Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Việt
Nam đã làm cho các quan hệ kinh tế trở nên sôi động, đa dạng và phức tạp.
Cũng vì vậy mà tranh chấp kinh tế (TCKT) phát sinh ngày một nhiều hơn, đa
dạng về chủng loại và phức tạp về nội dung. Các TCKT phát sinh đòi hỏi phải
đợc giải quyết thỏa đáng bằng một phơng thức thích hợp nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần tạo dựng môi trờng kinh doanh
thuận lợi, lành mạnh. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc giải quyết TCKT
mà pháp luật về giải quyết TCKT luôn đợc coi là một bộ phận cấu thành quan
trọng của pháp luật kinh tế. Quá trình đổi mới toàn diện đất nớc với trọng tâm
là cải cách kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung sang nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đã tác động sâu sắc đến hệ thống
pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về giải quyết TCKT nói riêng. Trong
điều kiện kinh tế thị trờng, việc giải quyết TCKT phải chính xác, nhanh
chóng, dân chủ, công bằng và hiệu quả. Yêu cầu đổi mới pháp luật về giải
quyết TCKT ngày càng trở nên cấp thiết, nhất là khi công cuộc cải cách kinh
tế ở nớc ta đang đi vào cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Phúc đáp các yêu cầu thực tiễn đặt ra cho công tác giải quyết TCKT,
cơ chế giải quyết TCKT mới đã đợc thiết lập với sự đa dạng về phơng thức giải
quyết, đơn giản, linh hoạt về thủ tục áp dụng. Bên cạnh các phơng thức giải
quyết tranh chấp theo sự thỏa thuận tự nguyện của các bên là thơng lợng và
trung gian hòa giải thì các tranh chấp kinh tế còn có thể đợc giải quyết theo
thủ tục t pháp hoặc trọng tài (phi Chính phủ). Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động giải quyết TCKT, hàng loạt văn bản pháp luật đã đợc ban hành nh: Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (LTCTAND)
năm 1993, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Nghị
1
định số 116/CP về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế năm 1994, Quyết
định số 240/TTg của Thủ tớng Chính phủ về tổ chức Trung tâm trọng tài quốc
tế Việt Nam năm 1993 Trong gần 10 năm qua, hoạt động giải quyết TCKT
đã thu đợc kết quả bớc đầu đáng khích lệ, tạo sự tin tởng, yên tâm đầu t của
các chủ thể kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển các quan hệ kinh tế của cơ chế thị
trờng, bảo đảm trật tự, kỷ cơng trong hoạt động kinh tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế nớc ta đang có những chuyển
biến sâu sắc với "chủ trơng thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa" [21, tr. 86] và từng bớc
chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới thì hoạt động giải quyết TCKT
ngày càng bộc lộ nhiều bất cập: Quan niệm về TCKT không rõ ràng và thiếu
nhất quán; thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế còn phức tạp và thờng bị kéo
dài, phán quyết nhiều khi không chính xác; khả năng thi hành kết quả giải
quyết tranh chấp trong thực tế rất hạn chế. Hậu quả là quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên tranh chấp không đợc bảo vệ triệt để, ý thức tôn trọng pháp
luật của các chủ thể kinh doanh không đợc đề cao, nhiều lực cản đối với việc
hoàn thiện môi trờng kinh doanh trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã xuất
hiện.
Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt ra yêu cầu "đẩy mạnh việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành phù hợp với
yêu cầu thực hiện chiến lợc kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế" [21, tr. 329]. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/12/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác t pháp trong thời gian tới cũng đề ra
yêu cầu cấp bách là "xây dựng cơ chế để nâng cao hiệu quả của các hình thức
giải quyết tranh chấp nh hòa giải, trọng tài, nhằm góp phần xử lý đúng và
nhanh chóng những mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân và giảm nhẹ
công việc cho tòa án và cơ quan nhà nớc khác" [1]. Thực tế đó đặt ra nhu cầu
phải nghiên cứu làm rõ các khía cạnh pháp lý của TCKT và giải quyết TCKT;
2
đánh giá thực trạng áp dụng các phơng thức giải quyết TCKT trong thời gian
qua để tìm ra nguyên nhân của các khó khăn, vớng mắc trong thực tiễn giải
quyết TCKT từ đó đa ra hớng khắc phục. Đây chính là lý do để nghiên cứu
sinh lựa chọn đề tài "Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế
thị trờng ở Việt Nam" làm luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến TCKT và giải quyết TCKT luôn thu hút đợc
sự quan tâm không chỉ của giới kinh doanh mà còn của giới nghiên cứu. Bởi
vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về các khía
cạnh pháp lý của TCKT và giải quyết TCKT. Từ những năm 90, để chuẩn bị
cho thành lập TKT nhiều đề tài nghiên cứu về mô hình tổ chức TKT và tố tụng
kinh tế đã đợc thực hiện nh chuyên đề "Tòa án kinh tế" của Bộ T pháp, đề tài
"Mô hình tổ chức giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay" của Trọng tài kinh tế Nhà nớc, Dự án VIE/94/003 "Tăng cờng năng
lực pháp luật tại Việt Nam" của Bộ T pháp có phần nghiên cứu pháp luật về
giải quyết TCKT; Đề tài khoa học cấp bộ của Bộ T pháp "Các phơng thức giải
quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam hiện nay" (1999), Đề tài khoa học cấp bộ
do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) chủ trì năm 2001 "Tính đặc thù trong
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, lao động - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn". Bên cạnh đó còn một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ cũng đề cập
đến các nội dung nhất định của việc giải quyết TCKT nh luận án tiến sĩ luật
học của Nguyễn Trung Tín "Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các
quyết định của trọng tài kinh tế", của Phan Thị Hơng Thủy "Xây dựng và hoàn
thiện cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của các doanh nghiệp có vốn đầu t
nớc ngoài". Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đề cập đến các vấn đề của TCKT
và giải quyết TCKT nh các bài "Hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết
tranh chấp kinh tế bằng Tòa án và Trọng tài" của GS.TSKH Đào Trí úc,
"Kinh tế thị trờng và sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật kinh tế" của
PGS.TS Lê Hồng Hạnh, "Tòa Kinh tế thuộc hệ thống Tòa án nhân dân -
3
Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của TS. Nguyễn Văn Dũng, "Về mối quan
hệ giữa tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế" của TS. Phạm Duy Nghĩa, "Trọng tài
kinh tế, cơ quan tài phán mới trong kinh doanh ở nớc ta" của TS. Dơng Đăng
Huệ, "Về mô hình tổ chức Tòa án kinh tế ở Việt Nam" của PGS.TS. Hoàng Thế
Liên, "Về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế ở nớc ta trong giai đoạn hiện
nay" của PGS.TS Phạm Hữu Nghị, "Pháp luật tố tụng và các hình thức tố tụng
kinh tế" của PGS.TS Nguyễn Nh Phát, "Hòa giải, thơng lợng trong việc giải
quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế" của TS. Trần Đình Hảo, "Tổ chức giải
quyết tranh chấp kinh tế ở một số nớc ASEAN và một số bài học kinh nghiệm"
của TS. Nguyễn Am Hiểu, "Việc tiếp nhận Luật Mẫu của UNCITRAL về trọng
tài thơng mại quốc tế ở một số nớc và việc xây dựng Dự thảo pháp lệnh
trọng tài của Việt Nam" của TS. Dơng Thanh Mai, "Tăng cờng vai trò của Tòa
án trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế" của TS. Phan Chí Hiếu
Trong những mức độ nhất định, các công trình nói trên mới đề cập một
cách riêng biệt về từng phơng thức giải quyết tranh chấp kinh tế chứ cha đặt
vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về TCKT và giải quyết
TCKT dới sự tác động của kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở nớc ta với xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng nh mối liên hệ giữa các phơng thức giải
quyết TCKT với nhau. Luận án là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ luận
án tiến sĩ nghiên cứu một cách tổng thể và toàn diện về giải quyết TCKT trong
điều kiện kinh tế thị trờng ở Việt Nam, đánh giá sự chi phối của cơ chế kinh tế
thị trờng đến quan niệm về TCKT và giải quyết TCKT, chỉ ra các đặc thù của
từng phơng thức giải quyết tranh chấp và mối liên hệ giữa chúng, đánh giá
hoạt động giải quyết TCKT trong thời gian qua và đa ra phơng hớng và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCKT.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Luận án có mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về TCKT và
giải quyết TCKT; đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về giải quyết TCKT ở
4
nớc ta trong thời gian qua; đa ra những phơng hớng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về giải quyết TCKT.
Với những mục đích nghiên cứu nh vậy, luận án phải giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ bản chất pháp lý của TCKT và giải quyết TCKT; đánh giá tác
động của nền kinh tế thị trờng, định hớng XHCN ở Việt Nam tới quan niệm về
TCKT và cơ chế giải quyết TCKT; chỉ ra các u điểm và nhợc điểm của từng
phơng thức giải quyết tranh chấp TCKT cũng nh mối liên hệ giữa chúng với
nhau.
- Đánh giá thực trạng giải quyết TCKT ở nớc ta trong thời gian qua từ
đó chỉ rõ các bất cập trong các quy định pháp luật hiện hành về tổ chức và
hoạt động của từng phơng thức giải quyết TCKT.
- Khẳng định sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về giải quyết
TCKT đồng thời đa ra phơng hớng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
giải quyết TCKT để nâng cao hiệu quả của từng phơng thức giải quyết TCKT
với trọng tâm là thiết lập mối liên hệ chặt chẽ giữa các phơng thức nhằm đáp
ứng đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt
Nam đối với việc giải quyết TCKT.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Cơ chế giải quyết TCKT bao gồm rất nhiều nội dung hợp thành. Nhng
trong khuôn khổ luận án tiến sĩ luật học, luận án chỉ tập trung nghiên cứu làm
rõ các khía cạnh pháp lý về TCKT và giải quyết TCKT với nội dung trọng tâm
là đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của từng
phơng thức giải quyết TCKT trên cơ sở đó đa ra các kiến nghị nhằm xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCKT ở nớc ta. Nhận thức đợc tầm quan
trọng của tòa án và trọng tài đối với việc giải quyết TCKT trong điều kiện thực
tế Việt Nam, luận án tập trung nghiên cứu sâu pháp luật về giải quyết TCKT
theo thủ tục t pháp và thủ tục trọng tài.
5
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh để luận giải mối quan hệ giữa thợng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ
sở, mối quan hệ giữa kinh tế và pháp luật, vai trò của pháp luật trong việc điều
chỉnh quan hệ phát sinh từ hoạt động giải quyết tranh chấp. Trên cơ sở các
quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về đờng lối đổi mới đất nớc, xây dựng Nhà
nớc pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng
XHCN luận án đã đề xuất phơng hớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
giải quyết TCKT.
Để giải quyết những vấn đề đặt ra, luận án sử dụng các phơng pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể, nh: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa,
khảo sát thực tiễn. Phơng pháp so sánh luật học đợc sử dụng để tham khảo
kinh nghiệm giải quyết TCKT ở nớc ngoài. Phơng pháp khảo sát thực tiễn,
thăm dò ý kiến chuyên gia đợc sử dụng để đánh giá thực trạng giải quyết
TCKT ở nớc ta thời gian qua. Luận án sử dụng phơng pháp phân tích, tổng
hợp, khái quát hóa để làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về TCKT,
chỉ ra các bất cập của pháp luật và đề xuất giải pháp khắc phục.
6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án là một công trình khoa học trình bày một cách toàn diện và
chuyên sâu về TCKT và giải quyết TCKT trong nền kinh tế thị trờng ở Việt
Nam. Với việc làm rõ bản chất của TCKT và các phơng thức giải quyết dới sự
tác động của cơ chế kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt Nam, luận án đã
góp phần phát triển lý luận về TCKT và giải quyết TCKT.
Những kết quả nghiên cứu của luận án giúp cho các nhà kinh doanh
lựa chọn áp dụng phơng thức giải quyết TCKT phù hợp với mình; các nhà
hoạch định chính sách và các nhà xây dựng pháp luật ý tởng liên quan đến
việc hoàn thiện cơ chế giải quyết TCKT. Luận án còn chứa đựng nhiều thông
6
tin với giá trị tham khảo cao đối với các thẩm phán, trọng tài viên, hòa giải
viên và những ngời học tập, giảng dạy, nghiên cứu pháp luật.
7. Những đóng góp mới của luận án
Luận án có những đóng góp mới sau đây:
- Luận án đã làm rõ đợc cơ sở lý luận về TCKT và giải quyết TCKT:
Xây dựng đợc khái niệm khoa học về TCKT, đánh giá đợc tác động của cơ chế
kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt Nam đến quan niệm về TCKT, vai
trò của từng phơng thức giải quyết TCKT và quan hệ nội tại giữa các phơng
thức với nhau.
- Thông qua các ví dụ thực tiễn, luận án đã đánh giá một cách toàn
diện thực trạng giải quyết TCKT qua các phơng thức thơng lợng, trung gian
hòa giải, tòa án và trọng tài; chỉ ra các bất cập trong pháp luật về giải quyết
TCKT và phân tích nguyên nhân của những bất cập đó.
- Trên cơ sở các quan điểm, phơng hớng hoàn thiện cơ chế giải quyết
TCKT, luận án đã đề xuất nhiều kiến nghị mới mẻ nhằm hoàn thiện pháp luật
về giải quyết TCKT ở nớc ta.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, luận án gồm 3 chơng, 9 mục.
7
Chơng 1
Những vấn đề lý luận về tranh chấp kinh tế
và giải quyết tranh chấp kinh tế
trong nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam
1.1. tranh chấp kinh tế trong nền kinh tế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp kinh tế
TCKT là một hệ quả của quá trình vận động các nguồn lực phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân dới sự tác động của quy
luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh. Một xã hội có nền kinh tế
càng phát triển thì TCKT càng xảy ra nhiều, càng phức tạp về tính chất và đa
dạng về nội dung. Mục đích hàng đầu của các chủ thể khi tham gia các quan
hệ kinh tế là tìm kiếm lợi nhuận tối đa và xuất phát từ lợi ích cá biệt của mỗi
chủ thể kinh tế mà các xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể đó là điều
khó tránh khỏi. Các Mác đã từng nói: Lợi ích thúc đẩy lịch sử các dân tộc. Về
khía cạnh kinh tế, quy luật giá trị (lợi ích) là động lực lớn nhất chi phối TCKT.
TCKT là một khái niệm mang nội hàm kinh tế - pháp lý. Trong mỗi
chế độ xã hội, dới từng thể chế kinh tế, thậm chí trong từng giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội cụ thể, khái niệm TCKT có thể mang những nội hàm
riêng biệt. Nói một cách khác, khái niệm TCKT mang trong mình những dấu
ấn đặc trng của cơ chế kinh tế và điều kiện cơ sở vật chất của một xã hội, một
Nhà nớc nhất định. Việc xây dựng khái niệm TCKT và làm rõ nội hàm của nó
sẽ giúp chúng ta thấy đợc bản chất pháp lý của TCKT, từ đó tìm ra biện pháp
hữu hiệu để giải quyết chúng một cách nhanh chóng, chính xác và đúng pháp
luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, bảo đảm trật
tự kinh doanh và kỷ cơng xã hội.
8
Tranh chấp, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là những xung đột, bất
đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi chúng tham gia vào các quan
hệ pháp luật. Các tranh chấp trong xã hội rất phong phú và đa dạng. Chúng
phát sinh trong nhiều lĩnh vực, giữa các loại chủ thể, từ những lý do khác nhau
và vì những mục đích không giống nhau. Để đáp ứng một nhu cầu nào đó mà
ngời ta có thể dựa trên một căn cứ riêng để phân loại tranh chấp. Căn cứ vào
nội dung cụ thể của tranh chấp mà chia thành tranh chấp hợp đồng, tranh chấp
bồi thờng thiệt hại ngoài hợp đồng, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, tranh
chấp chứng khoán Căn cứ vào tính chất của các quan hệ pháp luật làm phát
sinh tranh chấp, ngời ta có thể chia thành tranh chấp dân sự, TCKT (kinh
doanh), tranh chấp lao động, tranh chấp hành chính.
Các quốc gia trên thế giới có những quan niệm rất khác nhau về tranh
chấp nói chung và tranh chấp phát sinh từ các hoạt động kinh doanh nói riêng.
Không phải quốc gia nào cũng có sự phân biệt tranh chấp kinh doanh (TCKT
theo cách gọi của Việt Nam) với tranh chấp dân sự.
Các nớc theo truyền thống luật Anh - Mỹ nh: Anh, Mỹ, úc và các nớc
chịu ảnh hởng của truyền thống luật này không phân biệt lĩnh vực kinh doanh
(với mục đích tìm kiếm lợi nhuận) và lĩnh vực dân sự (mục đích tiêu dùng).
Trong pháp luật của các nớc này không tồn tại các khái niệm thơng nhân (th-
ơng gia), hành vi thơng mại hay giao dịch thơng mại. Điều này dẫn đến hệ quả
là các nớc này không phân biệt tranh chấp kinh doanh (những tranh chấp phát
sinh từ các hoạt động kinh doanh của các công ty hoặc liên quan mật thiết tới
chúng) với các tranh chấp phát sinh từ các hoạt động dân sự. Mọi tranh chấp
dù phát sinh từ hoạt động kinh doanh hay hoạt động dân sự đều đợc giải quyết
bằng phơng thức giống nhau.
Nói nh vậy không có nghĩa là các quốc gia này không tồn tại những
thiết chế riêng để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh
của các tổ chức, cá nhân. Ví dụ: Vơng quốc Anh có tòa án giải quyết những
9
khiếu nại về hạn chế quyền tự do kinh doanh; Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có
tòa án giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ thơng mại quốc
tế [70, tr. 583]. Trong tòa án dân sự thẩm quyền chung của Nhật Bản có những
Ban riêng để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh hoặc
các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh đợc phân cho thẩm phán nào
có nhiều kiến thức kinh doanh và kinh nghiệm trong việc giải quyết các tranh
chấp loại này.
Các nớc theo truyền thống luật Châu Âu lục địa nh Đức, Pháp, Tây
Ban Nha, Bỉ và các nớc chịu ảnh hởng của truyền thống luật này phân biệt
hoạt động kinh doanh với hoạt động dân sự và thừa nhận sự tồn tại của pháp
luật thơng mại bên cạnh pháp luật dân sự. Pháp luật của các nớc này có khái
niệm thơng nhân (thơng gia) và hành vi thơng mại với việc đa ra các tiêu chí
khá cụ thể để phân biệt thơng nhân với ngời không phải là thơng nhân; hành vi
thơng mại với hành vi dân sự. Sự phân biệt này dẫn đến hệ quả là: (i) đối với
hành vi thơng mại sẽ u tiên áp dụng luật thơng mại; những gì luật thơng mại
không quy định thì áp dụng luật dân sự và (ii) những tranh chấp phát sinh từ
hành vi thơng mại có thể đợc giải quyết bằng các phơng thức riêng nh trọng
tài thơng mại và tòa án thơng mại. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý của các
nớc này không có khái niệm tranh chấp thơng mại. Ngời ta chỉ căn cứ vào
thẩm quyền tài phán của các thiết chế giải quyết tranh chấp thơng mại mà
nhận diện một số tranh chấp đợc coi là tranh chấp thơng mại mà thôi. Có thể
đơn cử một vài trờng hợp:
* Cộng hòa Pháp:
Căn cứ vào các quy định về thẩm quyền của Tòa án thơng mại của
Pháp thì các tranh chấp sau đây đợc coi là tranh chấp thơng mại:
(i) Tranh chấp liên quan đến những hành vi thơng mại của bất kỳ cá
nhân hoặc pháp nhân nào. Các hành vi thơng mại đợc liệt kê tại Điều 632
đoạn 2 Bộ luật Thơng mại của Cộng hòa Pháp, bao gồm:
10
+ Mọi việc mua động sản để bán lại kiếm lời;
+ Mọi việc mua bất động sản để bán lại hoặc mua để xây dựng lại
thành một hay nhiều nhà rồi bán lại;
+ Các hoạt động sản xuất, chuyên chở, những hãng thầu cung cấp vật
liệu, những hãng bán đấu giá công khai;
+ Các hoạt động hối đoái, ngân hàng, giao dịch chứng khoán, bảo hiểm;
+ Các hoạt động trung gian, đại diện, đại lý thơng mại;
+ Khai thác hầm mỏ và nguyên liệu;
+ Giải trí công cộng: nhà hát, rạp chiếu phim, rạp xiếc
(ii) Các tranh chấp liên quan đến những cam kết và giao dịch giữa các
thơng nhân. Đây có thể là các tranh chấp phát sinh từ các hành vi thơng mại
bản chất hoặc hành vi thơng mại phụ thuộc trong hợp đồng hoặc là việc vi
phạm pháp luật. Thậm chí, các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng mua hàng
phục vụ cho sinh hoạt cá nhân của thơng nhân cũng đợc coi là tranh chấp th-
ơng mại.
(iii) Các tranh chấp giữa các thành viên của một công ty kinh doanh
với nhau hoặc với công ty.
(iv) Các tranh chấp có liên quan đến hối phiếu hay tranh chấp liên
quan đến lệnh phiếu trong đó có chữ ký của ít nhất một thơng nhân.
(v) Các tranh chấp liên quan đến thanh toán t pháp hoặc thanh lý tài
sản xảy ra sau khi đình chỉ thanh toán; bán hoặc thế chấp cơ sở kinh doanh
hoặc các tranh chấp liên quan đến việc ghi chép vào sổ đăng ký thơng mại.
(vi) Những vụ kiện ngời giúp việc cho thơng nhân về những hành vi
liên quan đến thơng mại.
Nh vậy, Pháp đã dựa vào các hành vi thơng mại để phân biệt tranh
chấp thơng mại với tranh chấp dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh tiêu chí khách thể
Pháp còn sử dụng tiêu chí chủ thể để không bỏ sót các tranh chấp mang tính
11
thơng mại. Theo quy định này thì tất cả các tranh chấp phát sinh trong hoạt
động kinh doanh giữa các thơng nhân với nhau đều đợc coi là tranh chấp th-
ơng mại [27].
* Cộng hòa Liên bang Đức:
Theo Điều 95 Luật Tổ chức tòa án của Cộng hòa Liên bang Đức thì
các tranh chấp thơng mại bao gồm:
(i) Các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch thơng mại của các thơng
nhân.
(ii) Các tranh chấp phát sinh từ hối phiếu theo Luật về hối phiếu hoặc
từ một trong số các loại chứng từ quy định tại Điều 363 Bộ luật Thơng mại.
(iii) Các tranh chấp liên quan đến séc theo Luật về séc.
(iv) Các tranh chấp phát sinh từ quan hệ thành viên của công ty thơng
mại với nhau hoặc thành viên với công ty liên quan đến hoạt động của công ty,
kể cả khi công ty còn tồn tại hay đã giải thể; tranh chấp giữa ngời quản lý
công ty với công ty hoặc với thành viên công ty.
(v) Các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật liên quan đến việc sử
dụng tên thơng mại; nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp;
(vi) Các tranh chấp liên quan đến việc sử dụng một cơ sở kinh doanh;
(vii) Các tranh chấp liên quan đến hàng hải, đặc biệt là các tranh chấp
phát sinh từ hoạt động kinh doanh vận chuyển, các dịch vụ lai dắt, cứu hộ, tai
nạn hàng hải
(viii) Các tranh chấp liên quan đến Luật chống cạnh tranh không lành mạnh;
(ix) Các tranh chấp liên quan đến chứng khoán
* Liên bang Nga:
Bộ luật tố tụng tòa án trọng tài của Liên bang Nga quan niệm TCKT
( ) theo nghĩa rất rộng, gồm:
12
- Các tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự, hành chính và các quan
hệ pháp luật khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh giữa các pháp nhân,
cá nhân thực hiện các hoạt động kinh doanh mà không thành lập một pháp
nhân; giữa Liên bang Nga và các chủ thể liên bang và giữa các chủ thể liên
bang với nhau;
- Các tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh giữa các chủ thể;
- Các tranh chấp về quyền sở hữu;
- Các tranh chấp về bồi thờng thiệt hại;
- Các tranh chấp về uy tín kinh doanh;
- Các tranh chấp về đăng ký kinh doanh; về thành lập, tổ chức lại các
pháp nhân kinh tế;
- Các tranh chấp liên quan đến các quyết định xử phạt của cơ quan
Nhà nớc có thẩm quyền đối với các chủ thể kinh doanh
* Tổ chức WTO và Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài thơng mại
quốc tế cũng đa ra khái niệm "thơng mại" với nội hàm rất rộng liên quan đến
tất cả các quan hệ mang bản chất thơng mại, dù phát sinh từ hợp đồng hoặc
không từ hợp đồng nh: Mọi giao dịch thơng mại về việc cung cấp hay trao đổi
hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận về phân phối, đại diện thơng mại; hóa đơn
chứng từ; bán, cho thuê, xây dựng nhà máy; các dịch vụ t vấn; đề án thiết kế
tổng hợp, giấy phép, đầu t, cấp chi phí, giao dịch ngân hàng, bảo hiểm, các
thỏa thuận về khai thác hay chuyển nhợng, hợp tác giữa các xí nghiệp và các
hình thức về hợp tác công nghiệp hay thơng mại, vận chuyển hàng hóa hay
hành khách bằng đờng không, đờng biển, đờng sắt hay đờng bộ (Điều 1 Luật
Mẫu của UNCITRAL về Trọng tài thơng mại quốc tế). Xuất phát từ điều này
mà tranh chấp thơng mại cũng đợc hiểu theo nghĩa rộng, gồm toàn bộ các
tranh chấp phát sinh từ các giao dịch thơng mại. Đó có thể là tranh chấp hợp
đồng; tranh chấp liên quan đến phát hành, lu trữ, kinh doanh chứng khoán; các
13
tranh chấp liên quan đến thơng phiếu; tranh chấp liên quan đến mua, bán, cho
thuê, kinh doanh doanh nghiệp; tranh chấp liên quan đến sở hữu công nghiệp
(vi phạm nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế, giải pháp hữu ích, bí mật thơng
mại ); tranh chấp hàng hải, giao nhận kho vận, bảo hiểm hàng hải; tranh chấp
liên quan đến mua, bán công nợ; tranh chấp trong việc chống độc quyền và
cạnh tranh không lành mạnh; tranh chấp liên quan đến bán đấu giá, đấu thầu
v.v
Nh vậy, các nớc trên thế giới không có quan niệm thống nhất về tranh
chấp kinh doanh. Có rất nhiều nớc không phân biệt tranh chấp phát sinh từ
hoạt động kinh doanh với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động dân sự. Bên
cạnh đó, một số quốc gia khác phân biệt tranh chấp kinh doanh với tranh chấp
dân sự bằng cách quy định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp loại này cho
các cơ quan tài phán là Tòa án Thơng mại hay Trọng tài Thơng mại. Các quốc
gia này đều quan niệm tranh chấp kinh doanh theo nghĩa rộng, gồm toàn bộ
các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh giữa các chủ thể khi chúng
tiến hành các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận.
ở nớc ta, quan niệm về TCKT có những điểm khác nhau qua mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, nền
kinh tế đợc quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, với hệ thống chỉ
tiêu pháp lệnh từ trên giao xuống. Nhà nớc can thiệp khá sâu vào hoạt động
kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Sản xuất cái gì, sản xuất nh thế nào, sản
xuất cho ai đều do Nhà nớc quyết định. Nhà nớc vừa hoạch định các chính
sách kinh tế vĩ mô vừa trực tiếp chỉ đạo các đơn vị kinh tế cơ sở thực hiện các
kế hoạch kinh doanh cụ thể. Đặc điểm nổi bật của cơ chế kinh tế này là vai trò
tuyệt đối của Nhà nớc, trong đó có các Bộ, Tổng cục, ủy ban nhân dân, các cơ
sở chuyên môn là chủ thể chi phối các quan hệ kinh tế. Các chủ thể kinh
doanh khá đơn điệu về hình thức tổ chức pháp lý, hầu hết là các xí nghiệp
quốc doanh và các hợp tác xã.
14
Để thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch do Nhà nớc giao, các đơn vị kinh
tế cơ sở cần phải ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, HĐKT
trong thời kỳ này không chỉ là một hình thức pháp lý để triển khai các hoạt
động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế mà còn đợc sử dụng nh một
công cụ quản lý kinh tế của Nhà nớc. Ký kết và thực hiện HĐKT là một kỷ
luật bắt buộc chứ không xuất phát từ lợi ích kinh tế cụ thể của các đơn vị kinh
tế. Bởi vậy, các chủ thể tham gia ký kết HĐKT không quan tâm nhiều đến việc
hợp đồng có đợc thực hiện đầy đủ hay không, vì thực hiện hay không thực
hiện cũng không ảnh hởng đến "túi tiền của họ, đằng nào Nhà nớc cũng bao
cấp" [57, tr. 17]. Trách nhiệm thực hiện hợp đồng giữa các bên tham gia quan
hệ với nhau không đợc coi trọng bằng trách nhiệm của các bên đối với cơ
quan chủ quản của mình. Điều đó có nghĩa là trách nhiệm phát sinh do vi
phạm HĐKT nhẹ về yếu tố tài sản (vật chất) mà nặng về tính chất hành chính
[37, tr. 16].
Nghiên cứu lịch sử phát triển của pháp luật về HĐKT và pháp luật về
giải quyết tranh chấp HĐKT, chúng ta thấy: Trớc khi ban hành Bản điều lệ
tạm thời về hợp đồng kinh doanh kèm Nghị định số 735/TTg ở nớc ta không
có sự phân biệt HĐKT với hợp đồng dân sự; bởi vậy cũng không có sự phân
biệt giữa TCKT với các loại tranh chấp mang tính chất tài sản khác. Các tranh
chấp mang yếu tố tài sản đợc giải quyết theo một thủ tục chung tại tòa án.
Cùng với sự ra đời của Bản điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh đã xuất
hiện khái niệm "hợp đồng kinh doanh". Lẽ đơng nhiên, tranh chấp phát sinh từ
việc ký kết và thực hiện loại hợp đồng này đợc gọi là tranh chấp kinh doanh.
Các tranh chấp kinh doanh chủ yếu đợc giải quyết bởi một số cơ quan hành
pháp. Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp kinh doanh theo sự khởi tố của các cơ
quan đăng ký kinh doanh trong một số trờng hợp cần thiết.
Ngày 4/1/1960, Nhà nớc ta ban hành Bản điều lệ tạm thời về HĐKT
kèm Nghị định số 04/TTg. Thuật ngữ "hợp đồng kinh tế" ra đời và chính thức
15
đợc sử dụng trong các văn bản pháp luật sau đó nh: Nghị định số 54/CP ngày
10/3/1975 ban hành Điều lệ về chế độ HĐKT; Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
ngày 25/9/1989. Cùng với khái niệm HĐKT, khái niệm tranh chấp kinh doanh
cũng đợc thay thế bằng khái niệm TCKT, mà thực chất là tranh chấp HĐKT.
Các tranh chấp loại này đợc giải quyết bằng trọng tài kinh tế, với t cách là một
cơ quan quản lý nhà nớc.
Nh vậy, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các quan hệ kinh
tế vốn dĩ khá đơn giản về nội dung và thành phần chủ thể, lại đợc điều hành
thống nhất bởi Nhà nớc, nên các TCKT xuất hiện không nhiều và chủ yếu là
các tranh chấp phát sinh từ HĐKT đợc ký kết giữa các đơn vị kinh tế XHCN
với nhau để triển khai các kế hoạch kinh doanh đã đợc Nhà nớc phê duyệt từ
trớc.
Từ năm 1986, nớc ta khởi động quá trình xây dựng nền kinh tế thị tr-
ờng, định hớng XHCN. Nền kinh tế thị trờng đòi hỏi phải xóa bỏ chế độ độc
tôn của một hình thức sở hữu, tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển các
thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế đang chuyển đổi xuất hiện ngày càng
nhiều các chủ thể kinh doanh. Bên cạnh các chủ thể kinh doanh truyền thống
là doanh nghiệp nhà nớc và hợp tác xã còn xuất hiện doanh nghiệp có vốn đầu
t nớc ngoài (doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu t nớc
ngoài), doanh nghiệp t nhân, các loại hình công ty và hộ kinh doanh cá thể.
Các quan hệ kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều với hình thức ngày càng phong
phú và tính chất ngày càng phức tạp. Bên cạnh các quan hệ kinh tế phát sinh
từ hợp đồng còn có các quan hệ kinh tế xuất hiện từ hoạt động đầu t vốn vào
kinh doanh thông qua việc góp vốn thành lập công ty hay việc sở hữu cổ
phiếu, trái phiếu do công ty phát hành.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trờng, Nhà nớc không can thiệp
trực tiếp và sâu vào hoạt động kinh doanh hợp pháp của các chủ thể kinh tế.
Bằng các chính sách và pháp luật, Nhà nớc tạo lập một môi trờng kinh doanh
16
lành mạnh để các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp đợc xây dựng và thực
hiện trên cơ sở nguyên tắc tự do, bình đẳng, cùng có lợi và tự chịu trách nhiệm
về hoạt động kinh doanh của mình. Việc thiết lập hay không thiết lập quan hệ
kinh tế hoàn toàn xuất phát từ kế hoạch kinh doanh cụ thể của từng đơn vị và
vì lợi ích cá biệt của chúng. Kinh doanh đúng pháp luật để đạt lợi nhuận tối đa
là mục tiêu tối thợng của các doanh nghiệp. Tình hình đó làm phát sinh rất
nhiều tranh chấp liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể khi tham gia các quan hệ kinh tế. Điều đó đồng thời đặt ra nhu cầu
phải mở rộng nội hàm của khái niệm TCKT.
Mặc dù các TCKT đã xuất hiện từ lâu trong đời sống kinh tế và pháp
lý của nớc ta, nhng khái niệm loại tranh chấp này cha đợc sử dụng một cách
thống nhất; nội hàm của khái niệm cũng cha đợc xác định chính xác. Trong
từng ngữ cảnh cụ thể, để chỉ các xung đột về lợi ích giữa các tổ chức, cá nhân
khi họ tham gia các quan hệ kinh tế, ngời ta đang sử dụng những thuật ngữ
khác nhau nh: TCKT, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp thơng mại.
Khi đề cập tới khái niệm TCKT, tranh chấp kinh doanh, Giáo trình
Luật Kinh tế của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội viết:
Các tranh chấp kinh tế trong kinh doanh trong phạm vi nhất
định có sự khác biệt với tranh chấp kinh tế. Khái niệm kinh tế cũng
nh "quan hệ kinh tế" thông thờng đợc hiểu rộng hơn khái niệm
"kinh doanh" với "quan hệ kinh doanh". Trong kinh tế có sự bao
hàm cả yếu tố quản lý và yếu tố chính trị - xã hội khác liên quan
đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, kinh doanh chỉ
là một hoạt động mang tính nghề nghiệp nh sản xuất, buôn bán,
dịch vụ gắn với mục đích lợi nhuận. Do tính chất của quan hệ
kinh doanh nh vậy, việc giải quyết trong kinh doanh cũng mang
những đặc thù nhất định so với giải quyết tranh chấp kinh tế nói
chung [58, tr. 307-364].
17
Theo quan niệm này thì rõ ràng khái niệm TCKT mang nội hàm rộng
hơn khái niệm tranh chấp kinh doanh.
Cuốn "Tìm hiểu luật kinh tế Việt Nam" sử dụng thuật ngữ "tranh chấp
kinh tế", "tranh chấp kinh doanh" hầu nh không có sự phân biệt [101, tr. 187-194].
Trong cuốn sách "Hợp đồng kinh tế và vấn đề giải quyết tranh chấp kinh tế ở nớc
ta hiện nay" các tác giả cho rằng: "Từ trớc đến nay, nói đến tranh chấp kinh tế
thì thờng chỉ nghĩ đến tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế" [62, tr. 51]. Gần
nh tơng đồng với quan điểm này một số tác giả cho rằng "về mặt lý thuyết sẽ là
khó xác định đợc bản chất của tranh chấp kinh tế nếu thiếu một khái niệm chính
xác về hợp đồng kinh tế, bởi vì hầu hết các tranh chấp kinh tế đều phát sinh từ
việc ký kết, thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng kinh tế" [61, tr. 35].
Khi Luật Thơng mại ra đời và có hiệu lực pháp luật (từ 01/01/1998) thì
trong pháp luật thực định của nớc ta còn xuất hiện thêm khái niệm tranh chấp
thơng mại. Nhiều ngời cho rằng đã xuất hiện thêm một loại tranh chấp mới,
tồn tại độc lập bên cạnh TCKT và tranh chấp dân sự là tranh chấp thơng mại.
Về mối tơng quan giữa "tranh chấp kinh tế" và "tranh chấp thơng mại" có
quan điểm cho rằng: Tranh chấp thơng mại là một dạng của TCKT bởi chúng
đều phát sinh từ hoạt động kinh doanh và có quan hệ mật thiết với hoạt động
này. Theo Điều 238 Luật Thơng mại thì tranh chấp thơng mại là tranh chấp
phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong
hoạt động thơng mại, tức là sự thỏa thuận giữa thơng nhân với thơng nhân, th-
ơng nhân với các bên có liên quan nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ thơng mại và xúc tiến thơng mại. Nói đến hợp đồng trong hoạt động
thơng mại là nói đến những hợp đồng riêng trong lĩnh vực kinh doanh thơng
mại, cũng giống nh khi ta nói đến hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng (hợp
đồng xây dựng), hợp đồng trong lĩnh vực vận chuyển (hợp đồng vận chuyển),
hợp đồng trong lĩnh vực bảo hiểm (hợp đồng bảo hiểm), hợp đồng trong lĩnh
vực tín dụng (hợp đồng tín dụng)
18
Khi thỏa mãn các điều kiện về chủ thể, mục đích và hình thức hợp
đồng theo quy định hiện hành thì hợp đồng trong hoạt động thơng mại mang
tính chất của HĐKT. Ví dụ: các hợp đồng trong hoạt động thơng mại đợc ký
kết bằng văn bản giữa các thơng nhân, trong đó ít nhất một bên là pháp nhân,
để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Các trờng hợp khác, hợp đồng trong
hoạt động thơng mại mang tính chất của hợp đồng dân sự. Ví dụ: Những hợp
đồng trong hoạt động thơng mại đợc ký kết giữa các thơng nhân không có t
cách pháp nhân; giữa thơng nhân với công dân hay những hợp đồng không đ-
ợc thể hiện dới hình thức văn bản.
Nh vậy, tranh chấp thơng mại, xét về tính chất là tranh chấp hợp đồng;
xét về nội dung là tranh chấp phát sinh từ các hoạt động kinh doanh thơng mại
nh mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thơng mại hay các hoạt động xúc tiến
thơng mại; xét về chủ thể là tranh chấp giữa thơng nhân (một loại chủ thể kinh
doanh thực hiện các hoạt động thơng mại một cách độc lập và thờng xuyên)
với thơng nhân, thơng nhân với các bên có quan hệ với thơng nhân trên cơ sở
hợp đồng.
Từ sự phân tích nói trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng tranh
chấp thơng mại thực chất là một dạng của TCKT theo cách hiểu về TCKT nh
hiện nay. Tuy nhiên, cũng cần lu ý rằng không phải mọi tranh chấp thơng mại
thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án Việt Nam đều đợc giải quyết theo thủ
tục tố tụng kinh tế. Chỉ những tranh chấp thơng mại nào đáp ứng các điều kiện
quy định tại khoản 1 Điều 12 và Điều 87 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế mới đợc tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế.
Khái niệm TCKT còn có thể đợc tiếp cận dới góc độ pháp luật tố tụng.
Trong nhiều trờng hợp thì pháp luật tố tụng đã mở ra cách tiếp cận dễ hơn với
khái niệm "tranh chấp kinh tế" [26, tr. 48]. Với cách tiếp cận này, TCKT đợc
hiểu là các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tài phán
nh tòa án và trọng tài. Pháp luật tố tụng chỉ ra một số nhóm tranh chấp mang
19
tính chất kinh tế đợc giải quyết theo thủ tục t pháp (Tòa án) và theo thủ tục
trọng tài. Việc xem xét các TCKT nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng
tài (phi Chính phủ) hoặc đợc tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế cần
xem xét đến các văn bản về tố tụng kinh tế hiện hành nh: PLTTGQCVAKT
(1994), Nghị định số 116/CP về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế
(1994), Quyết định số 204/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tớng Chính phủ phê
chuẩn Điều lệ của TTTTQTVN (VIAC), Quyết định số 114/TTg ngày
16/2/1996 của Thủ tớng Chính phủ về mở rộng thẩm quyền cho TTTTQTVN.
Theo Điều 12 PLTTGQCVAKT thì các tranh chấp sau đây đợc coi là
TCKT và đợc tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế:
1. Các tranh chấp về HĐKT giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp
nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh;
2. Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa
thành viên của công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể
công ty;
3. Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu;
4. Các TCKT khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, theo Điều 87 PLTTGQCVAKT thì Tòa án Việt Nam có thể
giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế các TCKT tại Việt Nam, nếu một hoặc
các bên là cá nhân, pháp nhân nớc ngoài, trừ trờng hợp điều ớc quốc tế mà
Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Các tranh chấp này có thể là
tranh chấp hợp đồng, tranh chấp trong nội bộ công ty hoặc tranh chấp liên
quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Nh vậy, theo quy định của PLTTGQCVAKT thì TCKT đợc hiểu theo
nghĩa rất hẹp. Điều này dẫn tới hậu quả là chỉ có một số ít các tranh chấp phát
sinh từ hoạt động kinh doanh giữa các tổ chức, cá nhân đợc tòa án giải quyết
theo thủ tục tố tụng kinh tế. Nhiều loại tranh chấp tuy phát sinh trực tiếp từ
20
hoạt động kinh doanh và thuần túy mang tính chất kinh doanh nhng không đ-
ợc giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế nh:
- Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đợc ký kết giữa các chủ thể kinh
doanh không có t cách pháp nhân để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
các chủ thể kinh doanh đó. Ví dụ: hợp đồng ký giữa hai doanh nghiệp t nhân
với nhau để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các bên.
- Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế ký giữa pháp nhân với
những ngời làm công tác khoa học - kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình,
hộ nông dân, ng dân cá thể.
- Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng trong hoạt động kinh doanh nhng
không đợc xác lập dới hình thức văn bản.
- Một số tranh chấp liên quan mật thiết đến việc thành lập, tổ chức
quản lý và tổ chức hoạt động của các loại hình công ty. Ví dụ: các tranh chấp
giữa công ty hay thành viên công ty với ngời quản lý điều hành công ty mà
ngời này không phải là thành viên công ty.
Theo Điều 1 Nghị định số 116/CP về tổ chức và hoạt động của Trọng
tài kinh tế thì Trọng tài kinh tế (phi Chính phủ) có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp về HĐKT; tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty,
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, giải thể công ty; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu,
trái phiếu. Thông t số 02/PLDSKT ngày 03/01/1995 của Bộ T pháp hớng dẫn
thi hành một số điểm của Nghị định số 116/CP còn "mạnh dạn" mở rộng thẩm
quyền giải quyết của trọng tài kinh tế sang cả những tranh chấp hợp đồng
phục vụ cho hoạt động kinh doanh giữa các doanh nghiệp t nhân với nhau
hoặc với cá nhân kinh doanh (mục I Thông t số 02/PLDSKT).
Quyết định số 204/TTg ngày 28/4/1993 và Quyết định số 114/TTg
ngày 16/2/1996 của Thủ tớng Chính phủ quy định cha rõ ràng về thẩm quyền
giải quyết các TCKT của TTTTQTVN. Theo các văn bản này thì TTTTQTVN
21
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế, nếu trớc
hay sau khi xảy ra tranh chấp, các bên đơng sự thỏa thuận đa vụ việc ra
TTTTQTVN, hoặc nếu có một điều ớc quốc tế ràng buộc các bên phải đa
tranh chấp ra TTTTQTVN.
Nh vậy, nếu tiếp cận dới giác độ pháp luật tố tụng thì TCKT đợc hiểu
theo nghĩa quá hẹp, không bao quát hết các tranh chấp đã và sẽ phát sinh
trong quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở Việt Nam. Điều này dẫn tới các hậu
quả sau:
Một là: Rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh doanh nh-
ng không đợc coi là TCKT và không đợc giải quyết bằng thiết chế tài phán
kinh doanh là những thiết chế giải quyết tranh chấp linh hoạt, nhanh chóng,
chính xác và điều này dẫn đến lợi ích của các bên tranh chấp không đợc bảo
đảm triệt để.
Hai là: Không có điều kiện để mở rộng thẩm quyền giải quyết các
TCKT của các cơ quan tài phán. Hiện nay đã xuất hiện nhiều tranh chấp từ hoạt
động kinh doanh nhng cha biết sẽ đợc giải quyết theo cơ chế nào? Ví dụ: Một
công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên thuê giám đốc điều hành công
ty. Ngời này không phải là thành viên công ty. Trong quá trình quản lý hoạt
động kinh doanh của công ty, giám đốc làm thuê gây thiệt hại về tài sản cho
công ty và công ty có nhu cầu kiện giám đốc. Tranh chấp này có đợc coi là
TCKT hay không? Có đợc giải quyết tại các cơ quan tài phán kinh doanh hay
không? Các tranh chấp liên quan đến quyền tự do kinh doanh, đến cạnh tranh
không lành mạnh hay độc quyền cũng cha rõ sẽ đợc giải quyết ở đâu.
Thứ ba: Có nguy cơ tạo ra những rào cản đối với quá trình Việt Nam
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, trong bối cảnh pháp luật của nhiều quốc
gia trên thế giới, pháp luật quốc tế và tập quán thơng mại quốc tế đều quan
niệm TCKT theo nghĩa rộng.
22
Để hạn chế những bất cập kể trên, chúng tôi thấy rằng cần phải tiếp
cận khái niệm TCKT dới giác độ khoa học và khái niệm TCKT phải đợc hiểu
theo nghĩa rộng. Theo nghĩa này, TCKT là những mâu thuẫn hay bất đồng liên
quan đến quyền và lợi ích kinh tế của các tổ chức, cá nhân khi tham gia các
quan hệ kinh tế.
Từ khái niệm đó chúng ta thấy TCKT có các dấu hiệu pháp lý cơ bản
sau đây:
Thứ nhất: TCKT phát sinh trực tiếp từ các quan hệ kinh tế và có liên
quan mật thiết đến hoạt động kinh doanh.
Quan hệ kinh tế là những quan hệ đợc thiết lập giữa các chủ thể kinh
doanh hoặc giữa các bên có liên quan trong quá trình các chủ thể kinh doanh
tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Kinh doanh hiện nay đợc hiểu
với nội hàm rất rộng, bao gồm toàn bộ các hoạt động từ đầu t vốn đến sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích sinh
lợi. Đây là những quan hệ có tính chất tài sản với mục đích phục vụ kinh
doanh, thu lợi nhuận. Đó có thể là hoạt động đầu t vốn (góp vốn vào công ty
hay mua cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác); hoạt động sản
xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội hay hoạt động mua bán, trao
đổi và cung ứng các loại dịch vụ.
So với hoạt động dân sự thì các hoạt động kinh doanh mang nhiều đặc
thù: mục đích của việc thực hiện các hoạt động kinh doanh là lợi nhuận; chủ
thể thực hiện các hoạt động kinh doanh là tổ chức, cá nhân thỏa mãn các điều
kiện do pháp luật quy định và đợc Nhà nớc thừa nhận là chủ thể kinh doanh;
các hoạt động kinh doanh thờng gắn liền với việc dịch chuyển những giá trị tài
sản lớn. Chính đặc thù này làm cho TCKT hoàn toàn khác với tranh chấp dân
sự, ngay cả đối với các tranh chấp mang yếu tố tài sản. Trong khi các TCKT
phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh khi chúng tiến hành các hoạt động kinh
doanh tìm kiếm lợi nhuận thì các tranh chấp dân sự thờng chỉ phát sinh giữa
23
các tổ chức, cá nhân không có t cách chủ thể kinh doanh khi chúng tham gia
quan hệ nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó mang tính sinh hoạt, tiêu dùng. Việc
thiết lập các quan hệ kinh doanh đòi hỏi phải nhanh chóng, đơn giản, linh
hoạt. Bởi vậy, việc giải quyết tranh chấp từ các quan hệ này cũng phải mềm
dẻo, nhanh chóng, dứt điểm để hạn chế đến mức tối đa sự gián đoạn trong quá
trình kinh doanh. Vì lý do này mà các TCKT phải đợc giải quyết bằng một cơ
chế riêng so với việc giải quyết tranh chấp dân sự thông thờng.
Thứ hai: Việc giải quyết các TCKT luôn thuộc quyền tự định đoạt của
các bên tranh chấp.
Nh phần trên đã trình bày, các TCKT phát sinh từ các quan hệ kinh
doanh. Các quan hệ kinh doanh đợc thiết lập giữa các chủ thể ở vị trí pháp lý
hoàn toàn độc lập và bình đẳng với nhau. Đây là quan hệ theo chiều ngang và
mang yếu tố tài sản. Quan hệ kinh doanh đợc thiết lập giữa các chủ thể trên
nguyên tắc tự nguyện, tự do ý chí. Chính bởi lẽ đó mà khi tranh chấp phát
sinh, các bên cũng đợc toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến việc
giải quyết chúng. Các bên đợc tự thỏa thuận với nhau để lựa chọn phơng thức
giải quyết phù hợp; đợc tự quyết định về nội dung tranh chấp; đợc tự thơng l-
ợng, hòa giải với nhau ngay cả khi đã đa tranh chấp ra cho một cơ quan tài
phán giải quyết. Chính đặc điểm này của TCKT quyết định tính đa dạng của
các phơng thức giải quyết tranh chấp và nguyên tắc cơ bản nhất để giải quyết
TCKT là nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận.
Thứ ba: TCKT là những tranh chấp mang yếu tố tài sản và thờng gắn
liền với giá trị tài sản lớn.
TCKT phản ánh các xung đột về mặt lợi ích kinh tế của các bên có liên
quan trong một quan hệ kinh tế nhất định. yếu tố vật chất và lợi ích kinh tế
của nội dung TCKT là một đặc điểm riêng để phân biệt với các loại tranh chấp
khác trong đời sống xã hội. Yếu tố tài sản đợc quy định bởi tính chất, mục
đích của các quan hệ kinh tế trong xã hội. Giá trị vật chất (tài sản) của các
24
TCKT đợc các bên liên quan đa ra yêu cầu các bên đối tác phải bồi hoàn, khắc
phục bằng những số liệu cụ thể (mức tiền bồi hoàn) số lợng, chất lợng tài sản,
hàng hóa cụ thể. Trong cơ chế thị trờng, nhiều TCKT liên quan đến giá trị tài
sản lớn, hoặc liên quan đến trách nhiệm của nhiều chủ thể. Việc giải quyết
thỏa đáng tranh chấp có ảnh hởng quan trọng đến quá trình hoạt động kinh tế
của các bên liên quan và đời sống kinh tế nói chung. Xuất phát từ đặc điểm
này của TCKT, đòi hỏi cơ chế giải quyết chúng phải nhanh gọn, hiệu quả và
bảo vệ một cách kịp thời quyền lợi kinh tế của các bên.
Dựa vào giá trị TCKT, các nhà làm luật đánh giá mức độ nghiêm trọng
và tính chất phức tạp của tranh chấp. Đây cũng là một trong những căn cứ xác
định thẩm quyền của cơ quan giải quyết đối với chúng. Ví dụ: TAND cấp
huyện chỉ đợc thụ lý xét xử những tranh chấp HĐKT có giá trị tranh chấp dới
50 triệu đồng (Điều 13 PLTTGQCVAKT). Những tranh chấp có giá trị kinh tế
lớn thờng có tính chất phức tạp và hậu quả của việc giải quyết chúng có những
ảnh hởng to lớn, thậm chí có tính chất quyết định đến sự tồn tại và phá sản của
một doanh nghiệp, do vậy nó phải đợc giải quyết bởi một đội ngũ thẩm phán
kinh tế có trình độ và kinh nghiệm cao. Giá trị vật chất của TCKT còn là căn
cứ để các cơ quan giải quyết TCKT tính mức lệ phí và các chi phí các bên theo
kiện phải gánh chịu tùy mức độ lỗi.
Thứ t: Các TCKT nếu không đợc giải quyết triệt để dễ gây ra hậu quả
có tính chất dây chuyền.
Bản chất của TCKT là sự xung đột về lợi ích kinh tế phát sinh trong quá
trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên thị trờng. TCKT có thể phát
sinh trong một công đoạn nào đó của chu trình kinh doanh, thờng có mối quan
hệ hữu cơ với công đoạn khác. Môi trờng phát sinh TCKT là môi trờng của
các hoạt động kinh doanh với tính chất vô cùng phong phú và đa dạng phụ thuộc
lẫn nhau. Quan hệ kinh doanh này có thể vừa là kết quả, vừa là tiền đề của một
quan hệ kinh doanh khác. Ví dụ: một tranh chấp phát sinh trong hợp đồng vận
25