Tải bản đầy đủ (.doc) (191 trang)

mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế và việc giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh bắc trung bộ trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.77 KB, 191 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XX là thế kỷ phát triển với một tốc độ vô cùng lớn. Nhân loại
đã từng chứng kiến những thành tựu thần kỳ trong sự PTKT; đồng thời,
cũng đã chứng kiến sự "bùng nổ" của những vấn đề xã hội. Lịch sử đã ghi
nhận những thành tựu đó, đã cảnh báo nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia
phát triển, lẫn những quốc gia kém phát triển trong việc xác lập mô hình
phát triển. Một trong những bài học nổi bật là bài học về giải quyết mối
quan hệ giữa PTKT và phát triển xã hội.
Kết hợp PTKT với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một nội
dung cơ bản trong đờng lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó một
mặt là kết quả của việc quán triệt đờng lối nhất quán của Đảng: giải phóng
dân tộc phải kết hợp chặt chẽ với giải phóng xã hội và giải phóng con ngời.
Mặt khác, là kết quả của những bài học kinh nghiệm rút ra từ nhiều nớc
phát triển và đang phát triển. Việc thực hiện đờng lối đó đã đem lại những
thành tựu to lớn, kinh tế tăng trởng nhanh, đời sống vật chất của phần lớn
nhân dân đợc cải thiện và đồng thời giải quyết đợc nhiều VĐXH bức xúc,
xác lập và củng cố từng bớc sự ổn định chính trị - xã hội, tạo ra những tiền
đề để đa đất nớc chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao
cấp sang cơ chế thị trờng theo định hớng XHCN, bên cạnh những tác động
tích cực, thì những tác động tiêu cực của kinh tế thị trờng và của sự TTKT
đối với các VĐXH cũng đặt ra gay gắt.
Trớc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, việc tìm kiếm mô hình và lựa
chọn phơng án phát triển đang là vấn đề đặt ra cho quá trình CNH, HĐH
đất nớc theo định hớng XHCN. Đảng ta đã khẳng định: "TTKT phải gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bớc đi và trong suốt
1
quá trình phát triển" [28, 113], "kết hợp hài hòa tăng trởng kinh tế với phát
triển xã hội, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhằm tạo đợc
chuyển biến rõ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội" [28, 33].


Trong điều kiện hơn 76% dân c sống ở nông thôn, sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, nông thôn
văn minh, là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, nhng đồng thời cũng rất khó khăn,
phức tạp. Nhiều vấn đề bức bách đang đặt ra cần phải giải quyết để phát
triển toàn diện nông thôn cả về kinh tế và xã hội. Đặc biệt, đối với các tỉnh
BTB là một trong ba khu vực còn nhiều khó khăn nhất trong cả nớc, có những
nét đặc thù riêng về kinh tế, văn hóa, xã hội và con ngời. Điều đó đòi hỏi
trong quá trình cả nớc giải quyết mối quan hệ giữa PTKT với giải quyết các
VĐXH, các tỉnh BTB phải có sự tìm tòi, sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh có
tính đặc thù của vùng. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài: "Mối quan hệ
giữa sự phát triển kinh tế và việc giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng
nông thôn các tỉnh Bắc Trung Bộ trong công cuộc đổi mới ở nớc ta hiện
nay" làm đề tài luận án chính là nhằm góp phần đáp ứng đòi hỏi đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về vấn đề quan hệ giữa PTKT và phát triển xã hội, giữa TTKT và
công bằng xã hội, đã từng thu hút sự chú ý của các nhà lãnh đạo, quản lý,
của giới lý luận trong và ngoài nớc. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về
những VĐXH trong nền kinh tế thị trờng, từ các góc độ và các lĩnh vực
khác nhau. Nhiều tác giả đã đề cập đến mặt trái của cơ chế thị trờng trong
quá trình phát triển xã hội, sự cần thiết phải giải quyết các VĐXH để đảm
bảo sự phát triển bền vững. Chẳng hạn:"Kinh tế thị trờng và những VĐXH"
(Viện Thông tin Khoa học xã hội, xuất bản năm 1997); "CNXH cũng có thể
áp dụng kinh tế thị trờng" của tập thể các nhà khoa học Trung Quốc (Nxb
CTQG, H, 1996); "Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trờng"
(Viện Thông tin Khoa học xã hội, H, 1996)
2
Một số công trình đã đi vào phân tích nội dung của CSXH, sự cần
thiết phải đổi mới CSXH, đã xác định đợc một số vấn đề cơ bản trong mối
quan hệ giữa đổi mới CSKT và đổi mới CSXH. Một số công trình khác đã
nghiên cứu thực tiễn TTKT và công bằng xã hội ở các nớc châu á và bớc

đầu đã rút ra những kinh nghiệm. Với những công trình tiêu biểu: Đề tài
KX-07-13 "Về một số động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay"
do GS Lê Hữu Tầng chủ nhiệm; Đề tài KX-04 "CSXH, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn", PGS.PTS Bùi Đình Thanh chủ nhiệm; PGS.PTS Hoàng
Chí Bảo (chủ biên) "Một số vấn đề về CSXH ở nớc ta hiện nay" (Nxb
CTQG, H, 1993); GS Phạm Xuân Nam "Đổi mới CSXH luận cứ và giải
pháp" (Nxb CTQG, H, 1997); PGS.PTS Đỗ Nguyên Phơng "Về sự phân
tầng xã hội ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay" (Chơng trình KX 07-05, H,
1994); GS.TS Nguyễn Duy Quý (chủ biên) "Những vấn đề lý luận về
CNXH và con đờng đi lên CNXH ở Việt Nam" (Nxb CTQG, H, 1998);
PGS.PTS Nguyễn Trọng Chuẩn "Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới
CSKT và đổi mới CSXH" (Tạp chí triết học tháng 6-1996); PGS.PTS Nguyễn
Đức Bách, Lê Văn Yên, Nhị Lê "Một số vấn đề về định hớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam" (Nxb Lao động, H, 1998); PTS Lê Bộ Lĩnh (chủ biên)
"TTKT và công bằng xã hội ở một số nớc châu á và Việt Nam" (Nxb
CTQG, H, 1998); PGS.PTS Lê Văn Sang, PTS Kim Ngọc "TTKT và công
bằng xã hội ở Nhật Bản giai đoạn thần kỳ và Việt Nam thời kỳ đổi mới"
(Nxb CTQG, H, 1999) Gần đây nhất, luận án tiến sĩ "Quan hệ giữa tăng
trởng kinh tế và phát triển các quan hệ xã hội lành mạnh ở nớc ta hiện nay"
của tác giả Nguyễn Thị Thanh đã trình bày mối quan hệ giữa TTKT và phát
triển các quan hệ xã hội lành mạnh và bớc đầu đã nêu ra một số phơng hớng
cơ bản để tăng cờng sự kết hợp đó ở nớc ta.
Trên lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, ở nớc ngoài cũng nh ở nớc
ta có nhiều công trình nghiên cứu tùy theo đặc trng của từng ngành khoa
học. Vấn đề đợc nhiều công trình tập trung nghiên cứu: Vai trò của nông
3
nghiệp, nông thôn; CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, thực hiện CSXH ở
nông thôn; xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm Và đã
đề xuất nhiều giải pháp thiết thực nhằm giải quyết những vấn đề đang đặt
ra ở nông thôn. Đáng chú ý là các công trình "40 năm kinh nghiệm Đài

Loan" (Nxb Đà Nẵng, 1994); Công ty ADUKI "Vấn đề nghèo ở Việt Nam"
(Nxb CTQG, H, 1996); GS Nguyễn Điền "CNH nông nghiệp, nông thôn
các nớc châu á và Việt Nam" (Nxb CTQG, Hà Nội, 1997); PGS. Bùi Đình
Thanh, PGS Nguyễn Hữu Dũng, PTS Phan Đỗ Nhật Tân "CSXH nông thôn
Việt Nam" (Nxb CTQG, H, 1996); GS Phan Đại Doãn "Quản lý xã hội
nông thôn nớc ta hiện nay - Một số vấn đề và giải pháp" (Nxb CTQG, H,
1996); PGS. PTS Nguyễn Đức Bách "Những lợi ích kinh tế - xã hội tác động
đến lòng tin của nông dân và con đờng xã hội chủ nghĩa" (Tạp chí nghiên cứu
lý luận số 2-1992). Điển hình nhất là chơng trình khoa học cấp nhà nớc KX-
08 "Phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn", gồm 12 đề tài nhánh đã tập
trung nghiên cứu một cách toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, đã đề xuất
nhiều giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề đang đặt ra ở nông thôn và
xây dựng nông thôn Việt Nam theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Đối với khu vực BTB, cũng đã có một số công trình, một số cuộc
hội thảo về phát triển kinh tế - xã hội của vùng và của các tỉnh nh: "Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng BTB" (Viện quy hoạch đô thị
nông thôn, Bộ Xây dựng, H, 1996); PGS.TS Lê Đình Thắng, PTS Nguyễn
Thanh Hiền "Xóa đói giảm nghèo ở vùng khu IV cũ" (Nxb Nông nghiệp, H,
1995); PGS.PTS Nguyễn Sinh Cúc "Phân hóa giàu nghèo ở các tỉnh miền
Trung" (Tạp chí Cộng sản, số 22-1996); Chơng trình khoa học: "Con ngời
Nghệ An trớc yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH" (Sở Khoa học Công nghệ
và Môi trờng, Vinh, 1998)
Tuy vậy, dới góc độ chính trị - xã hội vẫn cha có một công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống vấn đề quan hệ
4
giữa PTKT và giải quyết các VĐXH. Đặc biệt, nghiên cứu mối quan hệ
đó ở một vùng nông thôn có tính đặc thù nh BTB thì còn bỏ ngỏ. Vì vậy,
chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với lòng mong muốn góp
phần nhỏ bé vào việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng
chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội nông thôn BTB theo định hớng xã hội

chủ nghĩa.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích
Luận án góp phần làm rõ về mặt lý luận mối quan hệ giữa sự PTKT
và việc giải quyết các VĐXH. Trên cơ sở đó và trên cơ sở thực tiễn BTB đ-
ợc khảo sát, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp giữa PTKT và
giải quyết các VĐXH ở vùng nông thôn BTB trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nớc theo mục tiêu: "Dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh".
3.2. Nhiệm vụ
Luận án tập trung giải quyết các vấn đề chủ yếu sau:
- Làm rõ tính biện chứng giữa PTKT và giải quyết các VĐXH trong
chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích thực trạng, xu hớng vận động của mối quan hệ giữa
PTKT và giải quyết các VĐXH trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn BTB.
- Kiến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp đúng đắn giữa
5
PTKT và giải quyết các VĐXH ở nông thôn các tỉnh BTB hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa PTKT và giải
quyết các VĐXH và tìm ra những giải pháp chủ yếu để thực hiện mối
quan hệ này trong chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội ở vùng nông thôn
các tỉnh BTB, gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Luận án đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đờng lối của Đảng và Nhà nớc
ta về phát triển kinh tế - xã hội, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Luận án đợc nghiên cứu trên cơ sở khảo sát thực tiễn tình hình

kinh tế - xã hội vùng nông thôn BTB và có kế thừa một số kết quả thu đợc
của các công trình khác có liên quan, nhất là những thực tiễn về kinh tế,
chính trị, xã hội và những tác động qua lại giữa các vấn đề đó.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phơng pháp luận triết học Mác - Lênin, có chú ý
đến những đặc thù về mặt phơng pháp của chủ nghĩa xã hội khoa học trong
quá trình tiếp cận, khảo sát, đánh giá, đặc biệt là khai thác những khía cạnh
chính trị - xã hội của đề tài. Trong đó phơng pháp kết hợp lôgic với lịch sử,
điều tra xã hội học; so sánh, phân tích, tổng hợp là những phơng pháp chủ
đạo đợc áp dụng trong luận án.
5. Đóng góp về khoa học của luận án
- Dới góc độ chính trị - xã hội, luận án lý giải rõ hơn mối quan hệ
6
giữa PTKT và giải quyết các VĐXH. Trên cơ sở đó, tìm ra giới hạn hợp lý
để giải quyết mối quan hệ đó trong quá trình CNH, HĐH, nông nghiệp,
nông thôn nớc ta.
- Từ thực trạng kinh tế, xã hội, căn cứ vào tiềm năng và mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của vùng BTB, đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm kết hợp giữa PTKT và giải quyết các VĐXH, đẩy nhanh quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn vùng BTB theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận án
- ở một mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận án có thể
sử dụng làm t liệu tham khảo trong việc hoạch định, thực thi, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn các tỉnh vùng BTB và các vùng nông
thôn khác, đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
- Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng
dạy và nghiên cứu một số chuyên đề của chủ nghĩa xã hội khoa học nh: thời
kỳ quá độ; liên minh công-nông-trí thức; vấn đề nhân tố con ngời
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận án gồm 3 chơng với 7
tiết và danh mục các tài liệu tham khảo.
Chơng 1
Biện chứng giữa phát triển kinh tế và giải
quyết các vấn đề xã hội theo định hớng xã hội chủ
7
nghĩa ở nông thôn nớc ta
1.1. biện chứng giữa phát triển kinh tế và giải quyết
các vấn đề xã hội
1.1.1. Phát triển kinh tế - yếu tố quyết định để giải quyết các
vấn đề xã hội
Tăng trởng kinh tế và phát triển kinh tế
Tăng trởng kinh tế (TTKT): Khái niệm tăng trởng (growth) nói
chung đợc dùng để chỉ sự lớn lên, tăng thêm, mở rộng về quy mô của một
hiện tợng hay một "hệ thống" nào đó. Trong tiếng Việt, đôi khi ngời ta còn
dùng khái niệm "tăng", "sự gia tăng" để chỉ sự tăng trởng.
Sự gia tăng về kinh tế, trên thực tế ngời ta thờng hay thay bằng thuật
ngữ tăng trởng kinh tế.
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy khái niệm TTKT có nhiều cách
tiếp cận khác nhau. TTKT là "sự gia tăng sản lợng thực tế của một nền kinh tế
theo thời gian" [81, 74]; là "sự thay đổi về lợng các kích thớc vật chất của sản
xuất và kinh doanh" [56, 29]; là "sự tăng lên của sản lợng hàng hóa và dịch vụ
trong một nớc do sự tăng lên của thu nhập quốc dân và sản phẩm bình quân đầu
ngời" [7, 174]; là "mức tăng quy mô và tốc độ sản phẩm" [70, 200].
Từ những quan điểm khác nhau về TTKT có thể rút ra điểm chung:
TTKT là khái niệm diễn tả động thái của nền kinh tế, chỉ rõ sự biến đổi
ngày càng lớn lên về lợng của nền kinh tế.
8
Nh vậy, có thể coi "TTKT" là "sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy
mô sản lợng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Đó là kết quả của

tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế tạo ra" [86, 8].
Để biểu thị sự TTKT, ngời ta thờng dùng mức tăng thêm của tổng
sản phẩm quốc nội (GDP). Mức tăng đó thờng đợc tính trên toàn bộ nền
kinh tế hay tính theo bình quân đầu ngời trong một năm. Ngày nay, trớc sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, để đáp ứng sự phát
triển nhanh của nền kinh tế, ngời ta có thể rút ngắn việc so sánh kết quả
kinh tế lại nửa năm, một quý, một tháng, thậm chí hàng ngày, tùy theo lĩnh
vực quản lý kinh tế. Sự TTKT đợc so sánh theo các thời điểm liên tục trong
một giai đoạn nhất định, sẽ cho ta khái niệm tốc độ TTKT. Đó là sự tăng
thêm sản lợng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
Các lý thuyết về TTKT, cho đến nay đa số cho rằng, các yếu tố chắc
chắn giữ vai trò quan trọng đối với sự tăng trởng: số lợng và chất lợng
nguồn nhân lực; số lợng và chất lợng nguồn tài nguyên; mức độ tích lũy
vốn và sự đổi mới công nghệ. Ngoài những yếu tố đó, đối với các nớc đang
phát triển, TTKT có đợc thuận lợi và nhanh chóng hay không còn phụ thuộc
vào các điều kiện: sự ổn định về chính trị, xã hội; xây dựng đợc hệ thống
pháp luật ngày càng hoàn thiện; cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội tốt (giao thông,
thông tin, giáo dục, y tế ); đặc điểm văn hóa - xã hội (truyền thống văn hóa, xã
hội, tính cách ); cũng nh vị trí địa lý của quốc gia
Phát triển kinh tế (PTKT)
Theo GS Phạm Xuân Nam: "Tăng trởng là sự thay đổi về lợng các
kích thớc vật chất của sản xuất, kinh doanh. Còn phát triển là sự thay đổi
về chất của nền kinh tế tạo cơ sở cho một trạng thái xã hội tiến bộ, công
bằng và văn minh hơn" [56, 29]. Quan điểm này coi TTKT là sự thay đổi
về lợng, còn PTKT là sự biến đổi về chất của nền kinh tế, tạo cơ sở thúc đẩy
9
sự tiến bộ về mọi mặt của xã hội.
GS Ewayne Nafziger cho rằng: "PTKT nói đến sự TTKT kèm theo
những thay đổi về phân phối sản lợng, về cơ cấu kinh tế. Những thay đổi
này có thể bao gồm việc nâng cao mức của cải vật chất của một nửa dân c

nghèo hơn; một sự giảm sút về tỷ phần của nông nghiệp trong GNP và sự
gia tăng tơng ứng tỷ phần trong GNP của công nghiệp, tài chính, xây dựng
và quản lý nhà nớc, một sự gia tăng về giáo dục và kỹ năng của lực lợng
lao động, và những tiến bộ kỹ thuật đáng kể đợc tạo ra trong nền kinh tế"
[30, 28]. Quan điểm này coi PTKT là TTKT kèm theo sự thay đổi về
phân phối và cơ cấu kinh tế theo hớng tiến bộ.
Tập thể các nhà khoa học thuộc trờng Đại học kinh tế quốc dân
trong cuốn "Kinh tế phát triển" do PGS. PTS Vũ Thị Ngọc Phùng chủ biên
đa ra định nghĩa: "PTKT có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến)
về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm
cả sự tăng thêm về quy mô sản lợng (tăng trởng) và sự tiến bộ về cơ cấu
kinh tế - xã hội" [86, 9].
Nh vậy, PTKT là một phạm trù kinh tế - xã hội rộng lớn. Việc đa ra
đợc một định nghĩa chính xác đang còn có sự khác nhau trong quan niệm
của nhiều tác giả. Chúng tôi cho rằng, định nghĩa của các nhà khoa học tr-
ờng Đại học kinh tế quốc dân đã phản ánh đợc nội dung cơ bản của khái
niệm "PTKT":
- Trớc hết, PTKT bao gồm cả sự thay đổi về khối lợng của cải vật
chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
- Thứ hai: Tăng thêm quy mô sản lợng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế -
10
xã hội là hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tơng đối của l-
ợng và chất.
- Thứ ba: Sự phát triển là một quy luật tiến hóa, song nó chịu tác động
của nhiều yếu tố, trong đó nhân tố nội tại nền kinh tế có ý nghĩa quyết định.
- Thứ t, PTKT phản ánh sự vận động của nền kinh tế từ trạng thái
thấp lên trạng thái cao hơn cả về số lợng và chất lợng.
Hiện nay, khái niệm PTKT đợc đặt trong mối quan hệ với phát triển
xã hội, bảo vệ môi trờng, hợp thành nội dung của "Phát triển bền vững". Đó
là: "Sự phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lý

tài nguyên và bảo vệ môi trờng, nhằm đáp ứng nhu cầu của thế hệ con ngời
hiện nay và không ảnh hởng bất lợi đối với các thế hệ tơng lai trong việc
thỏa mãn những nhu cầu của họ" [1, 3]. Trong đó PTKT vừa quyết định quá
trình phát triển xã hội và bảo vệ môi trờng, vừa bị chi phối bởi quá trình đó.
Qua sự phân tích trên cho thấy, TTKT và PTKT là hai khái niệm vừa
có tính độc lập, vừa có mối liên hệ với nhau. Khái niệm PTKT rộng hơn
khái niệm TTKT. PTKT bao hàm cả TTKT, và cả sự đổi mới về cơ cấu kinh
tế theo hớng tăng tỷ trọng trong công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông
nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân; tăng dân số thành thị, giảm dân số
nông thôn; đổi mới cơ cấu tiêu dùng; trình độ văn hóa, giáo dục, y tế đợc
cải thiện, Nh vậy, PTKT trong nó đã bao hàm cả những mặt xã hội, và cả
sự đổi mới về cơ cấu kinh tế theo hớng các thành phần kinh tế. Đảng ta chủ
trơng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hớng
XHCN, chính là khẳng định vấn đề đó trong nội dung của PTKT. Đặc điểm
của kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở nớc ta là: mọi thành phần kinh tế
đều bình đẳng trớc pháp luật; nền kinh tế ấy lấy kinh tế nhà nớc làm chủ
đạo; lấy việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn
minh làm mục tiêu. Qua nội dung đó cho thấy, PTKT theo định hớng
XHCN ở nớc ta liên quan tới cả kiến trúc thợng tầng lẫn cơ sở hạ tầng, liên
11
quan tới cả quan hệ sản xuất lẫn lực lợng sản xuất. Điều này khẳng định,
không thể có sự PTKT thuần túy tách khỏi việc giải quyết các VĐXH. Sự
PTKT theo nghĩa đó, không chỉ vì mục đích kinh tế, mà hơn thế nữa phải vì
mục đích xã hội.
TTKT chủ yếu đặc trng biến đổi về lợng, trong khi PTKT chủ yếu
đặc trng biến đổi về chất của nền kinh tế, TTKT là điều kiện, tiền đề cho
phát triển. Bởi vì, nền kinh tế có tăng trởng thì mới có khả năng tăng ngân
sách nhà nớc, tăng thu nhập cho dân c. Nhờ có TTKT, nhà nớc mới có thể
tăng đầu t cho giáo dục, xây dựng cơ sở hạ tầng, có điều kiện để giải quyết
các VĐXH. TTKT là điều kiện cần để làm thay đổi mọi mặt của đời sống

xã hội và tác động trực tiếp đến sự hình thành cơ cấu kinh tế. TTKT là điều
kiện, tiền đề cho phát triển, nhng bản thân nó chỉ là một đại lợng không
hoàn hảo của sự tiến bộ. TTKT có thể thúc đẩy phát triển xã hội nhng tự nó
không dẫn đến tiến bộ xã hội. Bởi vì, khi nói tới tiến bộ xã hội, có nghĩa là
đề cập đến mặt chất lợng của phát triển xã hội, mà điều này lại lệ thuộc vào
chế độ xã hội, vào quan niệm giá trị và hệ thống giá trị. Một nền kinh tế có
tăng trởng, nhng nếu lấy lợi nhuận làm mục tiêu duy nhất, mà xem nhẹ yếu
tố xã hội, thì không thể xem đó là sự tăng trởng mang tính tích cực, tiến bộ.
Về mặt lý thuyết, có thể cho rằng có sự phát triển nhng không có tăng trởng
trong trờng hợp GNP đầu ngời không tăng, nhng thực hiện công bằng xã
hội tốt hơn, giảm bớt những lãng phí để đem lại những nhu cầu có ích cho
nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế, "khó dẫn ra đợc những ví dụ về sự phát
triển nh vậy và thờng thì tăng trởng và phát triển đi đôi với nhau" [32, 8].
Nh vậy, nếu xét từ góc độ triết học thì TTKT và PTKT là hai khái
niệm có điểm giống nhau, nhng không hoàn toàn đồng nhất. Điểm giống
nhau là cả hai đều nói lên sự chuyển dịch năng động, vợt khỏi trạng thái trì trệ,
dẫm chân tại chỗ. Điểm khác nhau là một bên nói lên sự chuyển dịch về số l-
ợng, còn một bên nói lên tính định hớng, chất lợng của sự chuyển dịch đó.
12
Phát triển xã hội
Trong quan điểm duy vật biện chứng, "phát triển là một phạm trù
triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn" [35, 227].
Chủ nghĩa Mác nghiên cứu vấn đề phát triển một cách khoa học và
toàn diện trên cơ sở kế thừa hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hê-
ghen. Phát triển trong chủ nghĩa Mác đợc hiểu là một trờng hợp đặc biệt
của sự vận động, là thuộc tính phổ biến của vật chất, là nguyên lý phổ biến
và là nguyên tắc nhận thức có vai trò to lớn trong việc giải thích lịch sử, tự
nhiên, xã hội và nhận thức của con ngời.
Dới góc độ triết học mà xem xét, thì trong lĩnh vực xã hội, "sự phát

triển biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội để tiến tới
mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con ngời" [35, 227]. Sự
phát triển trong đời sống xã hội không diễn ra một cách giản đơn, thẳng tắp,
mà đó là kết quả sự tác động biện chứng, phức tạp của nhiều quá trình khác
nhau, trong đó hoạt động có mục đích của quần chúng nhân dân dựa trên
việc nhận thức các quy luật khách quan của lịch sử có vai trò quan trọng
nhất. Phát triển trong quan niệm hiện đại, đợc xem xét trên tất cả các yếu tố
từ chính trị, kinh tế, tâm lý đến xã hội, văn hóa, sinh thái, mà trong đó văn
hóa ngày càng trở thành động lực và hệ điều chỉnh cho phát triển. Francois
Partant đã chỉ ra năm nhân tố cấu thành sự phát triển: kinh tế, kỹ thuật, xã
hội, chính trị, văn hóa. Còn Walter. W.Rostow chỉ ra bốn nhân tố cấu thành
sự phát triển: kinh tế; không gian xã hội chính trị; không gian nông thôn, đô
thị; văn hóa, năng suất luận [6, 25-26]. Do đó không thể quy sự phát triển
xã hội chỉ xẩy ra với một trục là trục kinh tế, khoa học - công nghệ và coi
nhẹ các trục khác, mà phát triển xã hội phải là phát triển toàn diện, là làm
tăng tính chỉnh thể của đời sống xã hội.
13
Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, phát triển đợc hiểu "là tạo điều kiện
cho con ngời bất kỳ ở đâu cũng có cuộc sống đầy đủ, lành mạnh và lâu dài"
[18, 3]. Nói cách khác, phát triển "là tăng cờng khả năng làm thỏa mãn các
nhu cầu của con ngời và cải thiện mức sống của con ngời" [18, 224].
Nh vậy, phát triển xã hội là sự vận động tiến lên của xã hội từ thấp
đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện một cách toàn diện cả về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội nhằm hớng tới các giá trị nhân văn. Ông Perez De
Cuelzar, nguyên Tổng th ký Liên hợp quốc, trong tuyên bố tại lễ phát động
thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa tổ chức tại Pa-ri tháng 1 năm 1983 đã
nêu lên một quan điểm đợc xem nh một định nghĩa mới về phát triển, đợc
nhiều ngời thừa nhận: Phát triển có nghĩa là thay đổi, nhng sự thay đổi
không phải sẽ tạo nên sự cách biệt mà nó sẽ tạo ra những đặc tính, đặc trng
của xã hội và cá nhân, đầu tiên và trớc hết là sự thay đổi phải đem lại cuộc

sống phồn vinh, có chất lợng đợc mỗi cộng đồng chấp nhận.
Tháng 7 năm 1994, ông Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor
đã tuyên bố tám nội dung cơ bản của phạm trù "phát triển xã hội" [50, 3-4].
- Tạo lập năng lực nội sinh thông qua việc khai thác mọi nguồn lực;
cải cách sâu rộng nội dung giáo dục và đào tạo ở mọi cấp; và tuyên truyền,
truyền bá tri thức tới mọi miền của quốc gia cũng nh giữa các quốc gia với nhau.
- Khắc phục có hiệu quả tình trạng nghèo khổ và bảo đảm cho mọi
tầng lớp dân c tham gia vào quá trình phát triển xã hội; tôn trọng quyền con
ngời, xây dựng thái độ khoan dung, phi bạo lực và dân chủ thông qua nền
giáo dục ngay từ cấp học mầm non, thông qua sự hỗ trợ của các tổ chức
công dân cũng nh của các phơng tiện thông tin đại chúng.
- Đặt các nhân tố văn hóa vào cấu trúc và chiến lợc phát triển cân
bằng; chú trọng đúng mức các điều kiện lịch sử, xã hội và văn hóa của từng
quốc gia - Đó là những điều kiện chủ yếu đảm bảo cho một sự phát triển xã
14
hội bền vững.
- Thúc đẩy một cách nhìn mới đối với lao động và việc làm phù hợp
với quan niệm hiện đại về cuộc sống tích cực. Cuộc sống tích cực không chỉ
bao hàm hoạt động sản xuất, mà còn cả những hoạt động công dân, hoạt
động giải trí, hoạt động xã hội, văn hóa, khoa học
- Cải thiện chất lợng cuộc sống của c dân nông thôn thông qua hoạt
động giáo dục, đào tạo, tăng thu nhập, tăng cờng sản xuất, du lịch văn hóa,
du lịch môi trờng, trợ giúp vật chất, cải thiện điều kiện kết cấu hạ tầng, tăng
cờng thông tin
- Xây dựng ý thức bảo vệ môi trờng sinh thái, thúc đẩy sự tham gia
của đông đảo dân c vào việc sử dụng hợp lý và cân bằng các nguồn tài
nguyên phục vụ mục tiêu phát triển xã hội bền vững.
- Khai thác tốt khoa học và công nghệ nh nhân tố tích cực đối với
mục tiêu phát triển xã hội.
- Sử dụng tốt các hệ thống và các thành tựu thông tin hiện đại phục

vụ mục tiêu phát triển xã hội.
Nội dung phát triển xã hội đó đã đợc hội nghị thợng đỉnh quốc tế về
phát triển xã hội tổ chức tại Copenhaghen (Đan Mạch) tháng 3 năm 1995
chấp nhận.
Chính vì vậy, UNDP đã đa ra chỉ số mới cho sự phát triển - HDI
(tuổi thọ + tỷ lệ ngời đi học + thu nhập thực tế GDP) để thay thế cho chỉ số
GNP trên một đầu ngời là bớc tiến mới trong quá trình nhận thức về sự phát
triển. Nh vậy, theo sự đánh giá của Liên hợp quốc, một quốc gia đợc coi là
phát triển, bên cạnh sự TTKT, còn phải đạt những chỉ số chung về mặt xã
hội. Trong những chỉ số chung đó, chỉ số phát triển con ngời đợc đặt vào vị
trí trung tâm, quan trọng bậc nhất. Vì vậy, trong thời đại ngày nay, phát
triển của con ngời, do con ngời và vì con ngời là mục tiêu phấn đấu của mọi
15
quốc gia. Bài toán của sự phát triển xã hội hiện đại là làm thế nào để giải
quyết thành công các mâu thuẫn biện chứng giữa TTKT và công bằng xã
hội; dân chủ và kỷ cơng ở đây "giải pháp lâu dài là PTKT nhanh, công bằng
xã hội hơn và sự tham gia của con ngời nhiều hơn" [89, 3].
Vai trò quyết định của kinh tế đối với phát triển xã hội và giải
quyết các VĐXH
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét xã hội với tính
cách là một hệ thống bao gồm trong đó bốn lĩnh vực cơ bản: lĩnh vực kinh tế,
lĩnh vực xã hội, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực văn hóa tinh thần của đời sống xã
hội, và đã xác định vai trò, vị trí của các yếu tố, chỉ ra các chiều tác động qua
lại giữa chúng, trên cơ sở đó làm cho cả hệ thống xã hội vận động, biến đổi
và phát triển. Trong đó, "Chúng tôi coi những điều kiện kinh tế là cái cuối
cùng quyết định sự phát triển lịch sử Sự phát triển về mặt chính trị, pháp
luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, là dựa vào sự phát triển kinh tế.
Nhng tất cả những sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và cũng tác động
đến cơ sở kinh tế. Hoàn toàn không phải điều kiện kinh tế là nguyên nhân
duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác chỉ có tác dụng thụ động. Trái lại, có

sự tác động qua lại trên cơ sở tính tất yếu kinh tế, là một tính tất yếu, xét
đến cùng, bao giờ cũng tự vạch ra con đờng đi của nó" [49, 788].
Sự phát triển của xã hội loài ngời là một quá trình tất yếu, khách
quan tuân theo những quy luật nội tại của nó, xu hớng chung của quá trình
phát triển đó đợc quy định bởi sự phát triển của lực lợng sản xuất xã hội. Xã
hội tồn tại và phát triển đợc trớc hết là nhờ sản xuất vật chất. Dù đợc xem xét
trong toàn bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển xã hội loài ngời nói
chung, hay đợc xem xét trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của các xã hội
hiện thực nói riêng, thì sản xuất vật chất vẫn luôn luôn đóng vai trò là cơ sở, là
nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội. Ph. Ăngghen đã viết: "Chúng ta tự
làm nên lịch sử của chúng ta, nhng trớc hết là với những tiền đề và trong
những điều kiện nhất định. Trong số những tiền đề và điều kiện ấy thì chính
16
những điều kiện kinh tế giữ vai trò quyết định cuối cùng" [49, 727]. Và xét
đến cùng, chính "Phơng thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá
trình sinh hoạt xã hội và tinh thần nói chung".
Quan điểm duy vật lịch sử luôn luôn nhấn mạnh vai trò hàng đầu
của trình độ phát triển lực lợng sản xuất và năng suất lao động đối với sự
vận động và phát triển của xã hội. C.Mác đã đứng ở tầm cao của sự phát
triển lịch sử để đánh giá tầm quan trọng của việc phát triển lực lợng sản xuất.
Trớc hết, ông cho rằng, lực lợng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng
nhất trong lịch sử. Sự phát triển của lực lợng sản xuất chẳng những là thớc đo
trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời, mà là tiêu chuẩn để phân biệt các
thời đại trong lịch sử nhân loại. "Những thời đại kinh tế khác nhau không
phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách
nào, với những t liệu lao động nào" [47, 269]. Hai là, ông cho rằng, nguyên
nhân căn bản nhất khiến quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa sẽ bị thay thế
bằng quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa là do quan hệ sản xuất t bản chủ
nghĩa đã trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển hơn nữa của lực lợng
sản xuất. Nói một cách khác, chỉ khi nào quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa

không còn tiếp tục dung nạp lực lợng sản xuất đồ sộ nữa thì cái "vỏ ngoài"
ấy của CNTB mới bị phá tung. Ba là, C.Mác cho rằng, CNXH phải đợc xây
dựng trên cơ sở lực lợng sản xuất phát triển cao, tạo tiền đề cho một xã hội
"của cải tuôn ra dào dạt", "làm theo năng lực hởng theo nhu cầu".
Khi khẳng định tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài ngời là sự
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác cho rằng ý nghĩa
lịch sử, mục tiêu cao cả của sự phát triển và tiến bộ xã hội là phát triển con
ngời toàn diện, nâng cao năng lực, phẩm giá con ngời, loại trừ ra khỏi cuộc
sống con ngời mọi sự "tha hóa", để con ngời đợc sống với cuộc sống đích
thực con ngời, đa "con ngời từ vơng quốc của tất yếu sang vơng quốc của tự
17
do", làm cho "Con ngời, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình,
thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở thành
ngời tự do" [45, 333]. Theo C.Mác, đó cũng chính là quá trình mà nhân loại
tự tạo ra những điều kiện, những khả năng do chính mình đem lại sự phát
triển toàn diện, tự do và hài hòa cho mỗi cá nhân con ngời trong cộng đồng
xã hội. Bởi vậy, mục tiêu cao cả nhất mà mỗi chế độ xã hội tơng lai cần đạt
tới, là tạo ra "những cá nhân đợc phát triển toàn diện", những con ngời "có
khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của
mình". Những con ngời toàn diện đó chỉ có thể đợc tạo ra với một tiềm năng
cơ bản là "những lực lợng sản xuất hiện đại đã phát triển". Chỉ khi xã hội
loài ngời đã đạt đến một trình độ phát triển cao về lực lợng sản xuất thì khi
đó " sự phát triển độc đáo và tự do của các cá nhân" mới "không còn là lời
nói suông, sự phát triển ấy chính là do mối liên hệ giữa những cá nhân quyết
định, mối liên hệ đợc biểu hiện một phần trong những tiền đề kinh tế, một
phần trong sự cố kết tất yếu của sự phát triển tự do của tất cả mọi ngời, và
cuối cùng trong tính chất phổ biến của hoạt động của các cá nhân trên cơ sở
lực lợng sản xuất hiện có" [43, 644]. Nh vậy, phát triển con ngời là trung
tâm, là động lực của phát triển và tiến bộ xã hội. Song để phát triển con ng-
ời lại phải thực hiện tốt chiến lợc PTKT, đồng thời giải quyết tối u mối quan

hệ giữa PTKT và giải quyết các VĐXH.
Qua đó, có thể nói rằng, một khi đã không thừa nhận tính khách
quan, phổ biến của sự phát triển xã hội là nằm trong sự phát triển của lực l-
ợng sản xuất, mà lại muốn đi tìm ở các lĩnh vực riêng biệt của đời sống xã
18
hội, thì không thể tránh khỏi rơi vào quan điểm chủ quan, phiến diện, thậm
chí duy tâm. Và, do đó sẽ không thấy đợc động lực thực sự của sự phát triển
xã hội. Tuy nhiên, khi khẳng định sự phát triển của lực lợng sản xuất quyết
định tính khách quan, phổ biến của phát triển xã hội, cần nhớ rằng chỉ xét
đến cùng và xét trên phạm vi lịch sử toàn thế giới thì lực lợng sản xuất mới
không những là cội nguồn, là nguyên nhân quyết định sự phát triển của xã
hội loài ngời, mà nó còn tạo thành cơ sở cho sự thống nhất, cũng nh cho
mối liên hệ của lịch sử toàn thế giới.
Ngày nay, do sự tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật và
công nghệ hiện đại, loài ngời đang đứng trớc những nguy cơ: chiến tranh
hạt nhân, sự phá hủy môi sinh, nạn cạn kiệt tài nguyên , một số học giả
phơng Tây đã nói đến "sự tận cùng của lịch sử", "sự cáo chung của nhân
loại" Một trong những quan niệm bi quan về sự phát triển xã hội là quan
niệm của một số nhà nghiên cứu lý luận trong nhóm "Câu lạc bộ Rô-ma".
Họ cho rằng, mọi sự phát triển của sản xuất đều dẫn đến khủng hoảng, do
đó, cần phải đa sự phát triển của lực lợng sản xuất xuống mức thấp nhất
bằng con số "không", rằng chỉ cần tái sản xuất giản đơn ra con ngời và của
cải là có thể giúp cho nhân loại thoát khỏi thảm họa của "ngày tận thế".
Ngợc lại, một số học giả khác nh R.Arôn, G.Can, đặc biệt là nhà xã
hội học ngời Mỹ Rôxtâu lại đa ra quan điểm về quyết định luận kỹ thuật,
coi kỹ thuật là yếu tố quyết định sự phát triển xã hội và lấy sự tiến bộ kỹ
thuật làm tiêu chuẩn hàng đầu của tiến bộ xã hội. Quan điểm này đợc phổ
biến rộng rãi ở nhiều nớc Tây Âu vào những năm 50, 60 với học thuyết về xã
hội "hậu công nghiệp". Xuất phát từ quan điểm này, cùng với việc lợi dụng
quan điểm của C.Mác về vai trò quyết định của lực lợng sản xuất, Brêdinxki

còn đa ra một quan điểm mang tính cực đoan hơn - quan điểm về sự thay
thế cách mạng xã hội bằng cách mạng khoa học kỹ thuật. Alvin Toffler đa
ra quan điểm: sự phát triển dựa vào sự tiến triển của các nền văn minh. Sự
19
phát triển theo cách nhìn này chia làm ba làn sóng chính: văn minh nông
nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Phơng pháp
phân tích sự phát triển xã hội của Alvin Toffler cũng là một "lát cắt" để xem
xét xã hội, chủ yếu dới góc độ khoa học kỹ thuật. Tuy vậy, "lát cắt" xã hội
theo kiểu ba làn sóng, chủ yếu về khoa học kỹ thuật vẫn là phiến diện, vì nó
không đề cập tổng thể các quan hệ kinh tế chính trị, t tởng, văn hóa, xã hội,
nhất là bỏ qua các hình thái kinh tế - xã hội, trong đó có các quan hệ lực l-
ợng sản xuất - quan hệ sản xuất, giai cấp và đấu tranh giai cấp
Ngay sau Cách mạng Tháng Mời thành công, ý thức rất rõ vai trò cơ
sở vật chất - kỹ thuật đối với sự việc xây dựng xã hội mới, V.I. Lênin đã
sớm nhận thức đợc chức năng nền tảng của đại công nghiệp cơ khí đối với
CNXH. Ngời nhấn mạnh rằng: "Cơ sở vật chất duy nhất của CNXH chỉ có
thể là nền đại công nghiệp Một nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ
thuật hiện đại" [40, 11]. V.I. Lênin đã chỉ rõ vai trò lớn lao của kinh tế, của
việc tăng năng suất lao động, coi đó là cái chủ yếu nhất, cơ bản nhất cho sự
thắng lợi của chế độ xã hội mới, Ngời viết "Xét đến cùng, thì năng suất lao
động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội
mới" [38, 25].
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, CNXH là gì? Ngời đặt câu hỏi và trả
lời: "Là mọi ngời đợc ăn no, mặc ấm, sung sớng, tự do" [52, 396] là:
"không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trớc
hết là nhân dân lao động" [53, 271]. "Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, CNXH
trớc hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
ngời có công ăn việc làm, đợc ấm no và sống một đời hạnh phúc" [53, 17].
Tóm lại, "CNXH là làm sao cho dân giàu, nớc mạnh" [52, 226]. Hồ Chí Minh
cho rằng: " tranh đợc tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự

20
do, độc lập cũng không làm gì" [51, 152]. Ngời đòi hỏi, "Chúng ta phải làm
sao thực hiện ngay, 1- Làm cho dân có ăn. 2- Làm cho dân có mặc. 3- Làm
cho dân có chỗ ở" [51, 152]. Vì vậy, Ngời đặc biệt chăm lo PTKT. Ngời chủ
trơng vận động bà con nông dân đi vào làm ăn tập thể, chú trọng xây dựng và
PTKT quốc doanh, giải phóng mọi lực lợng sản xuất, làm cho mọi ngời,
mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân. "Bác chỉ nói một điểm rất giản
đơn "có thực mới vực đợc đạo" đó là duy vật, đó là gốc của chủ nghĩa Mác -
Lênin" [52, 420].
Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang có sự chuyển biến to lớn. Điều
đó thể hiện vai trò ngày càng tăng của kinh tế đối với đời sống con ngời, ở
mục tiêu PTKT của mọi quốc gia và ở trong tỷ trọng ngày càng lớn của yếu
tố kinh tế trong quan hệ quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại đã tạo ra một lợng giá trị cha từng có, một sự thay đổi mà ngời ta
thờng nói đến dới những tên gọi "thời kỳ hậu công nghiệp"; "làn sóng văn
minh thứ ba" Trong hoàn cảnh đó, trên bình diện quốc gia, sự PTKT đã
trở thành mục tiêu chiến lợc số một của mọi quốc gia và hợp tác đã trở
thành một phơng thức thực hiện sự phát triển đó.
Việt Nam là một nớc nghèo, về thu nhập vào loại thấp nhất thế giới,
lại phải trải qua nhiều năm chiến tranh tàn phá, chịu đựng những hậu quả
rất nặng nề. PTKT từ lâu đã trở thành vấn đề cấp bách đối với nớc ta, nhng
do những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử nhất định, PTKT cha đợc giải
quyết đầy đủ, bị rơi vào hàng thứ yếu. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội từ
cuối thập kỷ 70 đầu 80 biểu hiện trớc hết ở tình trạng suy thoái kinh tế, sản
21
xuất trì trệ, lạm phát phi mã, đời sống của nhân dân gặp khó khăn, thiếu thốn.
Công cuộc đổi mới bắt đầu từ năm 1986. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã
xác định: "Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi
hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội
khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, coi đó là điều kiện

quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị" [24, 57].
Sau gần 15 năm thực hiện đờng lối đổi mới, kinh tế tăng trởng
nhanh, GDP bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1998 đạt trên 8%. Trên lĩnh
vực nông nghiệp, lơng thực từ chỗ không đủ ăn, đến nay mỗi năm xuất khẩu
từ 2 đến trên 4 triệu tấn gạo, đời sống của đa số dân c đợc tăng lên đáng kể.
Thành tựu PTKT đã tạo ra cơ sở vật chất cho quá trình thực hiện CSXH, giải
quyết nhiều VĐXH bức xúc, bớc đầu đáp ứng đợc những yêu cầu cơ bản,
lâu dài của đời sống xã hội, văn hóa, tinh thần của nhân dân. Hàng ngàn tỷ
đồng đợc huy động vào việc giải quyết những VĐXH cấp bách nh: giải quyết
việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng, đền ơn đáp nghĩa
Có thể nói, nền kinh tế - xã hội nớc ta đã có những biến đổi tích cực, đã ở
vào quỹ đạo của sự phát triển nh hiện nay, đó là kết quả của đổi mới t duy
kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và đổi mới các CSKT, kể cả kinh tế
đối ngoại, tạo ra một nền kinh tế mở, hội nhập, đồng thời là kết quả nhận
thức mới về biện chứng giữa kinh tế với chính trị và xã hội, giữa CSKT với
CSXH trong phát triển. Nhng nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nớc trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt đối với đất nớc. Hơn
thế, trong xu thế chung của thời đại, PTKT đã trở thành mục tiêu chiến lợc
số một của mọi quốc gia, trớc sự tác động to lớn của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại. Vì vậy, trong quá trình đổi mới, phải thấy rằng,
mục đích của đổi mới là phát triển, đặc biệt chú ý PTKT; lấy phát triển liên
22
tục, nhanh, hiện đại, bền vững của nền kinh tế làm cơ sở, chỗ dựa cho đổi
mới các lĩnh vực khác. Vấn đề cơ bản nhất trong tiến trình kinh tế Việt Nam
hiện nay là PTKT phải là thực chất và là nội dung cơ bản, là cái trục xuyên
suốt tiến trình quá độ lên CNXH.
Dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng và văn minh vừa là mục tiêu,
vừa là nội dung của sự phát triển theo định hớng XHCN ở nớc ta. Để có dân
giàu, nớc mạnh trớc hết phải phát triển sản xuất, phát huy mọi khả năng và
tiềm năng của các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế làm cho kinh

tế phát triển nhanh. Muốn giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, và muốn
động viên đợc tính tích cực của mọi tầng lớp nhân dân, phải có cơ sở vật
chất là PTKT. Muốn tăng cờng sức mạnh quốc phòng để bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ; muốn xóa đói giảm nghèo, giải quyết các TNXH, phát triển văn
hóa, giáo dục, nâng cao dân trí , tất cả đều không thể không dựa vào sức
mạnh của kinh tế. Vì thế nhiệm vụ PTKT với tốc độ cao và ổn định phải đ-
ợc coi là nhiệm vụ trọng tâm.
Một nớc còn ở tình trạng nghèo nàn và lạc hậu nh nớc ta, trớc hết
cần u tiên cho PTKT. Tuy nhiên không phải là sự "u tiên" bằng mọi giá, mà
điều quan trọng là ở chỗ: PTKT không thể không gắn với một chế độ chính
trị mang tính cách mạng, tiến bộ xã hội và tính nhân văn sâu sắc. PTKT
không thể tách rời tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ
môi trờng, CNH phải đi đôi với HĐH. Mục tiêu tối cao của sự nghiệp CNH,
HĐH là phải hớng tới việc nâng cao chất lợng sống cho mỗi thành viên
trong cộng đồng xã hội. Mục tiêu đó chỉ có thể thực hiện đợc khi có sự kết
hợp hài hòa giữa PTKT nhanh với việc cải thiện đời sống nhân dân, đảm
bảo công bằng và bình đẳng xã hội, đồng thời giải quyết tốt các VĐXH,
nâng cao chất lợng môi trờng sống.
Hiện nay, nhiều nớc có mức PTKT cao đang phải đối phó với hàng
loạt VĐXH gay gắt: phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội, thất nghiệp, sự
23
băng hoại về đạo đức, nhân phẩm Thực tiễn đó đã đem lại cho chúng ta
bài học quý báu về sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố kinh tế và nhân
tố xã hội trong quá trình phát triển.
Nhìn một cách tổng thể, một quá trình phát triển phải bao gồm đầy
đủ ba mục đích: Thứ nhất, các giá trị vật chất đợc đa lên u tiên hàng đầu và
trong giá trị vật chất, giá trị kinh tế đợc xem là quan trọng nhất. Thứ hai,
bao gồm các giá trị xã hội, chính trị, văn hóa và những chế định có liên
quan. Thứ ba, liên quan đến giá trị nội tại của con ngời, làm cho con ngời
trở nên ngời hơn, nhân bản hơn. Ba mục đích này không thể tách rời nhau,

PTKT, phát triển xã hội sẽ trở nên vô nghĩa, nếu không đi liền với việc phát
triển con ngời. PTKT không phải là toàn bộ mục đích của sự phát triển. Hơn
nữa, xét cho cùng, nó cũng chỉ là phơng tiện để đạt tới mục đích nhân văn
cao cả, nhng nó là cái cơ bản trên đó một xã hội phát triển đợc tạo dựng. Nó
là trung tâm, là cái trục xuyên suốt bớc chuyển cách mạng từ trạng thái
chậm phát triển sang trạng thái phát triển và khi đã đạt tới trình độ chín
muồi, thì PTKT làm thay đổi toàn bộ cấu trúc và bộ mặt xã hội. ở đây kinh
tế không phải là cái quyết định duy nhất, nhng là cái cơ bản, cái quyết định
tối hậu cho một trật tự phát triển.
1.1.2. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là mục tiêu, động lực của
sự phát triển kinh tế
Vấn đề xã hội và chính sách xã hội
Vấn đề xã hội (VĐXH): Theo C.Mác, nghĩa rộng của khái niệm xã
hội là: "Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm
của sự tác động qua lại giữa những con ngời" [48, 657].
Trên thực tế, cũng có khái niệm "xã hội" theo nghĩa hẹp hơn, ngang
24
cấp với khái niệm "chính trị", "kinh tế", "văn hóa". Đó là khái niệm "xã hội"
phản ánh những quan hệ, những hoạt động, những mặt cụ thể hơn của xã hội
đã, đang và sẽ nẩy sinh một cách khách quan tơng đối độc lập cùng với các
hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, nó chứa đựng và phản ánh những
VĐXH của con ngời, là đối tợng nghiên cứu trực tiếp của CSXH và thực hiện
CSXH của quản lý nhà nớc. Chúng tôi xem xét VĐXH theo hớng này.
Tuy nhiên, không thể tách biệt một cách rành rọt VĐXH với các vấn
đề kinh tế, chính trị, văn hóa Ví dụ: vấn đề việc làm, nghèo đói, công
bằng , nó đã bao hàm cả VĐXH, kinh tế, chính trị, văn hóa. Những vấn đề
đó luôn có liên quan chặt chẽ với kinh tế, chính trị và văn hóa. Đồng thời,
nếu theo nghĩa rộng thì mọi vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa , đều mang
tính xã hội (vì đều là những vấn đề của các quan hệ giữa ngời với ngời).
Từ khi loài ngời bắt đầu sinh sống thành cộng đồng, thì đồng thời nảy

sinh những quan hệ giữa con ngời với con ngời, giữa con ngời với cộng đồng
và tất yếu cũng từ đó nẩy sinh những VĐXH dù là dới dạng thô sơ nhất. Theo
các nhà nghiên cứu phơng Tây "vấn đề xã hội" lần đầu tiên đợc đặt ra vào
những năm 30 của thế kỷ 19, nh là một khó khăn căn bản, nan giải của một xã
hội, trong đó sự bền vững bị đe dọa và xã hội lâm vào nguy cơ bị tan rã do
những điều kiện sinh sống của những tác nhân, đồng thời là những nạn nhân
của cuộc cách mạng công nghiệp. Đó là sự bần cùng hóa những ngời lao động,
gây nên những căng thẳng xã hội, hậu quả của quá trình CNH dã man.
Sau này, khái niệm "vấn đề xã hội" thờng đợc nghiên cứu theo nghĩa
hẹp, tơng đối độc lập với các vấn đề kinh tế, chính trị. Đối với các nhà
nghiên cứu xã hội học: "Có VĐXH khi những thành viên của một cộng đồng
(lớn hay nhỏ) nhận thấy những dấu hiệu hoặc điều kiện có ảnh hởng tác
động hoặc đe dọa đến chất lợng cuộc sống của họ (chất lợng cuộc sống ở
25

×