Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

THU HOẠCH phép biện chứng duy vật và phát triển phương pháp tư duy biện chứng duy vật trong hoạt động thực tiễn quân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.58 KB, 62 trang )

THU HOẠCH-Phép biện chứng duy vật và Phát triển phương
pháp tư duy biện chứng duy vật trong hoạt động thực tiễn
quân sự

1. Đặt vấn đề
Trong triết học Mác- Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng thống nhất hữu cơ với nhau. Vì thế, việc nghiên cứu tồn
diện phép biện chứng duy vật có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm
xây dựng thế giới quan duy vật triệt để và hệ phương pháp phổ
biến, khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phép biện
chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương
pháp. Hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện
chứng duy vật nó khơng chỉ phản ánh đúng sự vận động của tự
nhiên, xã hội, tư duy mà còn là công cụ sắc bén để con người nhận
thức thế giới khách quan, chỉ ra phương pháp hoạt động thực tiễn
nhằm cải tạo thế giới khách quan ấy một cách có hiệu quả.
2. Nội dung
2.1. Lịch sử ra đời của phép biện chứng và phép biện chứng
duy vật
Trong lịch sử triết học, phép biện chứng đã xuất phát từ gốc
Hylạp thời kỳ cổ đại “Dialectique”, có nghĩa là nghệ thuật tranh
luận để tìm chân lý, bằng cách phát hiện mâu thuẫn trong cách lập
luận. Theo đó, chúng ta có thể hiểu rằng phép biện chứng là nghệ


thuật đối thoại, đàm thoại, nghệ thuật tranh luận và phát hiện ra
mâu thuẫn. Nhưng nghệ thuật hiểu theo nghĩa rộng hơn, nó có thể
là thiên biến vạn hố, nó phụ thuộc vào các nhà đề xuất tư tưởng.
Từ sự hiểu biết đến chân lý, đến khoa học, đến tri thức, do đó cần
nghệ thuật tranh luận, đàm thoại và nó là con đường để đạt đến
chân lý. Thực ra tranh luận cốt là để tìm ra mâu thuẫn, có tranh


luận mới tìm ra được chân lý, bác bỏ sai lầm.
Phép biện chứng nó ln ln gắn liền với các nhà triết học,
với lịch sử phát triển của khoa học, của thực tiễn và trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau. Các nhà triết học sử dụng phép biện chứng
để tìm ra chân lý, phát hiện mâu thuẫn. Tư tưởng biện chứng ra
đời từ triết học phương Đông cổ đại (tư tưởng biện chứng của các
nhà triết học phương Đông chưa rõ nét), nhưng đến thời kỳ Hylạp
cổ đại mới phát triển mạnh mẽ, thông qua quan sát trực tiếp tự
nhiên và trực tiếp rút ra các kết kuận từ giới tự nhiên.
Hình thức thứ nhất của phép biện chứng.
Giai đoạn đầu tiên thời kỳ Hylạp cổ đại là phép biện chứng tự
phát, người đầu tiên đưa ra phép biện chứng là Xơcrát, sau này là
Platơn, mà đỉnh cao là Hêraclít- người được Lênin coi như là “ông
tổ” của phép biện chứng.
Theo Xơcrát “con người hãy nhận thức chính mình” và ơng
dạy học trị của mình (trong đó có cả Platơn) chỉ bằng phương
pháp tranh luận, đàm thoại. Ông cho rằng, khám phá ra chân lý
2


đích thực về bản chất sự vật tức là phải hiểu nó ở mức độ khái
niệm. Phương pháp của ơng gồm bốn giai đoạn; ơng đưa ra “cái
phổ biến”, nó là cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh.
Muốn tuân theo cái thiện phổ biến thì phải nắm bắt được nó, hiểu
nó. Để phát hiện được cái phổ biến, phải có phương pháp tìm ra
chân lý thơng qua các cuộc tranh luận, toạ đàm, luận chiến.
Talét thành tựu nổi bật của ơng là giải thích tự nhiên khơng
phải bằng tín điều tơn giáo, mà bằng nghiên cứu hiện thực, xuất
phát từ việc quan sát trực tiếp sự vật, ơng cho rằng nước giữ vai
trị trực tiếp quan trọng trong tự nhiên cũng như trong đời sống

con người, cũng như mọi thức ăn, mọi sự vật đều ẩm ướt, hạt
giống của mọi sự vật đều ẩm ướt... nguồn gốc ẩm ướt của vật thể
chính là nước, khơng có nước là khơng có gì cả. Vì thế, Talét cho
rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật, tất cả bắt
đầu từ nước, rồi trở lại về với yếu tố cuối cùng là nước. Như vậy
theo Talét, vật chất (nước) vận động vĩnh viễn- thế giới tồn tại
tuần hồn khép kín của nước, thế giới tồn tại thống nhất ở nước.
Những quan niệm triết học duy vật nói trên tuy cịn mộc mạc, thơ
sơ, nhưng có chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát, ngây
thơ.
Còn Anaximăngđrơ đã nêu ra những phỏng đoán về phép biện
chứng một cách thiên tài. Theo ơng chất Apâyrơn có ẩn chứa
những mặt đối lập giữa cái đơn và cái đa (nhiều), giữa cái nóng và
3


cái lạnh, giữa cái khơ và cái ướt. Chính những mặt đối lập ấy đã
làm cho sự vật thành những dạng vật chất khác nhau. Ông bác bỏ
quan niệm về tính đồng nhất tuyệt đối, thuần t, khơng có khác
biệt của sự vật...Chứng tỏ quan niệm đó có chứa đựng những yếu
tố biện chứng một cách tự nhiên, tự phát.
Người có cơng lao đóng góp những giá trị to lớn về phép biện
chứng phải kể đến trường phái triết học Êphetsơ đại diện là
Hêraclít. Ơng là đại biểu điển hình nhất của chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng trong giai đoạn đầu của triết học Hy Lạp cổ đại.
Cống hiến lớn nhất và nổi tiếng của ông là triết học duy vật với rất
nhiều yếu tố biện chứng có giá trị, tuy ơng chưa trình bày dưới
dạng một hệ thống các luận điểm khoa học như sau này, mặc dù là
biện chứng sơ khai nhưng nó có giá trị to lớn được các nhà triết
học cổ điển Đức sau này kế thừa và các nhà sáng lập triết học

Mác xít đánh giá cao. Hêraclít cịn đi xa hơn các vị tiền bối ở phép
biện chứng, chính ơng là người sáng lập ra phương pháp biện
chứng. Lênin đánh giá phép biện chứng của Hêraclít là “phép biện
chứng hồn tồn khách quan coi như là nguyên lý của tất cả cái gì
tồn tại”1. Giá trị nổi bật trong phép biện chứng của Hêraclít cống
hiến cho triết học duy vật Hy Lạp cổ đại là quan niệm về vận động
vĩnh viễn của vật chất. Ông cho rằng lửa chẳng những là nguyên
nhân sinh ra mọi vật mà còn là nguồn gốc của mọi vận động,
Hêraclít cho rằng, cái chết của lửa là sự ra đời của khơng khí, cái
1

Lênin tồn tập,tập 29, Nxb Tiến bộ.M.1981, tr 277

4


chết của khơng khí là sự ra đời của nước, từ cái chết của nước
sinh ra khơng khí, từ cái chết của khơng khí là lửa và ngược lại.
Ơng đã căn cứ vào những kinh nghiệm cảm tính khái quát một kết
luận nổi tiếng về vật chất vận động “mọi vật đều trơi đi, chảy đi,
khơng có cái gì đứng nguyên tại chỗ”; “tất cả mọi vật đều vận
động, không có cái gì tồn tại mà lại cố định”... Hêraclít khẳng
định luận điểm bất hủ: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng
một dịng sơng, vì nước sơng khơng ngừng chảy”2. Ngay cả mặt
trời ông cũng cho rằng mặt trời mỗi ngày một mới. Với quan niệm
như vậy nhiều nhà triết học Hy Lạp cổ đại coi ông là nhà triết học
vận động và gọi ông là “học thuyết về dòng chảy”. So với các nhà
triết học tiền bối cùng thời thì Hêracrít đã đưa triết học duy vật cổ
đại tiến lên một bước mới với những quan điểm duy vật và những
yếu tố biện chứng. Cái quý giá nhất trong triết học của ông là phép

biện chứng mặc dù chỉ là phép biện chứng tự phát, ngây thơ, ông
cũng xuất phát từ tự nhiên chứ không phải từ thần thánh để giải
thích tự nhiên. Ơng chống lại những quan niệm siêu hình và chỉ ra
mối liên hệ của vũ trụ và sự vận động, phát triển của thế giới...
Hêracrít quan niệm về linh hồn con người ngồi lửa ra cịn có cả
những chỗ ẩm ướt cho nên mới sinh ra người tốt, người xấu. Linh
hồn con người là sự thống nhất của hai mặt đối lập- cái ẩm ướt và
lửa... Lênin đánh giá cao quan niệm này của ông vì đã thể hiện
những điểm cơ bản của phép biện chứng.
2

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội. 2003.tr105.

5


Tóm lại, dưới góc độ phép biện chứng nhìn chung những giá
trị triết học của nó có ý nghĩa rất to lớn, trong đó phải nói đến
Hêraclít, triết học của ông rất nhiều yếu tố biện chứng có giá trị
được các nhà triết học Mácxít đánh giá cao. Các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng chỉ cốt nâng cao nghệ
thuật tranh luận, nghệ thuật hùng biện để bảo vệ những luận điểm
triết học của mình và để tìm ra chân lý. Kết quả của quá trình
nghiên cứu này nhiều nhà triết học đã nhận thức được và phát hiện
ra nhiều yếu tố của phép biện chứng như mối liên hệ giữa các hiện
tượng và sự vật, sự vận động vĩnh viễn của vật chất; tính thống
nhất của những mặt đối lập của sự vật, tính nhân quả của sự phát
sinh, phát triển diệt vong của sự vật. Những yếu tố biện chứng đó
chính là sự phỏng đoán thiên tài về những nguyên lý và quy luật
của phép biện chứng mà Mác, Ănghen gọi là phép biện chứng

“với tính chất thuần phác tự nhiên chưa bị khuấy đục bởi những
trở ngại đáng yêu mà chính chủ nghĩa siêu hình tạo cho nó” 3. Nó
chưa được khoa học chứng minh bằng thực nghiệm và cũng chưa
được nghiên cứu một cách tự giác, có ý đồ, có mục đích từ đầu, nó
chưa thành hệ thống, cịn lẻ tẻ, nó chưa đủ sức vạch ra quy luật
của giới tự nhiên, nhưng nó đã vạch ra được trực tiếp bản chất của
thế giới, nó dựa trên quan điểm duy vật, nó chống lại quan điểm
duy tâm tơn giáo. Đó là hình thức đầu tiên, hình thức cổ đại của
phép biện chứng. Đặc điểm nổi bật theo quan điểm biện chứng đó,
3

C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, t 20, tr 491.

6


thế giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận của nó có
mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác động và ảnh hưởng
lẫn nhau, thế giới và các bộ phận cấu thành thế giới ấy khơng
ngừng vận động và phát triển. Theo Ăngghen mặt tích cực của
phép biện chứng chất phác thời kỳ cổ đại đó là: “Cái thế giới quan
ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới
quan của các nhà triết học Hylạp cổ đại và lần đầu tiên đã được
Hêraclít trình bày một cách rõ ràng”4. Đồng thời Ăngghen cũng
chỉ ra hạn chế của phép biện chứng chất phác thời kỳ cổ đại đó là:
“Cách nhìn ấy, dù cho nó có nắm đúng tính chất chung của tồn
bộ bức tranh về các hiện tượng, vẫn khơng đủ để giải thích những
chi tiết hợp thành bức tranh toàn bộ, và chừng nào chúng ta chưa
biết được các chi tiết ấy thì chúng ta chưa thể hiểu rõ được bức
tranh toàn bộ ấy”5. Như vậy phép biện chứng chất phác thời kỳ cổ

đại chưa làm rõ được cái gì đanh liên hệ cúng như những quy luật
nội tại của sự vận động và sự phát triển.
Hình thức thứ hai của phép biện chứng
Đó là phép biện chứng duy tâm khách quan, hình thức này
gắn liền với các nhà triết học cổ điển Đức, từ Cantơ đến Hêghen.
Cantơ là người đầu tiên có cơng quay lại với phép biện chứng,
là người đột phá khẩu tấn công vào chủ nghĩa siêu hình. Theo
Cantơ sự tương tác giữa lực hút và lực đẩy làm cho vật chất vận
4
5

C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, t 20, tr 35.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, t 20, tr 35.

7


động và vật chất khơng hình biến thành những thiên thể hình cầu.
Với sự phát hiện đó, ơng đã tìm ra phép biện chứng, mặc dù chỉ
trong lĩnh vực nhận thức.
Cịn Phíchtơ, ơng đã nêu ra mâu thuẫn là nguồn gốc của mọi
sự phát triển, nhưng cũng chỉ là mâu thuẫn trong ý thức mà thôi,
mâu thuẫn chỉ xảy ra trong quá trình tư duy.
Sêlinh cho rằng, phát triển là tư tưởng đấu tranh của các mặt
đối lập, các mặt đối lập và đấu tranh của các mặt đối lập là chìa
khố của sự phát triển.
Đến Hêghen ơng đã xây dựng học thuyết về sự “phát triển”.
Phạm trù trung tâm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của
Hêghen là “phát triển”. Phát triển là một quá trình, là quá trình
vận động, quá trình tự thân vận động của ý niệm tuyệt đối. Theo

Hêghen, giới tự nhiên và xã hội loài người chỉ là sự tồn tại khác
của “ý niệm”, do sự tha hoá của ý niệm mà tạo thành. Ăngghen
viết: “...ở Hêghen, phép biện chứng là sự tự phát triển của khái
niệm”6, từ “ý niệm tuyệt đối, tha hoá thành giới tự nhiên”, “cái gì
hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”; Hêghen viết:
“tính hiện thực trong sự phát triển của nó tự bộc lộ ra là tính tất
yếu”...Đó là luận điểm thể hiện tính hai mặt trong lập trường của
Hêghen: vừa mang tính cách mạng, khoa học, vừa bảo thủ, phản
động về mặt triết học. Luận điểm trên của Hêghen không chỉ
muốn bảo vệ, duy trì mọi cái đang tồn tại- nền chuyên chế nhà
6

C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 249.

8


nước quân chủ Phổ, mà điều cơ bản nhất theo ông, không phải tất
cả những gì hiện đang tồn tại cũng là hiện thực mà thuộc tính hiện
thực chỉ thuộc về những gì đồng thời là tất yếu. Rõ ràng mâu
thuẫn lớn nhất của triết học Hêghen là mâu thuẫn giữa hệ thống và
phương pháp- hệ thống duy tâm đã bóp nghẹt phương pháp biện
chứng. Ăngghen viết: “Hêghen khơng bị đơn giản gạt ra một bên.
Trái lại, người ta lấy phương diện cách mạng đã trình bày trên kia
của triết học Hêghen, tức là phương pháp biện chứng, làm điểm
xuất phát. Nhưng hình thức hiểu Hêghen thì phương pháp ấy lại
khơng dùng được”7. Mác đã vạch rõ: “Tính chất thần bí mà phép
biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không
ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao
qt và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện

chứng. ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất.
Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái nhân hợp lý của nó ở
đằng sau cái vỏ thần bí của nó”8. Phép biện chứng của Hêghen là
phép biện chứng của tư duy, là phép biện chứng của ý niệm tuyệt
đối. Do đó, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy
tâm. Ăngghen viết: “Hêghen là một nhà duy tâm, nghĩa là đối với
ơng thì những tư tưởng trong đầu óc của chúng ta khơng phải là
những phản ánh ít nhiều trừu tượng của những sự vật và quá trình
hiện thực, mà ngược lại, những sự vật và sự phát triển của chúng,
đối với Hêghen, chỉ là những phản ánh thể hiện cái “ý niệm” nào
7
8

C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 248- tr 249.
C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, t 20, tr 494.

9


đó tồn tại ở một nơi nào đó ngay trước khi có thế giới. Như vậy, tất
cả đều bị đặt lộn ngược và mối liên hệ hiện thực của các hiện tượng
của thế giới đều hoàn toàn bị đảo ngược”9. Đó là sự sai lầm của
Hêghen, theo Ăngghen, do những giới hạn không thể tránh được
của những tri thức của bản thân ông, do tri thức và những quan
niệm của thời đại ấy mà ông không thể vượt qua, điều quan trọng
nữa ông là nhà duy tâm. Mâu thuẫn lớn nhất của triết học Hêghen
là mâu thuẫn giữa phương pháp biện chứng với hệ thống duy tâm.
Hình thức thứ ba của phép biện chứng là phép biện chứng
duy vật.
Ăngghen đã trình bày lịch sử hình thành và phát triển của

phép biện chứng. Ơng đã chứng minh tính quy luật của quá trình
thay thế các thời kỳ cơ bản của lịch sử triết học, thơng qua sự thay
thế các hình thức của phép biện chứng. Ông đã luận chứng phép
biện chứng duy vật ra đời trên cơ sở kế thừa các hình thức tư duy
trước đó: từ phép biện chứng duy vật thời cổ đại đến phép siêu
hình, đến phép duy vật thế kỷ XVIII và phép biện chứng duy vậtlà hình thức cao nhất của tư duy.
Chính sự phát triển của khoa học và thực tiễn, mà trực tiếp là
thực tiễn sản xuất vật chất và thực tiễn đấu tranh chính trị- giai
cấp, địi hỏi phải phá bỏ hệ thống triết học duy tâm của Hêghen.
Kế thừa có chọn lọc những thành quả của các nhà triết học tiền
bối, Mác và Ăngghen đã cải tạo phép biện chứng duy tâm của
9

C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, t 20, tr 40- tr 41.

10


Hêghen và quan điểm duy vật của Phoiơbắc, dựa trên việc khái
quát những thành quả mới nhất của khoa học đương thời cũng như
thực tiễn lịch sử loài người, các ông đã sáng tạo ra phép biện
chứng duy vật- giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng
trong lịch sử triết học. Trong phép biện chứng đó ln ln có sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật biện chứng và
phương pháp biện chứng duy vật.
Mác và Ăngghen đã xây dựng được chủ nghĩa duy vật biện
chứng với nội dung hoàn toàn cách mạng và khoa học, làm cho
triết học Mác triệt để và hoàn bị. Phép biện chứng duy vật đã kế
thừa tất cả yếu tố tiến bộ của các hình thức trước đó của nó, trong
đó trực tiếp là phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Công lao lớn

nhất của Mác và Ăngghen ở chỗ tạo được sự thống nhất giữa chủ
nghĩa duy vật với phép biện chứng trong lịch sử phát triển triết
học nhân loại, làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Phép biện chứng duy vật của các ông đã khái quát
một cách đúng đắn những quy luật vận động và phát triển chung
nhất của thế giới. Nhờ đó mà các ơng đã khắc phục được những
hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ đại cũng như
những sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan làm cho
phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học. Ăngghen viết:
“Công lao của Mác là ở chỗ ông là người đầu tiên đã phục hồi lại
phương pháp biện chứng đã bị bỏ quên, nêu rõ những mối quan hệ
và sự khác nhau của phương pháp đó với phép biện chứng của
11


Hêghen, và đồng thời, trong bộ “Tư bản”, ông đã áp dụng phương
pháp đó vào những sự kiện của một khoa học thực nghiệm xác
định, khoa học kinh tế chính trị. Ơng đã thành cơng đến mức là
ngày nay, nếu phái kinh tế chính trị học hiện đại ở nước Đức mà
hơn được phái mậu dịch tự do tầm thường thì cũng là nhờ đã
mượn cớ phê phán Mác để sao chép lại Mác”10.
Theo đó, Ăngghen đã chỉ ra sự hình thành chủ nghĩa duy vật
biện chứng là kết quả của quá trình cải tạo căn bản phép biện
chứng của Hêghen. Hêghen là người đầu tiên trong lịch sử triết
học trình bày tồn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng
một quá trình nghĩa là sự vận động biến đổi và phát triển không
ngừng; ông cũng nêu ra hệ thống những quy luật, phạm trù của
phép biện chứng trong bộ đại lơgích của ơng. Ăngghen viết: “ở
Hêghen, sự phát triển biện chứng biểu hiện trong giới tự nhiên và
trong lịch sử...chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của ý niệm,

một sự tự vận động diễn ra vĩnh viễn, không biết ở đâu, nhưng dù
sao cũng độc lập đối với mọi bộ óc đang tư duy của con người. Sự
xun tạc có tính chất tư tưởng hệ ấy là cái cần phải gạt bỏ. Chúng
tôi lại xem xét một lần nữa một cách duy vật rằng những ý niệm
trong đầu óc của chúng ta, coi đó là những phản ánh của sự vật
hiện thực, chứ không phải xem xét những sự vật hiện thực, coi đó
là những phản ánh của giai đoạn này hay giai đoạn khác của ý

10

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, t 20, tr 494.

12


niệm”11. Trên cơ sở đó, Ăngghen nhắc lại định nghĩa về phép biện
chứng duy vật: “Phép biện chứng đã được coi là khoa học về
những quy luật phổ biến nhất của mọi vận động” 12. Phép biện
chứng được quy thành khoa học về các quy luật chung của sự vận
động của thế giới bên ngoài cũng như của tư duy con người, thành
hai loại quy luật đồng nhất về chất nhưng về biểu hiện thì khác
nhau theo ý nghĩa là bộ óc con người có thể áp dụng những quy
luật đó một cách có ý thức, và chỉ ra tính thứ nhất của biện chứng
khách quan và biện chứng thứ hai của tính chủ quan- biện chứng
của ý niệm chỉ là sự phản ánh vào ý thức sự vận động biện chứng
của thế giới hiện thực, cho nên quá trình cải tạo phép biện chứng
duy tâm của Hêghen bằng cách: “...như vậy là phép biện chứng
của Hêghen đã được đặt đầu lên trên hay nói đúng hơn, từ chỗ
trước kia nó đứng bằng đầu, bây giờ người ta đặt cho nó đứng
bằng chân”13. Nhưng phép biện chứng của chủ nghĩa Mác hoàn

toàn đối lập với phép biện chứng của Hêghen. Mác viết: “Phương
pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của
Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa.
Đối với Hêghen, quá trình tư duy- mà ơng ta thậm chí cịn biến
thành một chủ thể độc lập dưới cái tên gọi ý niệm- chính là vị thần
sáng tạo ra hiện thực, và hiện thực này chẳng qua chỉ là biểu hiện
bên ngoài của tư duy mà thơi. Đối với tơi thì trái lại, ý niệm chẳng
11

Triết học, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, tr181.
C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, t 20, tr 768.
13
C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 430.
12

13


qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người
và được cải biến đi ở trong đó”14. Mác viết tiếp: “Phương pháp
trình bày của tơi khơng phải phương pháp của Hêghen, vì rằng tơi
là nhà duy vật, còn Hêghen là nhà duy tâm. Phép biện chứng
Hêghen là hình thức cơ bản của mọi phép biện chứng, nhưng chỉ
sau khi nó đã được giải thốt khỏi hình thức thần bí của nó, mà
đây chính là cái phân biệt nó với phương pháp của tơi” 15. Như vậy,
Mác và Ăngghen đã chỉ ra cơ sở duy tâm của triết học Hêghen,
vạch ra mâu thuẫn chủ yếu giữa hệ thống triết học bảo thủ, giáo
điều với phương pháp biện chứng cách mạng. Hệ thống triết học
của Hêghen đã coi thường nội dung đời sống thực tế và xuyên tạc
bức tranh khoa học hiện thực. Phép biện chứng duy tâm của

Hêghen đã bất lực trước sự phân tích thực tiễn, phân tích sự phát
triển của nền sản xuất vật chất và đặc biệt là bất lực trước sự phân
tích các sự kiện chính trị.
Ăngghen nhắc lại cơ sở khoa học tự nhiên dẫn đến sự hình
thành phép biện chứng duy vật. Chính việc phát triển của khoa
học từ khoa học sưu tập “về những vật chất bất biến” sang khoa
học hệ thống hố, khoa học về q trình dẫn đến làm sụp đổ
phương pháp tư duy siêu hình và khẳng định phương pháp tư duy
biện chứng. Ăngghen cũng đánh giá một lần nữa ba phát minh vĩ
đại của thời đó là phát minh ra tế bào, phát minh ra định luật bảo
14

C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1993, t 23, tr 35.
C. Mác và Ph. Ănghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 32, tr 729.

15

14


tồn và chuyển hố năng lượng và học thuyết tế bào của Đácuyn.
Ăngghen cho rằng nhờ ba phát minh vĩ đại đó khoa học tự nhiên
có thể chứng minh những nét lớn của mối liên hệ giữa các quá
trình của tự nhiên không những trong các lĩnh vực riêng biệt, mà
cả mối liên hệ giữa các lĩnh vực riêng biệt ấy nói chung và có thể
trình bày một bức tranh bao quát về mối liên hệ trong tự nhiên.
Ăngghen viết: “Nhờ ba phát hiện vĩ đại ấy, người ta đã giải thích
được những q trình chủ yếu của giới tự nhiên, tìm ra được
những nguyên nhân tự nhiên của những quá trình ấy”16.
Ăngghen khẳng định sự ra đời và phát triển của phép biện

chứng duy vật là một tất yếu khách quan vì nó hội đủ các tiền đề
về lý luận và tự nhiên. Đó là các tiền đề về lý luận đã chín muồi;
khoa học tự nhiên phát triển mạnh; điều đặc biệt là phong trào đấu
tranh của giai cấp cơng nhân phát triển mạnh mẽ... những yếu tố
đó đã cung cấp dữ liệu cho triết học khái quát cho phép xuất hiện
phép biện chứng duy vật. Ông viết: “Sự nhận thức có hệ thống về
tồn bộ thế giới bên ngồi có thể đạt được những thành tựu khổng
lồ từ thế hệ này qua thế hệ khác”17.
Phép biện chứng và phép siêu hình là hai mặt đối lập
trong phương pháp chung nhất của tư duy.
Phép siêu hình và phép biện chứng là hai phương pháp tư duy
phổ biến của loài người tồn tại song song và đối lập nhau.
16
17

C.Mác-Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 676.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 41.

15


Nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người và
cũng nhờ sự tiến bộ của nhận thức, con người đã tiến hành nghiên
cứu các bộ phận khác nhau của thế giới. Trong quá trình nghiên
cứu, người ta tạm thời không chú ý tới mối liên hệ giữa khách thể
đang nghiên cứu với các khách thể khác cũng như với thế giới nói
chung, tạm thời cố định sự vật ở trạng thái hiện có mà khơng xem
xét nó trong quá trình vận động và phát triển. Nhờ vậy, tri thức
của con người về thế giới ở trạng thái tĩnh ngày càng trở nên sâu
sắc. Các nhà triết học coi phương pháp tư duy phân tích, mổ xẻ

thế giới là phương pháp duy nhất để nhận thức và cải tạo thế giớiphương pháp tư duy siêu hình đã ra đời.
Phương pháp tư duy siêu hình nhìn tự nhiên một cách tĩnh tại,
ngưng đọng, trong sự tách rời, ngẫu nhiên, là tổng cộng gộp lại
của tất cả các sự vật, hiện tượng. Phép siêu hình coi nguồn gốc
của sự phát triển là do ngoại lực, do cái hích của thượng đế, phủ
nhận tự thân vận động, tự thân phát triển. Phép siêu hình chỉ nhìn
nhận một hình thức vận động cơ học; sự phát triển chỉ là sự tăng
giảm về lượng, mở rộng trong không gian, kéo dài trong thời gian;
nó chỉ thừa nhận hoặc là đúng, hoặc là sai; nó khơng nhìn thấy cái
mới mà phủ định sạch trơn. Sự phát triển khơng có định hướng.
Hạn chế lớn nhất của phép siêu hình là tính cơ lập tách rời các đối
tượng nghiên cứu, không thấy mối liên hệ, phủ nhận sự phát triển
do đó, nó phản ánh khơng đúng bản chất của thế giới khách quan.
Đánh giá về những hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình
16


Ăngghen viết: “Nó chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà
khơng nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn
thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà khơng nhìn thấy sự phát
sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái
tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự
vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà khơng thấy rừng”18.
Khoa học ngày càng phát triển mạnh mẽ, tự nó cũng đã chứng
minh rằng bản thân thế giới luôn luôn tồn tại một cách biện
chứng, có sự liên hệ, tác động lẫn nhau, ln vận động và phát
triển. Quan điểm siêu hình cũng chính bị khoa học tự nhiên làm
mất đi cơ sở tồn tại của nó. Nó đã bị phép biện chứng duy tâm
khách quan phủ định.
Việc kết hợp một cách tài tình giữa việc giải phóng chủ nghĩa

duy vật khỏi tính chất trực quan, máy móc siêu hình và giải phóng
phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí, Mác và Ăngghen,
lần đầu tiên trong lịch sử, đã sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật
triết học hồn bị, ở đó chủ nghĩa duy vật thì biện chứng, cịn phép
biện chứng thì duy vật; lý luận triết học gắn bó chặt chẽ với thực
tiễn- đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Tuy nhiên trong thực
tiễn cuộc sống, cũng như trong nhận thức và cải tạo thế giới phải
kết hợp, vận dụng khéo léo cả hai phương pháp biện chứng duy
vật và phương pháp siêu hình, có như vậy mới nhận dạng đúng sự

18

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, t 20, tr 37.

17


vật ở thời điểm, vị trí nào đó để có biện pháp phù hợp cải tạo
chúng phục vụ lợi ích của con người.
Phép biện chứng duy vật là sự phát triển đến đỉnh cao
của phép biện chứng.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học, Ăngghen coi phép biện
chứng duy vật là hình thức cao nhất của tư duy khoa học và chỉ ra
sự đối lập về nguyên tắc giữa phép biện chứng và phép siêu hình,
sự khác nhau căn bản giữa phép biện chứng mác xít và phép biện
chứng duy tâm của Hêghen.
Sự phát triển của thế giới quan biện chứng trong lịch sử tư
tưởng triết học, chúng ta thấy phép biện chứng mácxít đối lập với
phép biện chứng duy tâm, đó là sự khác nhau căn bản của hai
phương pháp trên. Ăngghen viết: “Có thể nói rằng hầu như chỉ có

Mác và tơi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát
khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó trong quan niệm duy vật về
tự nhiên và về lịch sử”19. Phép biện chứng duy vật được Ăngghen
coi là sự tổng kết tồn bộ q trình phát triển của triết học và khoa
học tự nhiên, đồng thời là sự khái quát các quy luật khách quan
của giới tự nhiên và xã hội. Ăngghen viết tiếp: “Trái lại, đối với
phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét
những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong

19

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 22.

18


mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận
động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”20.
Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về phép biện chứng: “Phép
biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”21. Phép biện chứng là khoa học vì nó tự giác
nghiên cứu thế giới; nó phản ánh quy luật khách quan, nó cung
cấp cho con người công cụ nhận thức vĩ đại. Phép biện chứng nhìn
nhận thế giới trong sự vận động phát triển khơng ngừng, trong
mối liên hệ, trong sự tác động lẫn nhau, trong sự tất yếu, tất nhiên,
ràng buộc trong mối quan hệ nhân quả; nó là một chỉnh thể thống
nhất và thống nhất ở tính vật chất. Mâu thuẫn là nguồn gốc, động
lực của sự phát triển. Phép biện chứng thừa nhận năm hình thức
vận động, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, vận động

là sự cố hữu của vật chất. Phép biện chứng coi sự phát triển là quá
trình đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện; Tư duy biện chứng là một tư duy mềm dẻo,
linh hoạt. Tư duy biện chứng ngoài thừa nhận trong những trường
hợp cần thiết, bên cạch cái “hoặc là...hoặc là” cịn có cái “vừa
là...vừa là”; nó coi các giá trị có sự chuyển hoá cho nhau trong sự
thống nhất của các mặt đối lập. Phát triển là tìm ra cái mới, phát
hiện cái mới, phủ định biện chứng, phát triển có tính định hướng.
20
21

C.Mác-Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 38.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 201.

19


* Đặc trưng của phép biện chứng duy vật được biểu hiện
trên các nội dung cơ bản sau đây:
- Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng;
Đây là sự thống nhất giữa học thuyết và phương pháp nhận
thức. Ngược lại, đây là sự thống nhất giữa phương pháp tư duy
với học thuyết.
- Nó là sự thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức
và lơ gíc biện chứng;
Đây là đặc trưng cơ bản, điển hình: Theo Ăngghen: “Phép
biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”22. Lý luận nhận thức là phép biện chứng

trong nhận thức luận, và lơgích biện chứng là phép biện chứng về
sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng- “suy từ hình thức
này ra hình thức khác; xác định mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau
giữa chúng chứ không phối hợp chúng với nhau” 23. Lênin đã
khẳng định phép biện chứng, lý luận nhận thức và lơ gích biện
chứng là một cái duy nhất. Nó thống nhất ở tự bản thân nó và tự
thế giới khách quan, nó vận động biến đổi khơng ngừng vốn có
của nó; Phép biện chứng, lý luận nhận thức và lơ gích biện chứng
chỉ phản ánh cái vốn có mà thơi, trong đó phép biện chứng là lý
22
23

C.Mác-Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 201.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 710.

20


luận chung nhất, nó chỉ phản ánh đúng sự vận động biến đổi
khách quan khi nó tuân thủ nghiêm ngặt của nhận thức, đúng con
đường nhận thức chân lý đó là, từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn. Mặt khác, nó
tn thủ đúng các ngun tắc của lơ gích biện chứng tức là: Phải
xem xét sự vật hiện tượng khách quan chống chủ quan; Phải xem
xét sự vật hiện tượng một cách toàn diện chống phiến diện; Phải
xem xét sự vật hiện tượng lịch sử, cụ thể chống phi lịch sử, chung
chung, trừu tượng không cụ thể; Phải xem xét sự vật hiện tượng
thực tiễn, gắn với hoạt động của con người, chống xa rời thực tiễn,
không gắn với hoạt động của con người; Phải xem xét sự vật hiện
tượng trong sự phát triển, chống lại quan điểm siêu hình; Có như

vậy nó mới phản ánh đúng sự vận động phát triển của thế giới
khách quan, thực chất là sự thống nhất giữa học thuyết với
phương pháp nhận thức.
- Sự thống nhất trên cơ sở thực tiễn.
Vì bản thân thực tiễn luôn luôn vận động phát triển, biến đổi
không ngừng vì vậy phép biện chứng, lý luận nhận thức, lơgích
biện chứng phải bám sát thực tiễn để phản ánh, phản ánh thực tiễn
vận động.
- Đó là sự thống nhất giữa biện chứng khách quan và biện chứng
chủ quan.

21


Trong tư duy khoa học đòi hỏi phải phân định rõ ràng, đồng
thời thấy được sự thống nhất cơ bản giữa biện chứng khách quan
và biện chứng chủ quan. Trước hết chúng ta xem xét chúng từ
khái niệm:
Biện chứng khách quan là phạm trù dùng để chỉ biện chứng
của bản thân các sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại độc lập và ở
bên ngoài ý thức con người.
Biện chứng chủ quan là phạm trù dùng để chỉ tư duy biện
chứng và biện chứng của chính q trình phản ánh hiện thực
khách quan vào đầu óc con người.
Ăngghen đã chỉ ra mối quan hệ giữa biện chứng khách quan
và biện chứng chủ quan. Theo ông: “Biện chứng gọi là khách
quan thì chi phối trong tồn bộ giới tự nhiên, cịn biện chứng gọi
là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi
phối, trong tồn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua
những mặt đối lập...”24.

Như vây, biện chứng khách quan quyết định biện chứng chủ
quan; thực chất là sự thống nhất giữa hiện thực khách quan và lý
luận phản ánh. Trong đó hiện thực khách quan là cái có trước, cái
sinh ra và quyết định cái phản ánh, cái được phản ánh và cái phản
ánh khơng bao giờ trùng khít hồn tồn; mặt khác q trình tư
duy, q trình nhận thức cịn có những quy luật vốn có của nó.
24

C.Mác-Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 694.

22


Chúng ta hiểu biện chứng của “ý niệm” về thực chất là biện chứng
của sự vật và do biện chứng của sự vật quyết định chứ không phải
do “ý niệm” quyết định. Còn cái phản ánh về thực chất là sự sao
chụp, chép lại đúng như hiện thực khách quan vốn có. Xét về tư
duy biện chứng về nội dung là khách quan, cịn xét về hình thức
thì tư duy biện chứng là chủ quan, vì nó thơng qua hoạt động của
chủ thể nhận thức (thơng qua óc của con người và cơ chế phản
ánh); ở đó các thao tác của tư duy vận động biến đổi như thế nào
thì phản ánh sự vận động khách quan như thế ấy, do đó, chủ thể
nhận thức đúng thì phản ánh đúng. Ngược lại chủ thể nhận thức
sai thì phản ánh sai.
Xuất phát từ cách giải quyết duy vật biện chứng về mối quan
hệ giữa tư duy và tồn tại, biện chứng khách quan quyết định biện
chứng chủ quan, đến lượt nó, biện chứng chủ quan có tác động
trở lại biện chứng khách quan. Theo đó, biện chứng khách quan là
biện chứng của thế giới vật chất; biện chứng chủ quan là sự phản
ánh biện chứng khách quan, là tư duy biện chứng. Chính sự thống

nhất giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan đã quy
định tính khách quan trong nghiên cứu khoa học và là cơ sở
phương pháp luận chung cho các hoạt động cải tạo tự nhiên và xã
hội.
Trên cơ sở luận giải mối quan hệ giữa biện chứng khách quan
và biện chứng chủ quan, do đó, khoa học tự nhiên cần phải thoát
23


ra khỏi phương pháp tư duy siêu hình và trở về với phép biện
chứng một cách tự giác.
Sự thống nhất giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan là sự thống nhất bao hàm sự khác biệt, cụ thể là sự khác biệt
về hình thức tồn tại của chúng. Ăngghen đã đề xuất hai môn khoa
học: một là, biện chứng của khoa học tự nhiên, đối tượng nghiên
cứu của nó là vật chất đang vận động; hai là, lơgíc học biện chứng
hay là lơgíc học hình thức trong vận động, đối tượng nghiên cứu
của nó là tư duy biện chứng.
Ăngghen đã chống lại quan điểm về sự đối lập giữa lơgíc học
hình thức và lơgíc học biện chứng, ơng cho rằng trong lơgíc học
biện chứng, các khái niệm và phán đốn có sự liên hệ phụ thuộc,
chuyển hố lẫn nhau. Nếu lơgíc học hình thức là tốn học sơ cấp
thì lơgíc học biện chứng là tốn học cao cấp, mối quan hệ đó
khơng thể tách rời nhau.
- Phép biện chứng duy vật thống nhất giữa tính đảng, tính
khoa học và tính cách mạng.
Tính đảng trong triết học, tức là tính phe phái, do đó phải
đứng vững trên lập trường duy vật vô thần và biện chứng; thực
hiện như vậy nó đã đạt đến trình độ khoa học. Do đó nó cũng
mang tính cách mạng, bởi vì nó lật đổ các quan điểm duy tâm, tơn

giáo, nó ủng hộ cái mới, cái tiến bộ.

24


Phép biện chứng duy vật là linh hồn của chủ nghĩa MácLênin là một trong những giá trị trường tồn của chủ nghĩa MácLênin. Như chúng ta đã biết trong kinh tế chính trị học người ta
phát hiện ra hệ thống các quy luật như hành hoá và sản xuất hàng
hoá; sức lao động; giá trị; tiền tệ; giá trị thặng dư...Còn trong xã
hội người ta cũng phát hiện ra khát vọng tự do của nhân dân lao
động; sự phát triển của xã hội; sự áp bức và đấu tranh giải phóng
áp bức... Như vậy học thuyết kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội là
sự vận dụng phép biện chứng duy vật vào giải thích các quy luật
vận động, phát triển của kinh tế của xã hội và chính nhờ đó người
ta phát hiện ra các nguyên lý, quy luật của nó, chứ khơng phải sáng
tạo ra các ngun lý, quy luật.
Chúng ta thấy rằng, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm, giữa biện chứng và siêu hình của triết học diễn
ra suốt trong lịch sử tiết học bắt đầu đánh dấu từ thời kỳ Hy Lạp
cổ đại, đặc biệt là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học
Đêmơcrít và Platơn. Cuộc đấu tranh này phản ánh đường lối quyết
liệt giữa tầng lớp chủ nơ tiến bộ mà Đêmơcrít đại diện và tầng lớp
chủ nô quý tộc do Platôn đại diện. Qua cuộc đấu tranh này càng
khẳng định sức sống của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng,
làm cơ sở hình thành thế giới quan mới sau này và đặt nền móng
cho toàn bộ triết học về sau. Đến thời kỳ cổ điển Đức cũng diễn ra
cuộc đấu tranh giữa triết học của Hêghen và triết học Phơbách. Có
thể nói cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học Đêmơcrít và
25



×