Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Hợp tác giữa các bên hữu quan trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp Đan Mạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.58 KB, 12 trang )

HỢP TÁC GIỮA CÁC BÊN HỮU QUAN
TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP ĐAN MẠCH
Torben Schuster*

TĨM TẮT:
Bài viết mơ tả các cấu trúc nền tảng của hệ thống giáo dục nghề nghiệp tại Đan Mạch
bao gồm quản lý nhà nước, tài chính, pháp luật, chất lượng đảm bảo chất lượng, sự tham
gia của các bên liên quan và phân chia trách nhiệm. Sự tham gia của các bên ở các cấp khác
nhau là đặc trưng của giáo dục nghề nghiệp Đan Mạch, đặc trưng này một phần do yếu tố
lịch sử, một phần do truyền thống nói chung của thị trường lao động Đan Mạch nhằm đảm
bảo thỏa thuận 3 bên và đảm bảo sự quản lý nhà nước của Chính phủ. Cùng với sự tự chủ
của các cơ sở đào tạo, đặc trưng này cho phép các chương trình đào tạo thích ứng nhanh
với nhu cầu của thị trường và đảm bảo sinh viên tốt nghiệp đáp ứng yêu cầu kỹ năng ở các
ngành, lĩnh vực khác nhau.
Từ khóa: Quản lý nhà nước giáo dục nghề nghiệp, Đan Mạch, hệ thống kép, kỹ năng.

Hệ thống đào tạo nghề của Đan Mạch được dựa trên sự quản lý điều hành
ba bên giữa nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động, bao gồm khung
pháp lý, các tiêu chuẩn trình độ, bằng cấp quốc gia, bảo đảm chất lượng và cấp
kinh phí. Các đối tác xã hội đóng một vai trị đã được thể chế hóa trong việc xây
dựng chương trình đào tạo, tổ chức đào tạo nghề kép giám sát đào tạo nghề ở cấp
độ quốc gia, ngành và cơ sở.
Hệ thống đào tạo nghề của Đan Mạch có đặc điểm là sự tham gia của các đối
tác xã hội và sự hợp tác với các bên liên quan ở mức độ cao. Các đối tượng này
đóng vai trò trung tâm trong việc quản lý và phát triển hệ thống đào tạo nghề của
Đan Mạch. Vai trò này là yếu tố then chốt để bảo đảm rằng nội dung đào tạo luôn
đáp ứng theo yêu cầu của thị trường lao động. Ngoài ra, các đối tác xã hội đóng
một vai trị quan trọng trong việc xác định các mục tiêu học tập của chương trình
đào tạo nghề. Và các đối tác xã hội cũng ln đóng vai trị trung tâm trong việc
bảo đảm sự chuyển đổi trơn tru từ kiến thức trên lớp đến công việc thực tiễn dù
là trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, một phần là do các chương trình đào tạo


nghề dẫn đến các bằng cấp, trình độ được cơng nhận cấp quốc gia.

* Chuyên gia tư vấn Đan Mạch

384


Nguồn: Bộ Trẻ em và Giáo dục Đan Mạch

Sự hợp tác với các bên hữu quan được tổ chức theo 3 cấp khác nhau mà đại
diện là Hội đồng tư vấn về Đào tạo nghề ban đầu, các ủy ban nghề quốc gia và cấp
địa phương trong các ban điều hành tại các cơ sở GDNN và trong các ủy ban đào
tạo địa phương:
Ở cấp độ chính trị trung ương, công tác quản lý điều hành thuộc thẩm quyền
của Hội đồng tư vấn về đào tạo nghề ban đầu bao gồm tất cả các bên hữu quan
trong lĩnh vực đào tạo nghề, trong đó có các đại diện đến từ các hiệp hội của người
sử dụng lao động, cơng đồn, các khu vực, thành phố, các cơ quan chủ quản của
cơ sở GDNN, các ủy ban nghề và các tổ chức giáo viên – sinh viên. Sự hợp tác giữa
các đối tác xã hội diễn ra các trong ủy ban nghề, là đơn vị phụ trách nhiều chương
trình chính khác nhau trong lĩnh vực đào tạo nghề. Ở cấp độ địa phương, các đối tác
xã hội đóng một vai trị then chốt trong các ban điều hành của các cơ sở GDNN và
trong các ủy ban đào tạo địa phương bảo đảm sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên hữu
quan trong ủy ban địa phương trên cơ sở nhu cầu của các doanh nghiệp địa phương.
Các cơ quan thẩm quyền ở Đan Mạch
Bộ Trẻ em và Giáo dục quản lý hệ thống đào tạo nghề và phê duyệt các đơn
vị thực hiện đào tạo nghề. Sự tham gia của các đối tác xã hội là các cơ quan có
thẩm quyền đã được pháp luật quy định cho tất cả các cấp độ của hệ thống, và các
trường đào tạo nghề tự chủ được quản lý bởi các ban điều hành trong đó có các
đại diện đối tác xã hội.
385



Hệ thống đào tạo nghề Đan Mạch có đặc điểm là mức độ tham gia của các
bên hữu quan ở mức độ cao, trong đó khơng chỉ các cơ quan có thẩm quyền và đối
tác xã hội, mà cả các cơ sở GDNN, giáo viên và sinh viên đều tham gia vào việc
phát triển các bằng cấp, trình độ đào tạo nghề, trên nguyên tắc đồng thuận và chia
sẻ trách nhiệm.
Các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống đào tạo nghề Đan Mạch bao gồm:
- Bộ Trẻ em và Giáo dục
Quốc hội đề ra khung pháp lý tổng quan về đào tạo nghề, đây là lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý của Bộ Trẻ em và Giáo dục. Bộ này chịu trách nhiệm pháp
lý, tài chính và quốc hội tổng thể về đào tạo nghề, đề ra các mục tiêu tổng quan của
các chương trình, và đưa ra khung pháp lý trong đó các bên hữu quan, các đối tác
xã hội và các cơ sở GDNN, cùng doanh nghiệp có thể điều chỉnh các chương trình
đào tạo và phương pháp đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động và sinh viên.
Bộ Trẻ em và Giáo dục chịu trách nhiệm phê duyệt các trình độ đào tạo nghề mới
trên cơ sở các kiến nghị từ Hội đồng tư vấn về đào tạo nghề ban đầu, và phê duyệt
cho các trường thực hiện các chương trình đào tạo nghề chính và cơ bản. Bộ này
cũng đề ra các quy tắc, nguyên tắc tổng quát về đào tạo nghề - trong sự hợp tác
với Hội đồng tư vấn về đào tạo nghề ban đầu và phối hợp với các ủy ban nghề để
xây dựng các quy định về từng chương trình đào tạo nghề. Bộ Trẻ em và Giáo dục
cũng chịu trách nhiệm về quản lý chất lượng và bảo đảm sử dụng hiệu quả các
nguồn lực. Bộ cũng xác định khung thể chế cho công tác quản lý về pháp lý, kinh
tế và giáo dục của các cơ sở GDNN, cấp kinh phí cho phần dạy nghề tại trường đối
với các cơ sở GDNN đã kiểm định chất lượng.
- Hội đồng tư vấn về đào tạo nghề ban đầu (REU)
Là một hội đồng trong đó tất cả các bên hữu quan trong lĩnh vực đào tạo
nghề đều có đại diện tham gia. Theo Luật Đào tạo nghề, Hội đồng tư vấn này chịu
trách nhiệm tham vấn cho Bộ Trẻ em và Giáo dục về tất cả các vấn đề chính sách
và chất lượng quan trọng liên quan đến đào tạo nghề, bao gồm giám sát sự phát

triển của xã hội và nêu bật các xu hướng của các thị trường lao động có liên quan
đến đào tạo nghề.
- Các ủy ban đào tạo nghề
Là xương sống của hệ thống đào tạo nghề. Có khoảng 50 ủy ban nghề chịu
trách nhiệm cho hơn 100 khóa học chính. Các ủy ban này được thành lập bởi các
tổ chức thị trường lao động với số lượng thành viên tham gia tương đương nhau
giữa các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao động. Các ủy ban này
chịu trách nhiệm về các chương trình chính, các chun mơn, chun ngành, thời
gian, cấu trúc, thi cử, các trình độ năng lực để đạt đầu vào cho các chương trình
chính, v.v…
386


- Các ủy ban đào tạo địa phương
Bảo đảm sự liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở GDNN, ủy ban địa phương và các
nhu cầu cụ thể của thị trường lao động địa phương. Các thành viên thường đến từ
thị trường lao động và ủy ban địa phương tương ứng.
- Các cơ sở GDNN
Các cơ sở GDNN là các đơn vị tự chủ do các ban điều hành dẫn dắt, ban điều
hành này có sự tham gia của đối tác xã hội. Các cơ sở GDNN chịu trách nhiệm
tổng quan về cơng tác quản lý hành chính và tài chính của cơ sở mình và các hoạt
động giáo dục theo khung pháp lý mà Bộ Trẻ em và Giáo dục đã xác định. Các
trường chịu trách nhiệm hàng ngày về hoạt động giảng dạy và thi cử.
Khung pháp lý của Đan Mạch
Khung quy định về đào tạo nghề được căn cứ trên bốn luật chính. Tất cả các
luật này áp dụng trên toàn quốc và quy định cấu trúc pháp lý để hệ thống đào tạo
nghề vận hành, bao gồm các chương trình, kinh phí và khung thể chế.
Khung quy định về đào tạo nghề ở Đan Mạch bao gồm bốn luật sau đây:
1. Luật đào tạo nghề tạo khung khổ cho hoạt động đào tạo nghề, bao gồm các
mục tiêu tổng quan, các nguyên tắc xét tuyển và cấu trúc. Luật này cũng quy định

về vai trò của các hội đồng tư vấn, doanh nghiệp, trung tâm giới thiệu việc làm,
v.v… Ngoài ra, Luật này quy định mức lương tối thiểu cho người học nghề là vấn
đề về thỏa thuận tập thể theo nghề (điều 55).
2. Luật về kỳ thi trung học phổ thông kết hợp với đào tạo nghề (Luật EUX)
tập trung vào việc phân luồng cho trình độ kép vừa được học nghề vừa được cấp
bằng trung học phổ thông và học tiếp lên đại học. Luật đưa ra các quy định chung
về hoạt động giảng dạy cấp trung học phổ thông tại các cơ sở GDNN, theo đó tạo
khung khổ cho Luật EUX.
3. Luật về Quỹ bồi hoàn của người sử dụng lao động giúp bảo đảm trả lương
cho người học nghề trong thời gian học nghề tại trường.
4. Luật về các cơ sở đào tạo nghề quy định khung cho các cơ sở đào tạo nghề
tự chủ và các hội đồng trường.
Hoạt động giám sát và nghiên cứu ở Đan Mạch
Hệ thống đào tạo nghề của Đan Mạch được quản lý điều hành theo chỉ tiêu
và hiệu quả hoạt động. Số liệu thống kê đóng một vai trị then chốt trong việc giám
sát hiệu quả hoạt động của hệ thống này. Luật quy định rằng các trường phải có
hệ thống bảo đảm chất lượng và liên tục theo dõi, giám sát thông qua hoạt động
nghiên cứu và phát triển.
387


Bộ Trẻ em và Giáo dục chịu trách nhiệm thanh tra, kiểm tra và bảo đảm chất
lượng, có hướng dẫn chi tiết về phương pháp tiếp cận chất lượng theo các nguyên
tắc của khung châu Âu về bảo đảm chất lượng đào tạo nghề EQAVET. Một khía
cạnh quan trọng của bảo đảm chất lượng là giám sát kết quả đầu ra của các cơ sở
GDNN, bao gồm các chỉ tiêu và chỉ số đầu ra. Mặc dù Bộ chịu trách nhiệm chung,
nhưng các bên tham gia khác cũng đóng vai trị quan trọng, đó là các đối tác xã
hội, cụ thể là các ủy ban nghề và ủy ban đào tạo địa phương, bản thân các học viên,
và các doanh nghiệp thông qua các hiệp hội người sử dụng lao động.
Một phần quan trọng của việc giám sát các cơ sở GDNN được tổ chức thông

qua “Kế hoạch hành động tăng cường triển khai thực hiện”. Đây là một công cụ
quản lý và thực hiện mà mỗi cơ sở GDNN phải sử dụng trong công tác chất lượng
và chiến lược của mình.
Có bốn phần chính trong kế hoạch hành động:
1. Các chỉ tiêu rõ ràng theo bốn mục tiêu rõ ràng trong đổi mới đào tạo nghề
2015. Ví dụ, tăng số lượng người học chọn đào tạo nghề ngay từ cấp phổ thơng,
tăng số lượng người học hồn thành đào tạo nghề, đào tạo nghề phải mang tính
thử thách đối với người học để các em có thể phát huy tối đa tiềm năng của mình,
củng cố niềm tin về đào tạo nghề.
2. Lập kế hoạch để khớp nối các hợp đồng đào tạo nghề với nhu cầu của
người học.
3. Lập kế hoạch về một nền tảng sư phạm và mô phạm chung và phương
pháp giảng dạy khác biệt.
4. Lập kế hoạch về một chủ đề cụ thể trong năm.
Bộ Trẻ em và Giáo dục cũng chịu trách nhiệm xây dựng các sáng kiến khác
nhau để giám sát, đánh giá và nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của các hệ
thống đào tạo nghề. Ban nghiên cứu Đan Mạch về đào tạo nghề đã giải tán. Từ
năm 2012, khu vực đại học cao đẳng có thể thực hiện nghiên cứu, trong đó kinh
phí nghiên cứu được cấp để tăng cường, củng cố cơ sở nghiên cứu và các chương
trình giáo dục tại các trường cao đẳng, đại học. Trung tâm Phát triển Đào tạo nghề
Đan Mạch (NCE) tại trường đại học Metropolitan đang xây dựng một trung tâm
kiến thức về đào tạo nghề và từ năm 2013 đã bắt đầu các dự án nghiên cứu.
Bên cạnh các trường đại học (đáng chú ý là đại học Roskilde và đại học
Aarhus) và NCE, cũng có một số cơ quan khác thực hiện nghiên cứu về đào tạo
nghề. Một trong số đó là VIVE – Trung tâm khoa học xã hội ứng dụng Đan Mạch.
Đơn vị này được Bộ Trẻ em và Giáo dục ủy quyền giám sát việc thực hiện chương
trình đổi mới đào tạo nghề 2014 (www.vive.dk). Một đơn vị khác là EVA – Viện
388



đánh giá Đan Mạch - thực hiện các đánh giá có hệ thống về hệ thống giáo dục,
trong đó có đào tạo nghề. Ngoài ra, Bộ Trẻ em và Giáo dục có một cơ sở dữ liệu
thống kê lớn, đóng vai trò trung tâm trong việc lập kế hoạch và giám sát hoạt động
đào tạo nghề.
Sự tham gia của các đối tác xã hội ở Đan Mạch
Các đối tác xã hội đóng một vai trị then chốt trong việc quản lý và phát triển
hệ thống đào tạo nghề ở Đan Mạch. Các đối tác xã hội này tham gia vào việc quản
lý điều hành chung ở cấp độ trung ương trong Hội đồng tư vấn về đào tạo nghề và
được tổ chức thành các ủy ban nghề, các ủy ban này đóng một vai trị then chốt
trong việc xác định các mục tiêu học tập của các chương trình đào tạo nghề. Các
đối tác này cũng phụ trách việc liên tục cập nhật các trình độ bằng cấp đào tạo
nghề và xây dựng, phát triển các trình độ bằng cấp mới trên phạm toàn quốc. Các
ủy ban nghề cũng phê duyệt các doanh nghiệp mà muốn tổ chức đào tạo nghề.
Các đối tác xã hội tham gia vào hoạt động đào tạo nghề ở cấp độ địa phương,
ngành và trung ương. Sự tham gia này trong tất cả các cấp độ hệ thống nhằm bảo
đảm rằng nội dung đào tạo của một chương trình cụ thể khớp nối với yêu cầu
của thị trường lao động về lao động có tay nghề. Các đối tác xã hội đóng một vai
trị quan trọng trong việc xác định các mục tiêu học tập của chương trình đào tạo
nghề, làm cơ sở cho việc triển khai đào tạo của các trường và doanh nghiệp.
Hội đồng tư vấn về đào tạo nghề (REU)
Hội đồng bao gồm các đối tác xã hội đến từ tất cả các ngành nghề chính và
chịu trách nhiệm tham vấn cho Bộ Trẻ em và Giáo dục về các vấn về chính sách
và chất lượng quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nghề. Hội đồng tư vấn giám sát
sự phát triển của xã hội và nêu bật các xu hướng của các thị trường lao động có
liên quan đến đào tạo nghề. Hội đồng tư vấn bao gồm một chủ tịch và 31 thành
viên đến từ các đối tác xã hội, các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao
động, các thành phố, vùng miền và các hiệp hội giáo viên và sinh viên.
Hội đồng đưa ra kiến nghị cho Bộ Trẻ em và Giáo dục về việc thiết lập các
chương trình đào tạo nghề mới, điều chỉnh, gộp chương trình hoặc ngừng các
chương trình đào tạo nghề khác. Bộ Trẻ em và Giáo dục có xem xét đến cả các kiến

nghị của Hội đồng tư vấn khi phê duyệt các chương trình đào tạo nghề mới hoặc
khi thiết lập các chương trình mà phải có các vị trí thực tập tại các trung tâm giới
thiệu việc làm cho những sinh viên khơng thể tìm được doanh nghiệp để thực tập.
Các ủy ban đào tạo nghề
Các ủy ban nghề là một xương sống rất quan trọng của hệ thống đào tạo
nghề. Khoảng 50 ủy ban nghề chịu trách nhiệm cho khoảng 100 chương trình
389


chính, với tổng số gần 300 trình độ bằng cấp khác nhau và các ủy ban này phê
duyệt chính thức đối với các doanh nghiệp muốn bố trí vị trí thực tập thông qua
các ủy ban đào tạo địa phương. Các ủy ban này được thành lập bởi các đại diện của
các tổ chức thị trường lao động với số lượng thành viên ngang nhau đến từ các tổ
chức của người sử dụng lao động và người lao động. Các ủy ban chịu trách nhiệm
về bố cục và nội dung của các chương trình chính, bao gồm các chun ngành,
thời gian, cấu trúc, thi cử, trình độ năng lực để xét tuyển v.v… Các ủy ban cũng
chịu trách nhiệm mô tả chương trình giảng dạy quốc gia đối với các chương trình
khác nhau và thực hiện sửa đổi, thay đổi nếu cần thiết.
Các ủy ban nghề cũng lập báo cáo hàng năm gửi lên Bộ Trẻ em và Giáo dục
về các nhu cầu phát triển trong các ngành nghề tương ứng trên thị trường lao
động, nội dung này thuộc trách nhiệm xác định các nhu cầu trình độ, bằng cấp
mới của các ủy ban.
Các ủy ban đào tạo địa phương
Ở cấp độ địa phương, các ủy ban đào tạo địa phương bảo đảm sự liên hệ chặt
chẽ giữa các cơ sở GDNN, ủy ban địa phương và các nhu cầu cụ thể của thị trường
lao động địa phương. Các ủy ban này tham vấn cho các cơ sở GDNN địa phương
và hợp tác với các trường này về chương trình đào tạo địa phương. Chương trình
đào tạo địa phương phản ánh các điều kiện và mong muốn của địa phương và là
cơ sở để triển khai các quá trình dạy và học tại cơ sở GDNN. Thay mặt cho các ủy
ban nghề, ủy ban đào tạo địa phương cũng chịu trách nhiệm phê duyệt các doanh

nghiệp muốn cung cấp vị trí thực tập bằng cách bảo đảm rằng các doanh nghiệp
có mơi trường đào tạo thích hợp, bao gồm việc có đầy đủ cơ sở vật chất và cán bộ
đào tạo đủ điều kiện.
Sự tham gia của các doanh nghiệp ở Đan Mạch
Các doanh nghiệp được đại diện bởi các tổ chức của người sử dụng lao động
trong tất cả các cấp độ của hệ thống đào tạo nghề Đan Mạch, từ cấp trung ương
đến cấp địa phương trong các hội đồng trường… Các doanh nghiệp đóng vai trị
quan trọng trong hệ thống đào tạo nghề vì hai phần ba nội dung của các chương
trình đào tạo nghề được thực hiện tại doanh nghiệp. Sự tham gia của các doanh
nghiệp khi bố trí các vị trí thực tập trong chương trình đào tạo kép cho người học
nghề yêu cầu sự hợp tác chặt chẽ với nhà trường, đây là yếu tố quan trọng đối với
hoạt động đào tạo nghề trong một hệ thống kép.
Các doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống đào tạo nghề Đan Mạch, với
hai phần ba nội dung của các chương trình đào tạo nghề được thực hiện tại doanh
nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp được ủy ban nghề phê duyệt có thể tuyển chọn
người học nghề. Tuy nhiên, để được phê duyệt như thế, họ phải có mơi trường đào
tạo phù hợp và có đủ cơ sở vật chất, cán bộ đào tạo đủ chuyên môn. Để đáp ứng
390


được các yêu cầu này và để hỗ trợ quá trình, các doanh nghiệp có thể nhận được sự
hỗ trợ từ ủy ban nghề tương ứng, ủy ban đào tạo địa phương tương ứng hoặc cơ sở
GDNN địa phương. Trên thực tế, ủy ban đào tạo địa phương theo ngành mới thực
sự là người ra quyết định trong quy trình phê duyệt vì các ủy ban này thường hiểu
rõ hơn về các doanh nghiệp địa phương so với các ủy ban nghề cấp trung ương.
Các doanh nghiệp có thể nhận được sự hỗ trợ từ các ủy ban đào tạo địa phương và
cơ sở GDNN đối với các vấn đề như quy trình tuyển chọn, giải quyết các khía cạnh
pháp lý, và dịch các tiêu chuẩn nghề đối với phần đào tạo tại doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp có thể chia sẻ một người học nghề hoặc là một phần của thỏa thuận
học nghề thông thường (các thỏa thuận kết hợp) hoặc là một phần của thỏa thuận

mà trong đó các trung tâm giới thiệu việc làm tổ chức và phụ trách một phần đào
tạo, còn hai hoặc nhiều doanh nghiệp thực hiện phần còn lại của nội dung đào tạo
tại doanh nghiệp (các thỏa thuận ngắn và/hoặc các thỏa thuận còn lại).
Các doanh nghiệp chịu trách nhiệm chung về việc bảo đảm rằng hoạt động
đào tạo tuân theo các mục tiêu học tập của chương trình cụ thể và phù hợp với kế
hoạch đào tạo cá nhân của người học nghề. Hệ thống học nghề phụ thuộc vào các
đơn vị sử dụng lao động khi chịu trách nhiệm chung về việc bảo đảm rằng có sự
khớp nối giữa cung và cầu về các kỹ năng thị trường lao động bằng cách tiếp nhận
đủ số lượng người học nghề.
Các doanh nghiệp có đại diện ở tất cả các cấp độ của hệ thống đào tạo nghề:
• Trong Hội đồng tư vấn về đào tạo nghề ban đầu (REU), các doanh nghiệp
có đại diện thông qua các tổ chức khác nhau của mình. Trong hội đồng, sự tham
gia của các doanh nghiệp được chính thức hóa ở cấp độ chính trị. Hội đồng tư vấn
chịu trách nhiệm tư vấn cho Bộ Trẻ em và Giáo dục về tất cả các vấn đề chính có
liên quan đến đào tạo nghề.
• Trong các ủy ban nghề, trong đó các đối tác xã hội đã chỉ định người đại
diện đến từ các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao động.
• Các doanh nghiệp địa phương cũng có đại diện trong các ủy ban đào tạo
địa phương.
• Và thường có trong ban giám đốc cơ sở GDNN.
Các thỏa thuận cấp kinh phí ở Đan Mạch
Trong hệ thống đào tạo nghề Đan Mạch, việc cấp kinh phí cho hoạt động đào
tạo nghề thuộc về cả nhà nước và doanh nghiệp. Phần đào tạo nghề ở nhà trường
do nhà nước cấp kinh phí, phần đào tạo nghề ở doanh nghiệp do doanh nghiệp
cấp kinh phí. Doanh nghiệp cũng trả lương cho người học nghề trong tồn bộ thời
gian của chương trình đào tạo nghề chính. Quỹ bồi hồn của người sử dụng lao
391


động bồi hoàn cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp trả lương cho người học nghề

trong thời gian các em theo học tại trường.
Nhà nước và doanh nghiệp là hai bên tham gia chính trong việc cấp kinh
phí cho hệ thống GDNN. Phần nội dung học tại trường của các chương trình đào
tạo nghề do nhà nước cấp kinh phí dựa trên hệ thống trả phí theo từng sinh viên.
Sinh viên khơng phải trả tiền học phí và các em nhận lương học nghề từ doanh
nghiệp ở mức nêu trong hợp đồng đào tạo nghề tương ứng của mình trong suốt
thời gian học nghề. Tất cả các doanh nghiệp, cả nhà nước và tư nhân, đều phải nộp
một khoản tiền cố định hàng năm vào Quỹ bồi hoàn của người sử dụng lao động
cho người lao động của mình, quỹ này sẽ bồi hoàn cho doanh nghiệp khi doanh
nghiệp trả lương cho người học nghề trong thời gian học nghề tại trường.
Hỗ trợ tài chính cho các cơ sở GDNN
Các cơ sở GDNN Đan Mạch là các cơ sở tự chủ và hệ thống được quản lý
theo mục tiêu. Có nghĩa là các cơ sở GDNN có quyền tự chủ đáng kể trong phạm
vi các mục tiêu tổng quan, bao gồm các mục tiêu quản lý chất lượng và khung pháp
lý. Ban điều hành chịu trách nhiệm giải trình trước Bộ Trẻ em và Giáo dục. Các cơ
sở GDNN ở Đan Mạch được Bộ Trẻ em và Giáo dục cấp kinh phí từ một gói trợ
cấp cơ bản vì là một cơ sở GDNN và theo 5 chỉ tiêu khác nhau có liên quan đến số
lượng tuyển sinh: 1) chỉ tiêu sinh viên, 2) chỉ tiêu hoàn thành, 3) chỉ tiêu chi phí
chung, 4) chỉ tiêu xây dựng, và 5) chỉ tiêu trung tâm giới thiệu việc làm.
Gói trợ cấp cơ bản thay đổi theo các trường. Bốn chỉ tiêu đầu tiên được phân
bổ theo số lượng sinh viên. Có sự chênh lệch khá lớn trong mức trợ cấp giữa các
chương trình cơ bản và chương trình chính và cũng có sự chênh lệch lớn giữa
các chương trình giáo dục khác nhau. Chỉ tiêu số 5 là một ưu đãi kinh tế cho các
trường để nhận thêm kinh phí thơng qua hệ thống chỉ tiêu nếu trung tâm giới
thiệu việc làm tăng số lượng các hợp đồng đào tạo nghề với doanh nghiệp.
Hỗ trợ tài chính cho người học nghề
Hệ thống đào tạo nghề Đan Mạch là một hệ thống kép. Hệ thống này dựa
trên quan điểm rằng người sử dụng lao động quan tâm đến lực lượng lao động có
năng lực tốt nhất và được đào tạo phù hợp và do đó sẵn sàng tham gia tích cực vào
hoạt động đào tạo người học nghề. Về mặt nguyên tắc, chính phủ trả tiền cho các

hoạt động đào tạo tại trường và doanh nghiệp trả tiền cho thời gian mà người học
nghề thực tập tại doanh nghiệp.
Phần thứ nhất của một chương trình đào tạo nghề (chương trình cơ bản) là
học trên lớp (20 – 40 tuần), còn phần thứ hai (chương trình chính) sẽ ln phiên
giữa đào tạo trên lớp và tại doanh nghiệp, trên cơ sở thỏa thuận hợp đồng giữa
392


doanh nghiệp và người học nghề. Trong giai đoạn học chương trình cơ bản, sinh
viên/người học nghề được hỗ trợ kinh tế từ phía chính phủ dưới dạng trợ cấp nhà
nước. Trong giai đoạn học chương trình chính, khi người học có hợp đồng với
doanh nghiệp, thì người học sẽ được trả lương theo thỏa thuận tập thể.
Nếu sinh viên khơng có hợp đồng với doanh nghiệp thì đối với một số chương
trình, các em có thể thực tập tại một trung tâm giới thiệu việc làm. Sinh viên sẽ
được hỗ trợ tài chính từ chính phủ dưới dạng trợ cấp nhà nước.
Trong thời gian học chương trình chính, sinh viên có thể thực hiện một phần
hoặc tồn bộ nội dung thực tập tại một doanh nghiệp ở nước ngoài. Quỹ bồi hoàn
của người sử dụng lao động sẽ hỗ trợ sinh viên về chi phi đi sang nước ngoài. Quỹ
cũng chi trả chi phí đi lại khi sinh viên sang nước ngoài và khi các em trở về để
theo tiếp phần học tại trường của chương trình chính.
Các ưu đãi ở Đan Mạch
Nguyên tắc chỉ đạo về ưu đãi là người sử dụng lao động phải tiếp nhận sinh
viên học nghề để duy trì hệ thống kép và theo đó bảo đảm nguồn lao động có trình
độ chun mơn cho tương lai. Ngoài ra, tất cả các đơn vị sử dụng lao động nộp vào
một quỹ bồi hoàn chung, tham gia cấp kinh phí cho các chương trình học nghề, kể
cả đối với các đơn vị không tiếp nhận người học nghề.
Có một vài ưu đãi kinh tế cho các doanh nghiệp khi tiếp nhận người học
nghề, bên cạnh việc tham gia đào tạo nguồn lao động có trình độ chun mơn
trong tương lai:
Quỹ bồi hồn của người sử dụng lao động: Tất cả các doanh nghiệp nhà nước

và tư nhân nộp vào Quỹ bồi hoàn của người sử dụng lao động dù có tiếp nhận
người học nghề hay khơng. Mức đóng hàng năm là khoảng 3.000 DKR (400 Euro)
cho mỗi người lao động. Trong thời gian người học nghề học trên lớp, doanh
nghiệp có thể được bồi hồn một phần lớn chi phí lương trả cho người học nghề.
Theo đó, tất cả các doanh nghiệp ở Đan Mạch đều đóng góp cho hệ thống GDNN.
Là một phần của đàm phán ba bên năm 2016, quyết định bổ sung hai gói tiền
thưởng tạm thời để hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuê nhiều người học nghề hơn,
một gói tiền thưởng lợi ích và một gói tiền thưởng thực tập. Các doanh nghiệp có
hợp đồng đào tạo với sinh viên học nghề theo đó được hưởng một gói tiền thưởng
thêm.
Đối với các cơ sở GDNN, việc các trường nhận thêm kinh phí thơng qua hệ
thống chỉ tiêu nếu trung tâm giới thiệu việc làm tăng số lượng hợp đồng đào tạo
nghề với các doanh nghiệp (chỉ tiêu số 5) là một ưu đãi kinh tế.
Chi phí và lợi ích doanh nghiệp ở Đan Mạch
393


Chi phí của doanh nghiệp chủ yếu liên quan đến lương trả cho người học
nghề. Lương trả trong giai đoạn đào tạo nghề ở trường được hoàn lại cho doanh
nghiệp từ một quỹ chung do tất cả các doanh nghiệp ở Đan Mạch đóng góp. Tuy
nhiên, nguyên tắc chỉ đạo về chi phí doanh nghiệp là người học nghề sẽ tham gia
làm việc tạo ra sản phẩm, do đó giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Sinh viên được doanh nghiệp trả lương khi làm việc trong giai đoạn thực tập.
Quỹ bồi hoàn của người sử dụng lao động hoàn lại cho doanh nghiệp tiền lương
của người học nghề khi các em theo học tại trường.
Doanh nghiệp trả lương cho người học nghề theo giai đoạn hợp đồng. Theo
thỏa thuận tập thể, lương của người học nghề được quy định là mức lương tối
thiểu. Có nghĩa là doanh nghiệp có thể trả cao hơn nếu họ muốn nhưng không
được trả thấp hơn mức lương tối thiểu. Lương phải được nói rõ trong hợp đồng
giữa người học nghề và doanh nghiệp. Lương này thay đổi theo từng ngành nghề

do các thỏa thuận tập thể khác nhau giữa các cơng đồn và hiệp hội của người sử
dụng lao động. Lương khởi điểm cho sinh viên học nghề dao động từ 9.500 DKR
đến 12.500 DKR (1.275 đến 1675 Euro) mỗi tháng theo thỏa thuận tập thể và tăng
lên theo mỗi năm.
Tất cả các doanh nghiệp, cả nhà nước và tư nhân, đều nộp một khoản tiền cố
định hàng năm vào Quỹ bồi hoàn của người sử dụng lao động cho mỗi người lao
động của mình dù doanh nghiệp có người học nghề hay khơng.
Trong một số ngành nghề, doanh nghiệp thường trả tiền cho các công cụ và
sách vở được sử dụng khi thực tập tại doanh nghiệp và khi học trên lớp.
Khớp nối cung và cầu ở Đan Mạch
Quá trình từ lúc xác định các nhu cầu kỹ năng mới đến giới thiệu một trình
độ, bằng cấp mới có sự tham gia của nhiều bên hữu quan. Điều này được quy định
chính thức trong luật, rằng nội dung của trình độ, bằng cấp phải căn cứ tối đa trên
các phân tích và dự đốn về nhu cầu trình độ, bằng cấp.
Quá trình này bao gồm các bên tham gia và hoạt động sau:
- Hội đồng tư vấn về đào tạo nghề ban đầu tư vấn cho Bộ Trẻ em và Giáo dục
về các nhu cầu trình độ, bằng cấp mới và đóng, sửa đổi các trình độ bằng cấp hiện
có dựa trên số liệu thị trường lao động.
- Để hỗ trợ cho công việc của hội đồng tư vấn, các ủy ban nghề quốc gia lập
một báo cáo hàng năm về các diễn biến của thị trường lao động có liên quan đến
nhu cầu trong tương lai về lao động có trình độ tay nghề của các nghề khác nhau
trong lĩnh vực ngành nghề mà họ đại diện.
394


- Ngoài ra, các ủy ban nghề và Bộ Trẻ em và Giáo dục có thể ủy thác các
nghiên cứu về nhu cầu kỹ năng trong tương lai đối với một ngành hoặc một nghề
hoặc về sự phát triển đa ngành có liên quan đến các phát triển trong lĩnh vực người
máy hoặc kỹ năng tổng hợp.
- Các ủy ban đào tạo địa phương tham vấn cho các cơ sở GDNN địa phương

và tham gia xây dựng chương trình đào tạo địa phương.
Các bên tham gia này cùng nhau chịu trách nhiệm xác định các nhu cầu kỹ
năng và trình độ, bằng cấp làm cơ sở cho việc xây dựng và điều chỉnh các chương
trình đào tạo nghề.
Số liệu thống kê về đào tạo nghề và thị trường lao động có trên trang web
của Bộ Trẻ em và Giáo dục www.uvm.dk và trang web của cơ quan thống kê Đan
Mạch www.dst.dk. Ngoài ra, Bộ Trẻ em và Giáo dục phát hành tài liệu thống kê
hàng tháng về các hợp đồng đào tạo nghề mới ký kết và đã kết thúc.
Hệ thống đào tạo nghề Đan Mạch là một hệ thống theo định hướng nhu cầu.
Mục đích của các cơ chế khác nhau là bảo đảm sự khớp nối giữa cung và cầu cả về
lượng và về chất. Tuy nhiên, có một số thiếu khớp nối cấu trúc mang bản chất của
vùng và ngành, bị tác động bởi các thay đổi cấu trúc rộng lớn hơn trong nền kinh
tế. Trong một số lĩnh vực, rất khó để bảo đảm có đủ số lượng người học nghề như
trong sản xuất chế tạo, trong khi đó, các lĩnh vực khác lại khơng có đủ chỗ học
nghề. Số lượng sinh viên tìm nơi học nghề được theo dõi theo thời gian thực thông
qua công cụ thống kê do Bộ Trẻ em và Giáo dục quản lý.
Các bên hữu quan trong xã hội Đan Mạch là một phần của một hệ thống
toàn diện như đã nêu ở trên. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà trường luôn
được theo dõi, nghĩa là thông qua sự tham gia trực tiếp hàng ngày trong vai trò
doanh nghiệp tiếp đón người học nghề, tham gia vào các ủy ban đào nghề địa
phương, đánh giá các kỳ thi, các buổi kiểm tra tay nghề thợ. Mối quan hệ này là
động vì ln có các doanh nghiệp mới, nhân viên mới và quan trọng nhất là nhu
cầu mới từ xã hội và đặc biệt là người học. Hệ thống phải thích ứng theo các thay
đổi để ln phù hợp và sự đối thoại liên tục giữa các đối tác là một sự bảo đảm
mạnh mẽ cho sự phù hợp đó./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />
395




×