Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về “quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại’’để làm rõ ý nghĩa của nó với việc nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện của

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.22 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA: DƯỢC HỌC
---------------  ---------------

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐỀ TÀI 3:
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về “Quy luật
từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược
lại’’để làm rõ ý nghĩa của nó với việc nâng cao chất lượng học tập và
rèn luyện của sinh viên hiện nay.

Họ và tên
Mã sinh viên
Lớp

:
:
:

Đoàn Văn Nghĩa
1575020137
DUOC 1503

Hà Nội, tháng 04 năm 2022


MỤC LỤC

A.

PHẦN MỞ ĐẦU



1. Lý do chọn đề tài

Trong bối cảnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa ngày nay, xã hội đang thay đổi
từng ngày với một tốc độ chóng mặt, địi hỏi con người cần phải thay đổi mình để
hịa nhập, thích nghi với thế giới. Trong cơng cuộc đổi mới đất nước, đổi mới về
giáo dục là một trong những yêu cầu cấp thiết được đặt lên hàng đầu. Không chỉ
đổi mới về quy mô, chất lượng giảng dạy mà bản thân người học cũng phải chủ
động làm mới mình để đáp ứng với yêu cầu học tập trong thời đại mới. Người học
nói chung và sinh viên, thế hệ trẻ đầy sức sống đang nắm trong tay tri thức của thời
đại nói riêng, họ khơng chỉ kế thừa các thành tựu của nền giáo dục của nhà nước
mà còn phải lĩnh hội những đặc sắc, những tiên tiến của nền giáo dục của các quốc
gia khác cùng với việc nắm bắt dịng chảy của cơng nghệ.
Học tập là một q trình tích lũy tri thức vơ hạn, bản thân nó ln có sự vận
động và biến đổi khơng ngừng. Q trình tích lũy tri thức ở mỗi người khơng
giống nhau mà cịn tùy thuộc vào khả năng tiếp thu, mục đích và điều kiện học tập
của mỗi người. Bất kể quá trình tiếp thu diễn ra dù nhanh hay chậm, dù ít hay
nhiều thì sự tích lũy về tri thức ấy đều khiến cho con người đạt đến những thay đổi
nhất định. Triết học gọi đó là sự biến đổi về chất. Sự vận động, biến đổi trong q
trình học tập của con người có tính trật tự và mối liên hệ mang tính lặp lại diễn ra
theo một quy luật cụ thể là “Quy luật lượng chất”.
Thực tế hiện nay cho thấy đối với sinh viên Đại học – giai đoạn có nhiều thay
đổi về môi trường sống, sinh hoạt và học tập. Nếu cứ tiếp tục học tập bằng phương
pháp truyền thống thì sinh viên không thể tồn tại trong môi trường khắc nhiệt
được, do đó địi hỏi sự thích nghi là cần thiết. Việc nhận thức và vận dụng đúng
đắn quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại có ý nghĩa rất lớn, từ đó xây dựng cho bản thân mỗi sinh viên
phương pháp học tập và rèn luyện phù hợp với bản thân và điều kiện sống.
Xuất phát từ những lí do trên, em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Quy luật từ
những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại’’để làm rõ ý

nghĩa của nó với việc nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện của sinh viên hiện
nay.” Với mong muốn có thể giúp đỡ cho các bạn sinh viên Đại học Đại Nam
nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và quy
luật lượng – chất nói riêng, từ đó có thể giúp cho chúng ta tìm được phương thức
học tập mới phù hợp với bản thân và rút ra nhiều kinh nghiệm trong việc học tập.
12


2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu: đưa triết học Mác-Lênin vào trong thực tiễn cuộc sống
để từ đó làm rõ các khái niệm về quy luật lượng chất và mối quan hệ của chúng.
Từ đó chỉ ra các yếu tố liên quan, ảnh hưởng tới sự vận dụng quy luật lượng chất
vào quá trình học tập của sinh viên nhằm tìm ra phương pháp nâng cao chất lượng
học tập và rèn luyện cho sinh viên.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: quy luật lượng chất và sự vận dụng
quy luật lượng chất vào quá trình học tập của sinh viên hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Dựa theo yêu cầu đề tài tiểu luận chỉ giới hạn ở phạm vi phân tích sự
chuyển hóa lượng – chất và vận dụng vai trò của quy luật
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng cơ bản là phương pháp quy
nạp dựa trên cở sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu, phân tích các tài liệu
liên quan tới Triết học Mác-Lênin về quy luật lượng chất và mối quan hệ
của chúng làm rõ các khái niệm liên quan.

13


B.


PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT
1.1 Khái niệm liên quan.
1.1.1 Khái niệm về chất.
Thế giới có vơ vàn sự vật hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có
những chất đặc trưng để làm nên chính chúng. Nhờ đó mà có thể phân biệt sự
vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác.
Theo giáo trình Triết học Mac-Lenin của Bộ giáo dục và đào tạo “Chất là
phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu
thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với
các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những
chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện
tượng khác”.1
Ví dụ: Nguyên tố sắt có nguyên tử lượng là 55.845 đvC, nhiệt độ nóng
chảy là 1538C, nhiệt độ sơi là 2862C… những thuộc tính này nói lên những
chất riêng của sắt, để phân biệt nó với các kim loại khác.
1.1.2 Khái niệm về lượng
Theo bách khoa toàn thư mở Wikipedia cho rằng “Lượng là phạm trù triết
học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mơ, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật,
biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái
khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật
khơng phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích
thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mơ lớn hay nhỏ, trình độ cao hay
thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…”2
Ví dụ: Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những
đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây

hay một phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử
oxy ,... bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và
khái quát như trình độ nhận thức tri của một người ý thức trách nhiệm cao hay
thấp của một cơng dân,... trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận
thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái qt hố. Có
những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử
hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có
những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều
rộng, chiều cao của sự vật). Bản thân lượng khơng nói lên sự vật đó là gì, các
1 1 Bộ giáo dục và đào tạo Giáo trình triết học Mac-Lenin />2 Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Quy luật lượng – chất

14


thông số về lượng không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận
động biến đổi của sự vật, đó là mặt khơng ổn định của sự vật.
1.2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
1.2.1 Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất.
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và
mặt lượng. Hai mặt đó khơng tách rời mà chúng tác động qua lại lẫn nhau.
Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại, nếu khơng có tính quy
định về chất và ngược lại. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa
về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất
kỳ nào cũng dẫn đển sự thay đổi về chất.
Ví dụ: khi ta nung một thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ của lị nung có
thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí lên tới hàng nghìn độ, song thỏi thép vẫn ở
trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng.
Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ sẽ
mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Khơng giới hạn đó gọi là độ.
“Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và

chất, là giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về
chất của sự vật, sự vật chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn của độ, lượng
và chất tác động biện chứng với nhau, làm cho sự vật vận động.”
Ví dụ: Người sống lâu nhất thế giới từng được biết đến có tuổi thọ 146
tuổi. Nên với dữ kiện này, ta có thể thấy giới hạn từ 0 – 146 năm là “độ” của con
người xét về mặt tuổi. Diễn đạt một cách chính xác hơn: Sự thống nhất giữa
trạng thái còn sống và số tuổi từ 0 – 146 là “độ tồn tại” của con người. (Thuật
ngữ “độ tuổi” mà chúng ta hay dùng cũng ít nhiều liên quan ở đây).
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi
về lượng. Khi lượng thay đổi đền một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến
những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay
đổi về lượng đã đủ làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng. sự thay
đổi về lượng khi đạt tới “điểm nút”, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ
dẫn đến sự ra đời của chất mới thông qua “bước nhảy” căn bản về chất.
Ví dụ: Người học viên khi ra trường trở thành người nhân viên chuyên
môn kỹ thuật sẽ được bổ sung những yếu tố mới về mặt phẩm chất đạo đức, về
năng lực chuyên môn… sẽ giúp người nhân viên biến đổi nhanh hơn về chất, 0C
và 100C là điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng thái khí (bay
hơi).
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điếm nút, với những điều kiện nhất định tất
yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong q trình
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự
vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Bước nhảy là sự kết
15


thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn
phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong q trình vận động và phát triển liên

tục của sự vật. Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là
tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Ví dụ: Trong xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng đổi) tới
khi mâu thuẫn với quan hệ sản xuất lỗi thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai
cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội (bước nhảy) làm cho xã hội cũ mất đi, xã
hội mới tiến bộ hơn ra đời.
Như vậy, sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về
lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song
điểm nút của q trình ấy khơng cố định mà có thể có những thay đổi. Sự thay
đổi ấy do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định.
1.2.2 Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng.
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác
động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết
cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng.
Ví dụ: khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức cũng là thực
hiện bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hóa của sinh
viên cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mơ và trình
độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn. Cũng giống như vậy, khi nước từ
trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của các phân tử nước cao hơn, thể
tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của nó ở trạng thái lỏng với
cùng một khối lượng, tính chất hồ tan một số chất tan của nó cũng sẽ khác đi,
v.v..
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự
thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại với
lượng dẫn đến sự thay đổi của lượng mới. Q trình đó liên tục diễn ra, tạo
thành cách thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.3

Tóm tắt nội dung quy luật
Từ những sự phân tích ở trên có thể rút ra nội dung của quy luật chuyển hóa
từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại như
sau: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về
lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước
nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất mới
cao hơn. Q trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật khơng ngừng biến
đổi.
1.4
Ý nghĩa của phương pháp luận
1.4.1 Ý nghĩa trong nhận thức
16


Bất cứ sự vật, hiện tượng nào đều có hai mặt lượng và chất ln vận động
và phát triển. Vì vậy, mỗi cá nhân khi nhìn nhận một sự vật, hiện tượng đều phải
xem xét cả hai mặt lượng – chất, qua đó có cái nhìn sâu sắc, đa chiều và phong
phú hơn đối với những điều xung quanh chúng ta. Và bằng cách xác định giới
hạn độ, điểm nút, bước nhảy , ta có thể làm ra quy luật phát triển của từng sự
vật, hiện tượng.
1.4.2 Ý nghĩa trong thực tiễn.
Muốn có sự biến đổi về chất cần kiên trì biến đổi về lượng. Có hai khuynh
hướng cần tránh sau: Một là sự nơn nóng tả khuynh. Nơn nóng tả khuynh được
biểu hiện bởi một cá nhân không kiên trì và nỗ lực để thay đổi về lượng nhưng
lại muốn có sự thay đổi về chất. Hai là sự bảo thủ khuynh đã được tích lũy đến
điểm nút nhưng không thực hiện bước nhảy để dẫn đến thay đổi về chất, nếu
khơng muốn có sự, thay đổi về chất thì cần kiểm sốt lượng trong giới hạn độ.
Bên cạnh đó, bước nhảy là giai đoạn hết sức đa chiều nên bước nhảy phải được
thực hiện tỉ mỉ . Khi đã tích lũy lượng tới mức điểm nút và thực hiện bước nhảy
phù hợp với từng thời điểm thì khi đó sẽ thức hiện bước với điều kiện và hồn

cảnh cụ thể thể để tránh hậu quả không đáng như không đạt được hậu quả về
chất, dẫn đến phải thực hiện thay đổi về lượng lại từ đầu. Từ quy luật lượng –
chất, chúng ta hiểu rằng mọi sự vật, hiện tượng đều vận động và phát triển
nhưng cần một q trình và từ bên ngồi tác động vào , để từ đó chúng ta biết
cách bố trí thời gian, cố gắng kiên trì cho bất cứ một kế hoạch hợp lý nào đó đã
được chính bản thân đặt mục tiêu.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương 1 tác giả đã đi làm rõ các thuật ngữ liên quan “chất”,
“lượng”. Cùng với đó tác giả đã nêu ra mối quan hệ giữa chất và lượng và ý
nghĩa của phương pháp luận.

17


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ SỰ THAY
ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ
NGƯỢC LẠI VÀO HOẠT ĐỘNG TÍCH LŨY KIẾN THỨC CỦA SINH
VIÊN.
2.1
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học ở
bậc Trung học Phổ Thông (THPT) và Đại học.
Ở cấp bậc nào cũng có sự khác biệt nhau về nhiều thứ, nhưng có lẽ bậc phổ
thơng và bậc đại học là hai cấp độ có nhiều sự thay đổi nhất. So với học ở bậc
trung học, lượng kiến thức ở bậc đại học đã tăng lên đáng kể. Lấy ví dụ đơn giản
ở học phổ thông, một môn học sẽ kéo dài một năm nên lượng kiến thức được
phân bố đều, còn đối với đại học, một môn học chỉ kéo dài khoảng 2-3 tháng.
Rõ ràng lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những khó khăn cho tân
sinh viên cho việc tiếp thu đầy đủ kiến thức. Vì vậy học sinh cần học tập tích
cực và nghiêm túc để thích nghi với sự thay đổi này. Khác với phương pháp học
thụ động như THPT, sinh viên Đại học sẽ phải tham gia rất nhiều hoạt động

nhóm, thuyết trình, ngoại khố,.. Khơng chỉ vậy, các mơn học tại bậc Đại học rất
đa dạng và mới mẻ, ngoài việc đọc sách giáo trình, sinh viên cịn phải tìm thêm
nhiều nguồn thơng tin từ trong sách báo, tài liệu liên quan. Chính sự thay đổi về
khối lượng kiến thức, thời gian và phương pháp học sẽ khiến nhiều tân sinh viên
gặp khó khăn trong q trình thích nghi với mơi trường học tập, giáo dục mới.
Đây chính là sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất. Sự khác nhau lớn
nhất giữa bậc THPT và Đại học có lẽ là nhiệm vụ trong học tập, đối với bậc
THPT thì việc lên lớp và hoàn thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra chính là
nhiệm vụ lớn nhất nhưng đối với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không
chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp mà họ cịn phải thực hiện các kì thực
tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của chính bản thân họ. Ngồi ra,
khi lên Đại học, ý thức của bản thân là yếu tố quan trọng nhất, khơng cịn sổ liên
lạc hay họp phụ huynh, tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt. Do đó, nếu
muốn thành cơng thì ngay khi bước chân vào giảng đường họ phải ln nhắc
nhở mình phải chuẩn bị kế hoạch và thực hiện chúng thật nghiêm túc để mang
lại những kết quả to lớn.
2.2
Quy luật lượng – chất trong cách
tích lũy kiến thức
Trong q trình rèn luyện ở trường học, tích luỹ kiến thức là dạng tích luỹ
về lượng, sự tích luỹ phát triển dần qua từng năm học, từng học kì, từng bài
giảng. Theo từng ngày, kiến thức sẽ được bổ sung vào “bộ nhớ” của bạn, giúp
bạn có một lượng thơng tin nhất định để dẫn đến sự thay đổi về chất. Trong
lượng được nêu ở trên (q trình tích luỹ kiến thức trong 12 năm học) tồn tại
nhiều lượng, chất, điểm nút, bước nhảy nhỏ hơn. Việc tích luỹ kiến thức qua
từng bài học, khi đạt đến một lượng kiến thức nhất định, bạn sẽ chuyển sang
18


mức độ mới cao hơn. Như vậy, thời gian giữa các mức độ học tập gọi là độ; bài

kiểm tra, bài thi là điểm nút; và sự chuyển từ cấp độ cũ sang cấp độ mới là bước
nhảy. Trong 12 năm học, bạn phải thực hiện lượng lớn bước nhảy, vượt qua
sốlượng điểm nút nhất định, có nhiều sự thay đổi về chất tương ứng với mức
tích luỹ vềlượng. Khi vượt qua được kì thi đại học và trở thành sinh viên của Đại
học Đại Nam, có nhiều bước nhảy được thực hiện dẫn đến sự hình thành chất
mới. Đầu tiên làsự thay đổi từ học sinh (chất cũ) thành sinh viên (chất mới), chất
mới tác động trở lại lượng. Giờ đây, lượng là sự tích luỹ kiến thức mới lẫn kỹ
năng mềm, bên cạnh đó cũng là sự phát triển về suy nghĩ, nhận thức, hành động,
cách tư duy. Chất mới có sự khác nhau với chất cũ ở chỗ q trình tích luỹ kiến
thức thơng qua q trình tự học, tìm tịi nghiên cứu, tự định hướng ở bậc Đại học
thay vì là được thầy cơ cung cấp như bậc Trung học. Từ đấy, khi tích luỹ đủ về
lượng đạt mức đầy đủ tín chỉ và hồn thành việc thực hiện kỹ năng mềm, sinh
viên sẽ được cấp bằng Đại học. Ở giai đoạn này, điểm nút là lượng tín chỉ và kỹ
năng cần đạt, bước nhảy là việc chuyển đổi từ sinh viên sang người khơng cịn
thuộc quyền quản lý của trường học. Cứ như vậy, quy luật lượng – chất phát
triển liên tục, tạo nên sự vận động không ngừng, chất mới liên tục được tạo ra,
con người dần tích luỹ thêm về lượng trong chất mới, tạo tiền đề cho sự phát
triển đời sống xã hội.
2.3
Thực trạng học tập ở Đại học của
sinh viên.
Sau khi học sinh thực hiện bước nhảy bằng cách trải qua Kỳ thi Trung học
phổ thông Quốc gia, chất đã biến đổi và học sinh đó trở thành sinh viên, từ đó
mơi trường học cũng thay đổi đáng kể. Kiến thức phải tiếp thu khơng cịn là các
kiến thức phổ thơng mà trở nên trừu tượng hơn, lượng kiến thức, độ khó cũng
tăng vọt trong khi thời gian học tập lại giảm. Hình thức giảng dạy cũng thay đổi,
mỗi mơn học, không phải kéo dài trong 2 học kỳ mà rút gọn chỉ còn 1 đến 2 tại
các lớp học phần. Hình thức học tập cũng có nhiều đổi mới: thảo luận nhóm,
thuyết trình, tiểu luận, thực tập… Do đó sinh viên buộc phải thay đổi để thích
nghi và học cách tiếp thu kiến thức theo nhiều cách khác nhau.

Do bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, sinh viên có thể rơi vào các tình huống
khác nhau như nợ mơn, gian lận, bệnh thành tích, q tải…chúng có liên quan
mật thiết đến quy luật chuyển hóa về sự thay đổi của lượng và chất. Có nhiều
sinh viên khi đã vượt qua kỳ thi đầu vào của trường, tỏ ra hài lòng và cho phép
mình nghỉ xả hơi sau những ngày tháng học thi căng thẳng. Từ đó nảy sinh các
vấn đề trì trệ việc học, lười biếng, coi thường sự tích lũy các kiến thức trong giai
đoạn đầu. Về lâu dài, những sự thiếu hụt kiến thức rải rác dẫn đến sự mất căn
bản, sinh viên mất định hướng trong việc hệ thống kiến thức, dẫn đến rớt môn
và nợ môn. Nguyên nhân chính là do thái độ chểnh mảng trong việc tích lũy về
lượng và khơng có sự chuẩn bị khi bước nhảy đến gần. Tại thời điểm hiện nay,
khi dịch Covid-19 đang hoành hành trên khắp thế giới và Việt Nam, học sinh
sinh viên trên cả nước phải học tập trực tuyến càng cho sinh viên chểnh mảnh, ỉ
lại, trì trệ việc học.
19


Bên cạnh đó, gian lận trong thi cử và căn bệnh thành tích là những tình
huống tiêu cực rất thường xuyên xảy ra. Cả hai trường hợp đều xuất phát từ sự
thiếu coi trọng cả hai mặt chất và lượng một cách tồn diện. Trong đó, gian lận
là dùng những chiêu trị, mánh khóe nhằm thực hiện bước nhảy khi chưa có đủ
lượng. Nếu gian lận trót lọt và thực hiện bước nhảy "thành cơng", về bản chất thì
chất vẫn giữ nguyên. Điều này dẫn đến rất nhiều khó khăn ở các học phần liên
quan sắp tới, chất mới không sinh ra để tác động lại lượng mới, tức là các kiến
thức mới khơng thể được tiếp thu bình thường được. Nếu mối liên hệ tiêu cực
này cứ tiếp diễn, sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy như rớt môn, nợ mơn. Mặt khác, có thể
dẫn đến tình trạng mua bằng cấp. Từ đó sinh ra một lớp người khơng "lượng"
mà cũng chẳng có "chất", gây tổn hại đến sự phát triển của xã hội. Kế đến, bệnh
thành tích là chạy theo thành tích một cách mù quáng, chỉ xem trọng hình thức.
Điều này có nghĩa là chỉ cần đến những thứ đại diện cho "lượng", che giấu sự
chưa biến đổi của chất. Thực tế, nhiều trường cấp ba nâng điểm số cho học sinh

để dùng cho việc xét học bạ vào đại học, gây sai lệch trong việc phân loại học
sinh, nhiều tân sinh viên bị đuối sức từ sớm; nhiều sinh viên tốt nghiệp với tấm
bằng giỏi, xuất sắc nhưng vẫn thất nghiệp.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Ở chương hai tác giả đã chỉ ra sự khác nhau của việc học ở trung học phổ
thơng và đại học. Bên cạnh đó, tác giả đã trình bày áp dụng quy luật lượng chất
vào việc tích lũy kiến thức và thực trạng của sinh viên hiện nay. Từ đó để xây
dựng định hướng các biện pháp để nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện
trong chương 3.

110


CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY.
Đứng trước một thời kỳ phát triển mới của lượng và chất, bản thân sinh
viên (năm nhất) phải biết tự làm mới mình và học cách thích nghi với mơi
trường ở Đại học. Bằng cách ứng dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
lượng – chất, dưới đây là một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập ở
Đại học cho sinh viên.
Một là, tích lũy các kiến thức cần thiết một cách cẩn thận và trọn vẹn với
những biện pháp cụ thể; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho bước nhảy.
Trước tiên, phải nói đến việc học các kiến thức ở trường. Từ những năm
đầu tiên của bậc học đại học, các kiến thức đều bắt đầu có tình trừu tượng và
khái qt,do đó để hiểu được chúng cần có quyết tâm cao độ, đầu tư về thời
gian. Q trình tích lũy những kiến thức này có sự khác nhau ở mỗi sinh viên
tùy vào trình độ và khả năng khác nhau và hầu hết là khó nhận ra được sự tiến
bộ. Dù vậy, việc đầu tư thời gian và chất đều ít nhiều làm cho mỗi người có phát
triển về mặt nhận thức vàtư duy về mơn học. Do đó, sự bền bỉ, nỗ lực trau dồi
mới là yếu tố quyết định nên sự thành công của một sinh viên.

Không chỉ là học về kiến thức, học Đại học cũng cần rèn luyện kỹ năng. Khi
mới bước vào Đại học, việc mở rộng mối quan hệ đầu tiên của chúng ta là lập ra
nhóm học tập. Nhóm học tập cùng hỗ trợ nhau trong học tập là điều rất cần thiết.
Vì trước mặt chúng ta là cả lượng kiến thức khổng lồ, phát huy hết quỹ thời gian
và năng lực của mỗi chúng ta cũng khó tiếp cận đầy đủ lượng kiến thức đó. Do
đó, nhóm học tập sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong việc chia sẻ những kiến thức
cần thiết, học cùng nhau giúp ta tăng thêm hứng thú học tập, cùng học cùng thảo
luận, đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, khám phá được nhiều thú vị trong sự hiểu
biết của mình. Đối với những sinh viên năng động, việc thực hiện các kỹ năng
này là khá đơn giản. Họ dễ dàng diễn thuyết một cách trôi chảy trước đám đông,
bày tỏ quan điểm của mình trong một nhóm. Ngược lại, những người hướng nội
sẽ gặp đơi chút khó khăn. Tuy nhiên, đều cần sự trau dồi, chuẩn bị hết sức kĩ
lưỡng trước mỗi hoạt động. Không phải chỉ hai, ba lần, phải lên đến hàng chục,
hàng trăm lần mới có thể thấy được sự tiến bộ. Khi chất biến đổi, chất mới sẽ tác
động trở lại, sinh viên sẽ bắt kịp nhịp độ năng động và việc tiếp thu lượng mới
sẽ dễ dàng hơn.
Những gì học được ở Đại học sẽ tạo nên một hành trang vững chắc cho
tương lai sau này. Song, tất cả những điều trên chỉ dừng lại ở lý thuyết nếu
khơng có biện pháp cụ thể để tiếp thu. Cụ thể, là một sinh viên thì phải biết tiếp
thu kiến thức theo nhiều cách khác nhau. Ở trên lớp, tích cực phát biểu xây dựng
111


bài. Trong các hoạt động nhóm phải có tính chủ động đóng góp ý kiến, mạnh
dạn nêu quan điểm. Sau giờ học chính là lúc tinh thần tự giác cần được phát huy,
sinh viên phải chủ độngtìm kiếm các nguồn kiến thức trên mạng, trao đổi với
đàn anh, chị đi trước, … Kiến thức là bao la, do đó sinh viên cần cẩn trọng trong
việc lựa chọn những thứ cần tiếpthu, phải là những "lượng tốt" thì mới có những
biến đổi tốt về chất. Cần tránh cănbệnh thành tích và gian lận, chạy theo những
"lượng ảo" để rồi không biến đổi tạo chất mới, đi ngược lại ý nghĩa phương

pháp luận. Khi có được một lượng dồi dào,sinh viên sẽ có tự tin và thực hiện
những bước nhảy chất lượng và tiến đến giaiđoạn tiếp theo của lượng và chất.
Hai là, cần tránh căn bệnh chủ quan, nóng vội thực hiện bước nhảy cũng
như trì trệ bước nhảy khi thời điểm đến.Điều này có nghĩa, sinh viên cần lên một
lộ trình hợp lý trên con đường tiếp thutri thức. Đi từ dễ đến khó, học từ căn bản
đến nâng cao là điều mà ai cũng biết,nhưng không phải ai cũng áp dụng. Việc bỏ
bước trong tích lũy sẽ dẫn đến sự khơng hồn thiện về độ. Mỗi sinh viên có khả
năng tiếp thu khác nhau, cần biết tự lượng sự mình để phân bố sự tích lũy về
lượng cho cân đối: bắt đầu từ những việc dễ, nếu thành công sẽ tiếp thêm động
lực để thực hiện những mục tiêu cao hơn. Để làm được bài tập khó đều phải đi
qua những bài tập dễ, để đạt điểm cao thì phải đạt điểm từng cao nhỏ rồi cộng
lại. Trước khi thực chiến đề thì phải nắm trọn các dạng,chuyên đề của đề thi ấy.
Trước khi viết tiểu luận, cũng phải đi từng bước từ việc làmtrang bìa, viết mở
đầu, rồi mới lập dàn ý và triển khai nội dung. Mọi thứ đều đi từbỡ ngỡ đến quen
thuộc, điều quan trọng là phải có sự tuần tự và kĩ lưỡng. Khi thời cơ đến cũng là
lúc đủ về lượng, sinh viên có thể thực hiện bước nhảy một cách tự nhiên mà
không do dự, gượng ép
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Sau khi nêu ra những thực trạng của sinh viên ở chương 2, chương 3 này
tác giả đã nêu ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện
của sinh viên hiện nay.

112


C.

KẾT LUẬN

Như vậy, quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những

thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy
vật, nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi sự vật hiện
tượng có sự tích luỹ về lượng đạt đến giới hạn nhất định sẽ tạo ra sự thay đổi
vềchất. Có thể phát biểu quy luật này như sau: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự
thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn
của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất
mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng việc hiểu rõ và vận dụng
các quy luật lượng chất vào quá trình học tập, nghiên cứu và phát triển của học
sinh – sinh viên là rất cần thiết và quan trọng. Chúng không chỉ giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về mối quan hệ tác động qua lại của hai phạm trù “chất” và “lượng”,
mà từ đó ta có thể vận dụng mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay
đổi về chất để áp dụng vào thực tiên như các ví dụ đã nói trên.Vậy là một sinh
viên cần phải làm gì và làm như thế nào để áp dụng một cách hiệu quả nhất?
Sinh viên cần xác định rõ mục tiêu, định hướng đúng đắn trong học tập và làm
việc, hiểu rõ và vận dụng tốt các quy luật “khi lượng đổi dẫn đến chất đổi và
ngược lại”. Ngoài ra việc thay đổi mơi trường từ THPT lên Đại học cũng có
nhiều sự khác nhau, để không bị mất phương hướng trong việc học, sinh viên
cũng cần phải có tính tự chủ, chủ động thích nghi với mơi trường, liên tục phấn
đấu và rèn luyện tích cực trong học tập và cơng việc, khơng ngừng tích luỹ kinh
nghiệm để có thể thành cơng hơn trong tương lai. Ngồi ra, “lượng” khơng chỉ
là những kiến thức mà sinh viên học trên ghế nhà trường, mà đó cịn là những kỹ
năng cần thiết như “kỹ năng làm việcnhóm, thuyết trình, đàm phán,…” và khả
năng linh hoạt hồ nhập với mơi trường khác nhau. Vì thế, trong quá trình học
tập, sinh viên cũng cần phải hài hoà, phối hợp giữa kiến thức và kĩ năng để có
thể tăng những tích luỹ về “lượng” mà các nhà tuyển dụng đang tìm kiếm. Bởi
vậy, ta lại càng thấy rõ hơn được tầm quan trọng và sự tác động qua lại của quy
luật “lượng” – “chất”, từ đó sinh viên sẽ chủ động hơn trong việc trang bị cho
mình những chun mơn kiến thức và kĩ năng cần thiết và đó cũng là tiền
đề,bước chân đầu tiên để phát triển sự nghiệp sau này.


113


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ giáo dục và đào tạo, “Giáo trình Triết học Mác – Lênin”
[Truy cập ngày 17/04/2022]
[2] Bách khoa toàn thư Wikipedia, “Quy luật lượng – chất”
[3] Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
[4] Đại học Bách Khoa Hà Nội, “Vận dụng quy luật lượng – chất trong học tập
và nghiên cứu của sinh viên đại học Bách khoa Hà Nội”

114



×