Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tham khảo bộ bài văn mẫu do HSG làm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.23 KB, 11 trang )

1. Tham khảo bộ bài văn mẫu do HSG làm
2. Tham khảo bộ dề HSG làm
3. Tham khảo 30 điểm tự HSG làm
4. Tham khảo bộ 6 trang nhưng công phá mọi đề
thi HSG khó nhất. (Nếu chưa tin bạn có thể gửi
mọi đề HSg khó nhất cho mình giải yêu cầu đề
trong 5 phút)
5. Văn Thọ ĐT, Zalol 0833703100
Tl chỉ phục vụ cá nhaanm không phân quyền
chia sẻ
BÀI LÀM
DANH MỤC CÁC BÀI LÀM VĂN
1.
Trên trang sách cuộc sống tuyệt vời biết bao nhưng cũng bi thảm biết
bao,cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn, cái nên thơ cịn lóng lánh giọt
2.

nước mắt ở đời"
Có ý kiến cho rằng: từ tiếng thơ đến tiếng thương là cuộc hành trình
đi đến bất tủ của thơ Nguyễn Du". Làm sáng tỏ ý kiến trên qua 1 hoặc

3.

1 vài đoạn trích Truyện Kiều đã học
Có ý kiến cho rằng: từ tiếng thơ đến tiếng thương là cuộc hành trình
đi đến bất hủ của thơ Nguyễn Du". Làm sáng tỏ ý kiến trên qua 1

4.

hoặc 1 vài đoạn trích Truyện Kiều đã học.( có 3 bài )
Có ý kiến cho rằng: từ tiếng thơ đến tiếng thương là cuộc hành trình


đi đến bất hủ của thơ Nguyễn Du". Làm sáng tỏ ý kiến trên qua 1
hoặc 1 vài đoạn trích Truyện Kiều đã học.


5.

Nguyễn Du là nghệ sĩ lớn mang trái tim của thời đại. Chứng minh qua

6.

tác phẩm Truyện Kiều.
Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ, và có tình
để rung động trái tim. Chứng minh câu nói trên bằng một văn bản, tác

7.

phẩm đã học.
“Nếu cứ chờ đợi cho đến lúc mọi thứ đã sẵn sàng, chúng ta sẽ chẳng

8.

bao giờ bắt đầu”. Nghị luận XH
Nhận xét về Truyện Kiều Hoài Thanhn đã viết: ”Truyện kiều như là
một hồn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi hay thêm bớt một gì, như
một tiếng đàn lạ không một lần lỗi nhịp ngang cung”. Em hãy chứng
minh qua các đoạn trích đã học để làm sáng tỏ nhận định trên

9.

“một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân


10.

cho chân lí giản dị của mọi thời”
“Xây dựng tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp
phần đem lại sự thành công cho truyện ngắn, giúp nhà văn khắc họa
rõ nét phẩm chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân vật đồng thời
bộc lộ sâu sắc ý đồ tư tưởng của mình”.

11.

“ Trong truyện ngắn có những chi tiết đóng vai trị vơ cùng quan
trọng, thiếu nó, cốt truyện sẽ khơng thể phát triển được. Phân tích chi
tiết cái bóng, bả chó, chiếc lá để làm sáng tỏ nhận định trên.”

12.

Bàn về thơ, Chế Lan Viên cho rằng: “Thơ cần có hình cho người ta
thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim.” em
hãy chứng minh câu nói trên qua tác phẩm mà em đã đươc học.

13.

Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ, và có tình
để rung động trái tim. Chứng minh câu nói trên bằng một văn bản, tác
phẩm đã học.


14.


Nên khi nhận xét về thơ Chế Lan Viên đã viết : thơ cần có hình... rung
động trái tim” điều đó được thể hiện qua các đoạn trích thơ của truyên
kiều – Nguyễn Du. (Có 3 bài khác nhau)

15.
“ Trong truyện ngắn có những chi tiết đóng vai trị vơ cùng quan
trọng, thiếu nó, cốt truyện sẽ khơng thể phát triển được. Phân tích chi
tiết cái bóng, bả chó, chiếc lá để làm sáng tỏ nhận định trên.”
16.

Tác phẩm văn học phản ánh hiện thực cuộc sống, thể hiện những
khám phá riêng và mảng thông điệp của người nghệ sĩ . Phân tích một

17.
18.

tác phẩm mà em đã học để làm sáng tỏ nhận định trên
TỔNG SỐ TRANG 85
Bài văn do HSG làm qua các kì thi, bản Word in ra để HS tham

19.

khảo, khơng chỉnh sửa
PHÍ TRỌN BỘ 150K

Tặng thêm bộ 10 mở bài mẫu theo cấu trúc sắn, gặp dạng đề nào là
áp dụng cho dạng đề đó ln, nhanh chóng, đơn giản, dễ nhớ và ấn tượng.
1

1. Mở bài về tình huống 6


6. Mở bài về thơ

2

truyện.
2. Mở bài về chi tiết 7

7. Mở bài về nhà văn.

3

truyện
3. Mở bài về giá trị nghệ

8. Mở bài về giá trị nhân

4
5

8

thuật.

đạo.

4. Mở bài về truyện ngắn. 9

9. Mở bài về hình tượng


5. Mở bài về nội dung

người phụ nữ
10. Mở bài về giá trị nghệ

10

thuật.
Mở

bài 2. Mở bài về chi tiết truyện


mẫu 1

Khi đánh giá về vai trò của chi tiết nghệ thuật, nhà phê bình Nguyễn
Đăng Mạnh cho rằng: “Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan
trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó những chi tiết
đóng vai trị đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy”. Một tác
phẩm hay là một tác phẩm mà ở đó nhà văn sáng tạo ra những chi
tiết đắt giá, có sức sống lâu dài, có ấn tượng với bạn đọc, chi tiết
truyện cũng như gam màu trên một bức tranh, nó làm cho bức tranh
nổi hình, nổi sắc. Vì thế khi đánh giá về chi tiết truyện có ý kiến cho
rằng: “Sứ mệnh của tuyển nhắn đặt lên vai các chi tiết nghệ thuật.
Chi tiết nghệ thuật là người tí hon mang sứ mệnh khổng lồ”

Mở

bài


mẫu 2

“Thơ hay giống như người con gái đẹp cái để làm ra quen là
nhan sắc cái để sống với nhau lâu dài là đức hạnh, nhan sắc của thơ
là chữ nghĩa, tấm lòng mới là đức hạnh của thơ”. Một tác phẩm văn
học ra đời đều có sứ mệnh riêng, nhưng để đi vào lịng độc giả đến
mn đời thì tác phẩm ấy phải mang trong mình những giá trị tư
tưởng tình cảm, tấm lịng nhân đạo mà người nghệ sĩ gửi gắm. Vì
thế, khi đánh giá về giá trị của tác phẩm văn học có ý kiến cho rằng:
“…” và điều đó được thể hiện một cách cách sâu sắc, chân thật, rõ
nét qua tác phẩm “…” của ….

BÀI LÀM SỐ 3: Có ý kiến cho rằng: từ tiếng thơ đến tiếng thương là
cuộc hành trình đi đến bất hủ của thơ Nguyễn Du". Làm sáng tỏ ý kiến trên
qua 1 hoặc 1 vài đoạn trích Truyện Kiều đã học.
Goethe đã từng nói: “trước một trí tuệ vĩ đại tôi cúi đầu, trước một trái
tim vĩ đại tôi quỳ gối”. Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc. Ông sống và cống hiến


đời mình cho nghệ thuật văn chương. Những áng thơ văn dưới ngịi bút của ơng
là những tuyệt tác nghìn năm chẳng phai mờ. Thơ ca của ông như những dịng
máu, dịng huyết lệ tí tách rơi trước những kiếp người bất hạnh, khổ đau, vùi
dập…đó là kết tinh của giọt ngọc tâm hồn – một giọt ngọc được mài dũa bóng
lống, đẹp đẽ và đầy thanh cao. Chính vì vậy, khi nhận xét về thơ Nguyễn Du,
đã có ý kiến cho rằng: “Từ tiếng thơ đến tiếng thương là cuộc hành trình đi đến
bất tử của thơ Nguyễn Du”. Một lần nữa, điều đó được thể hiện sâu sắc qua một
số đoạn trích trong tác phẩm Truyện Kiều.
Tiếng “thơ” ở đây là gì? Là tài năng, nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong
tác phẩm của mình. Tiếng “thương” là trái tim đồng cảm của tác giả đối với
những cảnh đời bất hạnh, đáng thương trong xã hội cũ. Nguyễn Du đối với con

người là từ những cảm xúc, từ những giọt huyết lệ thương cảm mà chuyển hóa
thành văn chương. Đó cũng là ý nghĩa sâu thẳm mà nhận định muốn ám chỉ đến
hoàn cảnh ra đời của thơ Nguyễn Du. Bất tử là không chết, ở đây hiểu là giá trị
tinh thần ấy trường tồn cùng thời gian năm tháng.
Trước hết, hành trình từ tiếng thơ đến tiếng thương của Nguyễn Du là
sự ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp, tài năng của người phụ nữ nói chung cũng
như chị em Thúy Kiều nói riêng. Trước hết là là Thúy Vân với khuôn mặt
đấy đặn, sáng đẹp như trăng rằm.
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
….Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Nét mày cong đậm như nét con ngài (người), nụ cười nàng đẹp đến mức
được ví như hoa, giọng nói thì trong trẻo như hạt ngọc, mái tóc thì óng ả, bay
bổng như mây. Vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu ấy quả là xao xuyến lòng người,
ngay cả thiên nhiên còn phải “thua kém, nhịn nhường” Nguyễn Du tả Thúy Vân
đã đẹp vậy rồi Thúy Kiều lại còn “càng sắc sảo mặn mà” hơn nữa. “làn thu
thủy, nét xuân sơn” nghe thôi đã thấy rợn mình trước vẻ đẹp ngây ngất ấy rồi!


Đơi mắt Thúy Kiều dưới ngịi bút của Nguyễn Du hiện lên long lanh như nước
mùa thu, nét mày thì mềm mại, tươi xanh như núi mùa xuân. Dung nhan tuyệt
thế này là sao! Đến cả tạo hóa cịn hờn ghen, đố kị thì huống hồ là người phàm?
Khơng chỉ có sắc mà Kiều cịn “thơng minh vốn sẵn tính trời”, đã vậy lại còn
“pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Bất kể là tài nào, chỉ cần là Kiều thì “ăn
đứt” mọi người. Thúy Kiều quả là nữ nhân tài sắc vẹn toàn! Bức chân dung
Thúy Kiều hiện lên từ những nét mực đều đặn của Nguyễn Du thật đẹp nhưng
cũng ẩn chứa điều gì. Và tại sao nói Thúy Vân lại “mây thua”, “tuyết nhường”
nhưng Kiều lại “hoa ghen”, “liễu hờn”? Chẳng phải là quá rõ rồi sao: thiên
nhiên, tạo hóa là nhún nhường, ngưỡng mộ nên số phận Vân sẽ êm đềm khơng
sóng gió; nàng Kiều thì đẹp vượt khn phép xã hội phong kiến nên số phận rồi
cũng éo le, trắc trở, nhiều sóng gió mà thơi! Tuy nhiên, thay vì vùi dập người

phụ nữ như xã hội phong kiến mục rữa thì Nguyễn Du lại chọn ngợi ca, trân
trọng họ. Thật không hổ danh là Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc.
Hành trình từ tiếng thơ đến tiếng thương của Nguyễn Du còn là sự
thấu hiểu, cảm thông, sẻ chia trước số phận bất hạnh của con người. “Trước
lầu Ngưng Bích khóa xn” mới câu đầu thôi mà sao nghe buồn đau, chua xót
vậy? “Khóa xn” là khóa kín tuổi xn, là bị giam lỏng ư? Thật trớ trêu cho
phận nàng Kiều! Qua khơng gian, cảnh vật ở lầu Ngưng Bích, ta phần nào thấu
được lịng Kiều: một thân một mình lẽ bóng, cô đơn bao trùm như muốn nuốt
chửng nàng vào trong. Bằng cách sử dụng những từ ngữ gợi tả thiên nhiên:
“non xa”, “trăng gần”, “bát ngát”, “cát vàng cồn nọ”, “bụi hồng dặm kia” gợi
lên bức họa thiên nhiên rộng lớn, mênh mơng, vơ tận, điều đó càng làm người
đọc xót thương hơn cho tấm thân nữ nhi mảnh khảnh của Kiều. Đứng chốn lầu
cao nhìn ra khơng trung, tâm hồn nàng lạc lõng chốn quạnh hiu, chỉ biết nỗi đau
ngày một bám víu, giằng xé con tim nhỏ bé của nàng. Nỗi đau nào bằng nỗi đau
của một người thiếu nữ phải rời bỏ tổ ấm, rời bỏ người mình thương yêu để rồi


lưu lạc chốn xa hoa ô nhục, bị ép làm gái lầu xanh. Nỗi nhục này biết rửa đâu
cho sạch? Liệu gieo mình xuống dịng sơng lạnh lẽo như cách Nguyễn Dữ chọn
cho Vũ Nương có rửa sạch hết vết ố trên thân nàng không? Thật thảm hại, nàng
giờ đây cơ đơn, hiu quạnh, lịng thì ngổn ngang trăm lối. Đó là tiếng thương
cảm, xót xa của nhà thơ trước hoàn cảnh tủi nhục của Kiều. (Sau mỗi luận
điểm phải láy lại từ khóa ở đề bài)
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những ngày trông mai chờ”
Nỗi nhớ này là sao? Là dành cho tình đầu của nàng! Nàng nhớ đêm trăng
cùng thề nguyện đính ước: “vầng trăng vằng vặc giữa trời / đinh ninh hai miệng
một lời song song” mối tình thật đẹp, thật giản dị. Nhưng với nàng ngay lúc này
mà nói thì thứ tình cảm ấy giống như một giấc mơ vậy. Vẫn là ánh trăng ấy, vẫn
là nàng, vẫn là chàng nhưng quá đỗi xa cách, khoảng cách này biết bao giờ mới

rút được lại? Và liệu rằng khi rút lại nó có cịn nguyên vẹn như ngày đầu
không? Nàng tưởng tượng cảnh chàng Kim ngày đêm mong mỏi nàng mà cảm
thấy có lỗi, nàng xót xa, đau đớn đến quặn lịng. Qua nỗi nhớ Kim Trọng, một
lần nữa ta lại thấy Nguyễn Du đứng về phía nàng Kiều, bày tỏ thái độ đồng cảm
sâu sắc đối với tâm trạng nàng: thay vì để nàng nhung nhớ cha mẹ trước như lễ
giáo phong kiến thì đàng này Kiều lại được nhớ chàng Kim trước bởi với cha
mẹ Kiều đã phần nào đền đáp được cơng ơn sinh thành, cịn với chàng ắt hẳn là
do nàng phụ bạc. Những vần thơ của Nguyễn Du như đi trong đáy lịng nàng
mà ra: “bên trời góc bể bơ vơ / tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Dù cho đang
ở đâu đi chăng nữa thì nàng vẫn khơng thể nào qn được mối tình đầu đẹp đẽ
với chàng Kim.
Chốn lầu cao lạnh lẽo, nàng sao có thể ngi được nỗi nhớ cha mẹ đây?
Hình dung cảnh cha mẹ ngày đêm mịn mỏi, “tựa cửa” ngóng trơng con trở về
nhưng đáng buồn thay vì chẳng một tin tức gì về con lọt tai mình. Nàng lo lắm,


lo rằng cha mẹ đã già yếu, nàng thì cách vạn dặm núi non, biết lấy ai phụng
dưỡng cha mẹ đây? “quạt nồng ấp lạnh” ai chăm chút? Nghe sao mà não lòng
vậy nhỉ? Người con hiếu thảo nhường này mà sao đời phũ phàng quá vậy? Tâm
trạng nàng giờ này thật bứt rứt, day dứt làm sao. Chưa kịp báo đáp cơng sinh
thành thì đã vạn trùng cách biệt với cha mẹ, ai lại không đau buồn cơ chứ? Kiểu
lúc này là sống trong tưởng tượng, khơng cịn là thực tại đau khổ nữa mà là một
thế giới do nàng tự họa ra. Qua đó ta thấy nàng tỏa ra mùi hương của lòng vị
tha, trái tim nhân hậu, tấm lòng hiếu thảo, thủy chung son sắt của nàng Kiều.
Tiếng thương của Nguyễn Du thật trong trẻo, thanh cao mang nặng tấm
lịng nhân đạo sâu sắc.
Hành trình từ tiếng thơ đến tiếng thương của thơ Nguyễn Du còn là
tiếng nói lên án, tố cáo xã hội bất cơng, tàn bạo. Đó là một xã hội thối nát,
một xã hội đồng tiền không bao giờ tồn tại hai chữ" công bằng". Và tác giả còn
thể hiện ước mơ về cuộc sống hanh phúc, ấm no của người phụ nữ khi đang

phải sống trong một xã hội nhớp nhua, chịu đủ những bất cơng, đày đọa. Một
tác phẩm muốn gắn bó lâu dài với bạn đọc, muốn trường tồn bền vững với thời
gian thì khơng thể thiếu nghệ thuật. Nguyễn Du đã khéo léo cho thấy tài năng
của mình qua tác phẩm Truyện Kiều. tác phẩm được viết dưới hình thức một
truyện thơ Nôm với thể thơ lục bát truyền thống quen thuộc. Về ngôn ngữ, tác
phẩm được viết bằng chữ Nơm có vận dụng kết hợp linh hoạt với các ca dao,
thành ngữ… quen thuộc. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, tác giả có sự kết
hợp giữa ngơn ngữ độc thoại để miêu tả nội tâm và ngôn ngữ đối thoại để thể
hiện tâm trạng, hoàn cảnh nhân vật. Với các nhân vật chính diện, Nguyễn Du sử
dụng ngịi bút ước lệ, ẩn dụ tượng trưng quen thuộc trong thơ trung đại; với các
nhân vật phản diện, nhà thơ thường sử dụng ngơn từ bình dân tả thực. Bên cạnh
đó, ơng cịn có những đặc sắc nghệ thuật khi tả cảnh với bút pháp tả cảnh ngụ
tình sinh động, giúp nhân vật thể hiện cảm xúc gián tiếp qua những câu thơ.


Tiếng thơ hay tiếng thương của đại thi hào Nguyễn Du là bất tử bởi lẽ dù là ai,
dù trong hồn cảnh thời đại nào thì thơ ơng, tình cảm ơng và tấm lịng của ơng
vẫn mãi mãi là vì sao sáng là hạt ngọc lung linh trong nền văn học nước nhà.
Nhận định “Từ tiếng thơ đến tiếng thương là hành trình đi đến bất tử
của thơ Nguyễn Du” là hồn tồn đúng đắn. Georges Boudared từng nhận
xét: “ít nhà thơ trên thế giới có khả năng đạt được tiếng vang sâu đậm trong dân
chúng của mình ở Nguyễn Du ở Việt Nam”. Tài năng này quả thật là đáng
phục! Nguyễn Du là người thợ và Truyện Kiều là hạt ngọc thanh cao, trong trẻo
được mài dũa dưới bàn tay điêu luyện của người. Dù đả trải qua hơn hai thế kỉ
gắn bó với thời gian, với bạn đọc nhưng khi nhắc đến Truyện Kiều vẫn là một
chấn động kinh người.

Kinh nghiệm khi bồi dưỡng HSG
1. Khi bồi dưỡng, GV đừng q nặng nề lí thuyết vì thực tế lí thuyết các
em đã được học trên lớp mà thay vào đó là dùng các đề thi để củng cố,

nâng cao, mở rộng kiến thức.
2. Sau mỗi buổi bồi dưỡng, giáo viên cho các em vài đề để các em về nhà
lập dàn ý, đến buổi thứ 2 giáo viên kiểm tra, chữa đề và nhận xét. Buổi
tiếp theo cũng tương tự, chúng ta dạy cuốn chiếu, đề nào dễ có thể chỉ
cho HS làm trước chứ ko cần dạy kĩ.
3. Yêu cầu các em nhớ dàn ý siêu ngắn gọn, tức là mỗi đề (đề tự luận 10
điểm) giáo viên yêu cầu các em chỉ được làm trong 20 đến 30 chữ là tối
đa. Từ 20 chữ này Gv tiếp tục yêu cầu các em triển khai thành dàn ý
chi tiết.


Ví dụ: đề bài là: “thiên hướng của người nghệ sĩc là đưa áng sáng đến
trái tim con người” (G. welles). Em hãy chứng mình bằng một tác phẩm
đã học thì HS chỉ làm dàn ý siêu ngắn gọn như sau:
+ Giải thích
+ Chứng minh bằng tác phẩm lão Hạc
+ Ánh sáng của lòng cảm thồn, chia sẻ
+ Ánh sáng của tình thương u
+ Ánh sáng của lịng tự trọng
+ Đặc sắc về nghiệ thuật

à Đây là dàn ý siêu ngắn gọn
4. Cho học sinh thi thử, làm bài nhiều lần. Nếu chỉ dạy và làm đề chưa
chắc các em đã nhớ, GV phải cho HS thi thử nhiều lần, thi trên giấy
như thi thật, chấm kĩ, sửa chữa ki để rút kinh nghiệm, đặc biệt là căn
thời gian sao cho hợp lí. Thực tế HS chúng ta rất tham lam kiến thức
hoặc là viết lan man, tràn làn dẫn đến không đủ thời gian. Thời gian
là cái bẩy của người ra đề, không cân đối thời gian cho cả bài thi hay
cho từng câu coi như thất bại. Ví dụ câu đọc hiểu chỉ chiếm 4 điểm
nên thời gian dành cho câu này chỉ tối đã là 15 đến 20 phút. Câu nghị

luận XH 6 điểm thời gian tối đa là 45 đến 50 phút còn câu nghị luận
Vh là 60 đến 65 phút.
5. Các bài kiểm tra định kì trên lớp GV cho HS giỏi làm đề riêng, tùy thời
gian cụ thể. Ví dụ bài viết 90 phút thì cho HS làm câu nghị luận văn
học, bài 45 phút thì cho làm câu nghị luận xh để tiết kiệm và tận dụng
tối đa thời gian
6. Ưu tiên điểm: Đừng khắt khe điểm với HS nói chung và đội tuyển nói
riêng. Động viên các em về điểm, 9,10 điểm. Chúng ta đi dạy lấy lương
thì HS đi học lấy điểm thôi.


7. Hỏi bài cũ: Bài cũ đối với HS giỏi cũng phải khác với HS binh thường.
Ví dụ: GV có thể hỏi câu “lên lập dàn ý ngắn gọn cho 1 đề nào đó”
hay lên viết cấu trúc của đề nghị luận XH…
8. Tóm lại: Bồi dưỡng HSG là một vấn đề nan giải, kinh nghiệm mỗi
người mỗi khác, tùy vào thực tế. Kinh nghiệm thì khơng biết biết mấy
là đủ, chỉ nói vài ba dịng thật khó mà hết. Nếu ái có kinh nghiệm nào
hay thì chia sẻ để mọi người học hỏi.
9. Chúc các bạn thành công.

KINH NGHIỆM NHỎ KHI LUYỆN HSG.
(phiên bản 2 thứ 2)
1. Khi dạy trên lớp



×