những vui buồn của thời
niên thiếu đã ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn Ức Trai, đặc biệt là những ảnh
hưởng tốt đẹp từ truyền thống gia đình.
Tuổi thành niên, Nguyễn Trãi chứng kiến nhiều thay đổi của triều đình
phong kiến. Lúc này, ông buộc phải lựa chọn con đường đi riêng cho mình để
vượt qua những khó khăn thử thách.
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 19
Thử thách đầu tiên là việc Hồ Quý Li cướp ngôi nhà Trần năm 1400, và
cũng chính lúc này, ông thi đỗ Thái học sinh. Cũng năm ấy, ông cùng cha ra
nhận chức quan dưới triều nhà Hồ. Nguyễn Phi Khanh giữ chức Viện hàn lâm
kiêm tư nghiệp ở Quốc Tử Giám còn Nguyễn Trãi được bổ dụng chức Ngự sử
đài chánh chưởng ở Tây Đô (kinh đô mới ở Thanh Hóa). Ông theo nhà Hồ chứ
không theo nhà Trần bởi bản thân ông chỉ có một tâm nguy
ện muốn đem tài
năng của mình ra giúp đời, giúp nước. Mặt khác, nó thể hiện cái nhìn tiến bộ
của ông .
Thử thách thứ hai là khi giặc Minh xâm lược, Nguyễn Trãi trên con
đường cứu nước đã không tham gia vào các cuộc khởi nghĩa của con cháu nhà
Trần mà tìm đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trong khoảng mười năm (1407 -
1417) sau khi nhà Hồ thất bại, Nguyễn Trãi sống cùng những cảnh đau thương

của cả dân tộc cũ
ng như nỗi đau riêng của gia đình. Đất nước bị tàn phá dưới
gót giày của bọn xâm lược, cha bị giải sang Trung Quốc. Ông luôn khắc sâu
lời dặn của cha “con trở về lập chí, rửa thẹn cho nước, trả thù cho cha, như
thế mới là đại hiếu”. Mười năm phiêu bạt, lúc bị bắt, lúc phải lẩn tránh ông
luôn canh cánh trong lòng lời dặn của cha. Hiểu rõ tư tưởng của Lê Lợi, ông
đã tham gia vào cu
ộc khởi nghĩa Lam Sơn, dùng hết tài năng của một nhà
chiến lược, một anh hùng dân tộc cùng nghĩa quân đánh đuổi lũ giặc hung tàn.
Với cái nhìn sáng suốt, đến với khởi nghĩa Lam Sơn, ông đã sống những ngày
đầy ý nghĩa và đẹp đẽ nhất trong cuộc đời.
Nguyễn Trãi trong khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1428)
Đây là mười năm gian khổ nhưng cũng là mười năm hạnh phúc nhất
của Nguyễn Trãi. Mười năm tài năng của ông được phát huy ở mức cao nhất
để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Có thể coi, đây là giai đoạn nhà thơ -
chiến sĩ trong cuộc đời Nguyễn Trãi.
Thời kì đầu của khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi dâng lên Lê Lợi
“Bình Ngô sách” với kế hoạch “mưu phạt tâm công”, được Lê Lợi chấp nhận
và tiến hành thắng lợi.
Giai đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi được giao nhiệm vụ quan trọng bên
chủ tướng, giúp Lê Lợi soạn thảo các văn kiện chính trị, ngoại giao. Thời gian
này, Nguyễn Trãi không quản gian khổ, hi sinh, góp phần to lớn cùng nghĩa
quân làm nên nhiều thắng lợi. Đây cũng là thời kì hồn thơ Ức Trai mở rộng,
bay bổng tuyệt vời với tâm hồn của người chiến sĩ:
Thừa chỉ ai rằng thờ
i khó ngặt
Túi thơ chứa hết mọi giang san
Chiến tranh sắp kết thúc, Nguyễn Trãi được bổ nhiệm chức Nhập nội
hành khiển, phụ trách thượng thư bộ lại kiêm khu mật viện sự. Ông kiên trì,
bền bỉ, kiên quyết và khôn khéo viết thư luận chiến với Vương Thông thuyết

phục bọn chúng rút quân về nước chấm dứt chiến tranh.
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 20
Cuối năm1427 đầu 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng. Lê Lợi
giao cho Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”. Bản tuyên ngôn này được
công bố ngày 17 tháng chạp năm Đinh Mùi (đầu năm 1428).
Nguyễn Trãi sau khởi nghĩa Lam Sơn (1428 -1442)
Sau những năm tháng đẹp đẽ, mang túi thơ đi khắp giang san là những
năm tháng đầy đau buồn cũng không kém phần ý nghĩa đối với Nguyễn Trãi.
Đây là giai đoạn “tùng bách kiên trinh” và “ tiếng th
ơ kêu xé lòng” trong cuộc
đời nhà thơ.
Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi – lúc này là Lê Thái Tổ đã nghe
những lời sàm tấu của bọn nịnh thần sát hại những công thần như Trần
Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo. Bản thân Nguyễn Trãi cũng bị nghi kị và bỏ tù
tương truyền khoảng năm 1430. Mặc dù ngay sau đó ông được tha. Nhưng từ
đây, lí tưởng, tài năng của ông không được xã hội phong ki
ến chấp nhận.
Cuối năm 1437, do bất đồng ý kiến giữa các đại thần và đau lòng trước
những cảnh trái tai gai mắt, Nguyễn Trãi xin về ở ẩn tại Côn Sơn. Khi Lê Thái
Tông lớn lên, hiểu việc nước, việc đời, đã vời Nguyễn Trãi ra gánh vác công
việc quốc gia với những chức tước quan trọng. Ông mừng đến chảy nước mắt.
Mừng không chỉ cho bản thân mà mừng cho nước, cho dân. Ông cùng b
ạn bè
một chí hướng mở lớp giảng sách, chủ trì khoa thi và trù tính nhiều việc ích
nước lợi nhà.
Rủi thay cho đất nước, Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Chí Linh về ghé
thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, lệnh cho Nguyễn Thị Lộ - một người thiếp của
Nguyễn Trãi, hộ giá vua về Thăng Long. Khi đi qua Trại Vải (Lệ Chi Viên) thì
bị cảm đột ngột rồi chết. Bọn gian thần sẵn ghét vợ

chồng ông, bèn vu cho ông
tội giết vua và khép vào tội tru di tam tộc. Đó là ngày 16 – 8 – 1442. Năm ấy
ông vừa tròn sáu mươi ba tuổi. Ông chết mà không thực hiện được trọn vẹn lí
tưởng và tài năng của mình.
Nguyễn Trãi suốt một đời đấu tranh cho độc lập của đất nước, hạnh
phúc của nhân dân cuối cùng lại phải chịu rơi đầu dưới lưỡi dao của chính
triều đình mà ông từng đem tâm huyết, sức l
ực để vun đắp, xây dựng.
Hơn hai mươi năm sau (1464), Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan
cho Nguyễn Trãi, truy tặng tước bá trù tán, bổ dụng Anh Vũ (con trai với
người vợ lẽ Phạm Thị Mẫn trốn thoát sau vụ thảm hoạ) ra làm quan và cho
người sưu tập lại thơ văn của ông.
Về cái chết của Nguyễn Trãi, Phạm Văn Đồng bình luận: “Đối với
triều đình nhà Lê lúc bấy gi
ờ, sau khi “bốn biển đã yên lặng”, Nguyễn Trãi
nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá! Nguồn gốc sâu xa của thảm
án vô cùng đau thương của Nguyễn Trãi bị tru di ba họ là ở đó”
[Trần Tùng
Chinh. 2003
. 47].


Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 21
3. Sự nghiệp
Sau khi mẹ mất, Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha. Cha ông thường
khen: “Lục tuế nhi đồng phả ái thư” (con thơ sáu tuổi đà ham sách). Như vậy,
ngay từ nhỏ, Nguyễn Trãi là người ham sách vở. Sự nghiệp sáng tác của ông
gắn liền với các hoạt động chính trị. Mỗi tác phẩm ra đời, đánh dấu một chặng
đường lịch sử của đất nước và cả

những biến động trong cuộc sống của ông.
Sau thảm họa tru di, tác phẩm của Nguyễn Trãi bị thất lạc hoặc bị thiêu
huỷ. Song vẫn có nhiều người vì quý mến tài đức của ông mà cất giấu. Nhờ đó
mà Trần Khắc Kiệm khi được Lê Thánh Tông giao cho việc sưu tập lại thơ
văn của Nguyễn Trãi đã có điều kiện tập hợp các tác phẩm còn lại của ông.
Nhưng rồi, bộ sưu tập của Trần Khắc Kiệm cũng bị thất lạc. Mãi đến thế kỉ
XIX, Dương Bá Cung mới sưu tập lại và cho khắc in vào năm 1868, dưới tên
Ức Trai di tập, bao gồm 7 quyển.
Những tác phẩm của Nguyễn Trãi còn giữ lại tuy chưa phải là tất cả sự
nghiệp văn chương của ông, nhưng có phần chắc chắn đó là nh
ững tác phẩm
tiêu biểu của Nguyễn Trãi.
Quân trung từ mệnh tập khoảng 70 bài. Đây là những bức thư gửi
cho tướng giặc và những tờ giấy giao thiệp với triều đình nhà Minh nhằm thực
hiện kế “mưu phạt tâm công”. Ở đây cũng có một số bài chiếu viết theo lệnh
Lê Thái Tổ để răn dạy thái tử và các quan lại hãy lấy việc chăm lo cho nướ
c
cho dân là đạo đức cao nhất.
Năm 1428, cuộc khởi nghĩa chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi
thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo nổi tiếng. Bình Ngô đại cáo là lời tuyên bố
trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về quá trình chiến đấu gian
khổ để đi đến chiến thắng cuối cùng giành lại hòa bình cho đất nước.
Lam Sơn thực lục do Nguyễn Trãi viết về Lê Lợi do Lam Sơ
n động
chủ đề tựa năm 1432. Có thể nói, đây là một tập lịch sử kí sự về cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn và cuộc trường kì kháng chiến chống quân Minh. Những sự
kiện lịch sử mà tác giả chứng kiến được trình bày một cách hệ thống với lối
văn súc tích, ngắn gọn mà chứa chan tình cảm chân thành.
Chí Linh sơn phú và Vĩnh Lăng bi kí đã nêu bật công trạng c
ủa Lê

Lợi trong sự nghiệp cứu nước từ những ngày đầu gian khổ ở núi Chí Linh.
Đồng thời, tác phẩm còn là lời nhắc nhở mọi người lúc hưởng thụ thái bình thì
đừng quên lúc chiến đấu gian khổ.
Năm 1434, theo yêu cầu của Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi làm sách Dư
địa chí. Sách chỉ viết trong vòng mười ngày mà nói rất cụ thể, tỉ mỉ từng địa
phương, sông núi, sản vật đến con người như thể Nguy
ễn Trãi đã từng sinh
sống ở đó.
Tình hình triều chính phức tạp đã ảnh hưởng trực tiếp đến công việc
của ông. Biết rằng ở lại triều đình cũng chỉ chuốc vạ vào thân, ông bèn xin cáo
quan về ở ẩn tại Côn Sơn. Nơi đây, ông đã cho ra đời tác phẩm Côn Sơn ca
nổi tiếng cùng phần lớn các tác phẩm trong Quốc âm thi tập.
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 22
Biểu tạ ơn chính là bài văn Nguyễn Trãi dâng lên Lê Thái Tông khi
nhà vua vời ông ra làm việc trở lại năm 1439. Tác phẩm nói lên nỗi vui mừng
được phục vụ nhà vua, phục vụ đất nước.
Tập Ức Trai thi tập là tập thơ chữ Hán duy nhất của Nguyễn Trãi.
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn thay vua viết nhiều chiếu, chế ban bố cho
thần dân. Những chiếu, chế này sau được gọi tên chung là Ngọc Đường di cảo
hay Ngọc
Đường di phạm. Đến nay, Ngọc Đường di cảo cũng không còn
trọn vẹn, chỉ còn một số bài trong phần văn của bộ Ức Trai di tập.
II. Khái quát về tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
1. Cấu trúc
“Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm xưa nhất, dài nhất vào bậc hay nhất,
cũng là tiêu biểu nhất cho bước khai sáng thời đại thơ Tiếng Việt và cho đại
nghiệp văn chương của Ức Trai” [Bùi Duy Tân. 2001. 214 ]. Quốc âm thi tập
không rõ nguyên bản gồm bao nhiêu bài nhưng trải qua nhiều biến động lịch
sử, nhất là sau thảm án tru di tam tộc xảy ra với gia đình Nguyễn Trãi năm

1442. Cũng như nhiều tác phẩm khác, số lượng các bài thơ trong tập thơ này
có lẽ cũng bị rơi rụng nhiều.
Quốc âm thi tập hiện có hai loại văn bản: mộ
t loại gồm 254 bài thơ ở
Viện nghiên cứu Hán Nôm, một loại gồm 70 bài ở thư viện Viện sử học.
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng loại văn bản thứ nhất. Văn bản này do
các ông Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm phiên âm và chú giải – nhà xuất
bản Văn sử địa -1956. Trần Văn Giáp và Phạm Trọng Điềm đã căn cứ vào
công trình sư
u tập toàn bộ thi văn của Nguyễn Trãi do các nhà nho Dương Bá
Cung, Nguyễn Định, Ngô Thế Vinh làm về đời Tự Đức và ấn hành năm 1868
dưới nhan đề Ức Trai di tập. Toàn bộ có 7 quyển. Quốc âm thi tập chép vào
quyển thứ 7 gồm 254 bài, chia ra làm 4 phần
 Phần Vô đề: gồm 192 bài (từ bài 1 đến bài 192) là những bài thơ
viết không có tựa đề riêng nhưng sắp xếp thành 14 tiểu mục.
Đây là những bài tác giả giãi bày tâm tr
ạng.
 Phần Môn thì lệnh : gồm 21 bài (từ bài 193 đến bài 213) viết về
đề tài thời tiết, khí hậu, cảnh sắc bốn mùa trong 9 tiểu mục.
 Phần Môn hoa mộc: 34 bài trong 23 tiểu mục (từ bài 214 đến bài
247) viết về đề tài các loại cây cỏ, thảo mộc.
 Phần Môn cầm thú: 7 tiểu mục có 7 bài (từ bài 248 đến bài 254)
đề tài về các loại thú vật.
Trong mỗi phần lại có nhiều đề m
ục, tất cả có 53 đề mục. Một đề mục
có thể chỉ gồm một bài thơ, nhưng có đề mục lại gồm một chùm thơ. Ví dụ
như đề mục Ngôn chí có 21 bài, đề mục Mạn thuật có 14 bài Những chùm
thơ như vậy được sáng tác theo một mạch, rất có thể là trong cùng một giọng.
Và trong từng chùm thơ, số bài nhiều hoặc ít có lẽ tuỳ thuộc vào nguồn cả
m

×