Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

TIỂU LUẬN vận DỤNG mối QUAN hệ BIỆN CHỨNG GIỮA NGUYÊN NHÂN và kết QUẢ TRONG QUÁ TRÌNH học tập của SINH VIÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.43 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ
KẾT QUẢ TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY

TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN
LỚP: IT-VUW 02

Giảng viên hướng dẫn: Vũ Thị Mai Lương
Sinh viên thực hiện: Phạm Hải Minh - 20207689
Trịnh Quang Duy - 20207667
Trương Đình Chiến - 20207659


Hà Nội, năm 2021

Mục Lục

Contents
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ........................................3
1.1.

Khái niệm nguyên nhân và kết quả.........................................................................3

1.2. Phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện...................................................4
1.3. Tính chất của mối quan hệ nhân quả..........................................................................5


CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG CỦA CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN
NHÂN – KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN..............................................7
2.1.Mối quan hệ biện chứng cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả...................................7
2.1.1. Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả,
cịn kết quả bao giờ cũng có sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã bắt đầu thực hiện, đã
bắt đầu tác động.................................................................................................................7
2.1.2.Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả có thể ra
đời từ rất nhiều nguyên nhân.............................................................................................8
2.1.3. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân...............................................9
2.1.4. Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau........................................10
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận.........................................................................................11
Chương 3: Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả trong
quá trình học tập của sinh viên hiện nay..............................................................................12
3.1. Thực trạng qúa trình học tập của sinh viên hiện nay..............................................12
3.2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù vào quá trình học tập của
sinh viên...............................................................................................................................14
3.2.1. Phạm trù nguyên nhân trong quá trình học tập của sinh viên...............................14
3.2.2. Phạm trù kết quả trong quá trình học tập của sinh viên........................................16
3.2.3. Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả........................................................................16
KẾT LUẬN.............................................................................................................................17
Tài liệu tham khảo.............................................................................................................18



MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Triết học xuất hiện vào khoảng từ thế kỷ VIII-VI TCN, ở cả phương Đông và
phương Tây. Vào thời kỳ Hy Lạp cổ đại,triết học kinh điển phát triển mạnh mẽ.
Người Hy Lạp cổ đại gọi Triết Học là philosophia (có nghĩa là tình u sự thông
thái).Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới

ấy. Triết học là hình thái xã hội,vì thế từ khi ra đời Triết học Mác- Lê nin đã trở
thành cơ sở lý luận cho mọi khoa học khác và có vai trị tích cực trong hoạt
động đời sống xã hội. Những quy luật triết lý mà Triết học Mác-Lê nin phát
hiện ra đã giúp con người ta nhận thức đúng đắn hơn về thế giới khách quan,
thông qua hệ thống các khái niệm và quy luật, phạm trù để từ đó trau dồi để
hồn thiện bản thân và sống tích cực với xã hội.
Khi học về Triết học Mác Lê nin- nhà chủ nghĩa duy vật, ta nhận thấy có rất
nhiều những quan điểm đúng đắn mà ông đã đưa ra. Một trong số đó phải kể
đến mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Trong sự vận động
của thế giới vật chất, mối liên hệ nguyên nhân và kết quả, gọi tắt là mối quan hệ
nhân-quả có sự lặp đi lặp lại nhiều nhất, phổ biến nhất. Nó là mối liên hệ vốn có
của thế giới vật chất, mang tính khách quan và khơng phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người. Có thể nói,mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ tự nhiên
đầu tiên được phản ánh vào đầu óc con người. Bất kỳ một sự vận động nào
trong thế giới vật chất này suy cho cùng đều là những mối liên hệ nhân quả,nó ở
trong những hồn cảnh, hình thái khác nhau. Mối quan hệ đó cịn được thể hiện
trong vấn đề học tập của sinh viên hiện nay mà chúng ta còn chưa được hiểu rõ.
Chính vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân cuả
những hiện tượng trong tự nhiên,xã hội và tư duy để giải thích các hiện tượng
đó. Từ những lý do trên, nhóm chúng em đã chọn đề tài IV “Vận dụng mối quan
hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả trong quá trình học tập của sinh
viên hiện nay” để làm tiểu luận kết thúc môn học. Đây là năm đầu tiên chúng
1


em được làm tiểu luận, với những giới hạn về kiến thức chắc chắn sẽ khơng
tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy, cơ có thể tận tình góp ý để sinh viên
chúng em hoàn thiện hơn những kiến thức của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ vấn đề về cặp phạm trù nguyên nhân- kết quả, mối quan hệ và sự

chuyển hóa giữa chúng trong quan niệm duy vật biện chứng của Triết học Mác
Lê nin; từ đó vận dụng vào quá trình học tập của sinh viên hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng: cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả, mối quan hệ biện chứng
của cặp phạm trù,sự chuyển hóa của cặp phạm trù, quá trình học tập của
sinh viên hiện nay
 Phạm vi nghiên cứu: những tài liệu cụ thể, chính thống trên các trang
mạng hoặc sách vở, các bài viết có liên quan; sự tìm hiểu ở đời sống hiện
thực
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
 Cơ sở lý luận: Đưa ra được các khái niệm cụ thể: Khái niệm nguyên
nhân, kết quả, từ đó phân tích liên hệ đưa ra những vấn đề cần nghiên cứu
để giải quyết vấn đề đó
 Phương pháp nghiên cứu: phương pháp tổng hợp, phân tích, chứng
minh, phương pháp logic và lịch sử,..
5.Ý nghĩa vấn đề
Thông qua cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả, giúp ta hiểu được mối quan hệ
biện chứng giữa chúng trong sự vận động của thế giới vật chất này. Có nguyên
nhân sẽ sinh ra kết quả, và tình hình học tập của sinh viên cũng vậy, gieo nhân
nào thì gặt quả ấy vậy nên chúng ta không thể xem nhẹ cặp phạm trù nhân-quả
trong cuộc sống hiện tại.
2


6. Kết cấu tiểu luận
Được chia làm 3 phần: Mở đầu, Nội Dung và Kết quả
Trong đó Nội dung chia làm 3 chương:
Chương 1: Cặp phạm trù Nguyên nhân và Kết quả.
Chương 2: Mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù Nguyên nhân – Kết quả
và ý nghĩa phương pháp luận.

Chương 3: Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
trong quá trình học tập của sinh viên hiện nay.

NỘI DUNG
1.1.

CHƯƠNG 1: CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ.
Khái niệm nguyên nhân và kết quả

-Nguyên nhân: Là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau,gây ra một biến đổi nhất
định nào đó
-Kết quả: Là một phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn
nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra
Để hiểu rõ hơn về ngun nhân và kết quả,ta có những ví dụ sau:
+Sự tác động qua lại của cung và cầu đến quá trình thực hiện giá cả (nguyên
nhân) của hàng hóa khiến cho giá cả xoay quanh giá trị của hàng hóa (kết quả)
+Đưa nước biển vào ruộng, nhờ sự tác động của ánh nắng mặt trời giúp nước
biển bốc hơi và tạo thành muối
Tuy nhiên ta cần lưu ý, không nên hiểu nguyên nhân, kết quả nằm ở hai sự
vật hồn tồn khác nhau. Ví dụ như dịng điện là nguyên nhân của ánh sáng đèn;
3


hay giai cấp vô sản là nguyên nhân của việc cách mạng vơ sản,.. Đó là những
cái hiểu sai lầm về nguyên nhân và kết quả. Nếu hiểu như vậy sẽ dẫn đến cho
rằng nguyên nhân của một sự vật hiện tượng nào đấy ln nằm ngồi sự vật
hiện tượng đó và cuối cùng nhất định lại phải thừa nhận nguyên nhân của thế
giới vật chất nằm ngoài thế giới vật chất, tức là nó sẽ nằm trong thế giới tinh
thần.

1.2. Phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện
-Nguyên cớ: khác với nguyên nhân, đó là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra
trước kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng chỉ là liên hệ bên ngồi khơng bản
chất.
Ví dụ: +Trung Quốc lấy cớ giải giáp quân đội Nhật để vào xâm lược nước ta
+ Sinh viên A nộp bài muộn nguyên nhân là không chịu hoàn thành bài sớm
nhưng lại lấy nguyên cớ là nhà mất mạng không kịp gửi bài.
-Điều kiện: Là hiện tượng cần thiết để nguyên nhân phát huy tác động. Trên cơ
sở đó gây ra một biến đổi nhất định. Nhưng bản thân điều kiện không phải
nguyên nhân, điều kiện khơng trực tiếp sinh ra kết quả.
Ví dụ: +Canxi và khí cacbonat là ngun nhân để tạo ra đá vơi nhưng cần phải
có điều kiện là nhiệt độ thích hợp.
+Nước biển ngưng tụ là nguyên nhân tạo ra muối nhưng phải có điều kiện là
ánh nắng mặt trời
+Hạt thóc nảy mầm nguyên nhân là do yếu tố bên trong hạt thóc tác động lẫn
nhau, nhưng muốn hạt nảy mầm cần phải có điều kiện là nhiệt độ, độ ẩm,..
 Nguyên cớ và điều kiện không sinh ra kết quả ,mặc dù nó xuất hiện cùng
với ngun nhân
Ví dụ: Đế quốc Mỹ dùng máy bay đánh phá miền Bắc Việt Nam. Trong trường
hợp này, Nguyên nhân chính là bản chất tàn ác của đế quốc Mỹ,Nguyên cớ là
4


gây sự kiện vịnh bắc bộ tháng 8/1964, điều kiện là quân đội hùng mạnh, vũ khí
tối tân,hiện đại, kết quả của nó chính là đánh phá miền Bắc Việt Nam.
1.3. Tính chất của mối quan hệ nhân quả
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có tính khách
quan,tính phổ biến và tính tất yếu.
-Tính khách quan: Khơng có sự vật hiện tượng nào khơng có ngun nhân mà
chỉ có chúng ta chưa tìm ra ngun nhân mà thơi; khơng có sự vật hiện tượng

nào khơng sinh ra kết quả mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra kết quả mà thơi.
Có thể nói, tính khách quan của mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản
thân sự vật ,khơng phụ thuộc vào ý thức con người. Dù con người biết hay
khơng biết thì mọi sự vật trong thế giới này là luôn luôn vận động, tác động lẫn
nhau và sự tác động đó là tất yếu gây nên biến đổi nhất định. Vì thế mối quan hệ
này ln mang tính khách quan.
Ví dụ: Chăm chỉ học tập sẽ giúp ta tích trữ thêm nhiều kiến thức, giúp bản
thân học tiến bộ hơn,nhưng việc chăm chỉ này cần phải có một q trình tích lũy
chứ khơng phải ngày một ngày hai mà được
-Tính phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng đều nảy sinh từ những sự vật hiện
tượng khác. Cái sản sinh ra cái khác được gọi là nguyên nhân;cái được sinh ra
gọi là kết quả. Tóm lại, tính phổ biến chính là ngun tắc quyết định luận: Tất
cả mọi hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều được gây ra bởi những
ngun nhân nhất định.
Ví dụ: +Một người có sức khỏe tốt là nhờ chế độ ăn uống dinh dưỡng và tập
luyện thể dục, vậy người có sức khỏe tốt đó chính là kêt quả của q trình ăn
uống và tập luyện đó.
+Một người có sức khỏe yếu là kết quả của việc ăn uống,ngủ nghỉ khơng
đúng cách, ít thể dục thể thao, vậy ăn uống,ngủ nghỉ,tập luyện thể dục thể thao
ít,khơng đúng cách là ngun nhân gây nên sức khỏe yếu.
5


-Tính tất yếu: Khơng có ngun nhân nào khơng dẫn đến kết quả nhất định;
và khơng có kết quả nào khơng có ngun nhân.
Cùng một ngun nhân như nhau, và trong những điều kiện, hoàn cảnh giống
nhau nhất định sẽ nảy sinh các kết quả như nhau.
Ví dụ: + Hạt thóc dù gieo xuống những mảnh ruộng khác nhau, thời vụ khác
nhau thì sẽ cho ra cây lúa chứ khơng thể ra cây ngô, khoai,sắn được.
Nhưng thực ra trong thế giới vật chất này khơng bao giờ có những điều kiện

hoàn cảnh giống nhau, những tác động hoàn toàn giống nhau bởi thế giới này
luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng. Một triết gia Hy Lạp cổ đại
Heraclitus đã từng nói “khơng ai tắm hai lần trên một dịng sơng”, có thể hiểu
rằng vạn vật trên thế giới này ln vận động biến đổi, khơng có thứ gì tồn tại
lâu hơn một khoảnh khắc. Có thể ở lần tắm một có một khúc gỗ trơi nhưng đến
lần hai đã khơng cịn nữa. Hàm ý trong câu nói của ơng chính là dịng sơng lần
tắm một với dịng sơng lần tắm hai là hai dịng sơng khác nhau. Áp dụng nó vào
chính con người, cùng là bạn nhưng sinh ra bạn chẳng may xấu xí, bạn đi phẫu
thuật thẩm mĩ trở nên xinh đẹp. Khi đó bạn khơng cịn là bạn nữa. Thực tế cho
thấy nhan sắc của bạn với tư cách là kết quả,được sinh ra từ những nguyên nhân
khác nhau. Mỗi sự vật hiện tượng khi là kết quả được sinh ra bởi những nguyên
nhân khác biệt, thậm chí ngun nhân đó có thể giống nhau về mặt chủng loại.
Mặt khác, những điều kiện cũng không bao giờ được lặp lại hồn tồn, do đó sẽ
sinh ra nhiều kết quả độc đáo. Mỗi một kết quả chính là một thực tại độc đáo,
nó sẽ khơng lặp lại trong bất kỳ đâu, bất kỳ thời gian nào.

6


CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG CỦA CẶP PHẠM TRÙ
NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN.
2.1.Mối quan hệ biện chứng cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả.
2.1.1. Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước
kết quả, cịn kết quả bao giờ cũng có sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã bắt
đầu thực hiện, đã bắt đầu tác động.
Trong quan hệ nhân-quả, thì bao giờ sự tác động của nguyên nhân cũng sẽ
sinh ra kết quả. Ví dụ như một người không chấp hành luật lệ giao thông
nghiêm chỉnh,vượt đèn đỏ ,lạng lách, đánh võng,kết quả là bị tại nạn giao thông;
hay bão, lũ lụt, hạn hán là nguyên nhân gây ra kết quả thiệt hại mùa màng, đời
sống nhân dân; Không chịu lắng nghe giáo viên giảng bài kết quả không hiểu

bài,…
Tuy nhiên chúng ta cần phân biệt không phải cứ sự vật nào có trước sự vật
thứ hai, thì được coi là biểu hiện nhân quả:
Ví dụ như: +Ngày có trước đêm nhưng ngày khơng phải ngun nhân sinh ra
đêm
+Mùa đơng có sau mùa thu nhưng mùa đơng không phải là kết quả của mùa thu
Ở đây chúng ta cần để ý để phân biệt mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết
quả. Hai hiện tượng, hai mùa khác nhau, hiện tượng,mùa trước không phải
nguyên nhân sinh ra hiện tượng, mùa sau, sự tác động của chúng không có liên
quan gì đến sự xuất hiện cái sau. Ngày khơng sinh ra đêm mà là do trái đất hình
cầu và tự quay quanh trục, nên mặt trời chỉ chiếu sáng được một nửa,nửa được
chiếu sáng là ngày, nửa không được chiếu sáng là đêm. Cũng như mùa thu
không sinh ra mùa đơng, ngun nhân sinh ra mùa chính là do trục trái đất
nghiêng với mặt phẳng quỹ đạo và khơng đổi phương trong khơng gian, có thời
kỳ bán cầu Bắc ngả về phía mặt trời, có thời kỳ bán cầu Nam ngả về phía mặt
trời, hai bán cầu có sự thu nhận ánh sáng và lượng bức xạ mặt trời khác nhau,
gây nên các đặc điểm riêng khác nhau về thời tiết, khí hậu,tạo nên các mùa .

7


Mặc dù nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng không phải cứ ngun nhân vừa
được sinh ra thì đã có ngay kết quả, mà phải cần có yêu tố nữa là điều kiện. Ví
dụ như q trình ngưng tụ của nước biển để tạo thành muối, nhưng nếu như
khơng có ánh nắng mặt trời thì sẽ khơng có hiện tượng bay hơi và làm thành
muối. Hay một ví dụ khác, khi ta trồng hoa, một mầm hoa tốt có đủ khả năng
sinh trưởng tốt nhưng thiếu đi điều kiện là nhiệt độ, độ ẩm,ánh sáng phù
hợp,..thì cây hoa đó sẽ không thể phát triển được, dần dần sẽ chết. Vậy nên,
điều kiện đóng vai trị cũng rất quan trọng trong mối quan hệ nhân-quả, nó khác
với nguyên nhân nhưng nó lại quyết định nguyên nhân nào sinh ra kết quả nào.

Trong nhiều trường hợp, ví dụ hai chiếc áo như nhau, nhưng một chiếc áo
thường xuyên được giặt bằng tay và một chiếc áo thường xuyên giặt máy, theo
thời gian, chiếc áo giặt máy sẽ nhìn cũ hơn chiếc giặt tay, chất lượng áo cũng đi
xuống, sần sùi và nhanh hỏng. Vậy do điều kiện giặt khác nhau mà hai chiếc áo
có kết quả khác nhau. Có thể thấy,dù là cùng một nguyên nhân nhưng trong điều
kiện không giống nhau sẽ cho ra những kết quả khác nhau.
2.1.2.Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả
có thể ra đời từ rất nhiều nguyên nhân.
Trong thực tế , mối quan hệ nhân-quả được biểu hiện hết sức phức tạp. Một
nguyên nhân có thể sinh ra rất nhiều kết quả. Ví dụ như đốn gỗ trong rừng,
những kết quả là làm thành giấy để viết, làm đồ dùng, thứ hai là rừng bị chặt
phá thiệt hại nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến người dân và những con thú đang
sinh sống trong khu rừng đó, thứ ba chặt rừng gây lũ lụt sau những trận mưa
to ,sạt lở đất, gây thiệt hại tới người và của...; ví dụ khác là xả rác thải bừa bãi
gây lên rất nhiều hậu quả nghiêm trọng như ảnh hưởng đến sức khỏe của con
người vì trong rác tải chứa hàm lượng hữu cơ lớn, khi phân hủy sẽ gây hôi,thối
làm ô nhiễm môi trường không khí, nước, đất,..gây nên nhiều bệnh truyền
nhiễm cho con người, thường xuyên ngửi mùi rác thải gây hại cho đường hô
hấp, hệ sinh thái trong nước của các ao hồ bị hủy diệt, rác thải bừa bãi gây mất
mỹ quan,...
8


Có thể thấy một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả: có kết quả chính,
kết quả phụ;kết quả cơ bản,kết quả không cơ bản; kết quả trực tiếp, kết quả gián
tiếp; có kết quả xấu, kết quả tốt.
Tiếp theo, một kết quả có thể ra đời từ rất nhiều ngun nhân. Ví dụ cơng
cuộc cách mạng nước ta đã giành được thắng lợi gồm rất nhiều nguyên nhân.
Đó là sự quyết tâm của dân tộc, sự ủng hộ của các nước trên thế giới, sự lãnh
đạo tài tình của đảng; Ví dụ khác: Hiện tượng băng tan, nguyên nhân thứ nhất

do trái đất ngày một nóng lên, lượng lớn khí metan được phát thải quá mức cho
phép, đây là loại khí nhà kính giữ nhiệt, hiện tượng núi lửa phun trào,nhiệt độ
trung bình của trái đất nóng lên sẽ làm băng ở Nam cực và Bắc cực tan ra. Đây
là nguyên nhân tự nhiên còn nguyên nhân nhân tạo nằm ở chính con người. Con
người xả khí thải ra mơi trường, khí thải từ nhà máy, xí nghiệp, giao thông. Chặt
phá rừng bừa bãi gây nên biến đổi khí hậu tồn cầu, hiệu ứng nhà kính… rất
nhiều ngun nhân gây nên một kết quả. Trong thực tiễn chúng ta cần phải nắm
rõ những vấn đề này để có cái nhìn tồn diện hơn về mối liên hệ nhân quả. Sẽ
có ngun nhân chính, ngun nhân phụ; ngun nhân chủ quan,nguyên nhân
khách quan; nguyên nhân trực tiếp,nguyên nhân gián tiếp; nguyên nhân bên
trong,nguyên nhân bên ngoài. Khi các nguyên nhân tác động cùng một lúc lên
sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả
không giống nhau cho nên chúng ta cần phải biết phân loại,tác dụng của từng
nguyên nhân đối với việc hình thành kết quả. Các nguyên nhân tác động cùng
chiều sẽ đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại nếu nguyên nhân tác động
theo các hướng khác nhau sẽ cản trở sự hình thành của kết quả.
2.1.3. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.
Kết quả là do nguyên nhân sinh ra nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có ảnh
hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai
chiều hướng: Thúc đẩy sự hoạt động của ngun nhân (chiều tích cực); hoặc
kìm hãm, cản trở sự hoạt động của nguyên nhân (chiều tiêu cực). Ví dụ: Một
9


thanh sắt vừa được nung đỏ, ta đem nhúng vào chậu nước nguội, lúc này nhiệt
độ trong chậu nước sẽ tăng lên. Đến một lúc nào đó, nhiệt độ trong chậu nước
tăng sẽ kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt củ thanh sắt; Ví dụ khác: Trình độ dân trí thấp,
khoa học kỹ thuật kém phát triển dẫn đến kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho
giáo dục, kìm hãm sản xuất phát triển. Ngược lại, trình độ dân trí cao, khoa học
kỹ thuật phát triển là kết quả của chính sách phát triển kinh tế và đầu tư giáo

dục đúng đắn. Dân chí cao có tác động tích cực đến sự thúc đẩy sản xuất phát
triển, kinh tế và giáo dục phát triển.
Sự tác động trở lại của kết quả đối với ngun nhân có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng trong thực tiễn, giúp những người làm lãnh đạo, làm ăn lớn có cái nhìn
đúng, sự đánh giá tồn diện trên mọi mặt. Phải nhìn nhận được tồn bộ hậu quả
khi đề ra một chính sách nào đó, một dự án nào đó. Ví dụ, một nhà đầu tư đất
đai đã nhắm trúng những bãi đất có khả năng trong tương lai, bỏ ra một số tiền
khổng lồ để thu mua và quy hoạch chúng, thời gian sau, khu đất đấy đã được
xây dựng thành khu đô thị sầm uất, phố xá được sửa sang, giá đất tăng vọt, phát
triển được nhiều ngành nghề dịch vụ, tiện lợi với người dân,.. những kết quả đó
cho thấy đó là một sự đầu tư đúng đắn. Nó tạo điều kiện cho việc tiếp tục xây
dựng, mở rộng quy mô, mang lại nhiều kết quả tích cực hơn.
2.1.4. Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau.
Ngun nhân và kết quả có thể thay vị trí cho nhau. Cái trong quan hệ này là
nguyên nhân nhưng vẫn là nó trong quan hệ khác lại là kết quả.Nguyên nhânkết quả là một chuỗi liên tục, khơng có điểm bắt đầu và điểm kết thúc.Vì thế
quan hệ nhân quả khơng phải là sự đứt đoạn mà nó ln biến đổi liên tục trong
thế giới vật chất này. Ví dụ như con người có ý thức bảo vệ mơi trường tốt,
khơng gây ô nhiễm hủy hoại môi trường là nguyên nhân để đưa đến môi trường
sẽ trở nên trong sạch, đẹp đẽ. Từ đây môi trường trong sạch sẽ lại là nguyên
nhân ở mối quan hệ này dẫn đến kết quả sự phát triển kinh tế, đất nước vững
mạnh, con người được sống khỏe mạnh, có cái nhìn thiện cảm đổi với bạn bè
10


quốc tế,.. Tiếp tục chuỗi liên tục của mối liên hệ nhân-quả, là đời sống vật chất,
tinh thần được nâng lên và dần được cải thiện…; Ví dụ: Con gà là nguyên nhân
sinh ra quả trứng, nhưng trong mối quan hệ khác quả trứng lại là nguyên nhân
sinh ra con gà,..
Vậy nên,trong những điều kiện nhất định nào đó, nguyên nhân-kết quả có thể
chuyển hóa lẫn nhau vì thế giới vật chất này là vô cùng vô tận, chuỗi nhân quả

là vơ cùng, khơng có bắt đầu cũng chẳng có kết thúc. Vì vậy muốn biết đâu là
nguyên nhân, đâu là kết quả chúng ta phải đặt chúng vào trong một mối quan hệ
xác định.
2.2. Ý nghĩa phương pháp luận
-Trong nhận thức và thực tiễn không thể phủ định quan hệ nhân quả,cần tơn
trọng tính khách quan, tính tất yếu của mối quan hệ nhân-quả.Trong hiện thực
không thể tồn tại những sự vật,hiện tượng,q trình biến đổi, tác động khơng có
ngun nhân. Điều đó địi hỏi, con người khi đứng trước một sự vật hay hiện
tượng nào đó phải đi tìm,khám phá ra nguyên nhân của sự vật, hiện tượng đó,
trong thế giới khách quan này, chỉ có cái con người chưa biết đến, chứ khơng có
gì là con người khơng thể biết được. Ngun nhân cũng vậy. Một ví dụ chứng
minh: Trước đây, bách khoa toàn thư Britannica đã từng đưa ra một ví dụ”người
ta cho rằng phơ mai và bánh mỳ được để ở góc tối có khả năng sinh ra
chuột,chứ không phải thu hút chuột. Thịt đang phân hủy có thể sinh ra dịi.”
Đến tận thế kỷ 17 con người vẫn tin vào điều đó. Nhưng mãi cho đến khi nhà
khoa học Francesco Redi chứng minh thịt khơng sinh ra dịi, ngun nhân có
dịi là do ruồi đẻ trứng trên thịt.
-Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo điều kiện cho nguyên nhân
đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn cho hiện tượng nào đó mất đi thì phải
làm mất nguyên nhân tồn tại của nó. Ví dụ: Muốn cho quần áo được phơi
khơ,cần phải có điều kiện là ánh nắng mặt trời. Vậy ánh nắng mặt trời là nguyên
nhân gây khô quần áo và cũng là điều kiện để nguyên nhân đó được phát huy
11


tác dụng của mình. Ngược lại, hiện tượng béo phì nguyên nhân là do ăn quá
nhiều đồ dầu mỡ, thức ăn nhanh không tốt cho sức khỏe,không tập luyện thể
dục thể thao. Muốn khơng béo phì phải ăn nhiều rau xanh, những thức ăn có
chứa vitamin, uống nhiều nước lọc, khơng ăn đồ dầu mỡ, đồ ăn nhanh,thức
uống có ga, và thường xuyên tập thể dục…

-Phân biệt chính xác các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết
đúng đắn,phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Một sự vật,hiện tượng có thể do
nhiều nguyên nhân sinh ra,mỗi nguyên nhân đều có vị trí khác nhau trong việc
hình thành kết quả,vậy nên phải biết phân loại nguyên nhân để có thể đánh giá
đúng vị trí, vai trị của từng ngun nhân trong việc hình thành nên kết quả.
Đồng thời phải nắm được những tác động cùng chiều hoặc ngược chiều nhằm
tạo ra sức mạnh và hạn chế những nguyên nhân nghịch chiều.
-Trong nhận thức và thực tiễn cần có cái nhìn tồn diện và lịch sử cụ thể khi
nghiên cứu hiện tượng chứ không được vội vàng kết luận về nguyên nhân của
hiện tượng đó.
Tiểu kết chương 2: Mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ phổ biến nhất trong
thế giới hiện thực, có vai trị to lớn trong việc hình thành nên nhận thức của
chúng ta. Trên tất cả các lĩnh vực như trong tự nhiên, trong xã hội, trong vật
lý,hóa học, trong đời sống xã hội,kinh tế,chính trị ,văn hóa,.. chúng đều có mối
liên hệ cụ thể với quan hệ nhân quả. Dù ở lĩnh vực nào, thì ln địi hỏi con
người phải tìm hiểu,nghiên cứu để khắc phục,tránh những hậu quả xấu do các
tác động gây ra. Chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều những câu ca dao,tục ngữ nói
về phạm trù nhân quả như ở hiền gặp lành, có cơng mài sắt có ngày nên kim, ăn
lắm hay no, lo lắm hay phiền, sinh sự sự sinh,gieo gió gặt bão,.. Chung quy lại,
mối quan hệ nhân-quả là những cơ sở lý luận rất quan trọng để ta có thêm
những bài học trong q trình hoạt động thực tiễn.

12


Chương 3: Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết
quả trong quá trình học tập của sinh viên hiện nay.
3.1. Thực trạng qúa trình học tập của sinh viên hiện nay
Việc học tập của sinh viên hiện nay là đang là vấn đề mà nhà nước quan tâm
vì nó quyết định đến tương lai của xã hội, của sự phát triển đất nước và của mỗi

cá nhân sinh viên. Nói về vấn đề giáo dục ở bậc Đại Học, nếu như sinh viên học
tốt, khả năng ra trường kiếm việc làm cao, người ta sẽ nói rằng mơi trường giáo
dục đó tốt, đào tạo cho sinh viên cả kiến thức và kỹ năng. Ngược lại, nếu như
sinh viên yếu kém, sẽ lại đổ lỗi do thiếu trang thiết bị học tập, phong cách giảng
dạy, giảng viên yếu kém,không đào tạo kỹ năng cho sinh viên,..nhưng họ lại
quên đi một điều rằng thái độ của sinh viên trong học tập mới quyết định được
sinh viên đó có thành cơng hay khơng. Sinh viên hiện nay có xu hướng học chỉ
để đối phó, số sinh viên học với thái độ tích cực chỉ chiếm 30 % ( theo khảo sát
của báo chí tuổi trẻ).
Nhiều sinh viên đã vất vả bỏ công sức để học tập, để trau dồi kiến thức những
năm ở phổ thông chỉ để giành cho mình một tấm vé bước vào ngưỡng cửa Đại
học. Đó là cả một q trình, cả một qng đường vất vả nặng nhọc. Vì thế nhiều
sinh viên rất biết trân trọng giây phút được ngồi trên ghế Đại Học, kiếm cho
mình những con điểm khá giỏi, lấy cho mình những vé học bổng trong mơ.
Ngược lại, khơng ít sinh viên đã tỏ ra lười học, mãn nguyện với kết quả của
mình. Lên Đại học với tâm lý ăn chơi, đua đòi, đi học cho bằng bạn bằng bè. Sự
lười học dẫn đến tâm lý chán học, không nghe giảng viên giảng bài, về nhà lại
không chịu học, làm bài tập,gây nên một lỗ hổng về kiến thức. Vì khơng học
nên đến lúc thi, sinh viên sẽ rơi vào trạng thái khơng biết nên học gì, học cũng
khơng hiểu bản chất vấn đề, sinh viên đã chọn cách học vẹt, học đối phó,quay
cóp,..để được điểm, và thi cho qua mơn là xong.Rồi cái tình trạng lười học cứ
kéo dài suốt 4 năm thậm chí 5 năm mà khơng biết dừng lại, lười học trở thành
“căn bệnh nan y” khó chữa. Rồi sau này khi ra trường, tự hỏi bản thân sẽ làm gì

13


cho đất nước, cho xã hội đây? Thế mới thấy, lười học tuy là vấn đề quá quen
thuộc nhưng không hề nhỏ bé,cần phải loại trừ sớm nơi giảng đường.
Nhiều sinh viên vào Đại Học chỉ vì áp lực từ gia đình, đơi khi trở nên mơng

lung, khơng định hình được tương lai, khơng biết nên học ngành gì, ngành mình
chọn liệu có phù hợp hay với khả năng của mình hay khơng. Ngược lại có nhiều
sinh viên khi ngồi trên ghế phổ thơng đã tìm ra điểm mạnh của mình, chọn
ngành mình u thích hoặc ngành phù hợp với bản thân.
Sinh viên không thực sự tự học, lười đọc sách. Với tâm lý “nghỉ xả hơi”, ung
dung suốt cả học kỳ để rồi gấp rút ôn thi ngày cuối. Nhiều trường Đại Học, cao
đẳng 5 năm trở lại đây đã thay đổi phương thức dạy học từ niên chế sang tín chỉ.
Điều này giúp sinh viên có thể học theo năng lực của mình, và sinh viên phải
ln chủ động trong vấn đề học tập. Vì nhiều sinh viên luôn lơ là việc học, học
để thi, thi không được thì học lại,.. Nhiều sinh viên học chỉ để lấy bằng cấp, mà
khơng có chút thực lực nào đang là vấn đề đáng lo ngại.
Nhiều sinh viên đã buộc phải thôi học, hoặc đi học mà nợ quá nhiều môn, tín
chỉ chỉ vì xu hướng đi làm kiếm thêm thu nhập. Dành quá nhiều thời gian cho
việc đi làm, không theo kịp được chương trình trên lớp. Nhưng lý do này cũng
không hẳn ở tất cả bộ phận sinh viên. Bởi có nhiều sinh viên cũng vừa đi làm
vừa đi học, họ vẫn đảm bảo được kết quả học tập và kiến thức của mình một
cách tốt nhất.
Nếu như phương pháp dạy học ở bậc Phổ thông là giáo viên ln quan tâm,
giảng giải tận tình,bù đắp lỗ hổng cho sinh viên thì ở bậc Đại học lại khác xa
hồn toàn, giảng viên chỉ là người hướng dẫn,đưa ra những tài liệu cần thiết cho
sinh viên tham khảo, sinh viên phải có ý thức tự học, tự tìm hiểu,và trong những
bài giảng phải nói được những quan điểm cuả mình, đặt câu hỏi cho giáo viên.
Nhưng nhìn chung nhiều sinh viên vẫn quen nếp học tập cũ, bị thụ động trong
học tập nơi giảng đường.
14


3.2. Vận dụng mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù vào quá trình học
tập của sinh viên.
3.2.1. Phạm trù nguyên nhân trong quá trình học tập của sinh viên

-Nguyên nhân sinh viên học tập tốt nơi giảng đường đại học là do những sinh
viên đó ln có ý thức học tập, tự học, biết trân trọng quãng thời gian ơn thi vất
vả để có thể đỗ vào ngơi trường mình mơ ước, biết nghĩ đến tương lai của bản
thân, gia đình,và xã hội; muốn thành cơng trong cuộc sống, tích lũy thêm nhiều
kiến thức và kỹ năng mới,do những động viên,khích lệ,ủng hộ từ gia đình,...
-Ngun nhân gây ra tình trạng lười học ở sinh viên chủ yếu là do khơng tự
giác trong học tập, gia đình khơng quản lý tốt, Đại Học không quá khắt khe về
việc đến lớp như cấp 3 nên nhiều sinh viên luôn bỏ tiết, tự cho phép mình nghỉ
khơng lý do, đi học chỉ để cho có, kiến thức khơng chịu tiếp thu. Cuộc sống xa
nhà được tự do thoải mái, không chịu sự quản lý từ gia đình, suốt ngày ăn chơi
đú đởn, khơng có ý thức học hành. Đại Học khơng ép sinh viên học vì đó là ý
thức ở chính mỗi sinh viên,nhiều sinh viên vì thế đã khơng nỗ lực, ung dung
thoải mãi trong suốt cả kỳ rồi lại ba chân bốn cẳng chạy những ngày cuối khi
thi, luôn nghĩ học bây giờ là quá sớm rồi lại phải nói chữ “giá như..”!
-Nguyên nhân sinh viên lười học còn do ý thức chủ quan, nhiều sinh viên cho
rằng học như vậy là đủ nhưng thực chất trên đời này kiến thức là vơ tận, những
thứ bạn học nó chỉ như những hạt cát bé nhỏ trên sa mạc mà thơi. Thế mà sinh
viên lại cho mình cái quyền được nghỉ ngơi, được ăn chơi xả hơi sau 12 năm
đèn sách. Đó là sự lãng phí thời gian mà sau này bạn không thể nào lấy lại
được.
-Nguyên nhân sinh viên bỏ học, học lại nhiều là do tính tự giác trong học tập
của sinh viên ngày càng thấp, chán nản trong học tập, chịu sự tác động của bạn
bè, làm thêm kiếm tiền quá sớm.Nhiều sinh viên suốt ngày chỉ cắm mặt vào
game, hoặc yêu đương mà bỏ bê việc học.Sinh khơng đảm bảo được điểm số,
học đối phó, học vẹt trong các kỳ thi, nợ môn và học lại ngày càng nhiều,..
15


-Nguyên nhân gây nên trì trệ trong học tập của sinh viên là do sinh viên luôn
dựa dẫm vào các tài liệu mà giảng viên đưa, luôn ỷ lại vào bạn bè khi làm việc

nhóm, khơng chịu bỏ cơng sức, bỏ óc sáng tạo,khơng chủ động, chỉ biết dựa
dẫm vào người khác mà khơng tự mình ngiên cứu học hỏi. Và trong xã hội hiện
nay, sự cạnh tranh về năng lực và óc sáng tạo là rất khắc nghiệt, việc bỏ công
sức và sự sáng tạo sẽ quyết định đến tương lai của bạn sau này.
3.2.2. Phạm trù kết quả trong quá trình học tập của sinh viên
Phạm trù kết quả trong quá trình học tập của sinh viên hiện nay, đối với
những sinh viên tích cực trong học tập, kết quả nhận được là thi qua môn đạt
điểm cao,không bị nợ mơn, tích lũy được nhiều kiến thức và kỹ năng, khả năng
giành được học bổng, gia đình tự hào, bản thân cũng không cảm thấy xấu hổ, tự
ti, có cơ hội việc làm tốt trong tương lai, có mức lương hấp dẫn, cơ hội tiếp xúc
mở mang tri thức ngày càng rộng…
Đối với những sinh có thái độ lười học, không chịu tự học, ỷ lại, thụ động,
kết quả là lực học ngày một sa sút, không đáp ứng được kiến thức bài giảng,
khơng có kỹ năng ,tình trạng nợ môn, học lại, gây lãng phi thời gian, tiền bạc,
cơng sức của bản thân và của gia đình. Không ra được khỏi trường, trường hợp
may mắn ra trường nhưng lại khơng có kiến thức chun mơn để phục vụ cho
kiếm việc làm trong tương lai, khơng có các kỹ năng cần thiết, gây ra thất
nghiệp, không kiếm ra tiền, làm những công việc nặng nhọc nhưng lương bạc
bẽo. Nhiều trường hợp còn dây vào các tệ nạn xã hội, đánh mất cả tương lai
phía trước. Nhiều sinh viên phải sống trong dày vị, hối hận, giá như mình
học,giá như thế này thế kia,..nhưng tất cả đã muộn khi chúng ta bước chân ra
khỏi ngưỡng cửa giảng đường…
3.2.3. Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả
Ngun nhân ln có trước kết quả, ví dụ như nguyên nhân sinh viên có ý
thức học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến giảng viên, tự học thì kết quả sinh viên
đó có thêm được kiến thức, phục vụ được cho công việc, lợi ích ở tương lai.
16


Ngược lại, ngun nhân sinh viên khơng có ý thức học tập, lười học dẫn đến kết

quả sinh viên mất đi kiến thức, nợ môn, học lại, tốn thời gian và tiền bạc, công
sức,.. Dần dần từ nguyên nhân này lại có ngun nhân khác, chúng có tính sản
sinh ra nhau, nợ môn ngày càng nhiều gây chán nản trong học tập, mất đi động
lực do đó mà sinh viên trở nên lười học.
Nguyên nhân sinh ra sự lười học vô cùng đa dạng: sinh viên không tự học,
thiếu đi động lực, học ngành mình khơng thích, áp lực gia đình, bạn bè lơi kéo,
thói quen ý lại, đi làm thêm, chương trình học quá nặng nề,chưa thực sự phù
hợp hoặc cách giảng dạy không gây hứng thú cho sinh viên.
Những nguyên nhân cùng chiều sẽ nhanh dẫn tới sự hình thành kết quả. Đúng
vậy, từ những nguyên nhân từ chính bản thân là khơng chịu học,từ phía gia đình
ép buộc, môi trường sống tiếp xúc với những người bạn ham chơi, lười học thì
việc mất đi kiến thức, khơng nhìn thấy tương lai, sa ngã vào các tệ nạn là điều
khó tránh khỏi. Ngược lại, nếu gia đình khơng quan tâm lo lắng gì cho con cái,
chỉ biết con mình đi học, mình đóng tiền mà khơng hỏi con về tình hình học tập,
lên Đại Học có q nhiều cám dỗ, hay chương trình học quá nặng đè lên sinh
viên,..nhưng những sinh viên ln tích cực và có ý thức học tập có thể cản trở
được những hậu quả xấu sẽ xảy ra. Đó là những dẫn chứng cho thấy những
nguyên nhân tác động ngược chiều thì sẽ cản trở tác dụng, cản trở sự hình thành
kết quả.
Tiểu kết chương 3: Mối quan hệ biện chứng nhân quả rất thiết thực trong đời
sống sinh viên. Nếu sinh viên không chịu học kết quả nhận lại sẽ chỉ là sự nuối
tiếc cho sau này. Sinh viên luôn bị thụ động, dậm chân tại chỗ mà thế giới lại
luôn luôn phát triển khơng ngừng, địi hỏi sinh viên phải có năng lực và tư duy
sáng tạo. Nếu sinh viên cứ mãi chậm chạp như vậy thì sẽ bị thụt lùi ở phía sau
mà thơi.

17


KẾT LUẬN

Từ những chương đầu, chúng ta đã làm rõ được cặp phạm trù nguyên nhânkết quả, phân biệt được sự khác nhau giữa nguyên nhân với nguyên cớ và điều
kiện. Đó cũng chính là những cơ sở lý luận để ta có thể hiểu rõ hơn về mối quan
hệ biện chứng nguyên nhân-kết quả ấy. Tất cả mối quan hệ mà phép biện chứng
đã nêu đều là sự đặc trưng khái quát của mối liên hệ cụ thể, ở những lĩnh vực cụ
thể trong thế giới vật chất này. Quan hệ nhân-quả được coi là sự khái quát
những hiện tượng từ một sự tác động này suy ra một kết quả khác. Quan hệ
nhân-quả là một trong những quan hệ khách quan,phổ biến nhất, nó giúp chúng
ta hình thành nên quá trình nhận thức trong thực tại, nếu quá trình này được lặp
đi lặp lại sẽ giúp đầu óc con người chúng ta phản ánh được mối quan hệ nhânquả một cách đa dạng và phong phú. Từ những cơ sở lý luận giúp ra rút ra bài
học trong quá trình thực tiễn, với tư cách là thành quả của nhận thức sẽ chỉ đạo
con người có thể gặt hái được nhiều thành công trong hoạt động thực tiễn.
Mối liên hệ này được vận dụng khá nhiều trong các lĩnh vực, q trình học
tập của sinh viên cũng khơng phải là ngoại lệ. Mối quan hệ đã nêu lên được
những nguyên nhân khiến sinh viên bị trì trệ, chậm chạp ,lười học…cũng nêu
lên được những kết quả mà sinh viên phải gánh chịu. Và những nguyên nhân ấy
đều sinh ra những kết quả cùng chiều hoặc cũng có sự tác động ngược chiều
nhưng lại cản trở sự hình thành kết quả. Hiện nay, khơng riêng gì Việt Nam mà
trên thế giới đang khơng ngừng vận động,thậm chí với tốc độ chóng mặt. Nếu
các bạn sinh viên cứ mãi khơng chịu tự mình bước đi, thì rất có thể sẽ thụt lùi
phía sau và khơng theo kịp sự phát triển. Vậy nên, hãy học tập và cố gắng ngay
từ bây giờ khi cịn q muộn, mỗi ngày tích cho mình thêm kiến thức, tự học
hỏi, tự trau dồi kỹ năng để có thể phát triển bản thân mình ngày một cao hơn.

18


Tài liệu tham khảo
1. C.Mác và Ph. Ăng- ghen Toàn tập,Tập 20- Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
1995
2. V.I.Lenin –Bút ký triết học Tập 29- Nxb Tiến bộ, Mát- xco- va, 1981.

3. Nguyễn Hữu Vui- Lịch sử triết học-Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội 2004.

19



×