Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích tác động chính sách của nhà nước với hoạt động kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.57 KB, 13 trang )

BÀI TẬP NHĨM
Đề tài: Phân tích tác động chính sách của nhà nước với hoạt động kinh tế
trong lĩnh vực cụ thể như công nghiệp/nông nghiệp/dịch vụ. Để hạn chế những
tác động tiêu cực của chính sách nhà nước đối với lĩnh vực dịch vụ cần có giải
pháp gì. Liên hệ thực tiễn những tác động chính sách của nhà nước đối với hoạt
động kinh tế trong bộ máy QLNN về kinh tế và đơn vị kinh tế cơ sở ở Việt Nam
hiện nay?
1. Phân tích tác động chính sách của nhà nước với hoạt động kinh tế trong
lĩnh vực dịch vụ
1.1. Tác động tích cực
a)Chính sách cơ cấu đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ
Định hướng chung của Chiến lược là đẩy mạnh cải cách thể chế, nâng cao tính
minh bạch, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ trong bối cảnh
Cách mạng công nghiệp 4.0 và Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công
nghệ hiện đại, ứng dụng các thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là trong
các lĩnh vực dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục, giao thông
vận tải, logistics, thương mại, du lịch... Duy tri tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch
vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP; tăng dần tỷ trọng dịch vụ trong GDP.
Tập trung phát triển một số ngành, sản phẩm dịch vụ có hàm lượng tri thức và
cơng nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh như: phân phối, du lịch, cơng nghệ thơng tin,
tài chính - ngân hàng, logistics, giáo dục đào tạo, y tế,... Đồng thời, hinh thành một số
trung tâm dịch vụ du lịch với sản phẩm du lịch chất lượng cao, có thương hiệu, mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc, có năng lực cạnh tranh tầm khu vực và quốc tế.
Tiếp tục huy động các nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và
ngoài nước để nâng cấp, xây dựng mới kết cấu hạ tầng, trang bị phương tiện kỹ thuật
hiện đại nhằm tạo thuận lợi cho phát triển dịch vụ. Nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước cần được ưu tiên bố trí cho việc phát triển, củng cố, nâng cấp, hiện đại hóa có
trọng điểm kết cấu hạ tầng quan trọng như: giao thông, cảng hàng không, cảng biển,
viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng.
b) Chính sách phát triển định hướng phát triển theo vùng lãnh thổ


Các chính sách phát triển cũng đề ra định hướng phát triển khu vực dịch vụ
theo vùng lãnh thổ. Cụ thể, với vùng đồng bằng, tích cực ứng dụng khoa
học, cơng nghệ, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, đặc biệt là nhóm ngành dịch vụ
ưu tiên và các dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe
1


và an sinh xã hội. Hinh thành các trung tâm dịch vụ lớn mang tầm khu vực và thế
giới về thương mại, du lịch, tài chính, logistics tại các thành phố lớn như: Hà Nội,
Hải Phịng, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh và Cần Thơ... Tăng cường tính kết nối của các
trung tâm dịch vụ lớn và trung tâm dịch vụ trên các tuyến hành lang kinh tế khu vực
như: Hành lang mới về thương mại đường bộ, đường biển quốc tế (từ thành phố
Trùng Khánh của Trung Quốc tới Singapore; hành lang kinh tế Đông - Tây, hành lang
kinh tế phía Nam...).
Vùng trung du miền núi phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa
để phát huy giá trị các tài nguyên thiên nhiên, các di tích lịch sử, đặc thù văn hóa các
dân tộc của vùng. Phát triển du lịch nghi dưỡng ở các địa điểm có điều kiện khí hậu
phù hợp. Chú trọng phát triển hạ tầng, khai thác các lợi thế về kinh tế cửa khẩu
để phát triển các ngành dịch vụ phân phối, du lịch.
Vùng biển, ven biển và hải đảo phát triển các ngành dịch vụ, nhất là các ngành
có tiềm năng, lợi thế và giá trị gia tăng cao gắn với vị trí địa lý như du lịch, vận tải
biển, logistics, dịch vụ liên quan đến khai thác dầu khí, dịch vụ hậu cần nghề cá.
Phát triển hạ tầng và ứng dụng công nghệ cao trong đầu tư xây dựng và quản lý, vận
hành các cảng biển, hệ thống giao thông kết nối cảng biển, các khu du lịch biển chất
lượng cao, mang tầm quốc gia và khu vực. Hinh thành các trung tâm logistics lớn
tại Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ. Gắn
phát triển ngành dịch vụ ở vùng biển, ven biển và hải đảo với bảo vệ vững chắc an
ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải. Phát triển mạnh mẽ dịch vụ nghề cá
và phát triển hạ tầng dịch vụ cho các đảo, nhất là các đảo có vị trí quan trọng về kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phịng.

c)Tác động của các chính sách tài khóa
Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp dịch vụ tiếp
tục được thực hiện theo hướng tập trung hơn, đúng đối tượng và thực chất hơn, theo
sát với nhu cầu của doanh nghiệp. Cần có chọn lọc, phân loại ngành nghề để hỗ trợ,
trên cơ sở đánh giá, khảo sát nhanh tác động của dịch COVID-19 đến ngành, nghề cụ
thể và có điều kiện, tiêu chí. Về lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực để ưu tiên hỗ trợ; qua
đánh giá tác động của dịch COVID-19 đối với các ngành nghề trong 8 tháng đầu năm
2020, chúng tôi nhận thấy những ngành nghề chịu tác động tiêu cực theo thứ tự giảm
dần, đó là: du lịch; vận tải; dệt may, da giày; bán lẻ; giáo dục – đào tạo. Trong khi đó
một số ngành vẫn có cơ hội phát triển tốt (công nghệ thông tin, thương mại điện

2


tử, ..). Cần tránh hiện tượng trục lợi chính sách hỗ trợ và rủi ro đạo đức. Về điều
kiện/ tiêu chí doanh nghiệp nhận hỗ trợ; Chính phủ có thể căn cứ vào một số tiêu chí
chủ yếu như : (i) tính lan tỏa (tác động tích cực tới các ngành, lĩnh vực khác), (ii) lao
động (tạo nhiều công ăn việc làm), (iv) có khả năng phục hồi sau đại dịch. ).
Để ổn định lực lượng tiêu dùng, thực hiện các chính sách an sinh xã hội như
chi trả bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ người bị tạm thời ngưng việc, trợ cấp cho người
nghèo, người bị mất kế sinh nhai,… cần phải được ưu tiên hàng đầu về nguồn lực và
thực hiện nhanh chóng, đặc biệt là nếu bệnh dịch tái bùng phát trong nước. Các chính
sách hỗ trợ cần phải bao phủ được những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương - người
lao động trinh độ thấp và lao động trong khu vực phi chính thức khi họ chiếm một tỷ
trọng lớn, dễ tổn thương, chịu tác động nặng nề nhất, tốc độ suy giảm thu nhập nhanh
nếu kinh tế rơi vào suy thối.
Đối với chính sách thuế, có thể nhận thấy tác động của các gói hỗ trợ gia hạn
nộp thuế và tiền thuế đất hiện nay là rất nhỏ. Cần cho phép kéo dài thời gian giãn,
hoãn thuế, tiền thuê đất và bổ sung bổ sung đối tượng gia hạn (trước mắt là hết năm
2020 hoặc hết Quý 2.2021) để doanh nghiệp đỡ khó khăn về thanh tốn chi phí.

Nhà nước xem xét hỗ trợ giảm thuế GTGT cho doanh nghiệp bởi đây là loại
thuế mà diện điều tiết rộng. Thuế này khơng cần phải có lợi nhuận mới phải nộp như
thuế thu nhập doanh nghiệp. Thuế này phát sinh ngay khi cung cấp hàng hóa dịch vụ.
Giảm thuế GTGT nên tập trung cho các dịch vụ như lưu trú khách sạn, du lịch, vận
chuyển, chuyên chở trang thiết bị phục vụ phòng chống dịch…
d) Tác động của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ, cụ thể là công cụ lãi suất trong thời điểm hiện nay sẽ ít hiệu
quả. Khi dịch bệnh cịn tồn tại thi một số nhu cầu đặc thù sẽ biến mất, theo đó các
ngành kinh doanh, trong đó có ngành dịch vụ phục vụ các nhu cầu đó cũng sẽ khơng
trở lại được, dù lãi suất có giảm cũng khơng tạo được động lực để doanh nghiệp vay
vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, với đa số doanh nghiệp, yếu tố lãi
suất không hẳn quyết định hành vi đầu tư hoặc mở rộng kinh doanh vào lúc này. Do
vậy, chính sách hỗ trợ tín dụng nên tập trung vào nhóm các doanh nghiệp ít hoặc
khơng bị ảnh hưởng, hoặc có hướng chuyển đổi hiệu quả. Đồng thời, mơi trường thể
chế và chính sách ngành cần được cải thiện.
Đối với gói tín dụng, cần sớm sửa đổi Thơng tư 01 theo hướng mở rộng đối
tượng hỗ trợ và kéo dài thời gian cơ cấu lại nhóm nợ đến cuối năm 2021, khi dịch có

3


thể đã kết thúc, còn tiềm lực của doanh nghiệp, ngân hàng đã vững hơn. Nợ xấu của
ngành ngân hàng có liên quan chặt với Thơng tư 01. Việc Thơng tư 01 sửa đổi cho
phép giữ nguyên nhóm nợ đến khi nào sẽ quyết định tỷ lệ nợ xấu của ngành. Nếu
khơng cho phép giữ ngun nhóm nợ thi chắc chắn nợ xấu sẽ tăng đột biến và gây cú
sốc cho hệ thống.
Trong quá trinh thực thi chính sách, các chính sách hỗ trợ cần rõ ràng và minh
bạch về thủ tục cũng như đối tượng được hưởng các gói chính sách. Cần giảm thiểu
những phiền hà về thủ tục và quy trinh tiếp cận các gói hỗ trợ, đặc biệt là thủ tục
chứng minh về tài chính. Ngồi ra, cần lưu ý một số rủi ro sau: i) rủi ro thể chế làm

chậm tiến độ bơm tiền kích thích tiêu dùng và đầu tư; ii) rủi ro tham nhũng và sợ
trách nhiệm có thể làm giảm hiệu lực và hiệu quả của gói kích thích; iii) rủi ro chệch
mục tiêu, các chính sách hỗ trợ cần hướng vào đúng và trúng đối tượng.
e) Tác động của chính sách giá cả và kinh tế đối ngoại
- Chính sách giá cả giúp ổn định giá cả các yếu tố đầu vào của ngành dịch vụ,
chống hiện tượng bán phá giá cũng như đầu cơ tích trữ, làm ảnh hưởng đến chuỗi
cung ứng cho hoạt động kinh tế dịch vụ.
- Chính sách kinh tế đối ngoại mở cửa thị trường dịch vụ theo các cam kết
quốc tế, tăng cường công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dịch
vụ. Khảo sát, đánh giá năng lực cạnh tranh của từng lĩnh vực dịch vụ hiện tại và trong
tương lai; phân loại các lĩnh vực dịch vụ cần được bảo hộ, các lĩnh vực loại trừ tạm
thời, loại trừ hoàn toàn cho việc mở cửa và dành đối xử quốc gia, tối huệ quốc cho
các nhà cung cấp dịch vụ nước ngồi.
1.2. Tác động tiêu cực
a) Nhiều chính sách cịn gây phức tạp và mâu thuẫn trong lĩnh vực dịch vụ
Chính sách cho dịch vụ ở Việt Nam là một hệ thống phức tạo với nhiều loại
luật, quy định và các văn bản dưới dạng luật do các Bộ, cơ quan và các chính quyền
địa phương ban hành. Kết quả là thiếu sự minh bạch và điều khá phổ biến là các văn
bản này thường mâu thuẫn với nhau. Ngay cả người Việt cũng gặp khó khăn khi tiếp
cận với các văn bản này. Do đó, việc tiếp cận và hiểu được các văn bản đó đối với
cơng ty nước ngồi cịn khó hơn rất nhiều. Trên thực tế, các cơng ty nước ngồi
thường được thơng báo về những thay đổi trong các quy định cấp phép và hoạt động
chi sau khi họ đã chuẩn bị tài liệu theo quy định trước đó. Một hậu quả của việc phân
chia trách nhiệm không rõ ràng giữa các cơ quan quản lý là tinh thiếu nhất quá của

4


môi trường pháp luật. Trong một số trường hợp, một số điều khoản của các văn bản
mới mâu thuẫn với một số văn bản đang có hiệu lực.

Cũng khá phổ biến là các quy định được nêu ra rất chung chung, dễ dẫn đến
những diễn giải tùy tiện. Chi phí giao dịch cao hơn do những thủ tục phiền hà và
những quy định khơng minh bạch sẽ khơng khuyến khích sự phát triển của ngành
dịch vụ đang hoạt động theo những văn bản này. Những thay đổi khơng đốn trước
được trong khuôn khổ luật pháp cũng là một vấn đề các tác động tiêu cực đế sự phát
triển kinh doanh ở Việt Nam. Những thay đổi thường xuyên về luật pháp dẫn đến
những rủi ro không cần thiết trong kinh doanh, đặc biệt đối với đầu tư dài hạn. Mức
độ rủi ro tăng cũng có thể làm giảm quy mơ kinh doanh và đầu tư của các lĩnh vực sử
dụng dịch vụ là đầu vào, do vậy làm giảm nhu cầu về dịch vụ.
b) Bất bình đẳng vẫn tồn tại giữa các Doanh nghiệp nhà nước và công ty tư
nhân.
Vài trò của khu vực tư nhân trong ngành dịch vụ ngày càng tăng, nhà nước đã
có nhiều chính sách hỗ trợ. Tỷ trọng của khu vực nhà nước trong GDP đã giảm dần,
đặc biệt kể từ khi Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực. Tuy nhiên vị trí độc quyền của
DNNN trong các ngành dịch vụ chiến lực vẫn còn. Sự độc quyền của DNNN được
củng cố bởi các yếu tố:
Thứ nhất, DNNN được coi là đóng vai trị chủ đạo, là xương sống của nền kinh
tế, do đó tiếp tục được đối xử ưu đãi, như dễ dàng trong việc được thuê, cấp đất, vay
vốn và được bảo hộ.
Thứ hai, vị trí độc quyền của các DNNN trong các ngành dịch vụ như viễn
thông, vận tải hàng không và điện lực là hệ quả tất yếu của sự không binh đẳng trong
tiếp cận thị trường khi các doanh nghiệp tư nhân, kể cả các nhà đầu tư nước ngồi
khơng được phép hoặc vấp phải rất nhiều trở ngại khi tiếp cận lĩnh vực này. Các quy
định cấp phép không rõ ràng và minh bạch, hay điều kiện tiếp cận khơng câng xứng
tới các dự án của chính phủ, là trở ngại điển hinh.
c) Một số quy định về đầu tư nước ngồi vẫn cịn cản trở tiếp cận thị trường
Hiện nay, Việt Nam đã cho phép người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới
mọi hinh thức, bao gồm cả hinh thức 100% vốn nước ngoài. Về khu vực dịch vụ, nơi
vẫn còn một số hạn chế (chẳng hạn như viễn thơng), các nhà đầu tư nước ngồi được
phép liên doanh với các đối tác trong nước. Chính phủ chi thị đặc biệt khơng cho

phép đầu tư nước ngồi hoạt động trong những lĩnh vực có khả năng đe dọa và làm

5


tổn hại đến bản sắc văn hóa, an ninh quốc gia, lợi ích xã hội cơng cơng và mơi
trường.
Tuy nhiên, tiếp cận thị trường trong khu vực dịch vụ vẫn là một vấn đề lớn. Ví
dụ, trong lĩnh vực viễn thơng, đầu tư tư nhân và nước ngồi chi được tham gia vào
mạng lưới viễn thông cơ bản thông qua các dự án hợp đồng – hợp tác – kinh doanh
(BCC), trong đó các cơng ty nước ngồi cấp vốn đầu tư và chia sẻ lợi nhuận song
khơng có cổ phiếu và hầu như khơng có quyền tham gia cơng tác quản lý. Trong hầu
hết các trường hợp, các dự án BCC bộc lộ nhiều bất cập và chính điều này đã khơng
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngồi (thậm chí cả trong nước) và làm tăng chi phí
vốn. Thiếu sở hữu tư nhân và những hạn chế về giám sát và quản lý cỏ thể làm tăng
rủi ro cho các nhà đầu tư, giảm mức độ sẵn có của vốn và hạn chế việc chuyển giao
kỹ năng quản lý cho doanh nghiệp. Đồng thời, do thiếu sự gắn kết giữa trách nhiệm
quản lý và rủi ro đầu tư nên các BBC sẽ làm giảm các khuyến khích làm tăng hiệu
quả cũng như các biện pháp quản lý làm tăng lợi nhuận. Hơn nữa, quá trinh thương
lượng thường mất nhiều thời gian và điều đó đã khiến cho chi phí giao dịch tăng.
d) Các cơ chế thực hiện và giám sát không rõ ràng
Hiệu lực pháp lý yếu kém là một trở ngại lớn đối với sự phát triển khu vực tư
nhân ở Việt Nam, đặc biệt là đối với các công ty hoạt động trong khu vực dịch vụ,
nơi những đặc điểm vô hinh đã khiến cho việc thực hiện các biện pháp chế tài trở nên
khó khăn hơn nhiều. Điều này dẫn đến quyền sở hữ không được đảm bảo và hậu quả
trước mắt là rủi ro kinh doanh và chi phí giao dịch tăng lên.
e) Nhiều bộ chịu trách nhiệm về dịch vụ gây khó khăn trong phát triển dịch vụ
Một thách thức lớn đối với hầu hết các nền kinh tế là trách nhiệm đổi với các
ngành dịch vụ lại thuộc phạm vi quản lý của nhiều bộ ngành. Ở Việt Nam, mỗi Bộ
đóng vai trò nhất định đối với khu vực dịch vụ, hoặc là giám sát trực tiếp một ngành

dịch vụ, hoặc là xây dựng chiến lược chính sách tác động đến các ngành dịch vụ.
Không giống như các khu vực khác, dịch vụ có đặc thù là có nhiều mối quan hệ liên
ngành và trong nội bộ ngành ở mức độ cao. Tất cả các ngành dịch vụ đều cung cấp
đầu vào cho các ngành dịch vụ khác, song đồng thời cũng là nguồn đầu vào quan
trọng cho sản xuất hàng hóa. Do vậy, sự phát triển của dịch vụ sẽ phải phụ thuộc vào
sự phối hợp giữa các bộ và các cơ quan.
2. Một số giải pháp hạn chế những tác động tiêu cực của chính sách nhà
2.1.

nước về kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ
Phương thức phối hợp trong phát triển khu vực dịch vụ quốc gia

6


Để phát triển có hiệu quả khu vực dịch vụ của Việt Nam, điều quan trọng nhất
là phải có sự phối hợp ở mức cao nhất giữa các cơ quan có trách nhiệm. Việc
đặt sự phát triển khu vực dịch vụ ngang với phát triển công nghiệp, nông nghiệp
cũng không kém phần quan trọng, nhất là về mặt phân bổ nguồn lực và các biện
pháp khuyến khích.
Để đạt được sự phối hợp có hiệu quả nhất giữa các bộ liên quan đến việc phân
công trách nhiệm cho từng phần trong khu vực dịch vụ cần tiến hành một số các
bước sau:
-

Chi định một lãnh đạo cấp quốc gia ( ví dụ như: một Phó thủ tướng chịu

-

trách nhiệm về tất cả các ngành dịch vụ trong khuôn khổ GATS) ;

Thành lập cơ chế điều phối giữa các bộ ngành có trách nhiệm về các dịch
vụ khác nhau, tổ chức các cuộc họp thường xuyên và do Lãnh đạo cấp

-

quốc gia được chi định chủ tri.
Chi định một bộ ngành hay một ủy ban “đứng đầu”mỗi phân ngành dịch vụ
trong khuôn khổ GAST với các trách nhiệm hành chính;
+ Định ra các tiêu chuẩn dịch vụ kỹ thuật và thực thi các tiêu chuẩn đó;
+ Cấp giấy phép cho các nhà cung cấp dịch vụ thuộc các phân ngành dịch
vụ;
+ Thực hiện các nghiên cứ về xu hướng và tiêu chuẩn quốc tế đối với các
phân ngành dịch vụ;
+ Đề xuất các thay đổi chính sách và phát luật cần thiết;
+ Cung ứng đầu vào về các chiến lược đàm phán trong thương mại dịch

-

vụ;
+ Xác định các nhu cầu hỗ trợ kỹ thuật đối với từng phân ngành dịch vụ;
+ Giải quyết khiếu nại của khách hàng;
+ Xác định các mục tiêu hoạt động và tăng trưởng.
Tách các chức năng cung cấp dịch vụ, kiểm toán hay luật pháp ra khỏi các

-

cơ quan có chức năng hành chính nhằm tránh xung đột lợi ích.
Tiếp nhận báo cáo từ cơ quan “đứng đầu” mỗi phân ngành dịch vụ về sự
cần thiết phải thay đổi bất ki chính sách, quy định hay các biện pháp
khuyến khích nào nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh và đảm bảo sự đối

xử công bằng giữa sản xuất hàng hóa và sản xuất dịch vụ cũng như đặt ra

-

kế hoạch để hoàn thành những thay đổi đó.
Giải quyết bất kỹ xung đột giữa phát triển khu vực dịch vụ với chính sách
cơng nghiệp, liên quan đến vấn đề phát triển công nghiệp và ô nhiếm môi

7


trường cũng như khả năng cạnh tranh của các nhân tố hấp dẫn du lịch Việt
Nam.
2.2. Xây dựng khuôn khổ điều tiết vững mạnh
Sự thành cơng của tự do hố thị trường và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ
cịn phụ thuộc vào việc liệu khn khổ điều tiết trong nước có vững mạnh, có đáp
ứng được các tiêu chuẩn quốc tế, có minh bạch và có được thực hiện nhất quán hay
không. Khuôn khổ điều tiết này phải bảo đảm rằng các nhà cung cấp dịch vụ trong
cũng như ngoài nước đều phải đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng Việt Nam. Hiện nay, khuôn khổ điều tiết của Việt Nam vừa chưa
hồn thiện vừa khơng được thực hiện đồng bộ.
Các bước đi cần thiết cụ thể sẽ phụ thuộc vào các kết quả phân tích sâu về các bộ
ngành và cơ quan Chính phủ để tim ra các khoảng trống, những điểm mâu thuẫn và
yếu kém trong thực thi trong mỗi phân ngành dịch vụ. Thêm vào đó, cần quan tâm
hơn tới các tác động của việc điều tiết tới khả năng tiếp cận và khả năng chi trả các
dịch vụ thiết yếu của người nghèo. Dưới đây là một số ví dụ về những hành động cần
được thực hiện:
a) Đối với những dịch vụ áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật và thơng lệ quốc tế (ví dụ,
vận tải biển, tài chính), các dịch vụ của Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn và
thông lệ quốc tế đó.

b) Bảo đảm các tiêu chuẩn cấp giấy phép hay chứng chi đối với mỗi loại hinh dịch vụ
cơ bản, bao gồm cả yêu cầu đào tạo thường xuyên để duy tri/ gia hạn giấy phép/
chứng chi đó.
c) Khi Việt Nam đã mở cửa cho nước ngoài tham gia vào cung cấp dịch vụ, cần bảo
đảm rằng các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đáp ứng được các tiêu chuẩn cấp giấy
phép và chứng chi của Việt Nam.
d) Hỗ trợ sự phát triển của các hiệp hội ngành dịch vụ thơng qua đó nâng cao việc
tn thủ các chuẩn mực hành nghề, cung cấp các mối liên hệ tới các hiệp hội quốc tế,
các thông tin về chuẩn mực quốc tế, và hỗ trợ đào tạo kỹ năng thường xuyên cho các
thành viên.
e) Hinh thành Quỹ tiếp cận dịch vụ chung để hỗ trợ chính phủ cung cấp dịch vụ đến
người nghèo, với một loại thuế áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp trên một
phạm vi nhất định.

8


f) Khởi xướng một chương trinh theo đó ít nhất có tới 25% nhà cung cấp dịch vụ
đăng ký ISO 9001:2000, có thể khấu trừ thuế và các chi phí đăng ký.
2.3.

Tạo việc làm trong các ngành dịch vụ

Phần lớn việc làm trong khu vực dịch vụ đòi hỏi lao động phải có trinh độ từ
phổ thơng trở lên. Đối với một nền kinh tế như Việt Nam, việc xây dựng kế hoạch
chuyển dịch cơ cấu lao động từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế tri thức cần
phải được tiến hành một cách thận trọng. Một trong các ưu thế của các ngành dịch vụ
là khả năng tạo việc làm trên tồn quốc, chứ khơng chi ở các vùng đơ thị. Thay vào
việc khuyến khích di dân ra bên ngoài đối với những cử nhân mới tốt nghiệp chưa có
việc làm, có thể áp dụng một số biện pháp sau:

a) Khuyến khích những người mới tốt nghiệp mà chưa có việc làm thành lập các
cơng ty dịch vụ;
b) Cung cấp dịch vụ đào tạo các kỹ năng văn phòng và nhập dữ liệu/ quản lý đối với
những người lao động chuyển từ các vùng nông thôn ra thành thị.
c) Xác định và phát triển các cơ hội tạo việc làm dịch vụ ở nông thôn, như sửa chữa
máy móc, thiết bị nơng nghiệp.
d) Tạo ra các hoạt động dịch vụ văn phòng sau giờ làm việc (back office operations),
với hoạt động đào tạo hợp lý.
2.4.

Tăng nhu cầu dịch vụ nội địa

Nhu cầu dịch vụ nội địa phụ thuộc vào trinh độ phát triển kinh tế và mức thu
nhập binh quân đầu người. Tại những nước chưa phát triển như Việt Nam, để tăng
nhu cầu dịch vụ nội địa trước tiên cần tăng cầu về các dịch vụ trung gian. Việc tăng
cầu về các dịch vụ trung gian đến lượt chúng sẽ làm tăng xuất khẩu dịch vụ của Việt
Nam. Việt Nam hiện đang gặp phải tinh thế bế tắc giống như các nước thu nhập thấp
khác là khơng có đủ nhu cầu nội địa để hỗ trợ phát triển các dịch vụ kinh doanh chất
lượng cao và độc đáo, vốn là những dịch vụ mà bất kỳ khu vực kinh tế nào cũng cần
để nâng cao năng lực cạnh tranh. Bằng cách hỗ trợ các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ kinh doanh tiếp cận thành công các thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp này sẽ
có cơ số khách hàng đủ lớn để lựa chọn đổi mới và rèn rũa kỹ năng cần thiết cho việc
tạo ra và duy tri các sản phẩm dịch vụ độc đáo, chất lượng cao với giá cạnh tranh.
Khi đã có được các dịch vụ trung gian chất lượng cao, nhiệm vụ tiếp theo là nâng cao
nhận thức cho khối DNNN cũng như doanh nghiệp tư nhân về những lợi ích của
9


phương thức thuê mua những đầu vào dịch vụ chuyên nghiệptừ nhà cung cấp bên
ngồi và coi đó là những khoản đầu tư cho năng lực cạnh tranh chứ không phải là các

khoảnchi phí kinh doanh. Sự hợp tác giữa các tổ chức thuộc khu vực tư nhân như
Phòng Thương mại và Công nghiệp ViệtNam (VCCI) với Bộ Thương Mại có thể dẫn
tới những câu chuyện thành cơng và các tin bài về lợi ích của việc thuê mua dịch vụ
bên ngoài, phân phối tờ rơi về cách thức chọn một nhà cung cấp dịch vụ tốt cũng như
quản lý mối quan hệ cộng tác này, và tổ chức các hội thảo nhằm giải thích rằng mua
dịch vụ bên ngồi là phương thức hữu ích nhất.
Chính phủ có thể đóng vai trị then chốt trong việc kích cầu nội địa đối với các
dịch vụ trung gian bằng cách đặt hàng các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân. Vào thời
điểm này, rất nhiều DNNN tự cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh trong nội bộ hay
ký hợp đồng với các cơ quan chính phủ. áp dụng thuê mua dịch vụ từ các doanh
nghiệp tư nhân Việt Nam vào hoạt động mua sắm chính phủ có thể là một động lực
mạnh mẽ để kích thích nhu cầu nội địa cho lĩnh vực dịch vụ.
2.5. Tăng cường xuất khẩu dịch vụ
Một trong những mục đích chính của tự do hố thương mại dịch vụ là tăng cơ
hội xuất khẩu nhiều loại hinh dịch vụ tới thị trường nước ngoài cho các nhà cung cấp
dịch vụ Việt Nam. Hội nhập quốc tế cũng đi kèm với sức ép cạnh tranh ngày càng
tăng từ các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trên thị trường nội địa của Việt Nam.
Các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam cần được trang bị chuyên môn và được hỗ trợ để
cạnh tranh thành công với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trên cả thị trường
trong nước và quốc tế. Xuất khẩu dịch vụ thành cơng địi hỏi cách làm khác với xuất
khẩu hàng hố. Nhin chung, cái để quảng bá tới người tiêu dùng nước ngồi là hiệu
quả hoạt động chứ khơng phải là một sản phẩm dịch vụ hồn thiện có thể thẩm định
trước khi dùng. Các hiệp hội ngành nghề dịch vụ đóng vai trị chủ chốt trong việc tơn
lên hinh ảnh của ngành dịch vụ (Việt Nam) trên thị trường toàn cầu, đóng vai trị kết
nối với các hiệp hội cùng ngành nghề trên thế giới để thúc đẩy quan hệ đối tác, và
đóng vai trị đại diện cho ngành nghề tại các diễn đàn khu vực và quốc tế.
Để tăng xuất khẩu dịch vụ thành công, Việt Nam cần một chiến lược xúc tiến
xuất khẩu quốc gia. May mắn là với sự hỗ trợ kỹ thuật của Trung tâm Thương mại
Quốc tế (ICT-UNCTAD/WTO), Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam (thông qua dự
án VIE/61/94) đã và đang trong quá trinh xây dựng chiến lược phát triển xuất khẩu

quốc gia và chuẩn bị bổ xung nội dung về phát triển xuất khẩu dịch vụ. Một nguồn
10


tham khảo nữa là ấn phẩm “Hỗ trợ các nhà xuất khẩu dịch vụ vừa và nhỏ của APEC:
Cẩm nang những thông lệ tốt nhất” của Hội đồng tư vấn kinh doanh APEC (ABAC)
với nhiều nội dung bổ ích cho Việt Nam.
3. Liên hệ thực tiễn những tác động chính sách nhà nước đối với kinh tế tỉnh Hà
Nam năm vừa qua
Hiện nay dịch bệnh COVID-19 trên thế giới cũng như trong nước hiện cịn đang
diễn biến phức tạp, khó lường, tác động tiêu cực của dịch bệnh đến các mặt của đời
sống kinh tế - xã hội còn tiếp tục kéo dài, chưa thể đánh giá hết. Tinh hinh đó, địi hỏi
chúng ta vừa phải tập trung ưu tiên phịng, chống dịch, đồng thời cần có các chính
sách, giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm giảm thiểu tác động của dịch bệnh, vượt
qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ để sớm phục hồi và đẩy mạnh sản xuất,
kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội.
Trước tinh hinh đó với quyết tâm của tồn Đảng và cả hệ thống chính trị chúng
ta phấn đấu đạt mục tiêu kép: với tinh thần là “thần tốc, cương quyết, dồn mọi nguồn
lực để xử lý triệt để các ổ dịch”, chi đạo khoanh vùng dập dịch quyết liệt nhưng
không hoảng loạn, chi tập trung phong tỏa những nơi có dịch, cách ly nguồn dịch.
Những nơi khơng có lây nhiễm trong cộng đồng mà chi có người trở về từ các vùng
dịch thi khoanh vùng phạm vi ở mức độ vừa đủ, hạn chế giãn cách một cách tràn
lan... đồng thời quyết không để “đứt gãy” kinh tế.
Nhận thức rõ tinh hinh theo chi đạo của Chính phủ; của Tinh, ngay từ đầu năm
2020 Ngành Thuế đã triển khai đồng bộ tất cả các nhóm giải pháp trong lĩnh vực thuế
với tinh thần “chống dịch như chống giặc’, đã ổn định bộ máy từ Cục Thuế đến Chi
cục Thuế thực hiện giãn cách xã hội, đảm bảo vận hành công việc chuyên môn, đặc
biệt những nội dung liên quan tới người dân và cộng đồng doanh nghiệp đang gặp
khó khăn do tác động của đại dịch COVID-19.
Thức nhất, Để hỗ trợ kịp thời cho người dân và doanh nghiệp do anh hưởng của

đại dịch COVID-19. Cục Thuế đã tập trung tham mưu UBND tinh triển khai các gói
kích cầu như: Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 về việc gia hạn thời hạn
nộp thuế và tiền thuê đất; Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020, Quyết định số
15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 về tổ chức thực hiện các biện pháp và chính sách
hỗ trợ người dân gặp khó khăn … Đến hết 30/7/2020, Ngành thuế đã tiếp nhận được
11


542 Giấy đề nghị gia hạn với tổng số tiền gia hạn thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất hơn 334 tỷ đồng (trong đó tiền
thuế đất là trên 38 tỷ đồng).
Thứ hai, Tinh Hà Nam thực hiện Nghị quyết số 84/NQ-CP về về các nhiệm vụ
giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn
đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid – 19.
Theo đó các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong lĩnh vực thuế, Nghị quyết đã đề
cập: (1) Giảm 15% tiền thuê đất phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, tổ
chức, hộ gia đinh, cá nhân đang được Nhà nước cho thuê đất trực tiếp theo Quyết
định, Hợp đồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới hinh thức trả tiền thuê đất
hàng năm phải ngừng sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của dịch Covid –
19; (2) Giảm 50% lệ phí trước bạ khi đăng ký ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước
tới hết năm 2020 nhằm kích thích tiêu dùng trong nước; (3) Quy định mức thuế bảo
vệ môi trường đối với nhiên liệu bay bằng 70% mức thuế quy định tại Nghị quyết số
579/2018/UBTVQH14 ngày 26/9/2018 đến hết ngày 31/12/2020; (4) Miễn tiền cấp
quyền khai thác tài nguyên nước đối với doanh nghiệp khai thác nước để sản xuất,
kinh doanh trong năm 2020; (5) Giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của
năm 2020 đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ để hỗ trợ trong bối cảnh đại dịch
Covid – 19.
Theo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, tiêu chí xác định DN có quy mơ vừa được
giảm thuế là DN có tổng doanh thu năm 2020 khơng quá 200 tỷ đồng, tương đương
với tiêu chí về doanh thu để xác định DN vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm

nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng theo quy định của pháp luật về
hỗ trợ DN nhỏ và vừa, do tinh hinh khó khăn nên nhiều DN thuộc lĩnh vực thương
mại, dịch vụ khó đạt doanh thu 200 tỷ đồng. Đề xuất mở rộng đối tượng được giảm
thuế với trường hợp DN có tổng doanh thu năm 2020 khơng q 50 tỷ đồng và có số
lao động tham gia bảo hiểm xã hội binh quân năm 2020 không quá 100 người.
Thứ ba, triển khai Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14 về điều chinh mức giảm
trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân. Theo quy định mới này, trong năm 2020,
trường hợp cá nhân khơng có người phụ thuộc thi thu nhập binh quân tháng từ 11
12


triệu đồng/tháng trở xuống (tương đương 132 triệu đồng/năm) sẽ khơng phải nộp
thuế thu nhập cá nhân; cá nhân có một người phụ thuộc thi thu nhập binh quân tháng
từ 15,4 triệu đồng/tháng trở xuống (tương đương 184,8 triệu đồng/năm) sẽ không
phải nộp thuế thu nhập cá nhân; cá nhân có hai người phụ thuộc thi thu nhập binh
quân tháng từ 19,8 triệu đồng/tháng trở xuống (tương đương 237,6 triệu
đồng/năm) sẽ không phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Theo tính tốn, dự kiến sẽ có
hơn 1 triệu người dân đang đóng thuế thu nhập cá nhân ở bậc 1 sẽ khơng cịn phải
nộp thuế ở kỳ tính thuế năm 2020.
Thứ tư, thực hiện Nghị quyết 116/2020/QH14 về việc giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp (TNDN) phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự
nghiệp và tổ chức khác. Cụ thể, theo Nghị quyết của Quốc hội, sẽ giảm 30% số thuế
TNDN phải nộp của năm 2020 đối với trường hợp DN có tổng doanh thu năm 2020
dưới 200 tỷ đồng. Chính sách này được áp dụng đối với các tổ chức hoạt động sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật
Thuế TNDN (sau đây gọi là DN), bao gồm: DN được thành lập theo quy định của
pháp luật Việt Nam; tổ chức được thành lập theo Luật Hợp tác xã; đơn vị sự nghiệp
được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; tổ chức khác được thành lập
theo quy định của pháp luật Việt Nam có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ có thu nhập.

Ngồi ra, tổ chức nộp nệ phí trước bạ (LPTB) điện tử và trao đổi dữ liệu điện tử
nộp LPTB ơ tơ, xe máy trên tồn quốc từ 01/8/2020 - Dịch vụ công thứ 1000 về đăng
ký ô tô, xe máy trực tuyến, giúp người dân khai và nộp lệ phí trước bạ phương tiện ơ
tơ, xe máy được nhanh chóng, thuận tiện.

13



×