MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tư pháp (HĐTP) là hoạt động thực hiện quyền tư pháp của
quyền lực nhà nước. Đây là lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo nền an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con
người. Cho nên, HĐTP và đảm bảo quyền con người (QCN) trong HĐTP là
những vấn đề quan trọng được các quốc gia, cộng đồng quốc tế đặc biệt quan
tâm, nhất là trong việc củng cố và xây dựng nhà nước pháp quyền.
Ở Việt Nam, việc đảm bảo QCN trong HĐTP đã được Đảng và Nhà
nước ta đặt ra từ những ngày đầu giành được nền độc lập dân tộc và luôn
được xác định như một yêu cầu có tính nguyên tắc của nền tư pháp kiểu mới -
nền tư pháp của dân, do dân và vì dân. Cùng với các giai đoạn cách cách
mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề đảm bảo QCN nói chung và đảm
bảo QCN trong HĐTP ở nước ta đã và đang từng bước được củng cố về mặt lý
luận và tôn trọng trong hoạt động thực tiễn, nên đã trở thành một trong những
tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá về sự công bằng, dân chủ và bình đẳng
trong xã hội.
Tuy vậy, trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, vấn đề đảm bảo
QCN trong HĐTP vẫn còn bộc lộ những bất cập cả về lý luận cũng như hoạt
động thực tiễn. Những bất cập này đã ít nhiều gây thiệt hại đến sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; vi phạm đến
các vấn đề về dân chủ, công bằng, bình đẳng trong xã hội; làm ảnh hưởng đến
bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa; làm xói mòn niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Đó là nguyên cớ để
các thế lực thù địch tìm cách chống phá lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta.
1
Thực trạng trên đang là sự bức xúc lớn, mà Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đặc biệt quan tâm. Vì thế, đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn được
Đảng và Nhà nước đề ra, nhằm từng bước làm rõ nguyên nhân, tìm ra giải
pháp khắc phục. Một trong những chủ trương, chính sách lớn vừa mang tính
cấp bách và lâu dài là tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, cải cách hệ
thống tư pháp là một nội dung đặc biệt quan trọng để đảm bảo QCN nói
chung và QCN trong HĐTP nói riêng. Để thực hiện thắng lợi chiến lược cải
cách hệ thống tư pháp về con người, ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới. Đó chính là tư tưởng chỉ đạo cho toàn bộ tiến trình tổ chức
và hoạt động của HĐTP ở nước ta hiện nay.
Mặc dầu vậy, vấn đề đảm bảo QCN trong HĐTP hiện nay ở nước ta
vẫn đang còn là nội dung khá mới mẻ trong nhận thức của công dân, trong
hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý, cũng như trong việc tổ chức và thực
hiện trên thực tế. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn
diện cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn để góp phần thiết thực vào việc đảm
bảo QCN nói chung và QCN trong HĐTP nói riêng, làm cơ sở cho việc thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh. Đó là lý do tác giả chọn đề tài "Đảm bảo quyền con người trong
hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay" để thực hiện luận án tiến sĩ Luật học,
chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, mã số 62.38.01.01.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
QCN và đảm bảo QCN là vấn đề cơ bản, được tất cả các quốc gia trên
thế giới đặc biệt coi trọng trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận, cũng như hoạt
động thực tiễn. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, các giá trị về QCN và
đảm bảo QCN luôn gắn liền với những thành tựu mà nhân loại đã đạt được vì
thế, Tuyên ngôn thế giới về QCN được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
2
qua năm 1948, đã đánh dấu như một cột mốc sáng chói của lịch sử phát triển
thị trường QCN của lịch sử loài người. Đây là cơ sở cho việc hoàn thiện về lý
luận cũng như thực tiễn của việc đảm bảo QCN trong lịch sử phát triển của
thế giới hiện đại nói chung và các khu vực quốc gia nói riêng.
Trên thế giới, từ cơ sở Bộ luật quốc tế về QCN, các khu vực quốc gia
đều xây dựng cho mình các thiết chế để đảm bảo và phát huy QCN trên thực
tế. Năm 1950, Ngoại trưởng các quốc gia thành viên Cộng đồng châu Âu đã ký
Hiệp ước về QCN, vạch ra hệ thống bảo vệ QCN cho tất cả các quốc gia
thành viên của cộng đồng. Trong đó Ủy ban nhân quyền châu Âu, Tòa án
nhân quyền châu Âu cũng được ra đời.
Ở châu Á - Thái Bình Dương, các tổ chức nhân quyền ở các quốc gia
lần lượt được thành lập ở các nước như: Newzialand, Auatralias,
Philippines để góp phần đảm bảo QCN trong phạm vi quốc gia mình.
Cùng với các căn cứ pháp lý về QCN, các quan điểm, tư tưởng và quy
định pháp luật liên quan đến vấn đề này đã được phản ánh hết sức phong phú,
đa dạng như: tác phẩm "Nhân quyền, bảo vệ nhân quyền theo Công ước quốc
tế về quyền dân sự và chính trị" của Lippman Matther, tạp chí Quốc tế
California, số 10-1980; tác phẩm "Tòa án nhân quyền châu Âu và việc bảo vệ
quyền tự do dân sự - khái quát chung" của Gearty CA, tạp chí Luật
Cambridge, số 52-1993; tác phẩm "Việc áp dụng Hiệp ước châu Âu về nhân
quyền của Tòa án Pháp" của Steiner Eva, tạp chí Luật kings Collages, số 6,
1996; tác phẩm "Nhân quyền và đánh giá tư pháp tại Đức" của Grimm Dicter
và tác phẩm "Các đảm bảo quyền cá nhân theo Hiến pháp Liên bang Mỹ" của
Scialia Antomin, nhà xuất bản Martinus Nijhoff publishers, Dordrecht 1994;
tác phẩm "Luật nhân quyền quốc tế liên quan đến phụ nữ, các ghi nhớ từ các
vụ án và bình luận" của Cook Rebeca J, tạp chí Vanderbilt Jourual of Tran
national law, số 23, 1990)
3
Các tác phẩm nêu trên đề cập đến các vấn đề lý luận về QCN nói
chung, QCN ở từng lĩnh vực nói riêng, về tổ chức và hoạt động thực tiễn đảm
bảo QCN ở các quốc gia trong Cộng đồng châu Âu, cũng như các quốc gia tổ
chức khác trên thế giới
Ở nước ta, đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN trong HĐTP là
vấn đề đã được Đảng, Nhà nước cùng các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm
nghiên cứu nhất là trong thời kỳ đổi mới. Bên cạnh việc thành lập Trung tâm
Nghiên cứu Quyền con người trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, hiện nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này,
như:
Trên lĩnh vực lý luận chung về QCN, gồm có các công trình:
Ngày 30/12/1990, tại Học viện Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh) đã tổ chức Hội nghị khoa học về đề tài: "Chủ nghĩa
xã hội và nhân quyền", với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong Học viện
và Viện Nghiên cứu Khoa học xã hội Việt Nam, Ban Văn hóa - Tư tưởng Trung
ương, Viện Mác - Lênin, Bộ Ngoại giao, Tạp chí Cộng sản, Văn phòng Quốc
hội 27 báo cáo tham luận trong hội nghị đã phân tích cụ thể của nhân quyền
trong thực tiễn xã hội Việt Nam và các kiến nghị liên quan đến lĩnh vực này.
Tiếp đó, Nhà nước ta đã cho triển khai Chương trình KX-07 "Con người, mục
tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" do GS.TS Phạm Minh Hạc
làm chủ nhiệm, với hơn 200 nhà khoa học thuộc các chuyên ngành khác nhau
tham gia. Trong đó, có đề tài KX.07-16 nghiên cứu về "Các điều kiện đảm
bảo QCN, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước" do GS.TS Hoàng
Văn Hảo chủ nhiệm; Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người biên tập hai tập
chuyên khảo "Quyền con người, quyền công dân" của nhiều tác giả, xuất bản
năm 1995; Viện Thông tin Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia phối hợp
với Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người đã tổ chức nghiên cứu, sưu tầm
cuốn: "Quyền con người trong thế giới hiện đại" do PGS. Phạm Khiêm ích và
4
GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ biên, Viện Thông tin Khoa học xã hội xuất bản
năm 1995; công trình: Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại, do
TS. Chu Hồng Thanh chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội, 1996…
Về lĩnh vực xây dựng pháp luật, có các công trình: Tác giả Võ Khánh
Vinh, về đề tài: "Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam" (Luận
án phó tiến sĩ Luật học, 1993); tác giả Nguyễn Văn Mạnh về đề tài "Xây dựng
và hoàn thiện đảm bảo pháp luật thực hiện quyền con người trong điều kiện
đổi mới ở Việt Nam hiện nay" (Luận án phó tiến sĩ Luật học, 1995); tác giả
Hoàng Hùng Hải về đề tài: "Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người
trong xét xử hình sự ở nước ta" (Luật văn thạc sĩ Luật học, 2000); tác giả
Phan Trung Hoài về đề tài: "Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về
luật sư ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ luật học, 2003)
Về lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm
đảm bảo QCN, bao gồm: Đề tài KX-05-07 về "Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp nước ta với nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" năm 1995, do Nguyễn Văn Thảo chủ
nhiệm, đề tài đã đề cập đến các vấn đề cơ bản như xây dựng nhận thức, quan
niệm thống nhất về Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về chiến lược tổng thể
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam và các đề nghị về các bước đi
trong quá trình tổ chức thực hiện; tập sách về "Quyền con người trong quản
lý tư pháp" (Vũ Ngọc Bình tuyển chọn, Nxb Chính trị quốc gia, 2000);
Chuyên đề "Tổng hợp các kiến nghị khoa học góp phần đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp" (của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý,
2000)… Các công trình này đã đề cập về các khía cạnh như khái niệm về
QCN, sự phát triển các học thuyết, tư tưởng về QCN trên thế giới, thực trạng
QCN ở Việt Nam trong lịch sử và hiện nay, các kiến nghị khoa học về đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
5
Về lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo QCN, bao gồm: Nguyễn Văn
Tuân về đề tài: "Sự tham gia của người bào chữa ở Tòa sơ thẩm theo pháp luật
Việt Nam" (Luận án tiến sĩ Luật học, 1991); tác giả Đinh Xuân Nam về đề tài:
"Trách nhiệm hình sự của vị thành niên" (Luận án phó tiến sĩ Luật học, 1994);
tác giả Dương Thị Thanh Mai về đề tài: "Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư
pháp ở Việt Nam (Bằng thực tiễn của Tòa án và luật sư)" (Luận án phó tiến sĩ
Luật học, 1995); tác phẩm: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2004 do TSKH Lê Cảm -
TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, đề cập đến cơ sở lý luận về cải cách tư pháp,
các vấn đề cải cách tư pháp cụ thể trong lĩnh vực hình sự, dân sự, tố tụng,
kinh tế, lao động; tác phẩm: Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, đề cập đến vấn đề lý luận về thể chế tư pháp, về
thể chế tư pháp ở các nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Năm 2001, Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người trực thuộc Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học về chủ đề
Hiến pháp, pháp luật và QCN - Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển, với
hơn 20 tham luận và ý kiến chọn lọc đề cập về hoạc động lập hiến, lập pháp
cũng như hoạt động thực tiễn đảm bảo QCN trong các quốc gia
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác đã
được đăng tải trong các luận án, luận văn tốt nghiệp, tập san, tạp chí chuyên
ngành như Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp
chí Tòa án nhân dân (TAND), Tạp chí Lập pháp
Mặc dù trên thế giới cũng như trong nước đã có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về lĩnh vực QCN, nhưng nhìn chung, những công trình nghiên
cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận chung về QCN, từng
lĩnh vực hoạt động cụ thể về QCN, về tổ chức và hoạt động của các bộ máy
nhà nước, về việc xây dựng pháp luật về đảm bảo QCN nói chung. Trong đó,
chỉ có một vài khía cạnh đề cập cụ thể về QCN trong HĐTP. Bởi vậy, đến
6
nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp và tương đối
toàn diện cả về lý luận và thực tiễn đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt Nam.
Tuy vậy, các công trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan trọng
đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận án.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đảm bảo QCN trong HĐTP là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng
về phương diện lý luận và hoạt động thực tiễn. Nó liên quan đến nhiều lĩnh
vực khác nhau của các ngành khoa học xã hội, đến việc đảm bảo QCN -
quyền công dân trên trên các lĩnh vực khác của quyền lực nhà nước, đến vấn
đề củng cố và xây dựng Nhà nước pháp quyền nói chung. Vì vậy, phạm vi
nghiên cứu của luận án được giới hạn trên các vấn đề cơ bản sau đây:
- Cơ sở lý luận đảm bảo QCN.
- Các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo QCN trong
HĐTP ở Việt Nam.
- Về một số khía cạnh về đảm bảo QCN trong các triều đại phong kiến
Việt Nam và trên thế giới.
- Về thực trạng HĐTP nhằm đảm bảo QCN ở Việt Nam.
- Các quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo QCN trong HĐTP hiện nay
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích của luận án: Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng
đảm bảo QCN trong HĐTP, luận án nêu và phân tích những quan điểm và
giải pháp nhằm đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận án: Để thực hiện mục đích trên, luận án có những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
7
Nghiên cứu cơ sở lý luận đảm bảo QCN trong HĐTP, cụ thể là: làm rõ
khái niệm QCN; khái niệm HĐTP, đặc trưng về QCN trong HĐTP; khái
niệm, nội dung đảm bảo QCN trong HĐTP.
Nghiên cứu, đánh giá về thực trạng đảm bảo QCN trong HĐTP ở
nước ta trong thời gian qua, tìm ra những bất cập trong vấn đề này và nguyên
nhân của thực trạng đảm bảo QCN trong HĐTP ở nước ta.
Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đảm bảo
QCN trong HĐTP hiện nay ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Để đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra, luận án đã vận dụng lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật nói chung và đảm bảo QCN nói riêng. Luận án còn vận dụng các
quan điểm liên quan đến vấn đề QCN, quyền công dân trong HĐTP của Đảng
và Nhà nước ta qua các chủ trương, chính sách chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
- Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp nghiên cứu của duy
vật biện chứng. Theo đó, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được áp dụng
như: Phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích, phương pháp khái
quát hóa, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn giải
Đặc biệt, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của
khoa học pháp lý như: Phương pháp phân tích quy phạm cụ thể, phương pháp
so sánh luật, thống kê và điều tra xã hội
6. Điểm mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và
tương đối toàn diện về vấn đề đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt Nam hiện
nay. Vì vậy, luận án có những đóng góp khoa học mới sau:
8
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm và nội dung của những đảm
bảo QCN trong HĐTP.
- Xác định rõ vị trí, vai trò trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong
việc đảm bảo QCN
- Nhận diện việc vi phạm QCN trong HĐTP, làm rõ nguy cơ vi phạm
QCN trong HĐTP; khái quát thực trạng đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt
Nam hiện nay.
- Đề ra một số quan điểm, giải pháp trong việc đảm bảo QCN trong
HĐTP ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần làm phong phú hơn các quan
niệm về QCN nói chung, lý luận về đảm bảo QCN trong HĐTP nói riêng, làm
cơ sở cho việc nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các đảm bảo về QCN
trong HĐTP.
Qua thực trạng về đảm bảo QCN trong HĐTP, nguyên nhân của thực
trạng và các giải pháp được đưa ra nhằm đảm bảo QCN trong HĐTP ở Việt
Nam hiện nay, luận án đóng góp một phần về cơ sở lý luận và kinh nghiệm
thực tiễn cho việc thực hiện có hiệu quả hơn các nội dung đảm bảo QCN
trong HĐTP.
Kết quả luận án còn có giá trị tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy ở các trường chuyên luật, Trường đào tạo các chức danh tư pháp và
hệ thống trường chính trị cũng như những ai quan tâm đến lĩnh vực này.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
án gồm 3 chương, 9 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT
ĐỘNG TƯ PHÁP
1.1.1. Quan niệm về quyền con người và đảm bảo quyền con người
trong hoạt động tư pháp
1.1.1.1. Quan niệm về quyền con người, quyền công dân
- Quan niệm về quyền con người
Con người là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời đại, cho nên QCN luôn
luôn trở thành nội dung quan trọng thu hút được sự quan tâm cả về phương
diện lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia, của từng
khu vực và mang tính toàn cầu.
Quan niệm về QCN đã được các nhà tư tưởng bàn đến từ thời cổ đại và
không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát triển của lịch sử nhân
loại. Khi bàn đến QCN Jaeque Mourgeon trong cuốn "Các QCN" đã cho rằng:
QCN trước hết được hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà
con người có. Đó là khả năng hành động có ý thức, trách nhiệm
nhất là tự bảo vệ. Nhưng bản thân đặc quyền (quyền tự nhiên)
chưa phải là QCN. Mà để đạt đến cái gọi là "quyền" thì phải có
yếu tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì các
đặc quyền của cá nhân mới trở thành đối tượng điều chỉnh của
pháp luật mới trở thành QCN [5, tr. 131].
Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con người, C. Mác đã
xác định: "Con người là "con người xã hội" là sự "tổng hòa các quan hệ xã
10
hội", Cho nên QCN thể hiện sâu sắc giá trị các quan hệ xã hội và hiển nhiên
mang bản chất đó" [38, tr. 11].
Trên cơ sở các quan niệm về QCN năm 1776, lần đầu tiên các QCN
được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: "Tất cả mọi người sinh ra
đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc".
Năm 1791, trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp, QCN tiếp tục
được xác định: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải
được tự do bình đẳng về quyền lợi" Từ đó các tiêu chí về QCN từng bước
được các quốc gia thừa nhận và quy định trong pháp luật của nước mình. Ở
nước ta, vấn đề QCN đã được nghiên cứu và phản ánh một cách phong phú và
đa dạng thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và các văn bản pháp
luật.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: "Quyền con
người là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia
phải tôn trọng" [28, tr. 338]. Vì vậy, theo quan niệm chung hiện nay, "quyền
con người là những giá trị, năng lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người
với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại được thể chế hóa bằng pháp
luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [65, tr. 26].
QCN là giá trị thắng lợi chung của nhân loại, nhưng do điều kiện kinh
tế, chính trị - xã hội ở các châu lục, các khu vực, các quốc gia phát triển
không giống nhau nên ở các quốc gia khác nhau thì năng lực và nhu cầu của
mỗi thành viên xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện kinh
tế - chính trị - xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Cho nên, ở các
quốc gia, QCN được thể hiện thành quyền công dân và được đảm bảo thực
hiện bởi hệ thống pháp luật của quốc gia đó.
Trên cơ sở lý luận và thực tiến của vấn đề này, khoa học pháp lý đã chia
QCN theo các lĩnh vực hoạt động của đời sống con người thành các nhóm:
11
- Nhóm các quyền tự do dân chủ về chính trị, bao gồm: quyền bầu cử,
ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền bình đẳng
nam nữ; quyền tự do ngôn luận; tự do báo chí; quyền được thông tin; quyền
tự do tín ngưỡng.
- Nhóm quyền về dân sự (quyền tự do cá nhân), bao gồm: quyền tự
do đi lại và cư trú trong nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về
nước; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được luật pháp bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về
chỗ ở; quyền được an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện báo, quyền
khiếu nại, tố cáo v.v
- Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội, bao gồm: quyền lao động; quyền
tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp và thừa kế; quyền học tập; quyền
nghiên cứu, phát minh, sáng chế; quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền được
bảo vệ hôn nhân và gia đình; quyền trẻ em; quyền người già v.v
Thế giới hiện đại với sự thay đổi thường xuyên và nhanh chóng trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, cho nên QCN được
phát triển không ngừng, phong phú hơn cả về nội dung lẫn hình thức. Cho
nên, trong quá trình phát triển của nhân loại một số QCN mới được xuất hiện
như:
* Quyền phát triển: Quyền phát triển được Ủy ban Nhân quyền Liên
Hợp Quốc chuẩn bị từ năm 1981, được thông qua tại kỳ họp thứ 41 của Đại
Hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 4/ 12/ 1986 dưới hình thức Tuyên ngôn toàn
cầu về phát triển.
Đó là quyền của các quốc gia, dân tộc đối với chủ quyền trên lãnh thổ
của mình như: quyền tự do lựa chọn các thể chế chính trị, kinh tế, quyền được
trợ giúp về kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
12
Quyền phát triển là sự hiện thực hóa QCN ở thế hệ thứ ba, khi mà
nhiều quốc gia từng phải gánh chịu các hậu quả nặng nề của các cuộc chiến
tranh và đang gặp phải những khó khăn trầm trọng về kinh tế như đói nghèo,
dốt nát, bệnh tật , vì vậy họ có quyền được giúp đỡ về kinh tế, tài chính từ
các quốc gia tổ chức khác.
* Quyền được sống trong hòa bình và môi trường trong sạch
Ngày nay nhân loại đang đứng trước nhiều hiểm họa mang tính toàn
cầu như hiểm họa chiến tranh hạt nhân, nạn khủng bố mang tính quốc tế,
khủng hoảng nghiêm trọng về lương thực, thực phẩm, những cuộc xung đột
tôn giáo, chủng tộc, căn bệnh AIDS đến nay chưa có phương cứu chữa thực
sự hiệu quả Thực trạng đó đã và đang đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của
loài người. Do đó, yêu cầu về quyền được sống trong một thế giới hòa bình,
bền vững đang là vấn đề cấp bách thật sự của các quốc gia, khu vực và cộng
đồng trên thế giới. Chính vì thế, pháp luật quốc tế ngày càng quan tâm đến
các vấn đề liên quan đến cuộc sống trong hòa bình của con người như vấn đề
giải trừ quân bị, loại trừ vũ khí hạt nhân, ngăn chặn khủng bố, ngăn chặn các
cuộc xung đột, thành lập tòa án quốc tế để xét xử tội diệt chủng, tội phạm
chiến tranh và đến ngày 1/7/2002, Liên Hợp Quốc đã thành lập Tòa án hình
sự quốc tế hoạt động một cách thường xuyên, độc lập với Liên Hợp Quốc.
Bên cạnh đó, do sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, loài người
đang đứng trước nguy cơ suy thoái và ô nhiễm về môi trường ngày càng nặng
nề. Vì thế, hàng loạt các hội nghị quốc tế đã được tổ chức như: Năm 1972,
Hội nghị quốc tế về môi trường được tổ chức tại Stốckhôm (Thụy Điển); năm
1992, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường tại Brazin; năm 1993 Hội
nghị về nhân quyền được tổ chức tại Viên; năm 1997 Hội nghị về môi trường tại
Tôkiô v.v , Hội nghị này đã xác định rõ: "Môi trường sinh thái đang là vấn
13
đề thách đố toàn cầu ". Cho nên, để con người được sống trong môi trường
trong sạch cần thiết phải đảm bảo:
1. Quyền được thông tin và nâng cao nhận thức của con người về
môi trường.
2. Quyền được tham gia hoạch định các chính sách và thể chế bảo vệ
môi trường.
3. Quyền được đền bù thiệt hại do sự hủy hoại môi trường gây ra.
Đồng thời, các hội nghị cũng đề ra trách nhiệm quốc tế và và trách
nhiệm của các quốc gia trong việc xây dựng quy chế pháp lý và tổ chức thực
hiện có hiệu quả vấn đề môi trường. Vì các mục tiêu của quyền phát triển và
quyền được sống trong hòa bình và môi trường trong sạch, tháng 9/2002, Hội
nghị thượng đỉnh địa cầu được tổ chức tại Johanneburg (Nam Phi) gồm hơn
100 nguyên thủ quốc gia tham gia với nội dung: Tìm biện pháp làm giảm
nghèo đói trước thời điểm 2005 và giảm nhẹ thiệt hại môi trường.
- Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân
Cách mạng tư sản thắng lợi, ách thống trị "Vương quyền", "Thần
quyền" của chế độ phong kiến và thế lực Nhà thờ bị lật đổ, cùng với sự ra đời
của Nhà nước tư sản, khái niệm QCN, khái niệm công dân, quyền công dân
được ra đời. Lúc này người dân trong một quốc gia được xác định là công dân
trong xã hội công dân và được hưởng các quyền công dân do pháp luật quy
định. Vì thế, là sản phẩm của cách mạng tư sản, quyền công dân được xác
định trong các văn bản pháp lý quan trọng nhất của các nhà nước tư sản bấy
giờ như: Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền nước Pháp năm 1789, Luật về quyền công dân ở Anh v.v
14
Ngày nay, cùng với QCN, quyền công dân đã được hầu hết các quốc
gia trên thế giới ghi nhận trong bản Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nhà
nước mình và được đảm bảo thực hiện trong đời sống thực tiễn.
Cho nên, có thể xác định: "Quyền công dân là quyền con người, là
những giá trị gắn liền với một nhà nước nhất định và được nhà nước đó bảo hộ
bằng pháp luật đối với người mang quốc tịch nước đó, thể hiện mối liên hệ pháp
lý cơ bản giữa mỗi ca nhân công dân với một nhà nước cụ thể" [5, tr. 133].
QCN và quyền công dân là hai khái niệm không đồng nhất. QCN là
phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có và chỉ có ở con người với tư cách
là thành viên của cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa trong pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia. Còn quyền công dân trước hết cũng là quốc nhưng
được các quốc gia ghi nhận và bảo hộ bằng hệ thống pháp luật của quốc gia
đối với công dân nước đó. Đó chính là sự thể chế hóa QCN để phù hợp với
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Cho nên, quyền công dân
là sự thể hiện mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với một nhà nước
cụ thể.
Đồng thời, cũng không thể phân biệt đơn giản rằng, QCN là quyền tự
nhiên do pháp luật quốc tế quy định, còn quyền công dân là quyền cá nhân do
pháp luật quốc gia quy định. Mà phải xác định rõ rằng, con người là một thể
thống nhất, do đó QCN và quyền công dân cũng nằm trong một thể thống
nhất. Đây là vấn đề có tính xác định đến việc xây dựng các chế định pháp lý
về QCN và quyền công dân trong hệ thống pháp luật của các quốc gia.
Như vậy, trong lịch sử xã hội loài người, sự hình thành và phát triển
của QCN và quyền công dân được gắn liền với thành quả của cuộc đấu tranh
giai cấp và cách mạng xã hội. Nó phản ánh nhân loại đấu tranh tự giải phóng
cho mình, làm chủ tự nhiên và làm chủ xã hội. Vì thế nó luôn luôn được xác
định là tiêu điểm của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị và tư
tưởng.
15
Ngày nay, QCN và quyền công dân đã trở thành tiêu chí cơ bản để
đánh giá trình độ phát triển của một chế độ xã hội - về sự văn minh, nhân đạo
hay kém văn minh, lạc hậu, đồng thời đó là cơ sở để các quốc gia, tổ chức
thiết lập các quan hệ quốc tế, vì lợi ích của các bên và lợi ích của bộ phận và
toàn cộng đồng nhân loại. Cho nên, có thể nói QCN trong các quốc gia là
quyền công dân của của chính quốc gia đó.
1.1.1.2. Quan niệm về hoạt động tư pháp
HĐTP là một lĩnh vực hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước trong
việc bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức, đảm bảo trật tự an toàn xã hội theo các trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định thông qua sự phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau. Vì thế, để
nghiên cứu khái niệm này một cách đầy đủ, cụ thể cần phải đề cập đến các
vấn đề khác liên quan đến HĐTP.
- Quan niệm về tư pháp
Tư pháp được hiểu là một trong những phương thức thực hiện quyền
lực nhà nước – quyền tư pháp. Cho nên, ở các nhà nước khác nhau sẽ có các
cách hiểu khác nhau đối với khái niệm này. Theo Từ điển tiếng Việt: "Tư
pháp là việc xét xử theo pháp luật" [69, tr. 140]. Theo quan niệm của pháp
luật Trung Quốc "Tư" là chỉ việc nắm giữ, chấp chưởng, "Tư pháp nghĩa là việc
nắm giữ pháp luật" [20, tr. 319]. Theo nghĩa Hán Việt, tư pháp là "trông coi và
bảo vệ" [39, tr. 46]. Theo quan điểm của Rouseau J.J: "Tư pháp là cơ quan
thiêng liêng nhất và được coi trọng nhất vì nó bảo vệ luật, mà luật do cơ quan
quyền lực tối cao ban hành và do chính phủ chấp hành" [53, tr. 23]. Vì thế:
Ở nghĩa pháp lý chung nhất thì tư pháp là một ý tưởng cao
đẹp về một nền công lý, đòi hỏi việc giải quyết các tranh chấp xảy
ra trong xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ phải, công bằng,
16
bình đẳng và đảm bảo sự tin cậy đối với sự phát triển an toàn của
mỗi công dân và cả xã hội [39, tr. 45].
Còn xét theo khía cạnh tổ chức quyền lực nhà nước thì đối với các
nước theo thuyết phân quyền, tư pháp là một trong ba nhóm quyền lực (quyền
lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp). Quyền tư pháp là quyền xét xử
được giao cho Tòa án thực hiện độc lập với các quyền khác. Như vậy, tư pháp
được hiểu theo nghĩa này là Tòa án.
Ở Việt Nam, việc tổ chức bộ máy nhà nước được thực hiện theo chế
độ tập quyền nên tư pháp được hiểu là nền tư pháp của quốc gia gồm hệ thống
các cơ quan, tổ chức nhà nước và tổ chức nghề nghiệp mà hoạt động của các
cơ quan, tổ chức này trực tiếp hoặc hỗ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa án
nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Với quan niệm trên, tư pháp là phương thức thực hiện quyền lực nhà
nước nên nó có có mối quan hệ mật thiết với khái niệm quyền tư pháp
- Quan niệm về quyền tư pháp, quyền tư pháp được hiểu như là một
bộ phận quyền lực trọng yếu của một quốc gia. Tuy vậy, ở các quốc gia có
chế độ chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau, thì tư pháp và quyền tư pháp được
hiểu và tổ chức thực hiện khác nhau.
Đối với các nhà nước mà việc tổ chức quyền lực nhà nước theo thuyết
"Tam quyền phân lập" coi quyền tư pháp là một bộ phận cấu thành quyền lực
nhà nước gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong
đó, quyền tư pháp là quyền xét xử, được giao cho Tòa án thực hiện độc lập
với các quyền lập pháp và quyền hành pháp. Theo nghĩa này, quyền tư pháp
chỉ là quyền xét xử của Tòa án. Còn đối với các nhà nước tổ chức quyền lực
nhà nước theo "nguyên tắc tập quyền", quyền tư pháp được hiểu là một lĩnh
vực tổ chức và hoạt động đặc biệt của quyền lực nhà nước nhằm duy trì một
17
nền trật tự xã hội theo pháp luật, đảm bảo an ninh, an toàn và công bằng xã
hội. Cho nên, quyền tư pháp không tách rời với các quyền năng khác của
quyền lực nhà nước là quyền lập pháp và hành pháp và là một bộ phận có mối
quan hệ mật thiết với các quyền năng này. Theo đó, quyền tư pháp được hiểu
theo hai nghĩa.
Theo nghĩa hẹp, quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền là quyền
hoạt động tài phán (quyền xét xử) độc lập của Tòa án.
Còn theo nghĩa rộng, quyền tư pháp là quyền xét xử của Tòa án nói riêng
cũng như hoạt động bảo vệ pháp luật của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
(VKS), Cơ quan thi hành án để đảm bảo cho việc thực hiện quyền xét xử đạt
hiệu quả cao, góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của Nhà
nước vào đời sống thực tế.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, được tập trung vào
cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân là Quốc hội. Vì vậy, quyền lực nhà
nước là thống nhất không thể phân chia. Trên cơ sở đó, quyền tư pháp được
hiểu theo quan điểm của "nguyên tắc tập quyền" như hầu hết các nhà nước xã
hội chủ nghĩa đã thể hiện. Đó là một trong ba bộ phận hợp thành quyền lực
nhà nước, bao gồm quyền xét xử của Tòa án và các quyền năng khác của Tòa
án, của Cơ quan điều tra, VKS, Cơ quan thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư
pháp hợp thành quyền tư pháp nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tôn trọng và duy trì nền công lý.
Như vậy: Khái niệm quyền tư pháp có thể được hiểu theo hai nghĩa:
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, quyền tư pháp là quyền hoạt động
tài phán độc lập của Tòa án. Còn theo nghĩa rộng, quyền tư pháp là
quyền xét xử của Tòa án nói riêng, cũng như các hoạt động bảo vệ
pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện quyền xét xử đạt hiệu quả
18
cao, góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của Nhà
nước pháp quyền và đời sống thực tế [13, tr. 22].
- Các cơ quan tư pháp ở Việt Nam
Hiện nay vẫn chưa có khái niệm về các cơ quan tư pháp trong các văn
bản quy phạm pháp luật, nhưng căn cứ vào cơ cấu, tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước ta qua quá trình ra đời và phát triển. Đặc biệt là theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), thì có thể hiểu đó là các cơ quan
nhà nước trực tiếp thực hiện quyền tư pháp của quyền lực nhà nước. bao gồm:
"Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành
án" [15, tr. 56]. Tiếp đến, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết 08/TW ngày 2/1/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới,
v.v cũng đều xác định hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm các cơ quan
nhà nước nói trên, trên cơ sở đó:
Tòa án nhân dân, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp của quyền lực
nhà nước, trong hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta, Tòa án là cơ quan
trung tâm của hoạt động tư pháp.
Theo quy định của Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân, TAND được
tổ chức thành một hệ thống thống nhất từ Trung ương đến địa phương, bao
gồm các Tòa án sau:
- Tòa án nhân dân tối cao.
- Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Các Tòa án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
- Các Tòa án quân sự.
- Các Tòa án khác do luật định.
19
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành
lập Tòa án đặc biệt [33, tr. 7].
Viện kiểm sát nhân dân. VKSND là bộ phận hợp thành quan trọng của
hệ thống tư pháp.
Theo quy định của Điều 30 Luật tổ chức VKSND, hệ thống VKSND
được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương, bao gồm:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương;
- Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh;
- Các Viện kiểm sát quân sự [34, tr. 26].
Cơ quan điều tra, là một bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống
tư pháp trong việc tiến hành điều tra các vụ án hình sự làm cơ sở cho hoạt
động truy tố, xét xử đối với người phạm tội trước Tòa án. Theo quy định của
Pháp lệnh về tổ chức điều tra hình sự, cơ cấu, tổ chức của Cơ quan điều tra
gồm có: Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra của quân
đội nhân dân, Cơ quan điều tra của VKSND.
Đối với Cơ quan điều tra của lực lượng Công an nhân dân gồm có:
Cục điều tra thuộc Bộ Công an, phòng điều tra thuộc Công an cấp tỉnh, Đội
điều tra thuộc công an cấp huyện. Trong quân đội, tương ứng với mỗi cấp xét
xử sơ thẩm có một Cơ quan điều tra. Riêng đối với VKSND, Cơ quan điều tra
chỉ thành lập ở cấp VKSND tối cao.
Cơ quan thi hành án.
Ở nước ta, việc thi hành án được tổ chức thực hiện theo hai lĩnh vực là
thi hành án hình sự và thi hành án đối với các loại án khác.
20
Đối với việc thi hành án hình sự, được tổ chức thực hiện thông qua hệ
thống các trại giam thống nhất do Bộ Công an quản lý. Còn việc thi hành án các
bản án thuộc các lĩnh vực khác (dân sự, kinh tế, hành chính, lao động) được tổ
chức thực hiện theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2003, hiệu lực từ ngày 1-7-
2004).
Cơ quan thi hành án dân sự gồm có: Cục thi hành án dân sự thuộc Bộ
Tư pháp, Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, Cơ quan thi hành án dân sự quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
và các Cơ quan thi hành án trong quân đội [43, tr. 13].
- Quan niệm về hoạt động tư pháp
Hiện nay ở nước ta vẫn chưa có một khái niệm về HĐTP hoàn chỉnh,
thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật. Xuất phát từ vị trí, chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp của quyền
lực nhà nước, qua quan niệm của các nhà luật học và trên cơ sở quan điểm
của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực này, có thể xác định: HĐTP là hoạt động
của các Cơ quan điều tra, VKS, TAND và Cơ quan thi hành án trong việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh
tế, lao động và giải quyết các quan hệ pháp luật khác được phát sinh.
Tuy vậy, không phải tất cả các hoạt động của các cơ quan tư pháp đều
được coi là HĐTP. Vì mỗi cơ quan tư pháp ngoài việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ trực tiếp liên quan đến hoạt động tố tụng còn phải thực hiện nhiều
hoạt động khác như: về xây dựng bộ máy, về tổ chức cán bộ, về công tác hành
chính văn phòng v.v Những hoạt động này không có tính chất của HĐTP nên
không thể là HĐTP. Mà chỉ những hoạt động nào liên quan trực tiếp đến trình
tự, thủ tục tố tụng của các cơ quan tư pháp mới được coi là HĐTP. Bao gồm:
Hoạt động điều tra; hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố; hoạt động xét xử; hoạt động thi hành án và các hoạt động của
21
các cơ quan được Nhà nước giao thẩm quyền trong việc tiến hành một số hoạt
động tư pháp theo trình tự thủ tục tố tụng. Trong đó, hoạt động xét xử của Tòa
án là trung tâm. Với quan niệm về HĐTP trên, HĐTP có các đặc điểm sau:
HĐTP là hoạt động quyền lực nhà nước và do cơ quan tư pháp thực
hiện. Các hoạt động này do những người đại diện của các cơ quan tư pháp
nhân danh nhà nước trực tiếp thực hiện tùy theo chức danh cụ thể của họ.
Đó là tên gọi thể hiện ngạch, bậc của người thuộc biên chế
của các cơ quan tư pháp và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, có
thẩm quyền tiến hành các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp
luật tố tụng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hoạt động
đó [76, tr. 4].
HĐTP phải được thực hiện trong quá trình tố tụng và được điều chỉnh
bằng pháp luật tố tụng. Đây là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy
định các trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động để giải quyết các vụ án hình
sự, dân sự, hành chính, lao động, quyền và nghĩa vụ của những người tiến
hành tố tụng Cho nên, tất cả các HĐTP đều được điều chỉnh bởi các văn bản
pháp luật tố tụng.
HĐTP phải là những hoạt động liên quan trực tiếp đến quá trình giải
quyết các vụ án. Hoạt động của các cơ quan tư pháp được thể hiện trên nhiều
lĩnh vực khác nhau có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó chỉ có hoạt
động nào liên quan trực tiếp đến việc giải quyết các vụ án mới được coi là
HĐTP.
Trong việc giải quyết các vụ án, sự tham gia của các cơ quan nhà
nước khác, tổ chức xã hội và công dân vào hoạt động này là một trong những
đảm bảo quan trọng mang tính nguyên tắc nhằm góp phần giải quyết các vụ án
được khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật. Đó là hoạt động của Tổ
chức luật sư, hoạt động Giám định tư pháp, hoạt động của cảnh sát bảo vệ
22
phiên tòa , hoạt động của các cơ quan, tổ chức này được gọi là hoạt động bổ
trợ tư pháp.
Cùng với các lĩnh vực hoạt động trên, công tác kiểm tra, giám sát, hòa
giải, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật nhỏ, các sự việc mới phát sinh tranh
chấp xảy ra ở địa phương, cơ sở nhằm kịp thời ngăn ngừa tội phạm và tranh
chấp trước Tòa án, cũng như trong việc kịp thời xác định các chứng cứ ban
đầu cho hồ sơ vụ án (án hình sự, dân sự, án hành chính ) có một vai trò
không kém phần quan trọng. Thông qua các hoạt động này, sự việc tranh chấp
sẽ được giải quyết dứt điểm hoặc sẽ chuyển cho các cơ quan tư pháp, cơ quan
quản lý nhà nước khi có căn cứ. Vì vậy, có thể coi loại hoạt động này là "tiền
nhiệm" của HĐTP, là một mảng quan trọng làm cơ sở cho HĐTP.
Trong hệ thống cơ quan tư pháp, HĐTP được thể hiện:
Đối với Tòa án nhân dân
Theo quy định của Điều 127 Hiến pháp 1992 sửa đổi và Điều 1 Luật
tổ chức TAND 2002, "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Hoạt động của Tòa án là một dạng hoạt động
thực hiện quyền tư pháp đặc biệt, bao gồm: "Hoạt động nhân danh quyền lực
nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và phán quyết về tính hợp pháp, tính đúng
đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và
mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau của Tòa án" [70, tr. 64] và các
hoạt động khác theo quy định của pháp luật
Là khâu trung tâm của HĐTP, hoạt động xét xử của Tòa án được tiến
hành theo cách thức, biện pháp, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định (gọi là
trình tự thủ tục tố tụng) và theo nguyên tắc xét xử công khai, dân chủ, bình
đẳng, đảm bảo quyền bào chữa bị can, bị cáo, quyền được bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án. Vì thế, yêu cầu đặt ra trong
hoạt động của Tòa án là:
23
Sau khi trao đổi, bàn bạc, lắng nghe ý kiến của người khác,
Thẩm phán biết tự mình phân tích tổng hợp, đánh giá khách quan,
toàn diện các chứng cứ, tài liệu của vụ án để ra các quyết định xử lý
một cách độc lập trên cơ sở quy định của pháp luật cả về nội dung và
hình thức [18, tr. 16].
Hiện nay, việc giải quyết các quyền và nghĩa vụ pháp lý tại Tòa án được
xác định là hình thức công khai, dân chủ, bình đẳng và tiến bộ nhất, nên hầu như
tất cả các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, tổ chức cuối
cùng đều được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng, bao gồm: Tố tụng hình sự
(TTHS), tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động và tố tụng hành
chính để giải quyết các tranh chấp xảy ra thuộc các lĩnh vực dân sự, kinh tế - xã
hội tương ứng.
Bên cạnh hoạt động xét xử là khâu trung tâm của HĐTP nói chung,
Tòa án còn tiến hành các hoạt động khác được coi là hoạt động tư pháp như:
Tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp (theo quy định tại Nghị định số 189/ CP
ngày 23/12/1994 của Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh
nghiệp), công nhận và thi hành các bản án dân sự của Tòa án nước ngoài
(theo thông tư liên ngành số 04/ TTLN ngày 24/ 7 năm 1993), quyết định tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 180 Bộ luật TTHS 2003,
hoãn thi hành án phạt tù theo quy định tại Điều 260 và tạm đình chỉ thi hành
án phạt tù theo quy định tại Điều 261 Bộ luật TTHS
Đối với Viện kiểm sát nhân dân
VKSND là cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp thực hiện quyền tư
pháp. Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp 1992 sửa đổi và Điều 1 Luật tổ
chức VKSND, VKSND là cơ quan nhà nước thực hành quyền công tố và
kiểm sát các HĐTP. Đây là hai chức năng quan trọng nhằm truy tố người
phạm tội ra xét xử trước Tòa án, đồng thời đảm bảo cho các cơ quan tư pháp
hoạt động đúng pháp luật có hiệu lực, hiệu quả cao.
24
VKSND thực thực hành quyền công tố và kiểm sát các HĐTP thông
qua các nội dung sau:
1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của
các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra.
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của
Tòa án nhân dân.
3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân.
4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ và
cải tạo.
5. Điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp luật tố
tụng hình sự quy định.
6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù [34, tr. 17].
Trong hoạt động tố tụng tại phiên tòa, VKS thực hiện quyền công tố
của mình thông qua việc truy tố bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự và việc
khởi tố các vụ án dân sự theo luật định.
Đối với cơ quan điều tra, Là cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư
pháp trong việc điều tra, nhằm thu thập chứng cứ, củng cố chứng cứ để chứng
minh sự thật khách quan đối với các vấn đề liên quan đến việc thực hiện một tội
phạm hoặc các vấn đề liên quan đến nội dung khác cần được giải quyết trước
Tòa án theo trình tự, thủ tục tố tụng đã được pháp luật quy định.
Trong lĩnh vực TTHS, hoạt động điều tra thuộc về Cơ quan điều tra, là
cơ quan chuyên môn trực tiếp điều tra các vụ án hình sự và các cơ quan nhà
nước khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do luật
định. Hoạt động này được thể hiện trong việc, bắt người, tạm giữ, tạm giam,
25